Bài 1: Thức dậy sớm, mở mắt tuệ giác
- Chính niệm trong từng cử chỉ (Tỳ-ni Nhật Dụng Thiết Yếu)
- Bài 1: Thức dậy sớm, mở mắt tuệ giác
- Bài 2: Thỉnh chuông tỉnh thức
- Bài 3: Nghe chuông chính niệm
- Bài 4: Đắp y, mặc áo quần
- Bài 5: Xuống giường, gieo giống từ bi
- Bài 6: Bước chân không sát hại
- Bài 7: Đi ra khỏi phòng
- Bài 8: Vào nhà vệ sinh, bỏ tham, sân, si
- Bài 9: Rửa sạch
- Bài 10: Rửa sạch nhơ bẩn
- Bài 11: Rửa tay
- Bài 12: Rửa mặt
- Bài 13: Uống nước từ bi
- Bài 14: Pháp y năm điều
- Bài 15: Pháp y bảy điều
- Bài 16: Pháp y giải thoát
- Bài 17: Trải tọa cụ, ươm tâm linh
- Bài 18: Trang nghiêm trên điện Phật
- Bài 19: Ca ngợi Phật
- Bài 20: Lễ bái Phật
- Bài 21: Cúng bình sạch
- Bài 22: Chơn ngôn uống nước
- Bài 23: Quán tưởng trước khi múc cơm
- Bài 24: Quán tưởng khi đã múc cơm
- Bài 25: Cúng cơm cho chúng sinh
- Bài 26: Cúng cơm cho chim đại bàng
- Bài 27: Cúng cơm cho quỷ thần
- Bài 28: Ăn cơm chính niệm
- Bài 29: Nâng bát cơm ngang trán
- Bài 30: Ba điều phát nguyện khi ăn cơm
- Bài 31: Năm điều quán tưởng khi đang ăn
- Bài 32: Kết thúc ăn cơm
- Bài 33: Rửa chén bát
- Bài 34: Khi mở bát cơm ăn
- Bài 35: Nhận phẩm vật cúng dâng
- Bài 36: Cầm tăm xỉa răng
- Bài 37: Xỉa răng sau khi ăn
- Bài 38: Đánh răng súc miệng
- Bài 39: Khi cầm tích trượng
- Bài 40: Trải dụng cụ ngồi thiền
- Bài 41: Tư thế ngồi thiền
- Bài 42: Chính niệm lúc ngủ
- Bài 43: Nhìn thấy nước chảy
- Bài 44: Khi gặp sông lớn
- Bài 45: Khi thấy cầu đường
- Bài 46: Bài kệ tắm Phật
- Bài 47: Tán dương Phật Tổ
- Bài 48: Kinh hành quanh tháp
- Bài 49: Thăm viếng bệnh nhân
- Bài 50: Cạo bỏ tóc râu
- Bài 51: Tắm rửa thân thể
- Bài 52: Rửa chân
- Tài liệu tham khảo
I. Nguyên tác và phiên âm
早覺 睡眠始寤, 當願眾生, 一切智覺, 周顧十方。 |
Tảo giác Thùy miên thỉ ngụ, Đương nguyện chúng sinh, Nhất thiết trí giác Chu cố thập phương. |
II. Dịch nghĩa: Thức dậy sớm
Sớm khuya ngủ vừa tỉnh giấc,
Cầu cho tất cả chúng sinh,
Có được tầm nhìn tuệ giác,
Thấu soi khắp cả mười phương.
III. Chú thích từ ngữ
Tảo giác (早覺): Thức dậy sớm, thức lúc hừng đông. Trong bối cảnh tu học ở các tự viện tại Việt Nam, “thức sớm” được hiểu là thức lúc 03:30 đến 04:00, chuẩn bị cho thời khóa công phu khuya.
Thùy miên (睡眠): Ngủ nghỉ, ngủ vùi. Tâm thức còn mê muội là “thùy”. Ý thức mờ mịt là “miên”. Không thấy được Phật pháp, con người ngủ vùi trong vô minh và bất hạnh. Người ngủ nhiều ngoài bị bệnh béo phì, dễ phát sinh tâm tham dục. Cần đánh thức tâm dậy, để khỏi bị u mê.
Nguyện (願, S. pranihita; pranidhāna): Chí nguyện, cầu nguyện, thệ nguyện, mong cho, cầu mong, ước nguyện. Nếu đối tượng của cầu nguyện là lợi ích cho chúng sinh thì nguyện đó là nguyện vị tha, nuôi lớn lòng từ bi. Nếu mục đích của nguyện là đạt được giác ngộ thì nguyện đó là chí nguyện ba-la-mật (S. praṇidhāna-pāramitā).
Nguyện có hai loại:
a) Tổng nguyện (總願) chỉ cho bốn thệ nguyện lớn (四弘誓願) của các Bồ-tát và những người tu theo hạnh Bồ-tát,
b) Biệt nguyện (別願) là nguyện riêng của vị Phật hoặc Bồ-tát nào đó, vốn khác với các vị còn lại. Chẳng hạn, Phật A-di-đà có 48 nguyện, Phật Dược Sư có 12 nguyện, Bồ-tát Quan Âm có 12 nguyện v.v…
Đương nguyện chúng sinh (當願眾生): Nguyện Cầu cho tất cả mọi loài có tình thức, bao gồm con người và loài vật. Đây là thực tập mở lòng đại bi, thể hiện sự quan tâm, cam kết mà người xuất gia cần nhập thế để cứu độ muôn loài.
Nhiết thức trí giác (一切智覺): Còn gọi là “nhất thiết trí” (一切智). Đây là trí tuệ có khả năng soi thấu mọi sự việc hiện tượng như chúng đang là. Theo Luận Đại trí độ, “nhất thiết trí” là một trong ba loại trí tuệ, thuộc trí tuệ của thánh Thanh Văn và thánh Duyên Giác. Hai loại trí tuệ còn lại là “Đạo chủng trí” (道種智), trí tuệ của Bồ-tát, và “nhất thiết chủng trí” (一切種智), trí tuệ của Phật.
Chu cố (周顧): Soi thấu, nhìn thấu suốt, nhìn thấy tất cả. Cái nhìn trọn vẹn. Nhờ có “nhất thiết trí” nên người tu có thể nhìn thấu suốt sự vật khắp mười phương.
Thập phương (十方): Gồm đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, thượng và hạ.
IV. Giải thích gợi ý
Mỗi buổi sáng, sau khoảng 6 tiếng ngủ ban đêm, với sự trợ giúp của dụng cụ báo thức hay tự nhẩm bằng chính niệm trước khi đi ngủ, chúng ta sẽ mở to mắt, tỉnh dậy và bắt đầu ngày mới vào buổi khuya.
Giờ khuya trong đạo Phật thường được tính từ 3:30 đến 5 giờ sáng. Đó là thời điểm mà các mộng đẹp về cuộc đời và các ác mộng xuất hiện trong bộ não của ta. Do vậy, đánh thức mình bằng nỗ lực chính niệm sẽ làm ta vượt qua khỏi ảo giác. Bằng sự chính niệm và tinh tấn, ta sẽ có giá trị tích cực trong ngày mới.
“Giác” là mở mắt, một động từ rất sâu sắc, kết thúc giấc ngủ của một đêm dài. Theo tâm lý học, trung bình chúng ta có khoảng vài chục các giấc mơ nhỏ, lớn, với độ dài trung bình hay dài trong một đêm ngủ. Vì khả năng ký ức của con người có giới hạn nên ta thường chỉ nhớ những giấc mơ cuối cùng vào đầu hôm hay buổi sớm khuya. Những giấc mơ đó có hai tác dụng, hoặc tạo ra ấn tượng hân hoan, phấn chấn hoặc để lại nỗi ám ảnh, lo sợ. Dù ác mộng hay thiện mộng đều làm ta đánh mất chính niệm ở hiện tại. Chỉ cần “mở mắt” thì nội dung của giấc mộng trong suốt đêm được kết thúc. Giống như cái công tắc, nếu bật vào nó, ánh sáng sẽ tỏa chiếu ra và không cần nỗ lực tiêu diệt, bóng tối cũng đến hồi kết thúc.
Thực tập chính niệm của các hành giả đạo Phật không tạo ra cưỡng lực hay ức chế trong hành vi, không đè nén và gắng gượng, vì làm như vậy, sau một thời gian ta cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi, đừ đẫn, dẫn đến cảm giác chán nản.
Khi mở mắt tỉnh thức, ta thưởng thức không khí trong lành của ngày mới, tâm ta trở nên khoan khoái. Nhân đó, hãy quyết tâm “đánh thức” đức Phật bị ngủ quên trong tâm chúng ta. Việc đánh thức đó đòi hỏi đến những kỹ năng thực tập, bắt đầu bằng việc tin mình có năng lực tuệ giác. Khi ta sở hữu được tuệ giác, an lạc hạnh phúc sẽ có mặt khắp nơi. Nhân động tác mở mắt vào đầu một ngày mới, ta cam kết chuyển hóa tất cả mộng tưởng trong một đêm, đồng thời, ta cầu cho tất cả chúng sinh có được tầm nhìn tuệ giác, thấu soi khắp cả mười phương.
“Tầm nhìn tuệ giác” ngược lại với tâm vô minh, vốn là bản năng mê mờ, tồn tại qua các kiếp sống sinh tử, luân hồi. Tâm vô minh này làm ta rơi vào mê tín dị đoan, tin vào Thượng đế là đấng sáng tạo, tin các thần linh chưởng quản các chức nghiệp và ngành nghề, tin số phận của mình được an bày, tin mọi thứ diễn ra trên cuộc đời là định mệnh. Do vô minh, nhiều người lầm tin rằng ta có nỗ lực cách mấy cũng không qua được “phận Trời đã định”. Tất cả những niềm tin đó được gọi là mê tín, trái hoàn toàn với niềm tin tuệ giác.
Khi mong cầu tất cả chúng sinh, trong đó có mình, mở mắt được tuệ giác, ta sẽ nhìn thế giới và con người bằng học thuyết tương tác, tức là duyên khởi. Tương tác trong vũ trụ diễn ra theo cách thức: “Cái này có tạo điều kiện cho cái khác có. Cái này sinh dẫn đến tình trạng sinh của cái khác. Cái này không dẫn đến cái không của cái kia. Cái này tiêu diệt dẫn đến tình trạng bị tiêu diệt của những cái liên hệ”.
Khi hiểu được bản chất tương tác đa chiều trong mọi sự vật, ta sống có tự tin, tin vào nhân quả, tin đạo đức, tin phước quả, tin kiếp sau, tin chuyển nghiệp và tin rằng nỗ lực chân chính sẽ dẫn đến an vui, hạnh phúc trong cuộc đời. Tất cả những niềm tin đó sẽ giúp ta đạt được tri kiến chân chính (chính tri kiến), bước đầu của đời sống tuệ giác.
Khái niệm “con mắt tuệ giác” được hiểu trong đạo Phật là tầm nhìn không bị chi phối bởi tham, sân, si, phiền não, nghiệp chướng, trần ô, nhờ đó, ta sống hân hoan, an lạc, hạnh phúc. Có được tầm nhìn tuệ giác như mắt Phật, ta nhìn đâu cũng thấy rõ quy luật nhân quả và duyên khởi, nhờ đó, tìm ra được các giải pháp thích hợp cho các vấn nạn mình đang gặp phải. Khi có được con mắt tuệ giác, ta không lo gì cuộc đời này không có được hòa bình, an vui, hạnh phúc, phát triển bền vững. Con mắt tuệ giác giúp ta sống với nhau bằng tinh thần hòa hợp, đoàn kết, thương yêu và giúp đỡ nhau khi gặp các hoạn nạn trọng đời. Chỗ nào có tầm nhìn tuệ giác, chỗ đó có niềm an vui và hạnh phúc. Thực tập “tỉnh thức” trong đầu ngày mới giúp ta nêu quyết tâm để có được tuệ giác trong mọi hành vi và lối sống.
V. Câu hỏi ôn tập
1. Trình bày sự liên hệ giữa nhãn thức với con mắt tuệ giác.
2. Trình bày giá trị của con mắt tuệ giác.
***
- Không ăn phi thời là giới cốt yếu của Bát Quan Trai Giới, Công đức không thể nghĩ bàn Tâm Tịnh cẩn tập
- Giữ giới cẩn trọng sẽ giải thoát Nguyên Giác
- Đưa tư tưởng ngũ giới của Phật giáo vào đời sống nhân loại Ngô Văn Hà
- Hãy là phước điền Tăng HT. Thích Trí Quảng
- Mười giới Sa di là bản chất đích thực của một vị Sa di Thích Nhất Hạnh
- Chính niệm trong từng cử chỉ (Tỳ-ni Nhật Dụng Thiết Yếu) Thích Nhật Từ
- Nguyên Nhân Đức Phật Chế Giới Thích Nữ Tâm Như
- Tu cái Miệng là Tu hơn nửa đời người Hạnh Trung
- Tìm hiểu ý nghĩa của Giới trong Ngũ uẩn và Cõi giới TS Huệ Dân
- Kinh Phạm Võng Bồ tát giới giảng lược Thiền sư Thích Duy Lực
- Truyền giới Bồ tát Vô Sanh Pháp Nhẫn tại Tổ đình Hàn Quốc Thích Vân Phong đưa tin
- Tìm Hướng Đi Lên Thích Minh Thông
- Ý nghĩa tuyển Phật trường Hòa thượng Thích Thiện Nhơn
- Mười điều thiện Phúc Trung
- Công dụng của Giới đức Tỳ kheo Thanissaro - Bình Anson lược dịch
Đánh giá bài viết này
Cùng tác giả
- Khóa tu và nghi thức Xuất gia gieo duyên
- Từ điển Phật giáo Việt Nam: Các mục từ đã làm xong
- Quy cách phiên dịch và biên tập Tam tạng thánh điển Phật giáo Việt Nam
- Thư mời tham gia biên soạn "Từ điển Phật giáo Việt Nam"
- Từ điển Phật học vần A-Z (2010 mục từ, ngày 02/1/2023)
- Từ điển Phật giáo (50 từ gợi ý trong tổng số 3500 mục từ đã hoàn tất) - Một số mục từ Văn học Phật giáo Việt Nam gợi ý
- Quy cách biên soạn "Từ điển Phật giáo Việt Nam"
- Dự thảo các nhóm biên soạn bộ "Từ điển Phật giáo Việt Nam"
- Bản sắc hóa và quốc tế hóa vị thế của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
- Khái quát Nội dung Kinh Trung Bộ
Được quan tâm nhất
Chính niệm trong từng cử chỉ (Tỳ-ni Nhật Dụng Thiết Yếu) 02/05/2015 19:43:00 |
Tu cái Miệng là Tu hơn nửa đời người 23/07/2013 16:01:00 |
Mười điều thiện 28/08/2011 09:24:00 |
Kinh Phạm Võng Bồ tát giới giảng lược 02/05/2012 19:01:00 |
Bình luận (0 đã gửi)
Gửi bình luận của bạn
BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)