Bài 18: Trang nghiêm trên điện Phật

- Chính niệm trong từng cử chỉ (Tỳ-ni Nhật Dụng Thiết Yếu)
- Bài 1: Thức dậy sớm, mở mắt tuệ giác
- Bài 2: Thỉnh chuông tỉnh thức
- Bài 3: Nghe chuông chính niệm
- Bài 4: Đắp y, mặc áo quần
- Bài 5: Xuống giường, gieo giống từ bi
- Bài 6: Bước chân không sát hại
- Bài 7: Đi ra khỏi phòng
- Bài 8: Vào nhà vệ sinh, bỏ tham, sân, si
- Bài 9: Rửa sạch
- Bài 10: Rửa sạch nhơ bẩn
- Bài 11: Rửa tay
- Bài 12: Rửa mặt
- Bài 13: Uống nước từ bi
- Bài 14: Pháp y năm điều
- Bài 15: Pháp y bảy điều
- Bài 16: Pháp y giải thoát
- Bài 17: Trải tọa cụ, ươm tâm linh
- Bài 18: Trang nghiêm trên điện Phật
- Bài 19: Ca ngợi Phật
- Bài 20: Lễ bái Phật
- Bài 21: Cúng bình sạch
- Bài 22: Chơn ngôn uống nước
- Bài 23: Quán tưởng trước khi múc cơm
- Bài 24: Quán tưởng khi đã múc cơm
- Bài 25: Cúng cơm cho chúng sinh
- Bài 26: Cúng cơm cho chim đại bàng
- Bài 27: Cúng cơm cho quỷ thần
- Bài 28: Ăn cơm chính niệm
- Bài 29: Nâng bát cơm ngang trán
- Bài 30: Ba điều phát nguyện khi ăn cơm
- Bài 31: Năm điều quán tưởng khi đang ăn
- Bài 32: Kết thúc ăn cơm
- Bài 33: Rửa chén bát
- Bài 34: Khi mở bát cơm ăn
- Bài 35: Nhận phẩm vật cúng dâng
- Bài 36: Cầm tăm xỉa răng
- Bài 37: Xỉa răng sau khi ăn
- Bài 38: Đánh răng súc miệng
- Bài 39: Khi cầm tích trượng
- Bài 40: Trải dụng cụ ngồi thiền
- Bài 41: Tư thế ngồi thiền
- Bài 42: Chính niệm lúc ngủ
- Bài 43: Nhìn thấy nước chảy
- Bài 44: Khi gặp sông lớn
- Bài 45: Khi thấy cầu đường
- Bài 46: Bài kệ tắm Phật
- Bài 47: Tán dương Phật Tổ
- Bài 48: Kinh hành quanh tháp
- Bài 49: Thăm viếng bệnh nhân
- Bài 50: Cạo bỏ tóc râu
- Bài 51: Tắm rửa thân thể
- Bài 52: Rửa chân
- Tài liệu tham khảo
I. Nguyên tác và phiên âm
登道場 若得見佛, 當願眾生, 得無礙眼, 見一切佛。 唵,阿蜜栗帝吽癹吒。 |
Đăng đạo tràng Nhược đắc kiến Phật, Đương nguyện chúng sinh, Đắc vô ngại nhãn, Kiến nhứt thiết Phật. Án, a-mật lật-đế hồng phất-tra. |
II. Dịch nghĩa: Lên đạo tràng
Khi nhìn thấy Phật [oai nghiêm],
Cầu cho tất cả chúng sinh,
Được mắt trí tuệ soi thấu,
Thấy được các Phật hiện thân.
Oṃ Amṛte hūṃ phaṭ.
III. Chú thích từ ngữ
Đạo tràng (道場, P=S gaya): 1) Còn gọi là Phật đạo tràng (佛道場, S. bodhimaṇḍala), hay Bồ-đề Đạo tràng (道場, S. Bodhgaya), nơi thành đạo (成道的地方), tức vị trí ngay cội bồ-đề nơi đức Phật ngồi thiền và giác ngộ. 2) Nơi quần chúng học Đạo, nơi tu học, nơi tu tập (學道的場所). 3) Chùa Phật (佛寺), 4) Nơi cúng dường (供養佛的地方).
Đăng Đạo tràng (登道場): Lên Đạo tràng. Lên điện Phật.
Kiến Phật (見佛): Thấy Phật, gặp Phật. Theo Phật giáo Nguyên thủy, thấy Phật thực ra là thấy sắc thân (色身) hay ứng thân của Phật (應身, S. nirmānakāya). Theo Phật giáo Đại thừa, thấy Phật còn là thấy báo thân của Phật (報身, S. saṃbhogakāya). Gặp Phật là đại phúc, nhờ đó, có thể hiểu rõ Phật lý (證悟佛法), liễu ngộ Phật tâm (領解佛心), tiêu trừ nghiệp chướng, phát triển căn lành (滅罪生善), chứng đắc diệu quả (證得妙果).
Vô ngại (無礙, S. apratihata): Không có chướng ngại (沒有障礙), không bị trục trặc.
Nhãn (眼, P. cakkhu; S. cakṣus): 1) Con mắt (eye), 2) Nhìn (sight), 3) Nhãn quan (vision). Theo Phật giáo Nguyên thủy, có năm loại mắt là: a) Nhục nhãn (P. maṃsacakkhu): Con mắt thịt, nhìn sự vật bằng thần kinh thị giác, lệ thuộc vào khoảng cách, ánh sáng và thị lực, b) Thiên nhãn (P. Dibbacakkhu), mắt trời thấy thông suốt, thấy xuyên thấu tường vách, thấy vật ở khoảng cách xa xôi, c) Tuệ nhãn (P. Paññācakkhu), mắt trí tuệ của thánh A-la-hán, thấy rõ bản chất của sự vật theo duyên khởi và tứ đế, d) Phật nhãn (P. Buddhacakkhu) là mắt Phật, mắt tuệ giác siêu việt, e) Biến nhãn (P. samantacakkhu), là mắt toàn giác, thấy suốt ba cõi. Theo Phật giáo Đại thừa, năm loại mắt là: a) Nhục nhãn, b) Thiên nhãn, c) Huệ nhãn, d) Pháp nhãn, mắt của Bồ-tát, e) Phật nhãn, mắt của Phật, còn gọi là vô ngại nhãn, mắt nhìn không chướng ngại.
Vô ngại nhãn (無礙眼): Tên gọi khác của Phật nhãn.
Nhất thiết Phật (一切佛): Chỉ chung các đức Phật. Tất cả Phật, bao gồm các Phật quá khứ, Phật hiện tại và Phật vị lai.
IV. Giải thích gợi ý
Đứng trên tọa cụ, ta quán tưởng Phật và đảnh lễ Phật. Dùng mắt tuệ giác quán chiếu tượng Phật và cảnh trí trang nghiêm trên điện Phật để khởi phát nguồn năng lượng tâm linh. Quán tưởng Phật sẽ tạo ra tác động tâm linh với một giao cảm đặc biệt, giúp ta thực tập tâm linh một cách tinh tấn. Cầu nguyện cho chúng sinh đều có được mắt trí tuệ, không còn mê tín và sợ hãi. Mắt phàm thường bị vướng bụi mê tín, dị đoan và sợ hãi. Mắt phàm thường bị thành kiến, định kiến, cố chấp ngăn cản tầm nhìn. Thiếu tu tập chuyển hóa, ta có thói quen nhìn người khác bằng quá khứ của người đó, gồm thói hư, tật xấu hay thói quen tiêu cực đã qua, đang khi đời sống hiện tại của người đó không tệ đến thế. Thậm chí, có trường hợp người bị ta thành kiến có nhiều đức tính tốt, cũng bị ta phớt lờ, nói xấu, phê phán. Thành kiến làm ta không thể nhìn thấy được “chân như” của con người và sự vật. Thành kiến là cái nhìn bôi đen về côn người và sự vật. Ác cảm có thể làm ta cường điệu hóa lỗi lầm của tha nhân, dẫn đến tình trạng “vạch lá tìm sâu” người khác, đang khi mình chưa hẳn đã tốt đẹp. Thành kiến và ác cảm làm ta chỉ sống với nỗi khổ, niềm đau.
Một người tiêu cực khi nhìn cây hoa hồng, chỉ nhìn thấy những cái gai trên thân cây hồng và cọng lá. Vì mắt đang bị vướng bận vào các cái gai trên thân, nhánh và lá hồng, nên người thành kiến đánh mất cơ hội thưởng thức những hoa hồng tươi đẹp. Người tích cực không bị ám ảnh, không bận tâm đến gai hồng, biết hướng tâm đến các giá trị của hoa hồng.
Trong cuộc đời, cái gì cũng có hai phương diện tốt và xấu, giống như con dao có cán và lưỡi. Người khôn không vì sợ bị đứt tay do bất cẩn, mà không sử dụng dao. Nắm cán dao thì an toàn, ta sử dụng được tính năng của nó trong cắt, gọt, thái thực phẩm. Trước những nghịch cảnh, người thiếu cái nhìn tuệ giác dễ phát sinh tâm lý tiêu cực, chán nản rồi bỏ cuộc. Phải tận dụng các nghịch cảnh để các Phật sự được thành công, tức tương kế tửu kế các nghịch cảnh. Nghịch cảnh có mặt ở chỗ nào, với quyết tâm vượt chướng ngại, Phật sự sẽ chói sáng ở chỗ đó. Đừng chờ đủ thuận duyên mới làm, vì như thế ta khó làm được các Phật sự to lớn. Phải tập nhìn đời bằng mắt tuệ, mắt hiểu biết, mắt độ lượng, mắt thấy rõ tính tiềm năng, mắt chuyển nghiệp… để đạt được nhiều an vui. Cái nhìn tuệ giác có thể giúp ta thay đổi mọi thứ theo chiều hướng tích cực ở hiện tại và tương lai.
“Mắt Phật” là mắt trí tuệ, thấu tỏ về nhân duyên, vô thường, vô ngã, để chuyển hóa tất cả khổ đau. Cần giải quyết các vấn nạn trên công thức Tứ diệu đế: Thừa nhận khổ đau, truy tìm nguyên nhân, giải quyết hậu quả, thực hiện con đường an vui. Mong chúng sinh đều có được mắt Phật để thấy được sự hiện thân của Phật trong mọi sự vật hiện tượng.
Đừng chấp vào 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của Đức Phật lịch sử, vì như thế, ta đánh mất cơ hội nhìn thấy các đức Phật hóa thân trong đời thường, qua hình ảnh người cha mẫu mực, người mẹ vĩ đại, nhà lãnh đạo giỏi, yêu nước thương dân, đề cao công bằng xã hội cao. Có khi làm bà già có lòng vị tha, phụng sự cuộc đời, không màng sự đền trả. Có khi làm người công nhân quét rác làm sạch đường phố, đảm bảo sức khỏe cho mọi người. Những hình ảnh hóa thân và hiện thân tinh thần Phật và Bồ-tát giữa đời thường là rất nhiều, nhằm mang lợi lạc cho nhân sinh.
Thấy thân Phật trang nghiêm, ta mong có trí tuệ để giải quyết các vấn nạn. Trí tuệ chính là chiếc chìa khóa mở cửa các bế tắt, hướng đến an vui. Chỗ nào có trí tuệ, chỗ đó có các thành tựu như ý nguyện.
V. Câu hỏi ôn tập
1. Trình bày ý nghĩa “thấy Phật”?
2. Thế nào là “vô ngại nhãn”?
***
- Hãy là phước điền Tăng HT. Thích Trí Quảng
- Mười giới Sa di là bản chất đích thực của một vị Sa di Thích Nhất Hạnh
- Mười Hai Lời Nguyện Chùa Linh Xứng Thích Đạt Ma Phổ Giác
- Các Giới Khinh Của Bồ Tát Giới Tây Tạng Tác giả: Alexander Berzin /August 1997, Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
- Chính niệm trong từng cử chỉ (Tỳ-ni Nhật Dụng Thiết Yếu) Thích Nhật Từ
- Chính niệm trong từng cử chỉ (Tỳ-ni Nhật Dụng Thiết Yếu) Thích Nhật Từ
- Nguyên Nhân Đức Phật Chế Giới Thích Nữ Tâm Như
- Tu cái Miệng là Tu hơn nửa đời người Hạnh Trung
- Tìm hiểu ý nghĩa của Giới trong Ngũ uẩn và Cõi giới TS Huệ Dân
- Kinh Phạm Võng Bồ tát giới giảng lược Thiền sư Thích Duy Lực
- Truyền giới Bồ tát Vô Sanh Pháp Nhẫn tại Tổ đình Hàn Quốc Thích Vân Phong đưa tin
- Tìm Hướng Đi Lên Thích Minh Thông
- Ý nghĩa tuyển Phật trường Hòa thượng Thích Thiện Nhơn
- Mười điều thiện Phúc Trung
- Công dụng của Giới đức Tỳ kheo Thanissaro - Bình Anson lược dịch
Đánh giá bài viết này
Cùng tác giả
- THƯ VẬN ĐỘNG CHƯƠNG TRÌNH CỨU TRỢ LŨ LỤT “THƯƠNG VỀ MIỀN TRUNG” (C262)
- Nghi thức cầu an trong mùa đại dịch Covid-19
- Cảnh báo những người xúc phạm nhân phẩm và vu khống tôi (Thích Nhật Từ)
- Hướng dẫn thủ tục xin học bổng của Liên minh Phật giáo Quốc tế (IBC) về Phật học, Pali và giáo dục
- Về việc tôi giúp đỡ Phước Nguyên làm trợ giảng và in sách
- Nghi thức tưởng niệm đức Phật (Đản sanh, xuất gia, thành đạo, nhập niết bàn)
- Xá-Lợi Xương Đầu Của Đại Sư Trí Quang (1)
- Đại Sư Trí Quang Cứu Nguy Phật Giáo Việt Nam Khỏi Pháp Nạn Năm 1963
- Đại Sư Trí Quang Là Nhà Chính Trị Hay Nhà Tu Hành?(1)
- Giải Mã Sự Im Lặng Của Đại Sư Trí Quang Sau Năm 1975
Được quan tâm nhất

![]() |
Tu cái Miệng là Tu hơn nửa đời người 23/07/2013 17:01:00 |
![]() |
Chính niệm trong từng cử chỉ (Tỳ-ni Nhật Dụng Thiết Yếu) 02/05/2015 19:43:00 |
![]() |
Kinh Phạm Võng Bồ tát giới giảng lược 02/05/2012 20:01:00 |
![]() |
Mười điều thiện 28/08/2011 10:24:00 |

Gửi bình luận của bạn
BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)