Tuần lễ 6: Khoa học và đạo Phật cùng nhấn mạnh cần làm cho hạnh phúc gia tăng - Chương 1: Phát triển tình thương là phát triển hạnh phúc
CHƯƠNG 1:
PHÁT TRIỂN TÌNH THƯƠNG
LÀ PHÁT TRIỂN HẠNH PHÚC
Chúng ta đã biết các cuộc nghiên cứu khoa học cho thấy lòng từ bi, bao gồm tình thương và lòng mong muốn giúp đỡ người khác hết khổ, làm phát sinh hạnh phúc và hạnh phúc làm cho sức khỏe gia tăng. Giáo sư chuyên gia về tình thương Dacher Keltner[1] thuộc viện đại học University of California ở Berkeley, trong nghiên cứu bản năng từ bi của con người cho thấy khi con người mới sinh ra thì đã có sẵn lòng từ bi. Điều này được các nhà khoa học gọi là bản năng từ bi (compassionate instinct) nơi con người.
Từ là tình thương phát sinh bởi sự cảm thông (empathy) với người khác. Cảm thông là nhận biết cụ thể về nỗi buồn của một người: Như họ có một người mẹ vừa qua đời, khóc than và lòng chúng ta thấy buồn thật sự do chúng ta thông cảm nỗi buồn. Trong bộ não chúng ta có loại tế bào gương (mirror neuron) giúp chúng ta cảm nhận cụ thể nỗi buồn này không khác gì một tấm gương phản chiếu lại hình ảnh. Khi thấy người khác vui, chúng ta cũng có sự cảm nhận như vậy.
Lòng từ bi là một phản ứng phát sinh khi thấy cảnh khổ đau của người khác và cảm thông về cảm xúc khổ đau đang có nơi họ. Từ sự cảm thông đó mà khi thấy ai khổ thì tình thương (từ) xuất hiện và lòng mong muốn họ được an vui. Còn lòng bi là lòng mong muốn cất đi gánh năng của khổ đau cùng với ý muốn hành động để giúp họ hết khổ. Như khi thấy một em bé nghèo khổ buồn rầu, chúng ta thương và phát tâm giúp đỡ cho em có cơm ăn áo mặc.
Đạo Phật phân tích rất rõ trạng thái của lòng từ và lòng bi. Tâm từ (metta) là tình thương và tâm bi (karuna) là lòng mong muốn người khác hết khổ. Tâm từ hay tình thương có tác dụng làm cho lòng ta êm dịu và ấm áp.
Tình thương hay tâm từ được ví như là tâm trạng của người bạn tốt thành thật muốn cho bạn mình được an vui hạnh phúc. Không những vậy, tình thương còn là lòng thành thật ước mong tất cả chúng sanh đều được sống an lành hạnh phúc. Trong Kinh Từ (Metta Sutta) đức Phật dạy:
“Tình thương cần được rãi khắp đồng đều cho mọi chúng sanh, bao trùm vạn vật, sâu rộng và đậm đà như tình thương của bà mẹ hiền đối với người con duy nhất, săn sóc, bảo bọc con, dầu nguy hiểm đến tánh mạng cũng vui lòng”.
Còn tâm bi (Karuna) là lòng mong muốn giúp người khác thoát khỏi sự khổ đau. Và từ bi là hai đặc tánh rộng lớn có sẵn nơi tâm chân thật hay tâm Phật mỗi người. Đức Phật khích lệ chúng ta chuyển tình thương đến mọi loài vì Ngài cho rằng các loài vật cũng là chúng sanh, dù kém xa loài người về mức độ hiểu biết, do sự khác biệt trong quá trình tiến hóa. Tuy nhiên, trong tương lai lâu dài, chúng cũng đạt được khả năng thấy biết chân thật hay giác ngộ như loài người trong triệu năm sau.
Chúng ta có thể so sánh với ý kiến của các nhà khoa học để tìm hiểu thêm về điều này. Khi gọi lòng từ bi là bản năng thì các nhà nghiên cứu khoa học nhấn mạnh đó là thứ có sẵn nơi chúng ta khi sinh ra, không phải do học hỏi hay được dạy bảo mà có. Từ bi là những phản ứng tự nhiên, có sẵn và tự động phát sinh để giúp cho con người sống còn và phát triển. các cuộc nghiên cứu cho thấy không chỉ nơi con người, ngay cả loài thú vật cũng có lòng từ bi.
Các chuyên gia tâm lý Warneken và Tomasello,[2] thuộc viện khoa học Max Planck Institute ở Đức, nghiên cứu thái độ trẻ em và loài khỉ và thấy khi trẻ em cũng như loài khỉ giúp đỡ kẻ khác thì cảm thấy sung sướng. Không những vậy, khi chỉ nhìn thấy kẻ nào được giúp đỡ thôi, không phải chính mình hành động giúp đỡ, thì trẻ em và loài khỉ cũng cảm thấy sung sướng.
Khi nói đến thuyết tiến hóa của nhà bác học Darwin, người ta thường nhấn mạnh đến ý tưởng chủng loại nào mạnh nhất thì tồn tại hay mạnh được yếu thua của luật rừng xanh hay luật rừng rú dã man. Tuy nhiên, đó chỉ là một khía cạnh của sự tiến hóa các chủng loại lúc chưa kết lại thành một cộng đồng sống chung với nhau. Đối với loài người đã kết thành cộng đồng và chung sống với nhau, nhà bác học Darwin[3] nói rõ sự quan trọng của ý muốn giúp đỡ tha nhân của họ như sau:
“Các loài vật kết thành xã hội bị thúc đẩy phần nào bởi mong muốn giúp cho các đoàn viên trong cộng đồng mình theo cách thức chung. Tuy nhiên, thường thì hành vi giúp đỡ này được thi hành theo một lề lối nhất định. Loài người cũng bị thúc đẩy theo lòng mong ước chung là giúp cho người đồng loại mình. Tuy nhiên loài người có ít hay không có những bản năng (ở mức độ thấp kém) về sự giúp đỡ này. Loài người khác với các loài vật thấp hơn là quyền năng biểu lộ những ưa muốn của mình bằng lời nói và ngôn ngữ được dùng như phương tiện hướng dẫn cho hành vi giúp đỡ cần thiết cũng như ban tặng giúp đỡ. Động lực giúp đỡ kẻ khác nơi loài người khác với loài vật ở chỗ nó không còn chỉ là một bản năng thúc đẩy mù quáng mà còn liên hệ đến những điều người khác khen ngợi hay chê bai của đồng loại.
Con người đánh giá lời khen và tiếng chê đặt trên nền tảng của sự cảm thông. Cảm thông là một loại cảm xúc và cảm xúc này là một trong những thành phần của bản năng xã hội.
Cảm thông, qua sự trở thành một bản năng như vậy, được gia tăng sức mạnh qua tập luyện hay thói quen. Con người ai cũng mong có hạnh phúc và hạnh phúc có hay không là do sự khen ngợi hay chê bai của người khác. Từ đó, hạnh phúc trở nên một thành phần chủ yếu của cái tốt nói chung. Do đó, tánh chất của niềm hạnh phúc lớn nhất gián tiếp trở nên một tiêu chuẫn an toàn cho sự phán đoán điều nào đúng và điều nào sai.
Khi con người phát triển khả năng suy tư và có thêm nhiều kinh nghiệm thì những điều này ảnh hưởng đến nhân cách con người… Chính những lời khen ngợi hay chê bai trong xã hội làm cho đạo đức phát sinh”.
Như vậy, đạo đức con người sống trong xã hội ban đầu là do dư luận khen điều tốt, chê điều xấu trong xã hội thúc đẩy họ làm điều tốt. Tuy nhiên, khi trí tuệ con người càng ngày càng thăng tiến giúp cho họ hiểu biết rõ ràng hơn, thì lòng từ bi cũng xuất hiện và lớn mạnh dần qua tình thương. Tình thương này xuất hiện trước tiên trong đời người qua tình mẫu tử và tình cảm thông một nhóm sống chung với nhau. Do đó, khi tìm hiểu về hậu duệ con người cũng như về sự kết hợp nam nữ sinh ra những con cái rồi đến các hậu duệ kế tiếp khỏe mạnh có khả năng sống còn và phát triển tốt đẹp, nhà bác học Darwin nhấn mạnh về yếu tố quan trọng của sự cảm thông và lòng từ bi như sau:
- Những cộng đồng nào có nhiều người biết cảm thông nhất thì phát triển tốt đẹp hơn cả và sinh ra nhiều con cái hơn cả.
- Xã hội loài người cũng như loài vật có bản năng tình mẫu tử mạnh hơn và trên hết khi so với bất cứ bản năng nào khác.
TỪ BI DO BẨM SINH
Tiến sĩ Lara Aknin[4] và các đồng nghiệp tại trường đại học University of British Columbia thực hành cuộc nghiên cứu về lòng từ bi và thấy các em bé chỉ mới hai tuổi khi cho những em khác thức ăn thì các em này có nhiều niềm vui hơn là khi được cho các thứ này. Như vậy, các em bé này chưa biết suy nghĩ hay so sánh và có hành động tự nhiên theo bản tánh tự nhiên đem đến cho các em nhiều hạnh phúc.
Cuộc nghiên cứu nhắm đến tìm hiểu tánh thân thiết xã hội và cho thấy niềm vui khi giúp đỡ người khác vốn là một phần của bản chất con người. Bà Lara Aknin[5] nói rõ về thái độ thân thiết xã hội có những hậu quả tốt đẹp như sau này các em lớn lên sẽ hành động theo chiều hướng thân thiết xã hội như sau:
“Chúng ta có thể thấy rằng thái độ thân thiết xã hội bao gồm sử dụng một số thời gian để làm việc thiện nguyện, tặng tiền cho những chương trình có mục tiêu tốt hay bố thí tài vật cho người khác. Tất cả những việc làm đó liên hệ đến hạnh phúc”.
Tiến sĩ Aknin cho rằng thường cha mẹ cưng chiều con cái, cho con cái nhiều thứ để con mình có hạnh phúc. Điều cha mẹ thường ít chú ý hay không biết đến là muốn con mình hạnh phúc thì tạo cho các em cơ hội để các em tặng cho người khác:
“Biết rằng các em bé sẽ hạnh phúc khi đem tặng các thứ cho người khác thì cha mẹ cần tạo ra những cơ hội để các em tặng các thứ cho người khác”.
NGƯỜI LỚN CŨNG VẬY
Thông thường chúng ta nghĩ có tiền đi mua sắm các thứ cho mình làm cho chúng ta sung sướng. Tuy nhiên, các cuộc nghiên cứu khoa học cho thấy rõ tiêu tiền cho người khác thì hạnh phúc hơn là tiêu tiền cho chính mình. Trong cuộc nghiên cứu của giáo sư Dunn và các đồng nghiệp[6] với giả thiết là người lớn tiêu tiền cho bản thân thì hạnh phúc hơn là tiêu tiền cho người khác. Họ tuyển chọn các người tham dự cuộc nghiên cứu và phát cho họ 5 mỹ kim hay 20 mỹ kim để họ chi tiêu cho mình hay chi tiêu cho người khác. Kết qua cuộc nghiên cứu cho thấy ngược lại với giả thuyết nêu trên vì:
- Người nào tiêu tiền cho người khác thì hạnh phúc hơn là tiêu tiền cho chính mình.
- Những người nào trích ra phần tỷ lệ số tiền lương nhiều hơn để giúp người nghèo khó thì hạnh phúc hơn là người trích ra phần tỷ lệ số tiền lương ít hơn.
GIÀU NGHÈO AI CŨNG CÓ LÒNG TỪ BI
Chúng ta thường nghe nói “phú quý sinh lễ nghĩa” và nhiều người cho rằng có tiền bạc dư dã thì mới giúp đỡ người khác được. Khoa học cho rằng điều đó không đúng. Trong một cuộc nghiên cứu rộng lớn trên hàng trăm nước trên thế giới, phụ tá giáo sư Aknin và các đồng nghiệp[7] đã chứng minh lòng từ bi là một đặc tính chung của loài người ở khắp nơi. Mọi người trên thế giới, không phân biệt giàu nghèo, cảm thấy mình hạnh phúc khi đem tài vật giúp đỡ người khác. Các chuyên gia phân tích các tài liệu nghiên cứu từ 136 quốc gia và thấy sự giúp đỡ người khác bằng tài vật, một cách chi tiêu thân thiết xã hội (prosocial spending), đem đến cho người thực hành nhiều hạnh phúc. Các chuyên gia nghiên cứu đã tìm hiểu thêm về hai nước Canada là nước giàu và Uganda là một nước nghèo ở Phi châu. Qua các cuộc trắc nghiệm họ thấy rõ tiêu tiền cho người khác đều làm cho những người ở hai nước này hạnh phúc. Các sinh viên của hai nước này khi họ nghĩ đến thời gian họ giúp người khác trong quá khứ thì họ hạnh phúc hơn là nghĩ đến tiêu tiền cho mình trong quá khứ.
Kết quả cuộc nghiên cứu cho thấy rõ, khác với những ý tưởng trong khoa kinh tế học cho rằng động lực thúc đẩy con người hành động là do lợi ích cá nhân là không đúng. Ngược lại, các nhà nghiên cứu cho thấy giúp đỡ người khác làm cho con người hạnh phúc vốn khắc sâu trong bản tánh loài người. Bất cứ con người ở nước nào, với nền văn hóa và hoàn cảnh kinh tế giàu nghèo khác nhau cũng biểu lộ ra như nhau cả. Và họ đi đến kết luận:
- Cũng như các niềm vui khác như ăn uống hay thú vui khác của con người, lòng hào hiệp, thương người đưa đến hành động giúp đỡ tha nhân làm phát sinh ra những cảm xúc tích cực nơi con người ở mọi nước và mọi nên văn hóa.
- Khi nghĩ đến những hành vi tiêu tiền giúp người khác thì chúng ta cảm thấy hạnh phúc rất nhiều, hơn là nhớ lại những lúc tiêu tiền cho chính mình.
- Dù sự giúp đỡ khác nhau về mức độ và số lần giữa những người trong các nước giàu và nghèo, kết quả mang lại hạnh phúc đều như nhau.
Nữ giáo sư Amanda[8] đặt câu hỏi nguyên nhân nào làm cho con người cảm thấy hạnh phúc khi tiêu tiền hay ban tặng cho người khác. Căn cứ vào kết quả cuộc nghiên cứu nói trên, bà đã đưa ra lời giải thích cụ thể:
- Sự ban tặng cho người khác làm cho chúng ta cảm nhận sự tốt đẹp nơi chính mình,
- Làm gia tăng cái nhìn tích cực về chính mình là một người có trách nhiệm với xã hội,
- Ban tặng cho người khác làm cho chúng ta cảm nhận niềm vui. Ban tặng cho người khác làm cho mối liên hệ với người khác thêm bền vững, và
- Những người có mối liên hệ vững mạnh với người khác thường là những người hạnh phúc.
Tiền bạc vốn cần thiết cho con người để mua sắm, trả tiền dịch vụ, duy trì đời sống tốt đẹp. Khi được thưởng tiền thì hầu như mọi người đều sung sướng. Vào năm 2006, nhà tâm lý học Vohs thuộc viện đại học University of Minnesota và các đồng nghiệp Mead[9] thuộc viện đại học Florida State University và Goode thuộc viện đại học University of British Columbia hợp tác nghiên cứu tìm hiểu tác dụng của tiền bạc trong đời sống con người và thấy tiền bạc không phải chỉ để dùng vào việc chi tiêu và tích trử làm giàu mà còn cả động viên con người làm việc, tạo mối tương quan giữa con người và thái độ giúp đỡ người khác.
Trong cuộc nghiên cứu, các nhà khoa học dùng bốn cách khác nhau trong bốn nhóm để nhắc nhở đến sự quan trọng của tiền bạc:
1. Nhóm 1: Những người tham dự cuộc nghiên cứu chơi trò chơi Độc Quyền (Monopoly) được tặng cho tiền dùng để chơi là bốn ngàn mỹ kim hay hai trăm mỹ kim trước khi chuyển sang một việc làm khác.
2. Nhóm 2: Những người tham dự cuộc nghiên cứu được yêu cầu suy nghĩ về đời sống có nhiều hay ít tiền bạc thì ra sao.
3. Nhóm 3: Những người tham dự cuộc nghiên cứu được nhắc nhở đến tiền bạc qua tiến trình tổ chức có tiền hay không có tiền.
4. Nhóm 4: Những người tham dự cuộc nghiên cứu được cho xem hình tiền mặt hay các tấm hình bình thường trên máy vi tính.
Kết quả cuộc nghiên cứu cho thấy rất rõ rệt:
- Trong mỗi trong bốn trường hợp nói trên, những người được nhắc nhở đến tiền bạc tỏ thái độ giống nhau là gia tăng làm việc nhưng giảm đi sự liên hệ với người khác.
- Đặc biệt nhất là khi được nhắc nhở đến tiền bạc thì những người tham dự cuộc nghiên cứu để ít thì giờ giúp đỡ kẻ khác, ngồi xa ra với người khác và ưa thích hoạt động một mình mà thôi.
- Những người này muốn làm việc một mình và cũng ít nhờ người khác giúp mình.
- Họ cũng bày tỏ sự gia tăng muốn làm thêm công việc và kiên trì khi làm những việc khó khăn.
Các nhà nghiên cứu giải thích thái độ nói trên như sau:
- Dù muốn hay không muốn, tiền bạc ảnh hưởng rất nhiều đến thái độ con người.
- Tiền bạc có thể động viên con người nỗ lực làm việc thêm cũng là điều tốt cho xã hội.
- Có những lúc tiền bạc đưa đến những tác dụng tiêu cực như làm cho con người thờ ơ, xa cách người khác, chỉ nghĩ đến lợi ích phần mình.
Dù các cuộc nghiên cứu khoa học cho thấy rất rõ là tiêu tiền cho người khác làm cho chúng ta rất hạnh phúc nhưng có nhiều người thường có ý tưởng là tiêu tiền cho chính mình làm gia tăng niềm vui trong đời sống. Từ đó, họ dính mắc vào ý tưởng về tiền bạc. Cuộc nghiên cứu của chuyên gia Vohs và các đồng nghiệp vào năm 2006 ở trên cho thấy ý tưởng về tiền bạc có tác dụng tạo ra những sự suy nghĩ sai lầm nơi con người. Khi nghĩ đến tiền bạc thì con người thay đổi thái độ (trở thành xấu hơn). Trong chín cuộc khảo nghiệm, các chuyên gia tìm thấy tiền bạc giúp cho con người hướng đến sự độc lập không phải lệ thuộc vào kẻ khác. Tuy nhiên khi nghĩ đến tiền bạc, so sánh với những người không nghĩ đến tiền bạc trong cuộc nghiên cứu, thì những người nghĩ đến tiền bạc:
- Ít giúp đỡ tha nhân,
- Ít giúp cho các quỹ từ thiện,
- Ít có thì giờ với người khác, và
- Muốn gấp ba lần làm việc một mình dù biết mình phải làm thêm nhiều việc.
Sống như vậy là sống cô lập và giam mình trong sự cô đơn lạnh lùng của sự không cảm thông với những người chung quanh hay vô cảm. Đạo Phật gọi ý nghĩ sai lầm về coi trọng tiền bạc quá nhiều là một loại vọng tưởng. Vọng tưởng ảnh hướng đến thân, khẩu và ý của con người. Như cuộc nghiên cứu trên cho thấy, khi chỉ nghĩ đến tiền bạc thôi cũng làm cho tình thương giảm xuống. Tình thương liên hệ đến hạnh phúc và hạnh phúc lại liên hệ mật thiết đến sức khỏe con người.
TÌNH THƯƠNG MANG ĐẾN HẠNH PHÚC
Các cuộc nghiên cứu nêu ra ở phần trước cho thấy khi con người mở rộng tình thương, ban tặng tiền bạc hay vật dụng cho người khác thì niềm hạnh phúc họ gia tăng rất nhiều so với những người chỉ nghĩ tiêu tiền cho mình. Và hạnh phúc là đầu mối của bao nhiêu sự tốt đẹp khác như sức khỏe, sự thân thiết trong gia đình, bạn bè, cộng đồng cũng như sự phát triển kinh tế và gia tăng ổn định xã hội.
Khoa học đã cho thấy lòng từ bi là nguồn năng lực mạnh mẽ tự nhiên giúp cho loài người tiếp nối và sống còn qua bao nhiêu biến cố trải dài hàng triệu năm cho đến nay. Trong đời sống thường ngày, chúng ta quý trọng những ai có lòng từ bi. Khi nghe nói anh hay chị này có lòng tử tế là chúng ta cảm mến và muốn gần gũi vì tin tưởng họ là người tốt và không làm hại mình. Và người có lòng từ bi được người khác quý mến và ủng hộ. Ngay khi đọc các câu chuyện lịch sử như các vua Lý và Trần có lòng từ bi đối với người bị giam cầm hay với người nghèo khổ, chúng ta phát ra lòng quý trọng những ông vua này.
Trong đạo Phật, chúng ta thường nghe các vị tăng ni khuyến khích các Phật tử bố thí cho người nghèo và cả phóng sanh các loài vật để biểu lộ lòng từ bi. Các vị tăng ni cũng nhấn mạnh đến nghiệp báo tốt đẹp của bố thí là làm cho người thực hành bố thí được sức khỏe gia tăng, được nhiều hạnh phúc cùng gia tăng tuổi thọ. Đó là phước đức hay quả báo tốt đẹp do những nhân lành họ tạo ra như lời đức Phật dạy:
“Sống trong môi trường tốt
Được tạo tác nhân lành
Được đi trên đường chánh
Là phước đức lớn nhất…
Sống ngay thẳng bố thí
Giúp quyến thuộc thân bằng
Hành xử không tì vết
Là phước đức lớn nhất…
Chung dụng trong nhân gian
Tâm không hề lay chuyển
Phiền não hết, an nhiên,
Là phước đức lớn nhất…
Ai sống được như thế,
Đi đâu cũng an toàn
Tới đâu cũng vững mạnh
Phước đức của tự thân”.[10]
Ngày hôm nay khoa học đã xác nhận những lợi ích mà đạo Phật thường giảng dạy về hạnh từ bi. Các nhà khoa học nhấn mạnh lòng từ bi làm phát sinh ý muốn và hành động giúp cho người khác, làm cho người khác được lợi lạc, nhưng đồng thời cũng đem lại lợi ích cho chính mình một cách tự nhiên theo luật nhân quả.
1. Giáo sư và chuyên gia về hạnh phúc Martin Seligman[11] đã chứng minh sự kết thân với người khác làm cho sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần của chúng ta gia tăng.
2. Chuyên gia nghiên cứu Stephanie Brown,[12] thuộc viện đại học Stony Brook University, tìm thấy lòng từ bi làm gia tăng tuổi thọ con người.
3. Những cuộc nghiên cứu về hạnh phúc của giáo sư Kok và Fredrickson cùng các đồng nghiệp[13] cho thấy hạnh phúc làm cho con người khỏe mạnh, vui tươi, gia tăng tuổi thọ và có sự kết thân tốt đẹp với người khác, giúp giải thích tại sao lòng từ bi cũng đem lại những điều tốt đẹp nói trên. Khi chúng ta làm hành vi bố thí vì lòng thương thì chúng ta hạnh phúc nhiều hơn là khi mình nhận được quà tặng.
Khi nghe nói đến bố thí, chúng ta thường nghĩ đến hành vi đạo đức và ít khi nghĩ đến niềm hạnh phúc do bố thí mang lại. Nhà nghiên cứu thần kinh học Grafman và các đồng nghiệp[14] của viện y tế Hoa Kỳ National Institutes of Health đã chụp hình bộ não người thực hành bố thí và thấy trung tâm làm phát sinh niềm sung sướng trong bộ não hoạt động. Bất cứ lúc nào chúng ta có được niềm vui như ăn uống, được thưởng tiền bạc hay có niềm vui gì khác là vùng này hoạt động. Điều đặc biệt hơn nữa là cuộc nghiên cứu của khoa học gia Dunn và các đồng nghiệp[15], thuộc trường đại học University of British Columbia cho thấy khi chúng ta tặng người khác tiền lòng mình vui hơn là tiêu tiền để mua sắm cho chính bản thân mình.
Chúng ta đã biết khoa học chứng minh hạnh phúc làm cho gia tăng sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần cùng gia tăng tuổi thọ và lòng từ bi mang lại hạnh phúc cho con người theo sự kết nối nhân lành tạo ra quả tốt, quả tốt này lại trở thành một nhân để làm phát sinh quả tốt khác theo luật duyên khởi trong nhà Phật.
Giáo sư Fredrickson thuộc trường đại học University of North Carolina ở Chapel Hill và chuyên gia Steve Cole[16] thuộc viện đại học University of California, Los Angeles nghiên cứu về lòng từ bi và tác dụng tốt đẹp của lòng từ bi. Họ nghiên cứu trường hợp của những người bị viêm trong tế bào khi bị ung thư hay các căn bệnh khác và phân biệt ra hai loại người:
- Những người tự cho mình rất hạnh phúc, sống cuộc đời rất sung sướng, được đáp ứng đầy đủ vật chất.
- Những người có đời sống hạnh phúc vì họ sống đời sống có mục đích và ý nghĩa như có lòng từ bi và giúp đỡ tha nhân. Đời sống của những người này không sung sướng như loại người ở trên.
- Khi so sánh mức độ viêm trong tế bào của hai nhóm người có hạnh phúc khác nhau: Những người hạnh phúc do được sung sướng rất nhiều và những người hạnh phúc do sống đời có ý nghĩa, có lòng từ bi và giúp đỡ tha nhân thì các nhà nghiên cứu thấy những người có lòng từ bi có mức độ viêm trong tế bào thấp hơn là những người sống thật sung sướng.
Chúng ta đã biết hạnh phúc làm cho tuổi thọ gia tăng và lòng từ bị làm cho con người hạnh phúc nên người có lòng từ bi thì tuổi thọ gia tăng. Những người có đời sống buồn rầu, cô quạnh thường thiếu sự kết thân với người khác và họ tìm đến các thú giải trí như cờ bạc, rượu chè hay hút thuốc để tạo ra sự kích thích trong đời sống tẻ nhạt.
Giáo sư Fredrickson và Kok,[17] qua cuộc nghiên cứu về tác động của tình thương, đã chứng minh cụ thể thực hành thiền Từ Bi Quán làm cho hạnh phúc gia tăng, đưa đến sự kết thân xã hội gia tăng và giúp cho hệ đối giao cảm là hệ thần kinh làm phát sinh sự thư dãn gia tăng hoạt động và ba thứ này kết hợp lại làm cho sức khỏe gia tăng. Họ đã đi đến kết luận tình thương làm phát sinh sức khỏe với cơ sở khoa học vững chắc như sau:
“Sự cảm nhận nhiều lần tiếp nối theo định kỳ cảm xúc tích cực là thực phẩm nuôi dưỡng cho thân thể con người, làm gia tăng tình thân thiết xã hội và giúp cho hệ đối giao cảm gia tăng sức khỏe tốt. Và điều này lại đem đến cho chúng ta nhiều sự tưởng thưởng hơn vì nó lại làm gia tăng cảm xúc tích cực và những kinh nghiệm trong đời sống xã hội. Sự kiện nói trên khi được phát triển, kéo dài và làm tăng tiến (qua sự thực hành) thì làm cho sức khỏe thể chất gia tăng”.
Những cuộc nghiên cứu của các nhà khoa học nói trên cho thấy rõ có sự liên hệ mật thiết giữa độ mạnh của thần kinh lang thang và thiền Từ Bi Quán trong cuộc nghiên cứu nói trên:
- Những người thực hành thiền từ bi quán gia tăng cảm xúc tích cực rất cao.
- Ngược lại, những người không thực hành thiền Từ Bi Quán thì cảm xúc tích cực bị xuống thấp.
Từ đó các nhà nghiên cứu đi đến kết luận là cảm xúc tích cực như lòng từ bi gia tăng nhiều thì làm cho độ mạnh của thần kinh lang thang gia tăng cùng với sự kêt thân với người khác gia tăng. Ba thứ này quấn vào nhau và đưa nhau lên cao. Ngược lại ba thứ này thấp thì chúng cũng quấn vào nhau và cùng đẩy nhau xuống thấp.
Đạo Phật nhấn mạnh đến sự thực hành cụ thể gọi là tu tập. Ngài Đạt Lai Lạt Ma đã phát biểu trong cuốn sách Nghệ Thuật Hạnh Phúc (The Art Of Happiness) vào năm 1998 về sự tu tập như sau:
“Sự huấn luyện tâm có hệ thống – nuôi dưỡng hạnh phúc, sự chuyển hóa thật sự bên trong tâm bằng cách chọn lựa và chú tâm có chủ ý vào các trạng thái tinh thần tích cực cùng thách thức các trạng thái tinh thần tiêu cực – có thể thực hiện được vì cấu trúc và chức năng của bộ não (có thể thay đổi được)… Các tế bào thần kinh quấn lại trong bộ não không có tính cách cố định, có thể thay đổi được. Bộ não của chúng ta có khả năng thích nghi”.
Trong cuộc nghiên cứu nói trên, tiến sĩ Kok xác định:
“Nơi đây chúng tôi cho rằng con người có khả năng chuyển hóa cảm xúc tích cực thành những sự kết thân với tha nhân là chìa khóa để tìm ra sự bí mật này”.
Thực hành Từ Bi Quán là chìa khóa mở cánh cửa bí mật của cách thức làm cho bộ não thay đổi tốt đẹp hơn. Lòng từ bi là một trong các cảm xúc tích cực quan trọng và các nhà khoa học đã dùng phương pháp thực hành Từ Bi Quán trong đạo Phật làm nền tảng để làm phát sinh ra các cảm xúc tích cực. Cảm xúc tích cực đưa đến sự thân thiết với người khác và điều này lại làm cho thần kinh lang thang gia tăng độ mạnh và ba thứ này kết lại thành suối nguồn năng lượng mạnh mẽ giúp cho chúng ta gia tăng hạnh phúc, sức khỏe và thành công.
Các nhà nghiên cứu cho những người tham gia thực hành Thiền Từ Bi Quán (Loving-kindness meditation, LKM) để làm phát sinh tình thương, lòng từ bi và lòng tốt cho chính người thực hành và cho những người khác. Thiền sư Ricard Matthieu, người được các nhà thần kinh học phong tặng là người hạnh phúc nhất thế giới,[18] khi họ đo mức độ hạnh phúc trong bộ não ông tăng 800% so với người thường. Thiền sư Ricard Matthieu đã hợp tác với giáo sư thần kinh học Davidson và các đồng nghiệp[19] nghiên cứu về sóng gamma xuất hiện nơi não của các vị thiền sư Tây Tạng khi họ thực hành Từ Bi Quán. Khi sóng gamma xuất hiện thì các phần khác nhau trong bộ não của các vị Thiền sư hoạt động hòa hợp đồng bộ làm cho các chức năng não trở nên tối ưu. Thiền sư Matthieu đã tiêu chuẩn hóa cách thực hành thiền từ bi quán để cho mọi người có thể thực hành dễ dàng.
Phần thực hành. Có hai phần: Thiền Từ Bi Quán và làm một việc từ thiện hay giúp đỡ bà con hoặc bạn bè.
Phần 1. Thiền Từ Bi Quán giúp quân bình hoạt động não trước trán bên trái.
Chúng ta có thể thực hành Từ Bi Quán dài hay ngắn. Quý vị có thể dùng CD Từ Bi Quán kèm với sách này để thực hành Từ Bi Quán dài. Nếu muốn thực hành Từ Bi Quán ngắn, chúng ta có thể thực hành theo bốn bước.
Trước hết, xin ngồi thoải mái trên ghế hay trên gối thiền. Nếu trường hợp không ngồi được thì có thể thực hành khi nằm thẳng lưng. Hít vào thở ra làm cho êm dịu thần kinh. Nhắm mắt lại và tiếp tục chú ý vào hơi thở vào và thở ra.
Bước 1. Bắt đầu thực hành Từ Bi Quán:
Ngồi thoải mái, thở và cảm nhận thân tâm thư dãn rối cầu nguyện với tâm thành cho chính mình:
Hít vào rồi thở ra và đọc thầm: “Xin cho con được bình an”.
Hít vào rồi thở ra và đọc thầm: “Xin cho con được khỏe mạnh”.
Hít vào rồi thở ra và đọc thầm: “Xin cho con được hạnh phúc”.
Tiếp tục thở và cảm nhận hơi thở êm dịu và thoải mái.
Bước 2. Làm cho tình thương xuất hiện
Khi tâm trở nên lắng dịu và yên tĩnh, thực hành:
- Nghĩ đến một người mình thương như cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè hay người yêu.
- Tưởng tượng thấy, hay quán tưởng, hình ảnh của họ (một người mà thôi khi tưởng thấy hình ảnh).
- Cảm nhận tình thương xuất hiện. Hít vào và thở ra thoải mái thì tình thương tràn đầy trong lòng.
- Cảm nhận sự ấm áp và an vui trong lòng mình..
Bước 3. Chuyển tình thương tràn đầy trong lòng đến hình ảnh người đó:
• Thở vào và cảm nhận tình thương của từ bi tràn đầy trong lòng.
• Thở ra và chuyển tình thương đến hình ảnh người đó (Chuyển tình thương, không nói thành lời).
• Tiếp tục chuyển tình thương từ bi như vậy cùng lúc cảm nhận tâm bình an, vắng lặng, ấm áp và hạnh phúc.
Bước 4. Chuyển tâm bình an, vắng lặng, ấm áp và hạnh phúc đến nhiều người:
Tiếp tục thở vào và thở ra cùng cảm nhận tâm bình an, vắng lặng, ấm áp và hạnh phúc. Tiếp đó:
• Thở vào, cảm nhận tâm bình an, vắng lặng, ấm áp và hạnh phúc và nghĩ đến mọi người trong gia đình.
• Thở ra, cảm nhận tâm bình an, vắng lặng, ấm áp và hạnh phúc và chuyển tình thương đến mọi người trong gia đình.
• Tiếp tục như trên đến mọi người trong làng xã, cộng đồng, xứ sở và nhân loại. Cuối cùng là mọi loài.
Phần 2. Làm một việc từ thiện hay giúp đỡ bà con hoặc bạn bè.
Xin bạn dành một ngày đi đến một cô nhi viện hay viện dưỡng lão để thăm viếng, nói chuyện và giúp đỡ các em mồ côi hay các cụ già neo đơn. Xin bạn nghĩ đến một người thân hay bạn bè mình cần giúp đỡ và giúp họ.
***
[1]. Dacher, K., Marsh, J., and Smith, J. A., editors (2010). The Compassionate Instinct: The Science of Human Goodness. New York: W.W. Norton & Co.
[2]. Warneken, F. & Tomasello, M. (2006). Altruistic helping in human infants and young chimpanzees. Science, 311: 1301–1003.
[3]. Darwin, Charles (1871), The Descent of Man, and Selection in Relation to Sex. Chapter XXI - General Summary and Conclusion. From The Complete Work of Charles Darwin Online. http://darwin-online.org.uk. Retrieved on 06/06/2013
[4]. Amanda Enayati (2012). For kids, it’s better to give than receive. Special to CNN. September 17, 2012.
[5]. Aknin, L. B., Hamlin, J., & Dunn, E. W. (2012). Giving leads to happiness in young children. PLOS ONE, 7.
[6]. Dunn EW, Aknin LB, Norton MI (2008). Spending money on others promotes happiness. Science. Mar 21; 319(5870):1687-8.
[7]. Aknin LB, Barrington-Leigh CP, Dunn EW, Helliwell JF, Burns J, Biswas-Diener R, Kemeza I, Nyende P, Ashton-James CE, Norton MI. J (2013). Pers Soc Psychol. Apr;104(4):635-52.
[8]. Amanda Enayati (2012). Tài liệu đã viện dẫn. Op. Cit.
[9]. Vohs, K.D., Mead, N.L., Goode, M.R. (2006) The Psychological Consequences of Money. Science 17 November, 314 (5802) 1154-1156.
[10]. Kinh Mahamangala sutta, Sutta Nipata II, HT. Thích Nhất Hạnh dịch.
[11]. Seligman, Martin E.P. (2011). “Flourish”. Royal Society of Arts. video.
[12]. Brown, S. L., Nesse, R. M., Vinokur, A. D., & Smith, D. M. (2003). Providing social support may be more beneficial than receiving it: Results from a prospective study of mortality. Psychological Science, 14: 320–327.
[13]. Kok, B. E., Coffey, K. A., Cohn, M. A., Catalino, L. I., Vacharkulksemsuk, T., Algoe, S. B., Brantley, M., & Fredrickson, B. L. (2013). How positive emotions build physical health: Perceived positive social connections account for the upward spiral between positive emotions and vagal tone. Psychological Science, 24: 1123-1132.
[14]. Moll, J., Krueger, F., Zahn, R., Pardini, M., de Oliveira-Souza, R., & Grafman, J. (2006). Human fronto-mesolimbic networks guide decisions about charitable donation. Proceedings of The National Academy of Sciences of The United States of America, 103: 15623–15628.
[15]. Dunn, E. W., Aknin, L. B., & Norton, M. I. (2008). Spending money on others promotes happiness. Science, 319: 1687–1688.
[16]. Fredrickson, B. L., Grewen, K. M., Coffey, K. A., Algoe, S. B., Firestine, A. M., Arevalo, J. M. G., Ma, J. & Cole, S. M. (2013). A functional genomic perspective on human well-being. Proceedings of the National Academy of Sciences, PNAS Early Edition. doi:10.1073/pnas.1305419110.
[17]. Kok, B. E., Coffey, K. A., Cohn, M. A., Catalino, L. I., Vacharkulksemsuk, T., Algoe, S. B., Brantley, M., & Fredrickson, B. L. (2013). How positive emotions build physical health: Perceived positive social connections account for the upward spiral between positive emotions and vagal tone. Psychological Science, 2: 1123-1132.
[18]. Buddhist monk is the world’s happiest man, Daily News America, 2012-10-29.
[19]. Lutz, A., Greischar, L. L., Rawlings, N. B., Ricard, M., Davidson R. J. (2004), “Long-term meditators self-induce high-amplitude gamma synchrony during mental practice”, PNAS, November 16: 101 (46): 16369–73.