Đạo Phật Ngày Nay

Tuần lễ 7: Sự đóng góp quan trọng của hạnh phúc trong việc phát tiển kinh tế xã hội - Chương 1: Hạnh phúc làm cho người dân đoàn kết giúp gia tăng phát tiển kinh tế xã hội

 

 

CHƯƠNG 1:

HẠNH PHÚC LÀM CHO NGƯỜI DÂN ĐOÀN KẾT GIÚP GIA TĂNG

PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI

Trong tác phẩm đúc kết các cuộc nghiên cứu về những sự tốt đẹp của cảm xúc tích cực Positivity[1] giáo sư Fredrickson cho biết bà và các đồng nghiệp đã nghiên cứu về phẩm chất của niềm vui, lòng biết ơn, lòng thanh thản, niềm cảm hứng, sự thích thú, lòng thán phục hay tình thương. Họ đã đo mức độ tác dụng của những cảm xúc tích cực này làm cho thay đổi cách thức suy nghĩ của con người ra sao cũng như đã sắp loại tác dụng của những cảm xúc tích cực này nơi các khả năng chuyên môn, tánh tình và sức khỏe cùng hạnh phúc của những người tham dự các cuộc nghiên cứu.

TÁC DỤNG MỞ RỘNG VÀ XÂY DỰNG NỀN TẢNGĐỜI SỐNG CỦA HẠNH PHÚC

Qua các cuộc nghiên cứu khoa học nghiêm túc với đồng nghiệp Losada vào năm 2005 về cảm xúc tích cực, giáo sư Fredrickson,[2] nói rõ hạnh phúc có ba tác dụng lợi ích cụ thể:

- Tác dụng mở rộng thấy biết: Khi chúng ta có những cảm xúc tích cực thì chúng ta có cái nhìn rộng lớn hơn, giúp chúng ta có những sáng kiến kết nối người và sự việc, không thấy mình tách biệt với người khác và đối diện những khó khăn với tâm trong sáng và linh động để giải quyết chúng.

- Tác dụng xây dựng đời sống: Khi kinh nghiệm những điều tốt đẹp hạnh phúc mang lại, chúng ta phát triển thói quen lành mạnh, hay tập quán tốt, là tìm đến niềm vui ưa thích mà cảm xúc tích cực làm phát sinh. Và muốn được điều ấy thì chúng ta cần phát triển những khả năng để thành tựu như tình thương hay lòng biết ơn và nó trở thành tánh chất của con người chúng ta.

- Tác dụng gia tăng phát triển tốt đẹp: Khi chúng ta có 3 cảm xúc tích cực và chỉ 1 cảm xúc tiêu cực, hay tỷ lệ 3/1, thì một hiện tượng kỳ diệu xuất hiện là hai tác dụng nói trên – mở rộng sự thấy biết và xây dựng đời sống – được tích lũy, được dồn lại thành vốn liếng, thành tài nguyên để sử dụng lâu dài. Còn nếu dưới tỷ lệ 3/1 nói trên, ví dụ như 2/1 hay 1/1, thì các tác dụng tốt đẹp nói trên không được tích lũy lại.

Giáo sư Fredrickson,[3] trong bài nghiên cứu cập nhật về tỷ lệ cao cần có giữa cảm xúc tích cực và tiêu cực vào năm 2013, vẫn xác nhận điều cần thiết cần có nhiều cảm xúc tích cực để làm giảm ảnh hưởng xấu của cảm xúc tiêu cực. Điều quan trọng hơn nữa, khi tỷ lệ giữa hạnh phúc và khổ đau là từ 10/1 trở lên như có 10 cảm xúc tích cực (thương yêu, tha thứ, biết ơn hay thích thú) và chỉ có 1 cảm xúc tiêu cực (như bực tức hay giận dữ) trong một ngày, thì đây là tỷ lệ cần thiết để cho đời sống con người nở rộ do có hạnh phúc thật sự, bền vững và lâu dài.

Khoa học càng phát triển thì những lời giảng dạy của đức Phật càng có ý nghĩa. Ngài đã khích lệ người Phật tử làm gia tăng càng nhiều cảm xúc tích cực càng tốt qua sự liên hệ tốt đẹp với người hiền lành, người có đạo hạnh, người có hiểu biết chân thật cũng như bản thân mình thực hành nói lời hòa nhã, lịch sự, ái ngữ, làm điều phước thiện, những điều tốt, hiếu thảo với cha mẹ, làm việc chu đáo, tương quan hòa thuận với mọi người cùng nhiều điều tốt đẹp khác. Đức Phật đã chỉ cho cách thực hành làm cho tỷ số cảm xúc hạnh phúc gia tăng rất nhiều so với cảm xúc khổ đau. Chúng ta đọc kinh Phước Đức để thấy rõ điều đó:

                  “Lánh xa kẻ xấu ác

                  Được thân cận người hiền

                  Tôn kính bậc đáng kính

                  Là phước đức lớn nhất

                  Sống trong môi trường tốt

                  Được tạo tác nhân lành

                  Được đi trên đường chánh

                  Là phước đức lớn nhất.

                  Có học có nghề hay

                  Biết hành trì giới luật

                  Biết nói lời ái ngữ

                  Là phước đức lớn nhất

                  Được cung phụng mẹ cha

                  Yêu thương gia đình mình

                  Được hành nghề thích hợp

                  Là phước đức lớn nhất

                  Sống ngay thẳng bố thí

                  Giúp quyến thuộc thân bằng

                  Hành xử không tì vết

                  Là phước đức lớn nhất

                  Tránh không làm điều ác

                  Không say sưa nghiện ngập

                  Tinh cần làm việc lành

                  Là phước đức lớn nhất

                  Biết khiêm cung lễ độ

                  Tri túc và biết ơn

                  Không bỏ dịp học đạo

                  Là phước đức lớn nhất

                  Biết kiên trì phục thiện

                  Thân cận giới xuất gia

                  Dự pháp đàm học hỏi

                  Là phước đức lớn nhất.

                  Sống tinh cần tỉnh thức

                  Học chân lý nhiệm mầu

                  Thực chứng được Niết-bàn

                  Là phước đức lớn nhất.

                  Chung dụng trong nhân gian

                  Tâm không hề lay chuyển

                  Phiền não hết, an nhiên,

                  Là phước đức lớn nhất.

                  Ai sống được như thế,

                  Đi đâu cũng an toàn

                  Tới đâu cũng vững mạnh

                  Phước đức của tự thân”.[4]

Những điều thực hành trong kinh Phước Đức làm phát sinh rất nhiều cảm xúc tích cực làm cho chúng ta rất hạnh phúc do mình có được tình thân thiết xã hội, có tình thương trong gia đình, có niềm vui khi làm việc mình ưa thích, khi được gần người có đức độ, khi nói những lời chân thật và lễ độ, khi sống với tính tình ngay thẳng, khi có tình thương giúp người nghèo khổ hay bày tỏ lòng biết ơn người giúp đỡ mình. Khi thực hành được theo lời đức Phật dạy ở trên, so sánh với kết quả của các cuộc nghiên cứu khoa học, thì chúng ta có được tỷ lệ giữa hạnh phúc và khổ đau từ 10/1 trở lên. Đó là một tỷ lệ mà các chuyên gia hạnh phúc cho là cần thiết để làm đời sống con người nở rộ trong hạnh phúc thật sự, bền vững và lâu dài.

CÁC LOẠI CẢM XÚC TÍCH CỰC

Trong cuộc nghiên cứu về tác động của hạnh phúc, giáo sư Fredrickson[5] đã liệt kê 10 loại cảm xúc tích cực căn bản và các loại cảm xúc tích cực này có khả năng làm cho rộng lớn thêm và xây dựng sức khỏe và hạnh phúc chúng ta gồm có:

Vui mừng (joy) khi có một điều gì tốt đẹp xảy ra cho mình như khi được tin vui hay một điều tốt đẹp bất ngờ nào đó đến với mình.

Lòng biết ơn (gratitude) xuất hiện khi chúng ta được người khác làm điều gì tốt cho mình. Lòng biết ơn làm phát sinh ý muốn làm điều tốt đẹp cho người khác.

Lòng bình an (serenety), cũng còn gọi là sự hài lòng, xuất hiện khi chúng ta thấy thỏa mãn với những gì đang xảy ra trong hiện tại,

Sự thích thú (interest) khi thấy có điều gì mới lạ. Chúng ta thường thấy thích thú khi có điều gì bí ẩn hay lôi kéo mình phải tìm hiểu. Thích thú làm cho chúng ta tìm tòi, học hỏi và phát triển sự hiểu biết.                                                                                                  

Hy vọng (hope) là một cảm xúc tích cực nhất xuất hiện khi chúng ta bị lâm vào hoàn cảnh khó khăn làm cho lo lắng, sợ hãi điều xấu nhất sẽ xảy đến cho mình nhưng hy vọng điều tốt hơn sẽ xảy ra. Hy vọng thúc đẩy chúng ta tận dụng khả năng và sự sáng tạo của mình để thay đổi hoàn cảnh cho tốt hơn.

Lòng tự hào (pride) hiện ra khi chúng ta cho rằng mình có công trạng về một điều gì tốt đẹp hay quan trọng mà nhiều người biết đến. Điều này có thể thúc đẩy con người dấn thân nhiều hơn trong lãnh vực làm phát sinh lòng tự hào đó.

Sự thú vị hay buồn cười (amusement) khi chúng ta nói hay làm một điều gì đó không phù hợp với hoàn cảnh nhưng không nghiêm trọng lắm và làm cho mình và các người khác phì cười.

Gây cảm hứng (inspiration) cho người khác. Khi chúng ta thấy người khác có những hành động hay, xuất sắc hay đặc biệt thì lòng mình phát sinh ra sự hứng khởi thúc đẩy mình làm tốt đẹp hơn điều gì đó.

Lòng thán phục hay sùng kính (awe) khi chúng ta thấy ai làm một công việc tốt đẹp lớn lao, thấy một cái gì quá sức đẹp đẽ hay hùng vĩ.

Tình thương (love) là một loại cảm xúc tích cực mà con người thường hay có trong mối tương quan với người trong gia đình và ngoài xã hội. Tình thương tạo ra sự nối kết giữa con người với nhau.

Ngoài ra, giá trị của hạnh phúc không phải chỉ ngang nơi mức làm cho con người nở rộ mà còn đem lại nhiều phúc lợi khác cho đa số người trong xã hội. Nói về sự tác dụng hạnh phúc làm thay đổi không những cho mỗi cá nhân trở thành tốt đẹp hơn mà cho cả những nhóm người khác trong các cơ quan và đoàn thể. Giáo sự Fredrickson[6] đã trình bày như sau:

Sự thay đổi trong cộng đồng có thể có được vì cảm xúc tích cực nơi người này truyền sang người khác. Như nhà nghiên cứu Isen đã chứng minh các hành vi giúp đỡ làm cho con người cảm nhận được cảm xúc tích cực nên càng gia tăng sự giúp đỡ người khác. Hành vi giúp dỡ phát sinh từ các cảm xúc tích cực. Và chính hành vi giúp đỡ cũng làm phát sinh các cảm xúc tích cực. Những người giúp đỡ kẻ khác cảm thấy tự hào về việc làm tốt đẹp này. Thêm vào đó, người nhận lãnh sự giúp đỡ cảm thấy biết ơn người cho và những người khác, khi họ chỉ nhìn thấy hành vi tốt này mà thôi, cũng cảm nhận lòng mình được nâng cao

Những cảm xúc tích cực này – lòng tự hào, lòng biết ơn và lòng được nâng cao – tự nó làm cho tâm con người mở rộng ra là khích lệ cho những hành vi từ bi khác phát sinh”.

Giáo sư Fredrickson[7] nói rõ điều này đưa đến kết quả tạo ra một chuổi nhân quả hay nhân duyên tiếp nối (trùng trùng duyên khởi) làm cho gia tăng những niềm an vui, tích cực, hạnh phúc trong cộng đồng đưa đến kết quả tốt đẹp là:

- Người trong cộng đồng đoàn kết với nhau hơn và thông cảm nhau hơn,

- Người trong cộng động gia tăng đạo đức vì thông cảm nỗi ước mong của người khác được đối xử đàng hoàng,

- Những tổ chức trong xã hội (ví dụ như chính quyền và tư nhân) hòa hợp nhau hơn do có hạnh phúc và cảm thông.

- Sự liên hệ giữa con người trong gia đình, trong các nhóm, trong các tổ chức hay cơ quan trở nên thoải mái và tốt đẹp hơn vì người ta hạnh phúc nên nói với nhau những câu vui vẻ, hài hước để làm phát sinh niềm vui khi giao tiếp với nhau”.

Không những vậy, khi sống đời hạnh phúc thì con người có nhiều khả năng thấy biết rộng lớn nhờ đó mà họ có thể tìm ra các ý nghĩa trong những sự đối nghịch như sự cạnh tranh trong thương trường hay trong chính trị để tìm ra phương pháp giải quyết cho tốt đẹp hơn. Những người này cũng tìm thấy ý nghĩa nơi những công việc hàng ngày do sự tìm tòi những cách thức để làm cho tốt hơn. Ngay cả các khi phải đối diện với các vấn đề lớn hơn trong xã hội hay giữa các nước, họ cũng qua đó mà làm cho phát sinh những nguồn năng lực nơi chính mình hay những người cùng chí hướng để tìm ra các phương thức giải quyết thích hợp.

Trong hoàn cảnh khó khăn, họ biết cách làm cho sự căng thẳng dịu xuống như trong gia đình thì biểu lộ tình thương, nói những lời khen ngợi điều tốt nơi người khác hay ngoài xã hội thì biết cách giải quyết khéo léo các vấn đề xung đột.

Điều này rất phù hợp với lời dạy của đức Phật về tâm con người có khả năng mang đến hạnh phúc hay khổ đau:

                  “Tâm dẫn đầu mọi pháp

                  Tâm chủ, tâm tạo tác

                  Nếu nói hay hành động

                  Với tâm tư trong sạch

                  Hạnh phúc sẽ theo ta

                  Như bóng không rời hình.

                  Tâm dẫn đầu mọi pháp

                  Tâm chủ, tâm tạo tác

                  Nếu nói hay hành động

                  Với tâm tư ô nhiễm

                  Khổ não sẽ theo ta

                  Như xe theo ngựa kéo”.[8]

TỊNH ĐỘ NHÂN GIAN

Giáo sư Fredrickson cũng cùng có một ý nghĩ như trên qua việc bà viện dẫn ý kiến của học giả và thi sĩ người Anh John Milton trong tài liệu nghiên cứu nói trên như sau:

Tâm có vị trí của chính nó và chính tâm có thể tạo ra một chốn thiên đàng từ nơi địa ngục hay một địa ngục nơi chốn thiên đàng”.

Đức Phật dạy cách thực hành Từ Bi Quán để làm cho tâm được mát mẻ, êm dịu và hạnh phúc. Ngày nay, khoa thần kinh học nghiên cứu và ứng dụng thiền Phật giáo cũng như thiền từ bi quán để thay đổi tâm thức và bộ não con người cho tốt hơn để đem lại hạnh phúc, sức khỏe và thành công cho nhiều người. Trong chiều hướng tích cực đó, chuyên gia tâm lý về hạnh phúc và tình thương Fredrickson[9] đã kết luận như sau trong bài nghiên cứu về giá trị của cảm xúc tích cực:

Khoa học mới mẻ về tâm lý tích cực đang bắt đầu làm sáng tỏ sự thay đổi tốt đẹp nói trên xảy ra như thế nào. Xin hãy nghĩ đến những điều tốt đẹp trên thế giới hoặc là tìm hiểu ý nghỉa tích cực về những thứ đó thì bạn đã gieo trồng những hạt giống cảm xúc tích cực cho chính mình. Sự chú tâm vào điều tốt không những thay đổi đời sống của bạn, cộng đồng của bạn mà có thể cả thế giới nữa. Rồi từ từ sẽ tạo ra chốn thiên đàng trên quả đất này”.

Đạo Phật dạy rõ các ý tưởng hay cảm xúc vui buồn là do tâm của mình làm phát sinh và nếu chúng ta biết cách huấn luyện, thường gọi là tu tập, thì chúng ta có thể làm cho thay đổi cái nhìn sai lầm trở thành đúng hay chánh kiến. Khi đã nhận thức đúng thì có sự suy nghĩ đúng hay chánh tư duy. Suy nghĩ đúng thì lời nói chân thật, hòa nhã, có sự cảm thông và tạo ra sự tin tưởng lẫn nhau hay chánh ngữ. Suy nghĩ đúng, nói năng đúng đưa đến hành động tốt đẹp hay chánh nghiệp. Từ đó chúng ta biết cách làm việc trong các ngành nghề để nuôi sống bản thân, đóng góp vào các lợi ích xã hội và sống đời lành mạnh hay chánh mạng. Làm những điều tốt đẹp hợp với đạo đức con người và xã hội hay giới là nền tảng làm phát sinh sự vững chãi của tâm khi tu tập hay sinh hoạt (định tâm). Tâm định thì sự thấy biết chân thật hay trí huệ thường có mặt. Đó là tám thành phần cao quý của tâm Phật nơi mỗi chúng ta.

Tóm lại, hạnh phúc là nguồn tài nguyên lớn lao của con người. Mọi người đều có Phật tánh, tánh thấy biết chân thật, tình thương và hạnh phúc là nền tảng căn bản vững chắc làm phát sinh nhiều loại cảm xúc tích cực trong đó có bốn thứ rộng lớn nhất là từ, bi, hỷ và xả mà đức Phật thường khuyến khích chúng ta biểu lộ trong đời sống hàng ngày. Khi nhiều người trong một nước sống có hạnh phúc, có tình thương, có sự phát triển hài hòa về giáo dục, kinh tế và tổ chức xã hội thì dù là nước nghèo hay nước giàu, dân chúng nước đó đang sống trong cõi Tịnh độ.

Giáo sư Fredrickson[10] nhấn mạnh đến giá trị của cảm xúc tích cực làm phát sinh những tài nguyên trong nhiều lãnh vực khác nhau: Tài nguyên tinh thần: Phát triển các khả năng giải quyết các vấn đề và học hỏi những điều mới mẻ.

- Tài nguyên thể chất: Phát triển khả năng phối hợp các hoạt động thân thể, phát triển sức mạnh và sức khỏe tim mạch.

- Tài nguyên xã hội: Làm cho sự kết thân thêm bền vững cùng có những sự kết thân mới.

- Tài nguyên tâm lý: Phát triển tánh bền bỉ và lạc quan, phát triển cảm nhận về mình cùng hướng đến mục tiêu muốn thực hiện.

Sự khám phá nói trên rất quan trọng cho việc phát triển giáo dục và kinh tế các nước nghèo hiện nay. Ví dụ như ở Việt Nam, thành phần trẻ trong dân số Việt Nam được xem là một yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Dân số Việt Nam được xem là dân số trẻ với trên 20 triệu người từ 14 đến 25 tuổi. Để tìm hiểu về cảm xúc trong giới trẻ tại Việt Nam, Tổng Cục Dân Số và Tổng Cục Thống Kê đã thực hiện cuộc nghiên cứu quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY) lần thứ hai trong 63 tỉnh thành với hơn 10,000 người tham dự trả lời các câu hỏi về cảm xúc trong đời sống, nhất là về những kinh nghiệm bản thân như buồn chán, thấy đời sống mình không giá trị, thất vọng hay muốn tự tử.[11] Kết quả cuộc tìm hiểu được công bố vào tháng sáu năm 2010 cho thấy:

- 73% thanh thiếu nhi từng có cảm giác buồn chán, 27% từng có cảm giác rất buồn, thấy mình vô tích sự đến nỗi không muốn hoạt động như bình thường.

- Có trên 21% thanh thiếu nhi từng thất vọng hoàn toàn về tương lai.

- Có 4,1% nảy sinh ý nghĩ muốn tự tử.

- Càng nhỏ tuổi thì cảm giác buồn chán càng gia tăng: Các em từ 14 đến 21 tuổi có đến 75% trải qua cảm giác buồn chán so với 65% các em từ 22 đến 25 trải qua cảm giác buồn chán. So với cuộc nghiên cứu tương tự vào năm 2008 thì số thanh thiếu niên trải qua trạng thái buồn chán này tăng lên từ 32% đến 73%.

CẦN PHÁT TRIỂN HẠNH PHÚC ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng ta thấy cảm xúc tiêu cực nơi các thanh thiếu nhi khá nhiều. Điều này không phải chỉ có ở Việt Nam mà có nơi nhiều nước giàu hay nghèo khác. Nếu tình trạng này kéo dài thì có thể ảnh hưởng lâu dài đến tương lai mỗi nước. Vậy chỉ có cách làm cho các thanh thiếu nhi giảm buồn chán, thất vọng để cảm nhận niềm vui và sống với nhiều hạnh phúc theo các phương pháp cụ thể vì điều này liên hệ với phát triển ở mọi nước.

Giáo sư  Sonja Lyubomirsky thực hành một cuộc nghiên cứu rộng lớn về hạnh phúc với hai giáo sư khác là Laura King và Ed Diener ở Hoa Kỳ[12] xác nhận những người hạnh phúc có tánh tình tốt, dễ mến, biết cách hợp tác để thành công, có khả năng thích nghi với hoàn cảnh và có tinh thần sáng tạo. Cuộc nghiên cứu đó cho thấy những người hạnh phúc có một nền tảng của sức khỏe tâm thần tốt như sau:

1. Họ có cái nhìn tích cực về họ và những người khác,

2. Họ dễ hòa đồng và năng động,

3. Họ dễ mến và hợp tác,

4. Họ có thái độ thân thiện với người khác

5. Họ khỏe mạnh và có khả năng thích nghi,

6. Họ hướng đến sự giải quyết vấn đề và có tinh thần sáng tạo.

Khi tổng kết các cuộc nghiên cứu về hạnh phúc, các nhà khoa học thấy rõ hạnh phúc có vai trò rất quan trọng vì hạnh phúc là kim chỉ nam cho thấy người nào có hạnh phúc thì người đó có sức khỏe thể chất và tâm thần cao. Những người hạnh phúc còn có tương quan xã hội tốt do thái độ vui vẻ, cởi mở của họ, họ có khả năng chịu đựng và thích nghi cao do đó ít bị tai nạn và tự tử cũng như hệ thống miễn nhiễm làm việc tốt. Đó là những yếu tố làm cho họ sống lâu, sống khỏe và sống vui vẻ.

Thông thường chúng ta nghĩ rằng người hạnh phúc là người chỉ ưa sống với nhiều niềm vui và ít muốn can dự nhiều đến việc phức tạp. Trên thực tế, hạnh phúc đem lại rất nhiều thành công trong công ăn việc làm. Vào năm 1993, hai nhà nghiên cứu về tâm lý học Staw and Barsade[13], tìm thấy những người có cảm xúc tích cực có khả năng tốt trong chức vụ điều hành trong đó bao gồm khả năng lãnh đạo và thu thập tin tức. Những người hạnh phúc thì có năng xuất cao vì người có nhiều hạnh phúc thường có nhiều sự thoả mãn trong nghề nghiệp của họ. Điều này làm cho họ làm việc bền bỉ và tốt đẹp nên đưa đến nhiều thành công.

Sau đó, các chuyên gia tâm lý Coté[14] nhận thấy càng ngày chính quyền cũng như các xí nghiệp tư càng quan tâm đến vấn đề cảm xúc liên hệ đến việc làm trong các cơ quan và xí nghiệp vì nhân viên hạnh phúc mang nhiều lợi lạc cho các công ty. Dựa trên kết quả nghiên cứu nhiều năm qua, kể từ 50 năm trước đây, cho thấy những nhân viên hạnh phúc nhiều thì năng xuất làm việc cao. Điều nói trên cũng phù hợp với sự kết luận những người hạnh phúc có khả năng quản trị tốt đẹp của các tổ chức khác nhau.  

Điều này cũng thấy ở nơi các nhân viên làm việc các ngành nghề. Nhân viên hạnh phúc, dù họ ở cấp bậc nào, hưởng được nhiều lợi điểm. Cuộc nghiên cứu của giáo sư  Frisch và các đồng nghiệp[15] vào năm 2002 tại Hoa Kỳ cho thấy những người công nhân hạnh phúc thì có nhiều lợi thế gấp bội so với những người ít hạnh phúc hơn, như họ có nhiều cơ hội được chấp nhận cho phỏng vấn lần thứ nhì khi họ nộp đơn xin việc làm. Khi cấp trên lượng giá về khả năng thì họ được cho điểm về nghề nghiệp cao hơn người ít hạnh phúc. Khi họ giữ chức vụ điều hành thì công việc làm của họ tốt hơn do sự cảm thông, có thái độ vui vẻ với người khác, tích cực trong lời nói và việc làm, ít có thái độ tiêu cực làm cản trở công việc làm và có khả năng làm việc lâu dài và có hiệu quả. Và chúng ta đều biết, những điều nói trên là những yếu tố làm việc tốt đẹp và lâu dài mà bất cứ một công ty nào cũng mong muốn nơi người giữ vai trò lãnh đạo ở các cấp.

Giám đốc công ty hạnh phúc thì mang lợi lạc gì về cho công ty và cho chính bản thân họ? Điều này được giáo sư  Pritzker[16] tìm ra hai năm trước đó trong cuộc nghiên cứu về những người giám đốc công ty và cho thấy những người giám đốc có tánh tình tích cực thì có các thái độ tốt và làm việc hữu hiệu nên thường được hội đồng quản trị và các người lãnh đạo công ty đánh giá cao vì họ đã  mang về nhiều tiền lời từ các cuộc đầu tư.                          

Các công ty muốn gia tăng lợi tức rất chú ý đến sự thoả mãn của nhân viên khi họ làm việc cho công ty. Chúng ta có thể lấy ví dụ công ty Google tại Hoa Kỳ đã tổ chức lề lối làm việc theo nguyên tắc làm cho nhân viên thoải mái, yêu thích công việc làm để gia tăng khả năng làm việc và sáng tạo. Công ty Google đã dành cho nhân viên nhiều tiện nghi trong sở làm với phòng tập thể dục, phòng ăn với các thực phẩm ngon và lành mạnh ngay trong sở làm cùng với sự tương quan tốt đẹp giữa nhân viên và người điều hành. Các nhà lãnh đạo công ty biết rất rõ: Khi nhân viên hạnh phúc, họ thích thú nhiều hơn công việc đang làm và điều này sẽ giúp gia tăng hiệu năng công việc cùng sự sáng tạo. Đó là yếu tố cần thiết để công ty phát triển trong môi trường cạnh tranh toàn cầu hóa hiện nay. Yếu tố hạnh phúc làm gia tăng thoả mãn nghề nghiệp là vấn đề rất quan trọng vì hai thứ đó làm gia tăng năng xuất trong các cơ sở thương mại hay sản xuất. Các nhà nghiên cứu Connolly và Viswesvara[17] đã tìm hiểu sự liên hệ giữa cảm xúc và sự thỏa mãn nghề nghiệp qua các yếu tố về thỏa mãn nghề nghiệp và thái độ tích cực (hạnh phúc) cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và thái độ tiêu cực (không hạnh phúc). Họ tìm thấy những người hạnh phúc là những người thỏa mãn với công việc của mình nhiều hơn là những người kém hạnh phúc. Do đó, trong cuộc cạnh tranh sinh tồn của các công ty thương mãi trong khung cảnh toàn cầu hóa hiện nay, làm cho nhân viên hạnh phúc khi làm việc là một yếu tố quan trọng bên cạnh vốn liếng đầu tư, kỹ thuật hiện đại và quản trị tốt đẹp. Điều này càng quan trọng hơn nữa khi có tin một số các công nhân của các công ty lớn của Nhật Bản và Đài Loan ở Trung Quốc tự tử vì đời sống buồn chán và việc làm không mang lại niềm vui.  

Các công ty và xí nghiệp thường mong muốn nhân viên thoả mãn với việc họ đang làm vì thỏa mãn nghề nghiệp là một yếu tố quan trọng thúc đẩy nhân viên các cấp làm việc tốt đẹp và đóng góp khả năng của mình cho sự phát triển xí nghiệp và công ty. Tuy nhiên, cuộc nghiên cứu của chuyên gia Wright và Cropanzano vào năm 2000[18] cho thấy rõ là những người hạnh phúc thường làm việc tốt hơn là những người chỉ có yếu tố là thoả mãn với công việc làm. Cuộc nghiên cứu cho thấy sự liên hệ mật thiết giữa hạnh phúc và cách làm việc. Chính hạnh phúc làm cho nhân viên thoả mãn nghề nghiệp. Những người công nhân hạnh phúc thường tỏ thái độ ưa thích việc làm, ít vắng mặt trong giờ làm việc, có thái độ rộng lượng tha thứ, nhiều năng lượng và làm việc siêng năng. Ngược lại, những người không hạnh phúc, thường tỏ thái độ không ưa thích việc làm. Sự không ưa thích việc làm này thường đưa đến hậu quả tiêu cực như vắng mặt, bỏ việc làm, mệt mỏi hay có thái độ ăn miếng trả miếng. Do đó, chúng ta thấy rõ hạnh phúc là một dấu hiệu rất tốt cho chúng ta biết về sự thỏa mãn nơi công việc làm cũng như hiệu năng tốt của người công nhân. Như vậy, yếu tố hạnh phúc vẫn là yếu tố rất quan trọng cho sự đóng góp vào việc phát triển xí nghiệp nói riêng và nền kinh tế quốc gia nói chung.  

Chúng ta có thể lấy ví dụ về nghề bán bảo hiểm. Nghề bán bảo hiểm là một nghề tương đối đòi hỏi nhiều khả năng giao tế và sức chịu đựng giỏi khi đi chào hàng. Những người bán bảo hiểm có tánh tình vui vẻ, tích cực thường bán được nhiều hơn là những người có tính tình tiêu cực. Chuyên gia hạnh phúc nổi tiếng tại Hoa Kỳ tiến sĩ Seligman và các đồng nghiệp làm cuộc nghiên cứu vào năm 1986[19] về sự liên hệ giữa thái độ tích cực và việc làm của 94 nhân viên bán bảo hiểm có kinh nghiệm thì thấy những người tích cực bán  bảo hiểm cho khách hàng 37% nhiều hơn những người tiêu cực trong hai năm đầu khi làm việc. Trong cuộc nghiên cứu 103 nhân viên bán bảo hiểm trong vòng một năm thì thấy số những người tích cực còn tiếp tục làm việc gấp đôi số người tiêu cực và họ cũng bán được nhiều bảo hiểm hơn.

Những người bán hàng vui vẻ thường có nhiều khách hàng vì họ được ưa thích hơn. Ở trong sở làm, người hạnh phúc được cấp trên mến chuộng không phải chỉ vì họ có nụ cười tươi hay tính tình thoải mái mà thôi. Người hạnh phúc có nhiều khả năng quản trị, được quý trọng và có nhiều sáng kiến. Theo chuyên gia Staw và đồng nghiệp[20], khi một người hạnh phúc có được công việc làm thì họ thường thành công trong công việc, được cấp trên đánh giá tốt về phẩm cách, làm gia tăng sản lượng, được nhiều tín nhiệm và có tinh thần sáng tạo. Những người này thường có những công việc liên hệ đến nhiều phạm vi khác nhau nên làm cho việc làm của họ có nhiều ý nghĩa và họ có nhiều sự tự quyết định.

Tóm lại, những nhân viên hạnh phúc làm việc trong các công ty hay xí nghiệp là những người có năng suất cao, có nhiều hợp tác với đồng nghiệp, đi về đúng giờ, ít vắng mặt và làm việc cho công ty hay xí nghiệp lâu dài hơn là những người thiếu hạnh phúc. Những nhân viên hạnh phúc cũng được cấp trên đánh giá cao vì thường đem đến nhiều lợi lạc cho công ty cũng như trung thành với công ty. Khi được đề cử chức vụ điều hành như trưởng nhóm, quản lý hay giám đốc công ty, họ là những người có nhiều khả năng tạo sự tương quan tốt đẹp với những người trong sở và với cấp trên, thu lượm được nhiều tin tức và có khả năng đóng góp vào sự phát triển công ty hay xí nghiệp. Người hạnh phúc, dù là nhân viên thường hay cấp điều hành, họ thường có lợi tức cao hơn, có nhiều người hỗ trợ hơn và thành công hơn trong nghề nghiệp so với những người kém hạnh phúc. Do đó, chúng ta thấy nếu có càng  nhiều công nhân hay giám đốc hạnh phúc thì càng tốt cho sự phát triển công ty nói riêng và kinh tế quốc gia nói chung. 

HẠNH PHÚC LÀM TĂNG TÌNH BẠN, ĐÓNG GÓP VÀO XÃ HỘI VÀ SỐNG LÀNH MẠNH

Ngoài công ăn việc làm, chúng ta còn có bạn bè thân hay sơ, những người chúng ta giao tiếp trong đời sống hàng ngày. Sự liên hệ tốt đẹp với những người chung quanh làm cho đời sống chúng ta gia tăng ý nghĩa. Về phương diện này, những người hạnh phúc thường có mối liên hệ tốt đẹp với những người khác trong xã hội hơn là những người kém hạnh phúc. Các nhà nghiên cứu Baldassare, Rosenfield và Rook[21] cho thấy họ là những người có nhiều bạn bè hơn, được nhiều người ủng hộ hơn và có những người thân thiết họ có thể nương tựa được. Các nhà nghiên cứu cho những điều nói trên là dấu hiệu tốt để biết được mức độ hạnh phúc của những người cao niên. Còn các nhà nghiên cứu Cooper[22] và đồng nghiệp cho biết các người hạnh phúc thường có tình bạn hữu tốt đẹp, họ tham dự nhiều hoạt động thân hữu và họ có nhiều niềm vui. Tình bạn hữu tốt đẹp cũng là một dấu hiệu cho biết người đó có hạnh phúc nhiều hay ít.

Xã hội nào cũng cần sự đóng góp của dân chúng vào những chương trình mang đến lợi ích chung cho cộng đồng. Về phương diện tâm lý, sự tham gia vào các hoạt động xã hội là một thước đo rất tốt về hạnh phúc. Và như chúng ta đã biết, hạnh phúc là thước đo của sức khỏe và thành công. Các cuộc nghiên cứu cho thấy người hạnh phúc có những tính tình tốt đẹp như  có lòng nhân từ, hay giúp đỡ tha nhân, tham gia vào các chương trình xã hội. Những người có những hoạt động đóng góp vào xã hội thì có hạnh phúc nhiều hơn so với những người có thái độ chống đối xã hội. Theo giáo sư Krueger và các đồng nghiệp[23] thì những người hạnh phúc thường đóng góp cho xã hội nhiều hơn, họ tình nguyện tham gia vào các chương trình thiện nguyện nhiều hơn so với những người không hạnh phúc trong các phạm vi tôn giáo, giáo dục, chính trị hay phát triển sức khỏe.

Những cuộc nghiên cứu khoa học nói trên làm cho chúng ta hiểu rõ ý nghĩa hơn về lời đức Phật dạy làm thế nào để sống thật hạnh phúc cùng ngăn chặn buồn rầu đừng cho chúng phát sinh cũng như tạo điều kiện cho niềm vui xuất hiện qua cách sống lành mạnh:

…buồn khổ chưa sinh, người ấy có thể ngăn khiến không sinh. Buồn khổ đã sinh, người ấy có thể khiến cho cởi mở, tỉnh sáng. An vui chưa sinh, người ấy có thể khiến cho chóng sinh, an vui đã sinh, người ấy có thể khiến cho không mất. Đó gọi là thiện nam tử đầy đủ Thiện Tri Thức”.[24]

Các cuộc nghiên cứu khoa học nói trên đã cho thấy chúng ta không thể nào xin hạnh phúc từ kẻ khác cho mình, không thể dựa vào các máy móc dù là thật tinh vi hay các trò chơi giải trí để có được hạnh phúc thật sự và bền vững. Các nhà khoa học nói rõ muốn có hạnh phúc thì chúng ta phải biết cách huấn luyện chính mình bằng những phương pháp cụ thể. Điều này phù hợp với lời đức Phật dạy muốn có hạnh phúc thì phải thực hành sự tự huấn luyện hay tu học và ứng dụng Phật pháp vào đời sống để đạt được an lạc như sau:

Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có an lạc, không thể do cầu xin an lạc hay tán thán an lạc để làm nhân đến an lạc. Vị Thánh đệ tử muốn có an lạc cần phải thực hành con đường đưa đến an lạc. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến an lạc, sự thực hành đưa vị ấy nhận lãnh được an lạc, vị ấy nhận lãnh được an lạc”.[25]

Chúng ta theo con đường an toàn của lời đức Phật dạy là không có người nào đó ban cho mình hạnh phúc thật sự nhưng chúng ta có thể phát triển hạnh phúc bền vững và lâu dài qua sự tu tập. Giáo sư Davidson,[26] qua các cuộc nghiên cứu thần kinh học, cho thấy bộ não con người vốn mềm dẽo và dễ thay đổi. Do đó, chúng ta có thể tập luyện để gia tăng hạnh phúc và lòng từ bi không khác gì chúng ta có thể gia tăng khả năng khéo léo khi tập đánh quần vợt hay đánh đàn. Cũng như mọi thứ kỹ năng khác, hạnh phúc đòi hỏi sự huấn luyện và thời gian vì bộ não chúng ta có thể thay đổi được theo sự huấn luyện hay tu tập.

***



[1]. Fredrickson, Barbara (2009). Positivity. New York: Crown.            

[2]. Fredrickson B. L. & Losada M. F. (2005). Positive affect and the complex dynamics of human flourishing. American Psychologist, 60, 678-686.

[3]. Fredrickson, B. L. (2013). Positive emotions broaden and build. In E. Ashby Plant & P.G. Devine (Eds.), Advances on Experimental Social Psychology, 47, 1-53. Burlington: Academic Press.          

[4]. Kinh Mahamangala sutta, Sutta Nipata II, HT. Thích Nhất Hạnh dịch.               

[5]. Fredrickson B. L. & Losada M. F. (2005).  Tài liệu đã viện dẫn. Op. Cit.               

[6]. Fredrickson, B. L. (2003). The value of positive emotions. American Scientist, 91, 330-335.  

[7]. Như trên. Ibid.           

[8]. Kinh Pháp Cú, HT. Thích Thiện Siêu dịch.         

[9]. Như trên. Ibid.           

[10]. Fredrickson, B. (2013). Positive Emotions and Psychophysiology laboratory. http://www.unc.edu/peplab/broaden_build.html. 09/30/2013.         

[11]. Điều tra quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam lần thứ 2 (SAVY 2) http://www.Vietnam.net on line.           

[12]. Lyubomirsky, S., King, L., Diener, Ed. and The Gallup Organization (2005). The Benefits of Frequent Positive Affect: Does Happiness Lead to Success? Psychological Bulletin, Vol. 131, No. 6: 803–855. 

[13]. Staw, B. M., & Barsade, S. G. (1993). Affect and managerial performance: A test of the sadder-but-wiser vs. happier-and-smarter hypothesis. Administrative Science Quarterly, 38: 304–331.    

[14]. Coté, S. (1999). Affect and performance in organizational settings. Current Directions in Psychological Science, 8: 65–68.               

[15]. Frisch, M. B., Clark, M. P., Rouse, S. V., Rudd, M. D., Paweleck, J. K. Greenstone, A., et al. (2004). Predictive and treatment validity of life satisfaction and the Quality of Life Inventory. Assessment, 10:1–.               

[16]. Pritzker, M. A. (2002). The relationship among CEO dispositional attributes, transformational leadership behaviors and performance effectiveness. Dissertation Abstracts International, 2(12-B): 6008.          

[17]. Connolly, J. J., & Viswesvaran, C. (2000). The role of affectivity in job satisfaction: A meta-analysis. Personality and Individual Differences, 29: 265-281. 

[18]. Wright, T. A., & Cropanzano, R. (2000). Psychological well-being and job satisfaction as predictors of job performance. Journal of Occupational Health Psychology, 5: 84–94.           

[19]. Seligman, M. E. P., & Schulman, P. (1986). Explanatory style as a predictor of productivity and quitting among life insurance agents. Journal of Personality and Social Psychology, 50: 832–838.   

[20]. Staw, B. M., Sutton, R. I., & Pelled, L. H. (1994). Employee positive emotion and favorable outcomes at the workplace. Organization Science, 5: 51–71.      

[21]. Baldassare, M., Rosenfield, S., & Rook, K. S. (1984). The types of social relations predicting elderly well-being. Research on Aging, 6: 549–559.            

[22]. Cooper, H., Okamura, L., & Gurka, V. (1992). Social activity and subjective well-being. Personality and Individual Differences, 13: 573– 583.    

[23]. Krueger, R. F., Hicks, B. M., & McGue, M. (2001). Altruism and antisocial behavior: Independent tendencies, unique personality correlates, distinct etiologies. Psychological Science, 12: 397–402.        

[24]. Kinh Tạp A Hàm, Uất Xà Ca, kinh 91, TT. Thích Đức Thắng dịch.               

[25]. Kinh Tăng Chi Bộ, Phẩm Vua Munda, kinh Khả Lạc, HT. Thích Minh Châu dịch. 

[26]. Begley, Sharon (2007). “Transforming the Emotional Mind”. Train Your Mind, Change Your Brain: How a New Science Reveals Our Extraordinary Potential to Transform Ourselves. New York: Ballantine Books, tr. 229–242. 

Bình luận