Bài 46: Bài kệ tắm Phật

Đã đọc: 10501           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

I. Nguyên tác và phiên âm

浴佛
我今灌浴諸如來,
淨智莊嚴功德聚,
五濁眾生令離垢,
同證如來淨法身。
Dục Phật
Ngã kim quán dục chư Như Lai, 
Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ, 
Ngũ trược chúng sinh linh ly cấu, 
Đồng chứng Như Lai tịnh pháp thân.

II. Dịch nghĩa: Tắm [tượng] Phật

Con nay tắm tượng các Như Lai,
Trí tuệ trang nghiêm công đức dày,
Ngũ trược chúng sinh lìa cấu nhiễm,
Pháp thân cùng chứng giống Như Lai.

III. Chú thích từ ngữ

Dục Phật (浴佛): Tắm [tượng] Phật, tức lấy nước tắm rửa tượng Phật để làm sạch bụi bặm (以水灌浴佛像而拂拭之).

Quán dục (灌浴): Quán và dục đều có nghĩa là tắm, tắm gội, tắm rửa.

Tịnh trí (淨智, S. amala-jñāna, viśuddha-vimala-prajñā): Trí tuệ thanh tịnh; trí tuệ làm thanh tịnh thân và tâm.

Công đức (功德, S. guṇa, puṇya): Các hành vi mang lại phúc lợi (福利) là “công” (功), và tạo công năng làm thiện là “đức” (德). Công phu tu tập đạt được thành quả là công đức (修功有所得).

Ngũ trược (五濁, S. pañca kāsāyāḥ): Năm ô trược gồm: (i) Chúng sinh trược (眾生濁) tức con người tệ ác, không hiếu kính cha mẹ, vi phạm luật pháp, không tạo công đức v.v… (ii) Kiến trược (見濁): Kiến chấp nặng gồm thường kiến, đoạn kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, (iii) Phiền não trược (煩惱濁) bị phiền não gồm tham dục, sân hận, si mê, dối trá, tranh đấu… làm khổ đau, (iv) Mệnh trược (命濁) chết yểu, tuổi thọ ngắn ngủi, (v) Kiếp trược (劫濁) kiếp sống gặp nhiều thiên tai, chiến tranh.

Pháp thân (法身, P. dhamma-kāya; S. dharma-kāya): Một trong ba thân Phật, còn gọi là “pháp tính thân” (法性身) hay “tự tánh thân” (自性身), tức thân chân như pháp tính của các đức Phật. Chính pháp được Phật giảng được xem như thân Phật.

IV. Giải thích gợi ý

Đọc bài thi kệ này mỗi khi lau chùi tượng Phật vào các ngày sóc vọng, các ngày lễ hội Phật giáo, một mặt giữ thân tượng Phật được thanh tịnh, mặt khác, liên tưởng việc lau chùi các bợn nhơ của tâm để tâm được thanh tịnh. Người xuất gia cần quyết tâm đạt được 3 mục đích tâm linh: (i) Phát huy trí tuệ, (ii) Xa lìa năm trược, và (iii) Hành trì miên mật.

Trước nhất là phát huy trí tuệ. Đối với người xuất gia, trí tuệ là mục tiêu quan trọng nhất cần đạt được. Khi có trí tuệ, các phước báu và công đức sẽ lần lượt được thành tựu. Dân gian có câu: “Không thực không vực được đạo”, ý muốn nói chỉ có người no đủ mới có cơ hội tu học, giác ngộ Phật pháp. Quan điểm này đúng về kinh tế học nhưng sai về tâm linh học.

Đức Phật Thích-ca bắt đầu từ chỗ có tất cả, rũ bỏ tất cả thành con số không, tìm kiếm tâm linh đến khi đạt được sự giác ngộ. Với trí tuệ siêu việt, đức Phật đã có tất cả, vượt trội hơn cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con xinh, quyền uy, đứng đầu muôn dân của một vị vua. Không phải vị vua anh minh nào cũng được thần dân của mình đồng tình và tán dương. Khi một vị vua bị lật đổ thì ông ấy trở thành thường dân, thậm chí bị truy sát rất tàn nhẫn.

Đức Phật Thích-ca bắt đầu con đường tâm linh bằng sự từ bỏ mọi sở hữu quá giá nhất, còn lại hai tay trắng, chọn con đường tâm linh. Đức Phật đạt được trí tuệ dưới cội Bồ đề sau 49 ngày thiền định miên mật. Với trí tuệ, đức Phật khám phá lý Duyên khởi, thấy rõ vũ trụ và nhân sinh là trường tương tác đa chiều, như một mạng lưới chằng chịt. Đức Phật thấy rõ con đường trung đạo, xa lánh hai cực đoan hưởng thụ tính dục và khổ hạnh ép xác, cũng như những khuynh hướng đối lập đa chiều trong đời sống.

Đức Phật phát hiện Tứ thánh đế như giải pháp nhằm giải quyết các vấn nạn trong xã hội. Tứ thánh đế là bốn chân lý, bắt đầu bằng sự thừa nhận khổ đau, phân tích nhân quả khổ đau, trải nghiệm Niết-bàn (đỉnh tối cao của hạnh phúc) và thực tập tám chính đạo (chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính tinh tấn, chính mệnh, chính niệm, chính định). Đức Phật đã trở thành bậc minh triết đầu tiên trong lịch sử tư tưởng của nhân loại.

Đạo Phật là con đường tỉnh thức, đạo tuệ giác. Trong nhiều bài kinh, Đức Phật khẳng định: “Trí tuệ là sự nghiệp” (duy tuệ thị nghiệp). Trí tuệ là sự nghiệp của người đời. Trí tuệ là chìa khóa giải quyết tất cả các vấn nạn khổ đau. Không gì có thể cao siêu, sâu sắc hơn, hiệu quả hơn trí tuệ.

Dân gian Phật giáo Việt Nam có câu: “Thuộc kinh A-di-đà, ăn tới già không hết”. Câu đó phát xuất từ bối cảnh cúng đám tang, cúng cầu siêu tại miền Nam Việt Nam. Trong các lễ tống táng, phần lớn người biết đạo hay không biết đạo đều đến chùa nhờ các thầy, các sư cô làm lễ cầu siêu cho người quá cố. Nhờ hướng dẫn tận tình của Tăng Ni, trong bảy tuần thất, cúng 100 ngày, tiểu tường, đại tường, nhiều gia đình chưa biết đạo Phật trở thành Phật tử. Ân nghĩa mà Tăng Ni tận tình lo cho người thân quá vãng đã làm cho nhiều người kính trọng, họ cúng dường cho Tăng Ni không hết được. Nói cách khác, ân tình giúp người trong lúc nguy khốn sẽ để lại những ấn tượng đẹp khó quên. Thực ra, quả phúc của hành vi ân tình chỉ là lợi lạc nhỏ. Nhờ các khóa lễ cầu siêu, các Tăng Ni mở ra con đường giúp cho người chưa biết đạo vào đạo. Tuy nhiên, đây không phải là con đường lý tưởng, không phải là tất cả.

Khi Tăng Ni có được trí tuệ chẳng những “ăn tới già” không hết, mà còn tiếp tục sử dụng giá trị của nó hàng trăm kiếp về sau vẫn không hết. Trí tuệ giúp ta bớt khổ, được vui, hướng đến giác ngộ. Bác học, đa văn về Phật pháp, một mặt giúp ta thông suốt toàn bộ triết lý của Phật gồm kinh điển và giới luật, mặt khác giúp ta thành công trong phục vụ nhân sinh. Hiểu biết Phật pháp thấu đáo (đa văn) là một trong bảy loại tài sản của bậc thánh (thất thánh tài). Nói cách khác, không làu thông Phật pháp thì không thể trở thành thánh nhân được.

Người tu học Phật mà không có kiến thức về Phật pháp là đang bị “mù chữ” Phật pháp. Người mù chữ không thể tiến xa, bay cao trong sự nghiệp, do có lối suy nghĩ và tầm nhìn phiến diện, thiển cận theo kiểu mì ăn liền. Người có tri thức cao, biết đầu tư dài, nắm vững quy luật, thấu hiểu nhân quả, nên dễ thành công lớn. Người có trí tuệ trở nên sâu sắc, biết rõ đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của khổ, đâu là hạnh phúc và đâu là con đường dẫn đến hạnh phúc. Người có trí không đổ thừa, đổ lỗi; không quỵ lụy thượng đế, thần linh; không sợ hãi, không khóc lóc; không tin ngẫu nhiên, không tin định mệnh hay số phận; họ có bản lĩnh, tinh tấn vượt khó, có phương pháp rõ ràng, nhằm giải quyết vấn đề một cách dứt điểm và không để lại tác dụng phụ. Nhờ có trí tuệ nên công đức phát sinh, phước báu tràn đầy, đời sống trở nên an lạc và hạnh phúc.

Kế đến là xa lìa năm trược. Khi tắm tượng Phật, ta mong cho tất cả chúng sinh sớm xa lìa được năm cấu trược của cõi Ta-bà, bao gồm kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược và mạng trược.
Kiếp trược là cõi đời có nhiều thiên tai, ảnh hưởng đến mạng sống và sức khỏe của con người, gây trở ngại.

Kiến trược là các kiến chấp sai lầm, gồm a) chấp thường là tin vào linh hồn bất biến và định mệnh, b) chấp đoạn cho rằng chết là hết.

Phiền não trược gồm tham ái, sân hận, si mê, cố chấp, vốn là nguyên nhân dẫn đến khổ đau, bất hạnh, ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ xã hội.

Chúng sinh trược là con người cang cường, khó hóa độ, tính tình bướng bỉnh, lười biếng, thích hưởng thụ thấp kém, không thích tu học và chuyển hóa.

Mạng trược là tuổi thọ ngắn ngủi, bệnh tật triền miên, thân tướng dị tật, chịu nhiều đau đớn.

Người xuất gia nên phát tâm giúp các chúng sinh xa lìa cấu nhiễm, nghiệp xấu để hiện đời sống trong hạnh phúc, khi qua đời tái sinh về cảnh giới an lành, tối thiểu làm người ở những quốc gia tốt, hoặc làm con người ngoài hành tinh, hoặc sinh về thế giới an lành của các đức Phật.

Thứ ba là hành trì miên mật. Khái niệm “pháp thân” xuất hiện trong kinh điển Đại thừa, xem chính pháp của Phật như chính thân thể của Phật. Thông thường, thân này bị quy luật vô thường chi phối, nên sau khi chết sẽ phải về với đất, nước, gió, lửa. Nếu thiêu thân xác, một số vị thánh để lại các xá-lợi xương, xá-lợi viên, xá-lợi toàn thân v.v… Không nhất thiết vị thánh nào sau khi qua đời đều để lại xá-lợi. Xá-lợi không phải là tiêu chí để đánh giá đâu là bậc giác ngộ và giải thoát. Do đó, không nên “thần tượng” xá-lợi mà bỏ quên việc tu tập chuyển hóa.

Nhiều Phật tử tại gia mê tín, thích lạy xá-lợi vì nghĩa rằng làm như vậy có nhiều phước mà không cần phải thực tập chuyển hóa. Sự xuất hiện của học thuyết pháp thân giúp cho đệ tử Phật không quá quan trọng về kim thân của Phật, mà phải tập trung vào việc ứng dụng lời Phật dạy trong đời sống thực tiễn, nhằm giải phóng các nỗi khổ và niềm đau. Nói cách khác, nơi nào có đạo tràng tu học, có giảng kinh thuyết pháp, có các Phật sự được viên thành, có hành trì chuyển hóa, thì nơi đó đức Phật được xem là vẫn đang sống mãi trong trái tim và nhận thức của chúng ta. Đây là nhận thức tích cực, khích lệ chủ nghĩa nhập thế, nhằm khích lệ Tăng Ni truyền bá chính pháp, giúp cho mọi người đạt được an lạc và giác ngộ hiện tiền.

V. Câu hỏi ôn tập

1. Như Lai là gì?
2. Pháp thân là gì?

***

 

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

1.00

Tags

Không có tags cho bài viết này

Được quan tâm nhất

Previous
Next

Đăng nhập