Đạo Phật Ngày Nay

Tuần lễ 8: Phát triển khả năng sống thích nghi với nền kinh tế toàn cầu hóa - Chương 1: Huần luyện khả năng tự chế trong tâm và trong bộ não để sống an vui tự tại

 

 

CHƯƠNG 1:

HUẤN LUYỆN KHẢ NĂNG TỰ CHẾ TRONG TÂM VÀ TRONG BỘ NÃO

ĐỂ SỐNG AN VUI TỰ TẠI

Những điều mà các nhà tâm lý học nhân bản nghiên cứu về hạnh phúc đã được đức Phật hướng dẫn cho người Phật tử tại gia cách đây trên 2,500 năm. Đức Phật dạy người cư sĩ rất rõ ràng sống đời sống hạnh phúc có mục đích và có ý nghĩa qua sự huấn luyện bản thân, hay tu tập, để có cuộc sống an vui đời này và đời sau, có sức khỏe và tuổi thọ, có thân thể khỏe mạnh và dung sắc tươi tốt, được khen ngợi do những hành vi đạo đức cũng như đóng góp vào việc đem lại an vui cho gia đình, cộng đồng và xã hội.

Đức Phật nói người đáng bị chỉ trích là những người làm ra tài sản qua sử dụng sức mạnh để có được tài sản rồi sung sướng hưởng các thứ đó mà cũng không chia sẻ với ai.

ĐÁP ỨNG NHỮNG NHU CẦU CON NGƯỜI

Như các nhà thần kinh học ngày nay kết luận sau các cuộc nghiên cứu là phải biết thưởng thức niềm vui và tránh xa ham muốn để có được hạnh phúc, đức Phật nhắc nhở người Phật tử tại gia phải biết thọ hưởng, phải biết thưởng thức một cách tốt đẹp những gì mình đang có:

Người ấy thọ hưởng tài sản ấy không tham trước, không có say đắm, không có phạm tội, về phương diện thứ tư này, người ấy được tán thán. Người hưởng thọ vật dục này, này thôn trưởng, về bốn phương diện được tán thán”.

Đức Phật khuyến khích người Phật tử biết cách hưởng niềm vui lành mạnh qua sự tiêu thụ như mua sắm các thứ cần dùng, ăn uống lành mạnh, tránh cách thứ gây ra nghiện ngập hay tội phạm cùng chia sẻ với bà con thân thuộc những sản phẩm tốt.

Sự tiêu thụ tốt đẹp trong xã hội giúp sinh hoạt các tiệm buôn, những thương gia với những nhân viên phục vụ, những hãng sản xuất hàng hóa, những công ty vận chuyển và các hoạt động thương mại khác phát triển, nhờ đó mà có nhiều việc làm cho dân chúng. Muốn thực hiện hữu hiệu các điều nói trên thì người dân phải bắt tay vào làm việc thật sự, làm việc tốt đẹp thật sự với mục tiêu rõ ràng thì nền kinh tế có nhiều hy vọng phát triển thành công.

Những nhu cầu xã hội con người hiện nay và vào thời đức Phật cũng tương tự nhau như muốn sống lâu và khỏe mạnh, muốn có dung sắc đẹp đẽ, muốn có tiếng tốt, có địa vị xã hội, muốn sống hạnh phúc và chết bình an. Để có được những điều nói trên, đức Phật khuyến khích người Phật tử phải hoạt động mạnh mẽ trong các lãnh vực khác nhau để đem lại lợi ích cho bản thân, gia đình, cộng động và xã hội. Không thể ngồi mà cầu mong những điều tốt đến cho mình, cầu xin người nào đó cho mình hay chỉ nói suông mà phải có những hoạt động cụ thể. Đó là điều mà đức Phật gọi là năm cách hoạt động tích cực làm cho vui vẻ, làm cho hạnh phúc, làm cho như ý rất tốt đẹp khi giảng cho ông Cấp Cô Độc, một Phật tử thuần thành và cũng là một trong những người giàu có nhất thời đó trong kinh Khả Lạc như sau:

Có năm pháp này, này Gia chủ, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó tìm được ở đời. Thế nào là năm?

Tuổi thọ khả lạc. Này Gia chủ, vị thánh đệ tử muốn có thọ mạng, không thể cầu xin thọ mạng hay tán thán để làm nhân đem lại thọ mạng. Vị Thánh đệ tử muốn có thọ mạng cần phải thực hành con đường dẫn tới thọ mạng. Do đó vị ấy thực hành con đường dẫn đến thọ mạng, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh được thọ mạng”.[1]

Thông thường người ta có ý nghĩ những người tu tập hay cư sĩ Phật tử chọn lối sống nhàn hạ, không ưa hoạt động nhiều. Trên thực tế, đức Phật nói rõ, người thanh niên và cao niên phải nghĩ đến chuyện tham dự vào các hoạt động để gia tăng tuổi thọ. Không thể chỉ ngồi một chỗ cầu xin hay khen mình hay, mình khỏe mà có được. Ngày hôm nay, chúng ta ai cũng biết là muốn sống lâu và khỏe mạnh thì cần phải ăn uống thực phẩm tốt, vận động thể lực và có đời sống lành mạnh. Các cơ sở thương mại phục vụ cho nhu cầu sống lâu, sống khỏe và sống lành mạnh vốn có rất nhiều như các siêu thị bán thực phẩm tốt như rau trái tươi và sạch, các tiệm bán dụng cụ tập thể thao, các trung tâm vận động thể lực, các tiệm sách bán các sách về cách sống khỏe mạnh và hạnh phúc để gia tăng tuổi thọ, các nhà hàng chay hay mặn với nhiều thực đơn lành mạnh, các công ty du lịch tổ chức các cuộc du lịch tâm linh hay phát triển sức khỏe, các chương trình tập luyện thiền, khí công, yoga hay thể dục, có liên hệ qua lại tốt đẹp với bạn bè, bà con và có cuộc sống tinh thần lành mạnh. Do đó, chúng ta cần thực hành những điều trên để tạo dựng một nền tảng sức khỏe và thọ mạng bền vững. Trong khi thực hành những điều đó, thì tùy theo khả năng mỗi người, chúng ta chi tiêu nhiều hay ít, chúng ta tham dự vào cuộc vận chuyển cho các bánh xe của nền kinh tế chuyển động lành mạnh và tốt đẹp.

Về vấn đề chăm sóc sắc diện bên ngoài cho tốt đẹp, trong kinh Khả Lạc này, đức Phật cũng dạy phải có những hành vi cụ thể để làm cho dung sắc được tốt đẹp như sau:

Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có dung sắc, không thể do cầu xin dung sắc hay tán thán để làm nhân đem đến dung sắc. Vị Thánh đệ tử muốn có dung sắc cần phải thực hành con đường dẫn đến dung sắc. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến dung sắc, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh đựơc dung sắc”.[2]

Vào thời đức Phật, những người khá giả ăn mặc sang trọng. Không những người phụ nữ chăm sóc sắc diện của mình bằng y phục, nữ trang và hương liệu quý giá mà cả những người đàn ông cũng dùng nước hoa, phấn sáp và trang phục đắt tiền. Họ cũng chọn những thứ nổi tiếng như hương liệu ở vùng Kasi, Benares, không khác gì thời nay nhiều người chọn các món hàng có tiếng tốt và mắc tiền của Pháp, Ý hay Mỹ. Đức Phật biết làm đẹp là nhu cầu bình thường của nam và nữ sống trong xã hội. Ngài dạy, muốn có được hình dung và sắc diện hay dung sắc tốt đẹp thì phải thực hành những điều làm cho dung sắc tốt đẹp. Vào thời xưa, các dịch vụ về dung sắc tương đối ít. Ngày nay các cơ sở thương mại và dịch vụ làm cho dung sắc tốt đẹp có khắp nơi từ may mặc các loại áo quần, chương trình thẩm mỹ cho phụ nữ và nam giới, các sản phẩm làm cho da được trẻ trung, những tiệm móng tay và làm mặt đẹp đến các chương trình thể dục thẩm mỹ, các loại dinh dưỡng cho trẻ lâu, v.v… Những hoạt động của ngành chăm sóc dung sắc là một thành phần quan trọng cung cấp công ăn việc làm và đem lại nhiều lợi tức vì tâm lý chung là ai cũng muốn thấy mình tươm tất và đẹp. Khoa tâm lý học cho biết những điều đó chỉ đem lại niềm vui ngắn hạn. Điều quan trọng chúng ta cần nhớ là cách ăn uống các thực phẩm lành, uống đủ nước hàng ngày, sống với tình thương, sự hiểu biết và hạnh phúc là cách làm đẹp tốt nhất và làm cho chúng ta trẻ trung lâu dài.

Đức Phật thường nhấn mạnh đến người sống an lạc thì tỏa ánh sáng đẹp đẽ trong cuộc đời. Ngài hiểu rõ một nhu cầu căn bản lớn lao và quan trọng của con người là sống hạnh phúc. Đức Phật dạy muốn có hạnh phúc thì phải thực hành để đạt được an lạc như sau:

Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có an lạc, không thể do cầu xin an lạc hay tán thán an lạc để làm nhân đến an lạc. Vị Thánh đệ tử muốn có an lạc cần phải thực hành con đường đưa đến an lạc. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến an lạc, sự thực hành đưa vị ấy nhận lãnh được an lạc, vị ấy nhận lãnh được an lạc”.[3]

Điều Ngài dạy rất là cần thiết cho nhân loại hiện nay. Như chúng ta đã đọc qua các tài liệu nghiên cứu trước đây về tác động tốt đẹp của hạnh phúc làm phát triển sức khỏe, giảm trừ bệnh tật, gia tăng thành công trong việc học hành và làm việc, giúp cho hoạt động của các xí nghiệp phát triển và đời sống con người dù giàu hay nghèo có nhiều ý nghĩa hơn. Các chương trình tu học tại cách tu viện, chùa chiền và sinh hoạt Phật giáo đáp ứng nhu cầu đem lại sự an lạc cho số đông dân chúng. Ngoài ra, chùa chiền là nơi an ủi cho những người gặp các chuyện bất hạnh, những người nghèo khổ hay những người khổ đau. Tuy nhiên, số lượng quý vị tăng ni không đáp ứng hết nhu cầu này nên cần có sự tham gia tích cực của các vị Phật tử để đem tình thương, sự hiểu biết và niềm an lạc đến thêm cho nhiều người trong xã hội.

Hạnh phúc con người liên hệ với nhau. Khi chúng ta nghe ai làm điều hay điều tốt như giúp đỡ người nghèo khổ hay chăm sóc các em cô nhi nghèo chúng ta thấy lòng mình cũng vui như giáo sư Ekman đã nói đến về các cảm xúc tích cực. Người nào muốn có tiếng tốt thì phải bắt tay vào việc làm những điều tốt đẹp thực sự. Đức Phật dạy cho ông Cấp Cô Độc như sau:

Này gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có tiếng tốt, không thể do cầu xin hay tán thán để làm nhân đưa đến tiếng tốt. Vị Thánh đệ tử muốn có tiếng tốt phải thực hành con đường dẫn tới tiếng tốt. Do vị ấy thực hành con đường dẫn tới tiếng tốt, sự thực hành ấy đưa vị ấy đến nhận lãnh tiếng tốt, vị ấy nhận lãnh tiếng tốt”.[4]

Và cuối cùng, Ngài dạy ông Cấp Cô Độc muốn được sinh về cõi lành, mà vào thời đó người Bà-la-môn gọi là Thiên giới và ngày nay người Phật tử gọi là cõi Cực Lạc, cõi đức Phật A Di Đà, cõi Niết-bàn hay cõi Phật, thì chính mình cũng phải thực hành những điều lành và tốt. Và Ngài kết luận các lời dạy nói trên trong bài kệ nhấn mạnh đến sự cần thiết hoạt động để làm phát sinh ra niềm vui nhưng không để ham muốn hay tham dục làm cho hạnh phúc mình bị hư hại như sau:

                  “Thọ mạng và dung sắc,

                  Tiếng tốt và danh vọng,

                  Thiên giới và quý tộc,

                  Được người đời ngày đêm,

                  Luôn luôn và rộng mở,

                  Cầu xin và cầu nguyện.

                  Còn bậc Hiền tán thán,

                  Không phóng dật phước hành,

                  Bậc Hiền không phóng dật,

                  Chứng được hai lợi ích,

                  Lợi ích ngay hiện tại,

                  Và lợi ích đời sau,

                  Vị nào thực hiện được,

                  Lợi ích và mục đích,

                  Vị ấy đáng được gọi,

                  Bậc Trí giả, hiền giả”.[5]

Đức Phật dạy chúng ta cần phát triển tốt đẹp đời sống để sống thọ, có hình dáng và sắc diện tốt, được người khác ca ngợi do làm được những việc tốt đẹp, đời này sống hạnh phúc và đời sau được an vui. Lời dạy của Ngài là người Phật tử định rõ mục đích cùng ý nghĩa cho đời sống của mình. Muốn đạt được mục đích ấy, đức Phật nhắc nhở là đừng có phóng dật. Không phóng dật là không sống buông lung và chỉ biết chạy theo sự thỏa mãn ham muốn vật chất.

Trong đời sống hàng ngày, chính người cư sĩ Phật tử cũng thấy rõ sự tiêu thụ lành mạnh không bị ham muốn làm cho quá đà  nói trên không phải dễ dàng nếu không có một đường lối thực hành cụ thể. Khi đức Phật trú ở thành phố Sàvatthi, vua Pasanedi, vua một nước lớn thời đó là nước Kosala, đến trình bày với đức Phật như sau:

Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi con đang ngồi yên tịnh một mình, tư tưởng này khởi lên nơi con: “Ít thay, là những người trong đời này, sau khi được tài sản phong phú dối dào lại có thể không bị lôi cuốn, không bị chìm đắm, không bị say mê trong các dục và không có các hành vi không tốt đẹp với người khác. Trái lại, thật là nhiều thay, những người trong đời này, sau khi được tài sản phong phú, dối dào, có thể bị lôi cuốn, chìm đắm, bị say mê trong các dục và có những hành vi không tốt đẹp với người khác”.

Và đức Phật trả lời:

Thật sự là như vậy, thưa Đại Vương. Thực sự là như vậy, thưa Đại Vương. Ít thay là những người trong đời này, sau khi được hưởng tài sản phong phú, dồi dào, lại có thể không bị lôi cuốn, không bị chìm đắm, không bị say mê trong các dục và không có những hành vi không tốt đẹp đối với người khác. Trái lại, thật là nhiều thay những người đời này, sau khi có tài sản phong phú, dồi dào, có thể bị lôi cuốn, bị chìm đắm, bị say mê trong các dục và có những hành vi không tốt đẹp đối với các người khác”.[6]

Như vậy, nghệ thuật sống nơi đây là quân bình niềm vui ưa thích và ưa muốn qua sự thưởng thức niềm vui để sống hạnh phúc không bị các ham muốn lôi kéo làm cho sự tiêu thụ trở nên quá đà làm phát sinh bệnh tật hay các chướng ngại khác.

Trong bộ não con người, có trung tâm làm phát sinh ra những niềm vui ưa thích là thành phần quan trọng của hạnh phúc con người cũng như những ham muốn gây ra nhiều điều không tốt trong đời sống. Chúng ta tìm hiểu thêm các mạch thần kinh làm phát sinh niềm vui và sự ham muốn trong bộ não.

KHẢ NĂNG GIA TĂNG TỰ CHẾ

Trong sinh hoạt đa dạng của mọi xã hội hiện nay, nếu người dân muốn sống hạnh phúc, lành mạnh và phát triển thì họ phải tự huấn luyện để biết cách điều hành, hay tự chế,  làm cho ổn định, làm cho lắng dịu lòng ham muốn luôn luôn thúc dục từ nhiều nguyên nhân theo lời Phật dạy như sau:

Sự nhiếp phục dục tham, đoạn trừ dục tham đối với mắt và sắc. Sự nhiếp phục dục tham, đoạn trừ dục tham đối với tai và các tiếng. Sự nhiếp phục dục tham, đoạn trừ dục tham đối với mũi và các hương. Sự nhiếp phục dục tham, đoạn trừ dục tham đối với lưỡi và các vị. Sự nhiếp phục dục tham, đoạn trừ dục tham đối với thân và các xúc. Sự nhiếp phục dục tham, đoạn trừ dục tham đối với ý và các pháp”.[7]

Các chuyên gia tâm lý Jasinska và các đồng nghiệp,[8] thuộc phân khoa tâm lý học,viện đại học Michigan, qua các cuộc nghiên cứu khoa học, đã đi đến kết luận khả năng tự chế là một thành phần quan trọng của sự quyết định cho thích hợp với hoàn cảnh. Như khi ngồi vào bàn tiệc có đủ thứ các món ăn ngon, chúng ta có thể giới hạn mình chỉ ăn các món tốt cho sức khỏe. Sự tự chế giúp cho chúng ta theo đuổi được như ý mình muốn trong dài hạn mục đích mình đề ra là muốn phát triển sức khỏe. Để có được sự thành công lâu dài, chúng ta cần có khả năng thắng được những kích thích thèm muốn xuất hiện bất ngờ và lôi kéo mình mạnh mẽ như không mua và ăn các loại thịt nhiều mỡ như thịt bò chiên ăn liền hay bánh kẹo sô cô la nhiều đường và chất béo.

Các nhà nghiên cứu Li và các đồng nghiệp[9] đã tìm thấy sự thiếu khả năng tự chế làm cho người ta lâm vào vòng nghiện ngập và béo phì. Điều này không những gây khó khăn cho chính người đó, như làm giảm ý nghĩa của đời sống, mà còn tạo ra gánh nặng chung cho gia đình. Do đó, sự tìm kiếm cách giúp cho gia tăng sự tự chế là điều cần thiết trong việc khích lệ con người sống đời có ý nghĩa và có mục đích.

Các chuyên gia nghiên cứu Jasinska và các đồng nghiệp[10] nhắc lại kết quả các cuộc nghiên cứu khoa học trước đây cho rằng các hình chụp hoạt động của những tế bào thần kinh cho thấy vỏ não vùng bụng giữa (prefrontal cortex hayVMPFC) tham dự vào việc tính toán giá trị của một sự kích thích (như thịt bò chiên ăn liền có nhiều mỡ là không tốt) so sánh với mục tiêu chọn lựa lâu dài của con người (như muốn được khỏe mạnh lâu dài). Và khi so sánh như vậy thì thấy hai thứ này – thịt bò chiên nhiều mỡ và sức khỏe lâu dài –  không đi đôi với nhau. Ngoài ra, vùng vỏ não trước trán lưng bên (dorsolateral prefrontal cortex hay DLPFC) cũng tham dự vào việc điều hành cảm xúc, làm cho sự ham muốn dịu xuống.

Hình tứ: The Brain from Top to Bottom

Các vùng vỏ não trước trán ở cả hai bên bán cầu não, hình dùng để đối chiếu với hình dưới.

1. Vỏ não vùng mắt trước trán.

2. Vỏ não vùng lưng bên.               

3. Vỏ não vùng bụng giữa.

4. Hệ bán tính liên hệ đến cảm xúc.

5. Mỏ trước bó khuy.

(Hình từ Caltech/Todd Hare.)

Hình chụp bộ não cho thấy vỏ não vùng bụng giữa trước trán (ventral medial prefrontal cortex hay vmPFC) và vỏ não vùng lưng bên trước trán (dorsolateral prefrontal cortex hay DLPFC)hoạt động khi chúng ta thực hành sự tự chế:

- Hoạt động vỏ não vùng bụng giữa trước trán (vmPFC) phản ánh mức độ ưa thích khi chúng ta quyết định chọn lựa. Khi nhìn hộp rau tươi mà vùng này tăng hoạt động còn nhìn miếng thịt bò mà vùng này giảm hoạt động thì chúng ta chọn mua rau.

- Vỏ não vùng lưng bên liên hệ đến mục đích mình muốn theo đuổi và cố gắng thực hành sự tự chế. Khi có hảnh động  tự chế (như chọn rau tươi mà không chọn thịt bò chiên nhiều mỡ) thì vỏ não vùng lưng bên trước trán (DLPFC) gia tăng hoạt động. Hoạt động vỏ não vùng lưng bên liên hệ với hoạt động vỏ não vùng bụng giữa trước trán làm cho gia tăng ảnh hưởng của sự quan tâm về làm cho sức khỏe tốt hơn khi quyết định chọn lựa.

Qua các cuộc nghiên cứu về hoạt động trong bộ não,[11] giáo sư Hare nói rõ hoạt động nơi vỏ não vùng bụng giữa là nền tảng sự đánh giá đối tượng cao hay thấp khi chúng ta quyết định chọn lựa thứ gì đó. Như khi nhìn chiếc lạp xưởng thơm và nhiều mỡ béo mà vùng này gia tăng hoạt động nhiều thì chúng ta đưa tay ra cầm lấy và mua liền. Khi có sự chọn lựa giữa hai thứ, như dành thời giờ tập luyện thay vì xem truyền hình hay ăn rau và trái cây cùng cốc lức thay vì thịt bò nướng nhiều mỡ, để gia tăng sức khỏe thì mức độ hoạt động vỏ não vùng bụng giữa cũng tăng hay giảm khác nhau tùy theo mục đích chúng ta đã đề ra cho bản thân như muốn phát triển sức khỏe và sống đời lành mạnh thay vì buông xuôi theo ham muốn. Tuy nhiên, dù chủ trương kiêng rượu nhưng khi nhìn thấy ly bia mà hoạt động vùng này gia tăng thì người ta sẽ chọn uống bia. Nếu vùng này giảm hoạt động thì họ chọn uống ly nước lọc thay vì uống bia. Cũng như vậy, lúc vùng này giảm hoạt động như khi nhìn dĩa rau luộc và tăng hoạt động khi nhìn miếng thịt bò chiên bơ thì người ta không chọn dĩa rau mà chọn miếng thịt dù họ chủ trương bỏ rượu thịt, gia tăng ăn rau để phát triển sức khỏe. Hành động trên báo hiệu sự ưa thích tự nhiên của mỗi người và họ chưa thực hành sự tự kiềm chế hay tự chế.

Cuộc nghiên cứu cho thấy những người thuộc nhóm không có thực hành tự chế thì vỏ não vùng bụng giữa trước trán chỉ chú trọng vào vị ngon của thực phẩm mà không quan tâm đến tánh chất lành mạnh của thực phẩm. Do đó, khi chọn lựa thực phẩm phù hợp với chủ trương ăn ngon của họ, họ chọn thứ làm cho họ khoái khẩu khi ăn vào.

Nhóm người có sự tự chế tốt đẹp thì khác hẳn. Một thành phần thứ hai trong bộ não của họ, liên hệ đến quyết định chọn lựa phù hợp với chủ trương sống đời lành mạnh của họ, là vỏ não vùng lưng bên trước trán khởi động và truyền tín hiệu về mục tiêu của họ là sống đời lành mạnh nên những người có khả năng tự chế kết hợp sự quan tâm sức khỏe vào trong quyết định lựa chọn. Như vậy vỏ não vùng lưng bên cho phép vỏ não vùng bụng giữa cân nhắc hai thứ vị ngon và sức khỏe để so sánh khi quyết định.

Giáo sư Hare, qua hai cuộc nghiên cứu trên, cho thấy vỏ não vùng bụng giữa hoạt động bất cứ lúc nào chúng ta làm quyết định chọn thứ này hay mua thứ kia... Còn vỏ não vùng lưng bên thì chỉ khởi động khi chúng ta thực hành sự tự chế như tắt máy truyền hình để đi tập thể dục hay ăn rau, cá và trái cây thay vì gắp miếng thịt heo quay theo mục đích dài hạn phát triển sức khỏe của mình. Và vùng này chỉ hoạt động mạnh mẽ nơi những người có khả năng tự chế và yếu kém nơi những người không có khả năng tự chế cho nên người có khả năng tự chế thì thường có những sự lựa chọn tốt cho họ.

Chuyên gia nghiên cứu Hare cho rằng kết quả cuộc nghiên cứu cho thấy mức độ hoạt động của vỏ não vùng lưng bên chỉ có ngang đó thôi. Dù là thuộc nhóm người có khả năng tự chế thì họ cũng không thể làm thay đổi sự không ưa thích như không muốn ăn thứ gì đó. Ví dụ một người chủ trương ăn nhiều rau quả nhưng họ không thích ăn rau xà lách xon thì khi chọn ăn rau, họ không chọn ăn rau xà lách xon dù họ có khả năng chọn ăn trái cây thay vì ăn bánh ngọt nhiều bơ hay chuối chiên nhiều dầu và đường.

Chúng ta đã biết, theo giáo sư thần kinh học Damasio,[12] đã được trình bày trước đây, nếu vỏ não vùng bụng giữa bị hư thì con người mất khả năng chọn lựa. Như trong trường hợp người chủ trương ăn kiêng nói trên muốn ăn nhiều rau, bớt ăn dầu mỡ và bánh ngọt nhưng nếu vỏ não vùng bụng giữa bị hư thì khi dọn các thứ trên ra anh ta sẽ không biết nên chọn thứ nào!

CẦN LÀM VỎ NÃO VÙNG LƯNG BÊN GIA TĂNG HOẠT ĐỘNG

Cuộc nghiên cứu cho thấy muốn phát triển khả năng tự chế thì cần làm cho vỏ não vùng lưng bên gia tăng hoạt động. Chúng ta đã biết bộ não hoạt động ra sao khi có sự chọn lựa và khi người ta thực hành sự tự chế là chọn lựa theo những mục đích mình theo đuổi. Các chuyên gia nghiên cứu cho rằng bước kế tiếp là tìm cách làm cho vỏ não vùng lưng bên tham dự hoạt động khi quyết định chọn lựa vì vùng này giúp cho chúng ta quyết định đúng theo mục đích lâu dài có giá trị như sức khỏe của mình. Những người nào yếu kém về tự chế, như không có khả năng kềm lòng khi thấy cây kem lạnh hấp dẫn dù biết đây là thức ăn không lành mạnh, sẽ gia tăng sức mạnh ý chí nếu họ làm cho vùng này gia tăng hoạt động. Khi vùng này hoạt động thì nó sẽ báo cho chúng ta biết ăn kem chứa nhiều chất béo không tốt cho sức khỏe trước khi chúng ta mua cây kem lạnh. Như vậy, so với sức khỏe được chúng ta đánh giá cao, cây kem trở thành ít giá trị nên chúng ta không chọn mua.

Chúng ta thấy nhiều người, và ngay cả chính mình, có những quyết định sai lầm do lòng ham muốn (dục) bị kích thích) vì sự hấp dẫn bởi màu sắc, âm thanh, mùi hương, vị ngon hoặc sự lập đi lập lại của lời mời gọi mua sắm, mời gọi ăn uống thúc đẩy chúng ta chọn lựa những thứ không có phẩm chất tốt cho đời sống của mình. Điều này phù hợp với lời đức Phật dạy:

Các sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các hương do mũi nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các vị do lưỡi nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các xúc do thân cảm xúc, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các pháp do ý nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý kích thích lòng dục, hấp dẫn”.[13]

Đức Phật giải thích đó là do lòng ham muốn lôi kéo chúng ta làm chúng mất đi khả năng chọn lực điều tốt cho mình. Ngày nay khoa thần kinh học cho thấy vỏ não vùng bụng giữa quyết định chọn lựa các thứ khi mua sắm hay ăn uống. Tuy nhiên, chính vỏ não vùng lưng bên làm cho những quyết định này phù hợp với đường lối sống đời lành mạnh như mình chủ trương. Và điều quan trọng hơn cả là qua khả năng tự huấn luyện, hay tu tập, chúng ta có thể dùng tâm mình để làm cho các vùng não nói trên phối hợp hoạt động theo ý mình muốn như đức Phật đã dạy:

                  “Tâm dẫn đầu mọi pháp,

                  Tâm chủ, tâm tạo tác…”.

Khi tâm của chúng ta mạnh, chúng ta có khả năng tự chế, chọn mua thứ tốt không bạ đâu sắm dó hay ăn uống lành mạnh chứ không gặp gì ăn đó, ngon miệng trước đã. Làm cho cơ chế này khởi động là một điều cần thiết cho mọi người nhất là cho những người không có khả năng tự chế. Cơ chế tự kiểm soát này liên hệ đến hoạt động của hai vùng vỏ não trước trán vùng bụng giữa và vỏ não trước trán lưng bên. Qua sự tự huấn luyện, chúng ta làm cho vỏ não vùng lưng bên trái trước trán gia tăng hoạt động, sau đó qua sự huấn luyện vể ăn uống, mua sắm và sống có chừng mực, hai vùng nói trên gia tăng sự nối kết hoạt động thì mức độ tự chế gia tăng nhiều.

Điều nhà thần kinh học trình bày ở trên phù hợp với lời đức Phật dạy người cư sĩ tại gia về mục đích đời sống của người Phật tử là thực hành sự huấn luyện để trở thành một người có khả năng điều hành những ưa muốn của mình làm cho chúng dịu xuống để sống diều độ, có chừng mực và không buông lung. Thực hành điều này sẽ đạt được mục đích giảm buồn khổ và làm cho hạnh phúc phát sinh và kéo dài:

…chừng mực, không buông lung, không giả dối, không hung hiểm, bậc tri thức như vậy có thể khéo an ủi; buồn khổ chưa sinh, người ấy có thể ngăn khiến không sinh. Buồn khổ đã sanh, người ấy có thể khiến cho cởi mở, tỉnh sáng. An vui chưa sinh, người ấy có thể khiến cho chóng sinh, an vui đã sinh, người ấy có thể khiến cho không mất. Đó gọi là thiện nam tử đầy đủ Thiện Tri Thức”.[14]

Hai nhà thần kinh học Kingelbach và Berridge,[15] cũng nhấn mạnh đến điều chúng ta cần nhớ sự khác biệt về chạy theo nhục cảm của chủ nghĩa khoái lạc khác xa việc làm phát sinh niềm vui ưa thích hay sung sướng vốn là nền tảng của hạnh phúc như sau:

Điều quan trọng chúng ta cần ghi nhớ là khi chúng ta chú tâm vào niềm hạnh phúc do niềm vui ưa thích, chúng ta đừng lẫn lộn giữa niềm hạnh phúc do niềm vui ưa thích với chủ nghĩa khoái lạc. Chủ nghĩa khoái lạc là sự tìm cầu khoái lạc chỉ vì khoái lạc mà thôi. Đó là trạng thái của sự nghiện ngập được chúng tôi trình bày ở phần kế. Ngoài ra, khi chú trọng vào niềm vui ưa thích, chúng ta không loại trừ niềm an vui kỳ diệu của các nhà tu khổ hạnh có thể có được qua lối sống hy sinh khổ hạnh, mà chỉ chứng tỏ một cách giản dị là niềm vui ưa thích tích cực là điều bắt buộc phải có cho những người đi tìm hạnh phúc”.

Hạnh phúc là điều đức Phật cảm nhận rất mạnh mẽ trong suốt cuộc đời hạnh đạo của Ngài. Khi chúng ta đến với đạo Phật, thực hành đạo Phật chúng ta cũng muốn mình có được niềm hạnh phúc bền vững trong đời sống hàng ngày. Đạo Phật và các nhà thần kinh học cùng đồng ý là hạnh phúc có nơi thân và có nơi tâm. Hai giáo sư chuyên gia về hạnh phúc trong bộ não Kringelbach và Berridge[16] nói rõ:

…Hạnh phúc do niềm vui ưa thích là sự sung sướng mà không có cái ham muốn chen vào. Đó là một trạng thái sung sướng mà không có những ham muốn làm cho hư hại. Một điều khác là ‘cái muốn vừa phải’ phù hợp với niềm vui ưa thích tích cực khích lệ chúng ta tham gia vào các hoạt động trong đời sống.

Niềm vui ưa thích là một tác động mạnh mẽ làm tăng thêm sự ưa thích của chúng ta đối với đời sống, cũng giống như trường hợp vài bệnh nhân được kích thích nơi vùng não sâu giúp họ bỏ ra được cái màn bệnh trầm cảm phủ lên họ và giúp họ thấy cuộc sống hấp dẫn hơn.

Tuy nhiên, có quá nhiều ‘muốn’ (hay ham muốn) có thể chuyển thành thói quen không lành mạnh như những chứng nghiện ngập. Và đây là con đường đưa chúng ta thẳng đến khổ đau to lớn.

Cuối cùng, hạnh phúc có thể phát sinh từ các niềm sung sướng cao cấp, sự đánh giá tích cực về ý nghĩa đời sống cùng với các mối liên hệ với những người khác trong xã hội. Tất cả những điều nói trên kết hợp với nhau và xuất hiện qua những tác động qua lại giữa các mạng thần kinh mặc nhiệm và mạng thần kinh sung sướng. Đạt được sự quân bình sung sướng đúng mức giữa hai mạng thần kinh đó có thể là điều thiết yếu để chúng ta sống với nhiều hạnh phúc hơn, chứ không phải chỉ để kéo lê cuộc sống”.

Sống có hạnh phúc là sống mà không kéo lê đời sống của mình. Điều này rất gần gũi với lời Phật dạy trong kinh Hòn Sắt thuộc phẩm Capala khi đức Phật hướng dẫn để đạt được bốn điều như ý muốn. Ngài nói về sự thực hành cụ thể về thân và tâm kết hợp thành một trong định tâm với niềm hạnh phúc kỳ diệu, nhẹ nhàng, trong sáng và uyển chuyển như sau:

Khi nào, này Ananda, Thế Tôn định thân trên tâm và định tâm trên thân, trong khi nhập vào và an trú lạc tưởng và khinh an tưởng trong thân, trong khi ấy, này Ananda, thân của Như Lai lại càng khinh an hơn, càng nhu nhuyễn hơn, càng kham nhẫn hơn, càng chói sáng hơn.

Ví như một hòn sắt (hâm nóng) cả ngày trở thành nhẹ nhàng hơn, nhu nhuyễn hơn, kham nhẫn hơn, chói sáng hơn. Cũng vậy, này Ananda, khi nào Thế Tôn định thân trên tâm hay định tâm trên thân, trong khi nhập vào và an trú lạc tưởng và khinh an tưởng trong thân, trong khi ấy, này Ananda, thân của Như Lai lại càng khinh an hơn, nhu nhuyễn hơn, càng kham nhẫn hơn, càng chói sáng hơn”.[17]

Khi thực hành thở đan điền, cảm nhận vỏ não trước trán bên trái gia tăng hoạt động qua các thế tập Vận Nội Lực Gia Tăng Chân Khi, Thế Chánh Định và lạy Phật Theo Khí Công cùng ăn trong chánh niệm thì chúng ta phát triển khả năng “định thân trên tâm và định tâm trên thân” và nhờ đó gia tăng khả năng làm êm dịu các ham muốn những thứ không tốt cùng lúc có khả năng thực hành những điều tốt cho bản thân.

THỰC HÀNH CHÁNH NIỆM THAY CHO SỰ TỰ CHẾ

Nhà biên soạn Schumpeter, trong tuần san kinh tế-chính trị The Economist phát hành khắp thế giới, số ngày 16 tháng 11, năm 2013, trình bày đó là nguyên nhân sâu xa tại sao tư bản Tây phương cần đến Thiền huyền bí Đông phương. Ông nêu ra một sự kiện quan trọng ở các nước tư bản kỹ nghệ hiện nay:

Hiện nay đạo đức Phật giáo giúp cho nền tư bản tiếp tục đi tới. Những người đạo Tin Lành nhấn mạnh đến sự tính toán duy lý và sự tự chế. Những người Phật tử nhấn mạnh đến sự quan trọng của “chánh niệm” – rút ra khỏi cảnh ồn ào huyên náo để dành thì giờ thư dãn và thực hành thiền. Trong thế giới của các công ty hiện nay, bạn sẽ nghe nói nhiều về chánh niệm hơn là về tự chế”.

Giáo sư phân tâm học kiêm thiền giả Siegel[18] gọi thiền chánh niệm là thực hành chú tâm nhận biết mà không bị lôi kéo vào sự ưa muốn vì có khả năng điều hành tâm:

Chú tâm nhận biết là biết về sự trải nghiệm trong hiện tại, cùng với tác ý và mục đích, mà không dính vào các ý tưởng phê phán. Những nét để nhận ra có sự chú tâm nhận biết là có thái độ cởi mở với chính mình và người khác, lòng buông xả cùng với khả năng diễn bày về thế giới bên trong của tâm mình”. 

Về điều quan trọng thực hành thiền chánh niệm thì giáo sư Siegel trình bày tiếp như sau:

Thực hành chú tâm nhận biết là một sự huấn luyện xây dựng khả năng chú ý vào tác ý và sự nuôi dưỡng thấy biết về chính tánh thấy biết. Thực hành nhiều lần và thường xuyên điều này đã cho thấy làm cho khả năng điều hành cảm xúc và chú ý mạnh lên, làm cho gia tăng sự cảm thông và tự biết về thân thể mình, làm gia tăng chức năng hệ miễn nhiễm, chuyển các hoạt động điện trong bộ não qua hướng trái làm cho phát sinh tính năng nổ hướng đến giải quyết những khó khăn, gia tăng hoạt động cùng phát triển sự điều hành và kết hợp của các vùng trong bộ não”.

Làm sao để cho sự ham muốn hay dục tham không trói buộc được mình. Các nhà khoa học đã nghiên cứu vấn đề này cùng đề ra các phương pháp thực hành cụ thể.

Thiền làm cho vỏ não trước trán trái gia tăng hoạt động. Như chúng ta đã biết qua phần trình bày trước đây, giáo sư Davidson nhắc nhở chức năng chính của vỏ não trước trán là hoạch định chương trình hành động do đó chúng ta có thể huấn luyện cho vùng này mạnh lên như huấn luyện bắp thịt. Ông đã đề nghị cách tập luyện như sau:

1. Khi chúng ta bị lôi cuốn bởi một món ăn ngon, một thúc dục mua sắm liền hay muốn ngủ nướng thêm cho sướng thân thì chúng ta nghĩ đến một phần thưởng trong tương lai để vận động mình hoãn lại niềm vui trong hiện tại để thưởng thức tốt đẹp hơn trong tương lai:

- Món ăn ngon hấp dẫn: Tự nhủ là chiều nay mang về nhà cho mọi người trong gia đình cùng ăn cho vui. Nếu thực hành kiêng ăn thì tự nhắc nhở cần ăn ít lại và ăn món đó trong buổi ăn chiều. Để gia tăng khả năng động viên mình thực hành điều này thì tưởng tượng thấy hình ảnh mọi người trong gia đình với mặt mày vui vẻ khi ăn món ngon đó hay hình ảnh của mình nhẹ cân.

- Buổi sáng chuông đồng hồ báo thức dậy tập thể dục nhưng  muốn ngủ thêm cho sướng thân: Tự thúc đẩy mình ngồi dậy, ra khỏi giường và đi tập thể dục. Buổi tối khi lên giường nằm, nhắc nhở mình buổi sáng dậy đúng giờ.

- Thích đi mua sắm dù nhiều lúc không cần thiết: Khi ra khỏi nhà, chỉ đem ít tiền mặt, không dùng thẻ tín dụng, để dùng trong trường hợp khẩn cấp. Hãy nghĩ đến các khoản chi tiêu cần thiết khác cho gia đình.

2. Nghĩ đến những phần thưởng trong tương lai, những niềm vui hay những kết quả tốt đẹp hơn khi mình không ăn hay không mua sắm hay làm điều gì đó ngay lúc này như để dành tiền mua một cái tủ mới cần thiết cho gia đình hay bỏ vào quỹ chuẫn bị mua sắm để mọi người trong gia đình ăn một cái tết “huy hoàng”.

Muốn thực hành điều trên chúng ta cần phát triển định tâm là tâm có chánh niệm và khi chánh niệm kéo dài thì có định tâm.

Chúng ta ai cũng có kinh nghiệm về muốn chọn và thực hành những điều tốt như thức dậy sớm để tập thể dục, ăn rau và trái cây nhiều thay vì ăn nhiều chất đường hay chất béo hoặc dành nhiều thì giờ để làm việc hơn là đọc tin tức nhiều giờ trên mạng. Nhiều lúc chúng ta làm theo ý muốn chọn cái hay cái tốt không được vì không đủ ý chí hay khả năng tự kiểm soát mình.

Hiện nay, phương pháp thực hành hay nhất để đừng bị lôi cuốn vào sự chọn lựa xấu là gần tốt xa xấu theo câu nói của ông bà chúng ta để lại “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Như vậy, theo lời dạy của ông bà chúng ta, chúng ta giao du với những bạn bè tốt và tránh những bạn bè chỉ biết hưởng thụ mà không biết đến hậu quả tai hại của rượu, thuốc lá, ăn uống quá độ hay các loại cần sa, ma túy.

Người vợ thương chồng và thương con, muốn chồng con đừng ăn những thực phẩm không tốt thì đừng chưng bày chúng trong nhà hay cất trong tủ lạnh và khi đi chợ thì mua các thứ thực phẩm tốt như rau củ, trái cây, đậu phụ, các hạt đậu và các hạt béo cùng giảm bớt các thức ăn không lành mạnh như thị nhiều mỡ.

Ai cũng biết đó là những điều cần phải làm nhưng có những lúc làm không được. Những điều thúc đẩy chúng ta làm những việc ngoài ý muốn do thiếu khả năng tự chế và ý chí mạnh mẽ để làm điều mình muốn liên hệ đến các hoạt động trong bộ não. Tiến sĩ Todd Hare và các đồng nghiệp,[19] thuộc viện đại học Zurich ở Đức, nghiên cứu các người ăn kiêng thành công do họ chú trọng nhiều vào sự lành mạnh thay vì vị ngon của thức ăn. Những người tuy muốn bớt không ăn bánh hay món ăn ngọt nhưng không làm được vì phản ứng tự nhiên thúc đẩy họ chọn món ăn ngon.

Các chuyên gia chụp hình bộ não và thấy những người có khả năng lựa chọn thức ăn lành mạnh như rau, trái cây và tránh ăn thứ có nhiều đường và chất béo như kem lạnh thì vùng vỏ não vùng bụng giữa trước trán hoạt động khi họ quyết định chọn lựa thức ăn lành mạnh.

Giáo sư Hare nói rõ hoạt động nơi vỏ não vùng bụng giữa gia tăng hoạt động khi chúng ta nhìn hay nghĩ đến điều gì thì chúng ta chọn hay thực hành điều đó. Như một người bị tiểu đường tránh ăn bánh kẹo ngọt. Tuy nhiên, khi nhìn ly chè mà vùng này tăng hoạt động nhiều thì người ấy khó mà kềm chế nhịn ăn chè. Nếu vùng này hoạt động yếu thì khả năng tự chế không ăn thức ăn ngọt của người đó mạnh hơn.

Cuộc nghiên cứu của tiến sĩ Hare nói trên cho thấy những người thuộc nhóm không có tự chế thì vỏ não vùng bụng giữa trước trán chỉ chú trọng vào vị ngon của thực phẩm mà không quan tâm đến phẩm chất của thực phẩm. Do đó, khi chọn lựa thực phẩm phù hợp với chủ trương ăn ngon của họ, họ chọn thứ làm cho họ khoái khẩu khi ăn vào mà không quan tâm đến khía cạnh dinh dưỡng tốt.

Nhóm người có sự tự chế tốt đẹp thì khác hẳn. Thành phần thứ hai trong bộ não của họ, liên hệ đến quyết định chọn lựa phù hợp với chủ trương sống đời lành mạnh của họ, vỏ não vùng lưng bên trước trán khởi động và truyền tín hiệu về mục tiêu của họ là sống đời lành mạnh nên kết hợp sự quan tâm sức khỏe vào trong quyết định lựa chọn. Nhờ đó họ có khả năng tự chế. Như vậy, vỏ não vùng lưng bên giúp cho vỏ não vùng bụng giữa gia tăng khả năng cân nhắc cả hai thứ vị ngon và sức khỏe cùng lúc khi quyết định.

Tóm lại, giáo sư Hare, qua hai cuộc nghiên cứu trên, cho thấy vỏ não vùng bụng giữa hoạt động bất cứ lúc nào chúng ta làm quyết định chọn thứ này hay mua thứ kia. Khi nhìn một món mà mức độ hoạt động vùng này tăng là chúng ta chọn mua, ngược lại hoạt động vùng này giảm nhiều thì chúng ta không chọn mua. Còn vỏ não vùng lưng bên thì chỉ khởi động khi chúng ta thực hành sự tự chế như tắt máy truyền hình để đi tập thể dục hay ăn rau, cá và trái cây thay vì gắp miếng thịt heo quay theo mục đích dài hạn phát triển sức khỏe của mình. Và vùng này chỉ hoạt động mạnh mẽ nơi những người có khả năng tự chế và yếu kém nơi những người không có khả năng tự chế cho nên người có khả năng tự chế thì thường có những sự lựa chọn tốt cho họ. Đó là lý do chúng ta cần tập luyện để vỏ não vùng lưng bên gai tăng hoạt động.

Một điều chúng ta cần nhớ, theo chuyên gia nghiên cứu Hare, khả năng của vỏ não vùng lưng bên chỉ có ngang đó thôi. Dù là thuộc nhóm người có khả năng tự chế thì họ cũng không thể làm thay đổi sự không ưa thích như không muốn ăn thứ gì đó. Ví dụ một người chủ trương ăn nhiều rau quả nhưng họ không thích ăn rau xà lách xon thì khi chọn ăn rau, họ không chọn ăn rau xà lách xon dù họ có khả năng chọn ăn nhiều rau hay ăn trái cây thay vì ăn bánh ngọt nhiều bơ hoặc chuối chiên nhiều dầu và đường.

Tóm lại, sự tác động hỗ tương giữa vỏ não vùng bụng giữa và vỏ não vùng lưng bên liên hệ đến khả năng tự kềm chế của con người. Hiện nay chưa có loại thuốc nào làm cho các vùng não này gia tăng hoạt động và liên kết với nhau. Tuy nhiên các nhà khoa học đã dùng từ trường nam châm để kích thích các vùng não gần xương sọ nhưng họ chỉ mới thành công trong việc làm cho vùng này giảm hoạt động đưa đến kết quả là làm cho người ta trở nên thiếu kiên nhẫn hơn khi quyết định chọn lựa (không chờ lâu được).

Trong khi chờ đợi có viên thuốc thần để gia tăng khả năng thực hành điều tốt và làm cho giảm ham muốn điều không tốt, chúng ta có thể thực hành cách làm cho vỏ não trước trán vùng lưng bên và vỏ não trước trán vùng bụng giữa gia tăng hoạt động.

1. Tạo cơ hội cho vỏ não vùng lưng bên và vùng bụng giữa  gia tăng hoạt động và liên kết với nhau một cách tự nhiên khi ăn uống:

- Khi ăn uống ở nhà: Tránh gắp thịt mỡ, thức ăn chiên nhiều dầu hay có quá nhiều đường. Chọn nhiều rau tươi, cốc lức, thịt ít mỡ hay cá, trái cây và thức uống ít hay không có đường.

- Khi ăn uống ở tiệm: Chọn các món ăn lành mạnh như trên và không gọi các thức ăn nhiều dầu, mỡ hay đường.

2. Trong các sinh hoạt thường ngày:

- Thức dậy đúng giờ đồng hồ reo, không ngủ nướng.

- Giảm lướt mạng, bớt giờ xem tin tức hay phim ảnh, gia tăng giờ học hay làm việc.

- Vận động thể lực theo thời khóa biểu, giảm bớt giờ ngồi xem truyền hình.

Đạo Phật là đạo thực dụng, những kinh nghiệm tâm linh phải được đem ra ứng dụng vào đời sống hàng ngày mới có lợi ích thật sự cho bản thân, gia đình và xã hội. Thực hành được những điều trên thì khu vực ý chí trong bộ não gia tăng hoạt động, liên kết tốt đẹp với nhau và trở thành mạnh mẽ hơn.

Trong sinh hoạt đa dạng của mọi xã hội hiện nay, nếu người dân muốn sống hạnh phúc, lành mạnh và phát triển thì họ phải tự huấn luyện để tâm điều hành cãm xúc hay tự chế một cách tự nhiên, làm cho ổn định, làm cho lắng dịu lòng ham muốn luôn luôn thúc dục từ nhiều nguyên nhân theo lời Phật dạy như sau:

Sự nhiếp phục dục tham, đoạn trừ dục tham đối với mắt và sắc. Sự nhiếp phục dục tham, đoạn trừ dục tham đối với tai và các tiếng. Sự nhiếp phục dục tham, đoạn trừ dục tham đối với mũi và các hương. Sự nhiếp phục dục tham, đoạn trừ dục tham đối với lưỡi và các vị. Sự nhiếp phục dục tham, đoạn trừ dục tham đối với thân và các xúc. Sự nhiếp phục dục tham, đoạn trừ dục tham đối với ý và các pháp”.[20]

Sự nhiếp phục theo lời đức Phật dạy là khả năng tự chế và làm cho ham muốn giảm xuống một cách tự nhiên qua sự tự huấn luyện hay tu tập. Khi chúng ta huấn luyện có phương pháp thì chúng ta có cơ hội thành công trong việc điều hành cảm xúc một cách tự nhiên vì tham, sân và si tự chúng xẹp xuống vì không còn năng lực để thúc đẩy chúng ta hành động như lời đức Phật dạy:

Vị ấy rõ biết như sau: ‘Trước ta có tham, tham ấy là bất thiện. Nay không còn nữa, như vậy là thiện. Trước ta có sân, sân ấy là bất thiện. Nay không còn nữa, như vậy là thiện. Trước ta có si, như vậy là bất thiện. Nay ta không còn nữa. Như vậy là thiện.’ Như vậy ngay trong đời sống hiện tại, vị ấy được giải thoát khỏi hy cầu, được tịch tịnh, được thanh lương, cảm thấy an lạc, tự mình an trú trong Phạm tánh”.[21]

Phần thực hành. Có ba phần:

- An trú trong lạc tưởng và khinh an tưởng trong thân.

-  Hoãn ăn ngay hay mua sắm liền như giáo sư Davidson đề nghị.

- Tập các thế: Quân Bình Chân Khí, Vượng Não và Vận Nội Lực Gia Tăng Chân Khí.

Phần 1. Thực hành “an trú lạc tưởng và khinh an tưởng trong thân” như lời đức Phật dạy ở trên:

Điều này, về phương diện thực hành cụ thể chúng ta thấy rất giản dị:

1. Thở đan điền, tâm cảm nhận thân thể bình an và vững chãi,

2. Cảm giác an vui và nhẹ nhàng xuất hiện nơi thân (Nếu chưa có, xin bạn dùng nhón giữa ấn vào vùng Ấn Đường trong 2 phút cùng lúc thở trong chánh niệm như đã thực hành nhiều lần trước đây). Cảm nhận và an trú trong cảm giác hỷ lạc (nơi vùng trước trán) cùng với cảm giác khinh an nơi toàn thân.

Sau đó, thực hành được càng lâu càng tốt, tâm chúng ta duy trì sự cảm nhận niềm an vui, nhẹ nhàng và trong sáng nơi cùng lúc với trạng thái thoải mái khắp thân thể như lời Phật dạy “an trú lạc tưởng và khinh an tưởng trong thân” nói trên. Thực hành sự chú ý kéo dài là thực hành định thân trên tâm và định tâm trên thân.

Duy trì sự chú ý và cảm nhận hạnh phúc mà đức Phật dạy khi thực hành định tâm và thân này rất quan trọng vì qua đó mà các vọng tưởng và các cảm xúc tiêu cực mất dần sức mạnh rồi biến đi.

Phần 2. Hoãn ăn ngay hay mua sắm liền như giáo sư Davidson đề nghị:  

- Không ăn ngay món ăn ngon hấp dẫn: Tự nhủ là chiều nay mang về nhà cho mọi người trong gia đình cùng ăn cho vui. Nếu thực hành ăn kiêng thì tự nhắc nhở cần ăn ít lại và ăn món đó trong buổi ăn chiều. Để gia tăng khả năng động viên mình thực hành điều này thì tưởng tượng thấy hình ảnh mọi người trong gia đình với mặt mày vui vẻ khi ăn món ngon đó hay hình ảnh của mình nhẹ cân.

- Buổi sáng chuông đồng hồ báo thức dậy tập thể dục nhưng  muốn ngủ thêm cho sướng thân: Tự thúc đẩy mình ngồi dậy, ra khỏi giường và đi tập thể dục. Buổi tối khi lên giường nằm, nhắc nhở mình buổi sáng dậy đúng giờ.

- Thích đi mua sắm dù nhiều lúc không cần thiết: Khi ra khỏi nhà, chỉ đem ít tiền mặt, không dùng thẻ tín dụng, chỉ dùng trong trường hợp khẩn cấp. Hãy nghĩ đến các khoản chi tiêu cần thiết khác cho gia đình.

Nghĩ đến những phần thưởng trong tương lai, những niềm vui hay những kết quả tốt đẹp hơn khi mình không ăn hay không mua sắm hay làm điều gì đó ngay lúc này như để dành tiền mua một cái tủ mới cần thiết cho gia đình hay bỏ vào quỹ chuẫn bị mua sắm để mọi người trong gia đình ăn một cái tết ‘huy hoàng”.

Phần 3. Tập các thế: Quân Bình Chân Khí, Vượng Não và Vận Nội Lực Gia Tăng Chân Khí theo dĩa DVD kèm theo sách.

***



[1]. Kinh Tăng Chi Bộ, Phẩm Vua Munda, kinh Khả Lạc, HT. Thích Minh Châu dịch.   

[2]. Kinh Tăng Chi Bộ, Phẩm Vua Munda, kinh Khả Lạc, HT. Thích Minh Châu dịch.   

[3]. Kinh Tăng Chi Bộ, Phẩm Vua Munda, kinh Khả Lạc, HT. Thích Minh Châu dịch.   

[4]. Kinh Tăng Chi Bộ, Phẩm Vua Munda, kinh Khả Lạc, HT. Thích Minh Châu dịch.   

[5]. Kinh Tăng Chi Bộ, Phẩm Vua Munda, kinh Khả Lạc, HT. Thích Minh Châu dịch.   

[6]. Kinh Tương Ưng Bộ, Tương Ưng Kosala, Phẩm Thiểu Số, kinh Ở Tại Sàvatthi, HT. Thích Minh Châu dịch.      

[7]. Kinh Tương Ưng, Bộ Phẩm Song Đôi, HT. Thích Minh Châu dịch.               

[8]. Jasinska AJ, Ramamoorthy A, Crew CM (2011). Toward a neurobiological model of cue-induced self-control in decision making: relevance to addiction and obesity. J Neurosci. 2011 Nov 9; 31(45):16139-41.  

[9]. Li CS, Sinha R (2008) Inhibitory control and emotional stress regulation: neuroimaging evidence for frontal-limbic dysfunction in psychostimulant addiction. Neurosci Biobehav Rev. 32:581–597.     

[10]. Jasinska AJ, Ramamoorthy A, Crew CM (2011). Tài liệu đã viện dẫn. Opcit.           

[11]. Hare TA, Camerer CF, Rangel A. (2009). Self-control in decision-making involves modulation of the vmPFC valuation system. Science, 324: 646–648.

Hare TA, Malmaud J, Rangel A. (2011) Focusing Attention on the Health Aspects of Foods Changes Value Signals in vmPFC and Improves Dietary Choice. J Neurosci., 31:11077–11087.  

[12]. Damasio, A. (1994). Descartes’ Error: Emotion, Reason, and the Human Brain. New York: Penguin Books, chapter 3. 

[13]. Kinh Tương Ưng Bộ, Phẩm Song Đôi. HT. Thích Minh Châu dịch.              

[14]. Kinh Tạp A Hàm, Kinh số 91, TT. Thích Đức Thắng dịch.              

[15]. Kent C. Berridge & Morten L. Kringelbach (2008). Affective neuroscience of pleasure: reward in humans and animals. Psychopharmacology, 199: 457–480. 

[16]. Kringelbach, M.L. & Berridge, K.C. (2009) Towards a functional neuroanatomy of pleasure and happiness. Trends in Cognitive Sciences, 13: 479-487.      

[17]. Kinh Tương Ưng Bộ, Phẩm Capala, Kinh Hòn Sắt, HT. Thích Minh Châu dịch.      

[18]. Siegel, D. J. (2012). Pocket Guide to Interpersonal Neurobiology: An Integrative Handbook of the Mind (Norton Series on Interpersonal Neurobiology). W. W. Norton & Company. Kindle Edition tr. 475-476.        

[19]. Hare TA, Camerer CF, Rangel A. (2009). Tài liệu đã viện dẫn. Op. cit.

Như trên. Ibid.               

[20]. Kinh Tương Ưng, Bộ Phẩm Song Đôi, HT. Thích Minh Châu dịch.             

[21]. Kinh Tăng Chi Bộ, Chương Ba Pháp, Phẩm Người Ngu, kinh Các Vị Ở Kesaputta, HT. Thích Minh Châu dịch.               

Bình luận