Đạo Phật Ngày Nay

Chương 2: Huấn luyện để phát triển hạnh phúc sống đời sống có mục đích và có ý nghĩa

 

 

CHƯƠNG 2:

 HUẤN LUYỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN

HẠNH PHÚC SỐNG ĐỜI SỐNG

CÓ MỤC ĐÍCH VÀ CÓ Ý NGHĨA

Những niềm vui khi ăn một bữa ăn ngon, nghe và xem một buổi trình diễn âm nhạc ưa thích, xem một phim hay, mặc áo quần đẹp, mua sắm hàng hóa hay xem một trận đấu thể thao mà đoàn mình ủng hộ thắng trận làm cho chúng ta thấy hạnh phúc. Đây là những niềm hạnh phúc bình thường ai cũng có.

Giáo sư Kahneman[1] chuyên gia về hạnh phúc phát sinh từ niềm vui ưa thích, hay sung sướng, đã cho rằng mục đích của cuộc nghiên cứu tâm lý về loại hạnh phúc này như sau:

Đây là sự tìm hiểu về điều gì làm cho chúng ta kinh nghiệm trạng thái sung sướng hay không sung sướng. Tìm hiểu về sự cảm nhận niềm vui thích thú hay sự đau đớn, về sự ưa thích hay chán chường, về niềm vui hay nỗi buồn và về sự thỏa mãn hay sự không hài lòng. Đây là cuộc nghiên cứu bao gồm nhiều phạm vi từ hoàn cảnh sinh sống, tính di truyền và môi trường xã hội làm phát sinh khổ đau hay hạnh phúc”.

HAI LOẠI HẠNH PHÚC TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Mỗi chúng ta ai cũng biết, khi chúng ta cảm nhận những cảm xúc như dễ chịu, thích thú, sung sướng, an vui là chúng ta thấy hạnh phúc. Hạnh phúc này do sự cảm nhận rất riêng tư của mỗi người hay nói cách khác, đó là cái cảm nhận chủ quan hay riêng tư của mỗi người về hạnh phúc (subjective Well-Being hay SWB). Vì có ý kiến cho rằng một sự kiện có thể làm cho người này hạnh phúc nhưng có thể không làm cho người khác hạnh phúc nên các nhà khoa học tìm một định nghĩa chung cho hạnh phúc theo cảm nhận mỗi người.  Giáo sư  Dienier[2] và các đồng nghiệp cho rằng hạnh phúc do chính mỗi người cảm nhận gồm ba thứ chính:

1. Có nhiều cảm xúc tích cực (như thương yêu, vui vẻ, hứng khởi hay, biết ơn),

2. Thỏa mãn nhiều với đời sống toàn bộ của chính mình qua sự suy nghĩ và đánh giá cuộc đời mình,

3. Và có ít các cảm xúc tiêu cực (như lo âu, giận hờn hay bực tức).

Danh từ hạnh phúc theo mình cảm nhận (các nhà nghiên cứu dùng chữ  “hạnh phúc chủ quan” hay subjective well being. Nơi đây xin được dùng chữ “hạnh phúc theo mình cảm nhận” (để tránh ngộ nhận “hạnh phúc chủ quan” mình cảm nhận là do thành kiến chủ quan và sai lầm, khác với hạnh phúc khách quan là đúng hơn) có nghĩa mỗi người lượng giá hay đánh giá về mức độ thoả mãn về đời sống của chính mình cao, có nhiều cảm xúc vui và không có hay có rất ít cảm xúc tiêu cực như buồn rầu, lo lắng, thì người đó có nhiều hạnh phúc.         

Như vậy, một người thực sự cảm nhận mình có nhiều hạnh phúc khi có nhiều cảm xúc tích cực, ít cảm xúc tiêu cực và thỏa mãn với đời sống của chính mình. Điều nhận định theo chính mình này về hạnh phúc có thể thay đổi theo từng người trong một xã hội hay trong các xã hội khác nhau rất quan trọng vì làm cho người đó thấy đời sống của mình có ý nghĩa và đưa đến những hậu quả khác nhau. Nhận định về hạnh phúc và sự cảm nhận về mức độ hạnh phúc mỗi người cũng bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố văn hóa mỗi vùng sinh sống khác nhau.

Theo chuyên gia tâm lý Dienier[3] hạnh phúc do mình cảm nhận gồm có phần nhận biết và đánh giá về sự thỏa mãn về đời sống toàn diện của mình như nếp sống tiện nghi hay về một sinh hoạt nào đó như chơi thể thao hay chưng các bình hoa đẹp. Bên cạnh sự đánh giá qua sư suy nghĩ này còn có phần quan trọng khác là nhận biết về cảm xúc như cảm nhận vui, buồn, lo lắng hay sung sướng mà mình kinh nghiệm thật sự trong đời sống hàng ngày. Đó là những cảm xúc thoáng qua hay có thể kéo dài.

Giáo sư Diener cho rằng một người có nhiều hạnh phúc khi họ có sự thỏa mãn về đời sống và thường có nhiều cảm xúc tích cực như vui vẻ, hứng khởi và ít có những cảm xúc tiêu cực như buồn rầu hay sợ hãi. Ngược lại, một người có nhiều cảm xúc tiêu cực như tức giận, sợ hãi hay lo âu và ít cảm xúc tích cực như vui vẻ, cảm thông và thích thú thì người đó có ít hạnh phúc. Hai yếu tố nhận thức và cảm xúc này liên hệ mật thiết với nhau rất nhiều mà chúng ta cần biết đến vì chúng ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta rất nhiều.

Như vậy, loại hạnh phúc nói trên có được là do mình cảm nhận được niềm vui sướng và thỏa mãn và không bị những đau đớn hay khó chịu. Đó là niềm hạnh phúc do sung sướng làm phát sinh.

Những niềm vui hay hạnh phúc nói trên được các nhà nghiên cứu tâm lý gọi là những niềm sung sướng (hedonic pleasure) hay niềm vui ưa thích (liking). Những niềm sung sướng hay ưa thích này có tính cách ngắn hạn và qua nhanh.  Đức Phật gọi đó là tính cách vô thường của niềm sung sướng hay lạc thọ.   

HẠNH PHÚC DO SỐNG ĐỜI SỐNG CÓ MỤC ĐÍCH VÀ CÓ Ý NGHĨA   

Bên cạnh niềm vui ngắn ngủi này, các nhà nghiên cứu hạnh phúc như giáo sư Carol Ryff,[4] hay giáo sư Seligman sau này[5] chú trọng nhiều đến một loại hạnh phúc do lối sống lành mạnh mà triết gia Hy Lạp Aristote goi là eudaimonia, loại hạnh phúc do đời sống có mục đích và có ý nghĩa. Đây là một thứ hạnh phúc vững bền và tốt đẹp do sự thực hiện những khả năng và những ước vọng tiềm tàng nơi mỗi người hướng đến phục vụ nhân quần xã hội. Đúng hơn, đây là một lối sống lành mạnh và tốt đẹp (well-being). Lối sống này nhiều lúc trên thực tế không đem lại cảm giác sung sướng nhưng lại đáp ứng được những nguyện vọng tốt đẹp và lâu dài của cá nhân. Như trường hợp có những phụ nữ có bằng cấp bác sĩ, nha sĩ hay luật sư lại không đi hành nghề chuyên môn mà tình nguyện ở nhà để nuôi con cái hay chăm sóc bố mẹ già. Làm việc này họ thấy đời sống có ý nghĩa dù phải chịu đựng nhiều vất vả hơn là đi làm việc theo khả năng chuyên môn, có địa vị xã hội và sự thăng tiến nghề nghiệp. Có những người thay vì dùng thời giờ rảnh rỗi vào việc giải trí để có niềm vui ưa thích, họ lại tình nguyện đi dạy kèm cho các trẻ em nghèo hay xây nhà cho những gia đình nghèo khổ làm cho họ thấy đời mình có ý nghĩa. Có nhiều người chọn học ngành bác sĩ, chuyên khoa ung thư hay ngành thần kinh học là những ngành đòi hỏi sinh viên phải dành rất nhiều thì giờ vào việc học hành và thực tập thường xuyên không có gì là sung sướng cả. Tuy nhiên,  các sinh viên chọn các môn này khi theo học, họ cảm nhận mình có được sự đáp ứng lòng mong ước và họ có thể thực hiện được tiềm năng tốt đẹp nhất của mình.

Trên lý thuyết, có sự khác biệt rất nhiều về hạnh phúc do sung sướng và “hạnh phúc” do sống đời có ý nghĩa. Trên thực tế, các cuộc nghiên cứu của các chuyên gia về cảm xúc tích cực như Diener và các đồng nghiệp[6] cho thấy có sự liên hệ mật thiết giữa hai loại hạnh phúc này. Các chuyên gia này tìm thấy khi một người cho biết họ có niềm hạnh phúc do sung sướng thì họ cũng có niềm hạnh phúc do sống đời có ý nghĩa.

Vào thế kỷ XX, khi nói đến hạnh phúc, nhà phân tâm học Sigmund Freud[7] chú trọng nhiều đến yếu tố sung sướng mà không quan tâm đến yếu tố sống đời có ý nghĩa và cho rằng người có nhiều niềm sung sướng là người có hạnh phúc. Ông nhấn mạnh con người nỗ lực kiếm tìm hạnh phúc như sau:

Họ muốn có hạnh phúc và sống trong hạnh phúc. Nỗ lực này gồm có hai mặt tích cực và tiêu cực. Một mặt, họ nhắm đến làm sao đừng có sự đau dớn và không có sự bất như ý, mặt kia họ muốn có kinh nghiệm về các cảm giác sung sướng mạnh mẽ”.

Việc ông ta nghiện xì gà lâu dài và ma túy trong một thời gian dài cụ thể hóa ý kiến này.

Trong thế kỷ XX, ý kiến loại trừ hay làm giảm các nỗi đau đớn ảnh hưởng rất lớn đến các cuộc nghiên cứu về y học, tâm lý học, thần kinh học và dược khoa với chủ đích biết rõ nguyên nhân bệnh tật làm cho đau khổ phát sinh và để diệt trừ chúng để con người hết khổ. Do đó, hầu như tất cả tiền bạc và phương tiện nghiên cứu đều đổ dồn vào lành vực nghiên cứu diệt khổ do bệnh tật thể chất và tâm thần sinh ra. Mãi đến cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, một phong trào cổ vũ nghiên cứu về hạnh phúc và ứng dụng sống hạnh phúc để phát triển sức khỏe và thành công trong đời sống. Nhiều nhà tâm lý, thần kinh học và bác sĩ y khoa nhấn mạnh đến sự quan trọng của hạnh phúc về hai phương diện có được niềm sung sướng và sống đời có ý nghĩa. Họ quan niệm không còn bị nghèo đói, đau đớn hay bệnh tật về thể chất hoặc tâm thần vốn chưa đủ để mang lại hạnh phúc mà phải sống đời có niềm vui, có sự dấn thân tham dự, sống đời có ý nghĩa và thành tựu công việc làm mới đem lại hạnh phúc thật sự, mới làm cho đời sống con người nở rộ.

HẠNH PHÚC DO CHÍNH MÌNH CẢM NHẬN

Trước đây, người ta cho rằng hạnh phúc rất khó hiểu và thường không kéo dài nên chúng ta hay nói hạnh phúc mong manh. Tuy vậy, nhiều nhà nghiên cứu hiện đại về hạnh phúc nổi tiếng như các giáo sư Ryan[8], Denier[9] hay Kahneman[10] cùng các đồng nghiệp của họ đã nỗ lực nghiên cứu hạnh phúc dưới dạng là niềm hạnh phúc do chính mình cảm nhận.

Tại sao họ lại chú trọng đến sự cảm nhận của mỗi người? Vì khi nói đến hạnh phúc chúng ta không nói đến danh từ mà nói đến cảm xúc nơi chính con người cảm nhận. Và hạnh phúc chỉ có ý nghĩa khi chúng ta nhận biết hay thưởng thức niềm vui ưa thích hay sung sướng làm cho chúng ta thấy mình có hạnh phúc. Hạnh phúc đó phải được cảm nhận ngay lúc này và nơi đây thì cuộc sống mới có ý nghĩa tốt đẹp.

Chúng ta đã biết hạnh phúc làm cho đời mình có nhiều niềm vui cùng với sự gia tăng sức khỏe. Những cuộc nghiên cứu về hạnh phúc tìm hiểu về hạnh phúc theo mình cảm nhận bao gồm những cảm xúc làm cho chúng ta sung sướng (niềm vui ưa thích), những cảm xúc làm cho chúng ta khó chịu (như nỗi buồn), những điều chúng ta phán đoán và đánh giá về cuộc sống của mình (như sống đời có ý nghĩa) và những lãnh vực mà con người cảm nhận có hạnh phúc (như hôn nhân hay công việc làm).  

Như vậy hạnh phúc bao gồm nhiều lãnh vực khác nhau như từ những cảm xúc vui buồn thoáng qua đến những gì chúng ta cảm nhận qua những sinh hoạt lâu dài. Chúng ta cần phải hiểu rõ về hạnh phúc và những thứ làm phát sinh hạnh phúc thật sự nơi mình vì hạnh phúc có năng lực thúc đẩy chúng ta hành động và duy trì những hoạt động hướng đấn sự thành đạt mục tiêu hạnh phúc lâu dài.

Giáo sư Diener tổng kết các loại hạnh phúc do mỗi người cảm nhận thành bốn nhóm như sau[11]:

Cảm xúc vui

Cảm xúc buồn

Những điều mình đánh giá về đời sống

Lãnh vực thỏa mãn

Niềm vui

Nỗi buồn

Có  thoả mãn về đời sống

Hôn nhân

Sự bằng lòng

Giận dữ

Đáp ứng lòng mong muốn

Việc làm

Vui vẻ

Lo lắng

Đời sống có ý nghĩa

Sức khỏe

Tình yêu

Căng thẳng

Thành công

Rảnh rang

Giáo sư Diener cho rằng bảng liệt kê bốn thành phần về hạnh phúc nói trên (cảm xúc tích cực, cảm xúc tiêu cực, đánh giá về đời sống của mình và phạm vi mình thấy thoả mãn trong sinh hoạt) giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về hạnh phúc do mình cảm nhận. Những thành phần này cho chúng ta biết một cách rõ ràng về sự cảm nhận phẩm chất riêng biệt đời sống của mỗi người qua sự nhận biết về hạnh phúc, khổ đau, nhận biết phẩm chất về đời sống của mình cũng như nhận biết trong phạm vi nào mình có sự thoả mãn nhiều hay ít. Tuy nhiên, những thành phần này cũng liên hệ với nhau và ảnh hưởng qua lại với nhau.

CẦN LÀM CHO HẠNH PHÚC SỐNG CÓ MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA GIA TĂNG

Giáo sư tâm lý học Ryff[12] chú trọng đến và đề cao hạnh phúc do sống đời có ý nghĩa (eudaimonia) và cho rằng loại hạnh phúc này có sáu thành phần của đời sống lành mạnh có ý nghĩa như sau:

1. Sự tự chủ.

2. Phát triển nhân cách.

3. Chấp nhận chính mình.

4. Đời sống có mục đích.

5. Làm chủ hoàn cảnh.

6. Tương quan tốt đẹp với người khác.

Tuy nhiên, theo giáo sư Seligman, chuyên gia nghiên cứu và dạy về môn phát triển hạnh phúc tại trường đại học University of Pennsylvania, trước đây đề cao hạnh phúc do sự thỏa mãn trong đời sống[13] nhưng sau đó chủ trương sống đời lành mạnh và có ý nghĩa là quan trọng nhất, còn hạnh phúc do thỏa mãn các niềm vui không còn là cần thiết nữa.

Căn cứ vào các cuộc nghiên cứu mới nhất trong ngành tâm lý và thần kinh học, trong cuốn sách về cách làm cho đời người nở rộ “Flourishing”,[14] giáo sư Seligman đã phát biểu như sau:

Tôi thật không ưa thích chữ hạnh phúc vì chữ này đã bị xài quá nhiều cho nên trở thành vô nghĩa”.

Ông nói rõ hạnh phúc không phải là những cảm giác sung sướng hay những nụ cười:

Giờ đây, tôi cho rằng chủ đề của tâm lý tích cực là sống đời lành mạnh và cây thước vàng để đo sống đời lành mạnh là sự nở rộ đời người, và mục đích của ngành tâm lý tích cực là làm cho gia tăng sự nở rộ này. Lý thuyết  này tôi gọi là lý thuyết sống đời lành mạnh vốn khác xa với lý thuyết về hạnh phúc thứ thiệt…”.

Hạnh phúc thứ thiệt cũng là lý thuyết do chính ông đề ra mấy năm trước đây nhấn mạnh đến sự cần thiết làm phát sinh niềm vui để làm cho mình được thỏa mãn nên có hạnh phúc. Lý thuyết hạnh phúc thứ thiệt nhấn mạnh đến niềm vui làm cho con người được thỏa mãn là cột trụ quan trọng của đời sống hạnh phúc.

Tuy nhiên, khi xây dựng lý thuyết sống đời lành mạnh, giáo sư Seligman có chủ trương mới khác hẳn điều nói trên.  Trong tác phẩm cách làm cho đời người nở rộ “Flourishing” nói trên cùng với nền tảng của chương trình giảng dạy cũng như thực hành sống đời lành mạnh để làm cho đời người nở rộ dựa vào cái khung gọi là PERMA:

P- Positive emotion. Cảm xúc tích cực là những niềm vui xuất hiện khi chúng ta có những sự thỏa mãn hay làm những điều tốt. Niềm vui ở đây không phải là cứu cánh duy nhất chúng ta tìm kiếm mà chỉ là một thành phần của sống đời có ý nghĩa hay sống đời lành mạnh xuất hiện trong các sinh hoạt hàng ngày.

E-Engagement. Sự dấn thân hay tâm chúng ta ở trong trạng thái chú tâm hoàn toàn, được gọi là tâm trôi chảy (flow) do sự chú ý hoàn toàn vào công việc làm nên không biết thời gian qua nhanh chóng. Sau đó, khi nhớ lại mới biết mình đã có niềm vui khi làm việc, tranh giải hay tham dự trò chơi.

R-Relationship. Trong mối tương quan với người khác, chúng ta có tình thân thiết, lòng tử tế, sự kết thân, sự thông cảm và cùng nhau chia sẻ niềm vui, tiếng cười,  sự thành công, niềm tự hào làm cho đời sống có nhiều ý nghĩa.

M. Meaning. Ý nghĩa. Cảm nhận đời sống mình có ý nghĩa do mình là một thành phần của một thứ lớn hơn và có một mục đích lớn hơn là phục vụ cho cái tôi nhỏ bé.

A. Acccomplishment. Sự hoàn thành công việc. Khi làm các công việc thì hoàn tất chúng tốt đẹp để có được những thứ như tiền bạc, danh tiếng, thành công, thắng các cuộc tranh tài hay làm các công việc bình thường khác như nấu ăn, làm vườn, sửa xe, dọn dẹp nhà cửa cho sạch sẽ là những công việc bình thường không mang đến tiền bạc hay danh vọng. Khi làm việc gì thì làm một cách tốt đẹp và giải quyết những khó khăn liên hệ đến công việc đang làm với sự chú tâm. Sự hoàn thành công việc hay làm việc có kết quả tốt đẹp trong các lãnh vực nói trên, tự nơi bản thân của chính nó, là một yếu tố của đời sống lành mạnh dù cả trong trường hợp sự hoàn thành công việc này không đem đến cho mình các cảm giác sung sướng, không đem đến sự thân thiết với người khác nhiều hơn hay làm cho gia tăng ý nghĩa đời sống. Như trường hợp những người chịu đựng khí hậu khắc nghiệt, quên ăn, bỏ ngủ, không màng đến gia đình hay tiện nghi vật chất làm cho họ sung sướng, dành hết năng lực và thì giờ vào công việc làm họ muốn như sửa máy móc, nghiên cứu, sáng chế hay viết văn.

Giáo sư Seligman cho rằng mỗi người có động lực ngấm ngầm thúc đẩy khác nhau. Đó là những nhu cầu thúc đẩy hướng đến sự thành đạt khác nhau tạo ra giá trị trong hành động (Value In Action hay VIA) mà ông gọi là ký hiệu của những sức mạnh (Signature Strengths). Chính sự thúc đẩy này làm cho mỗi người chọn những công việc làm hay có thái độ khác nhau trong đời sống cũng như có những cá tánh khác nhau. Người nào may mắn làm công việc hợp với nhu cầu thúc đẩy nơi họ thì có khả năng làm việc bền bỉ đưa đến nhiều thành công có giá trị tốt đẹp. Như trường hợp người có tính ưa tìm tòi thúc đẩy mà làm việc nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, ngành khảo cứu văn học hay nhân chủng học thì họ sẽ làm việc hăng say và mang đến nhiều khám phá giá trị. Một người có lòng chánh trực mà làm thẩm phán thì sẽ đem lại sự tốt đẹp cho bản thân và cộng đồng.

24 KHẢ NĂNG LÀM PHÁT SINH SỨC MẠNH TÂM LINH VÀ THỂ CHẤT CON NGƯỜI

Những động lực ngấm ngầm thúc đẩy con người hoạt động nói trên được giáo sư Peterson và giáo sư Seligman[15] trình bày trong sáu khả năng đạo đức con người hay sáu đức tính. Mỗi loại đức tính gồm có nhiều cá tính tốt, có sức mạnh thúc đẩy giúp hành động tốt đẹp và đưa đến thành công. Tổng cộng nơi tâm con người bao gồm 24 khả năng làm cho con người gia tăng hạnh phúc qua sự phát triển sức mạnh tinh thần, cảm xúc và thể chất con người. Tuy nhiên, mỗi người có những khả năng khác nhau với sức mạnh khác nhau tạo nên nét đặc thù của tính tình người đó. Giáo sư Seligman khuyến khích mỗi người cần trắc nghiệm mình có những khả năng nào mạnh và nương theo đó mà phát triển nghề nghiệp chuyên môn, khả năng sáng tạo hay tương quan với người khác để sống đời có ý nghĩa, lành mạnh, hạnh phúc và thành công. 24 khả năng này được quy vào trong sáu đức tính chính như sau:

1. Siêu việt hay vượt lên trên (transcendence)

Tâm linh hay tính chất tinh thần (spirituality)

Có những niềm tin mạnh mẽ, mạch lạc và rõ ràng về ý nghĩa của đời sống. Đời sống có một mục đích cao hơn và sự có mặt của vũ trụ có một ý nghĩa. Những khả năng làm cho con người vượt lên cái tôi nhỏ bé là:

Thưởng thức được cái đẹp và cái hay

Nhận biết về cái đẹp, cái hay, cái tài giỏi nơi những hoạt động trong nhiều lãnh vực khác nhau của đời sống như nghệ thuật, thể thao hay văn hóa.

Hy vọng

Mong muốn điều tốt nhất sẽ có trong tương lai và cố gắng làm các việc để đạt được điều đó.

Lòng biết ơn

Biết mình đang hưởng những điều tốt và có lòng biết ơn những người đã có lòng tốt cũng như dành thì giờ để biểu lộ lòng biết ơn như đến thăm hay biên thư cám ơn.

Hóm hỉnh (humor)

Ưa thích cười và nói đùa cho vui, đem nụ cười đến cho người khác và làm cho họ thấy khía cạnh nhẹ nhàng của đời sống.

Nhiều sức sống

Đến với cuộc đời bằng nhiều hứng khởi và năng lượng, tràn đầy sức sống. 

2. Tính tình hòa nhã, tha thứ và khoan dung

Tha thứ cho những người làm sai cũng như chấp nhận sự yếu kém của họ, cho họ một cơ hội làm lại cuộc đời, không có thù hận.

Thận trọng

Cẩn thận khi quyết định chọn lựa, không chọn những rủi ro không cần thiết; không nói hay làm những điều gì sau này phải hối tiếc.

Khiêm tốn, nhũn nhặn

Để cho sự hoàn thành công việc nói lên khả năng mình, đừng cho mình có nhiều khả năng hơn mình thật sự đang có.

Tự điều hành

Có khả năng tự điều hành hay tự điều phục như làm cho dịu bớt những cảm xúc của mình cùng với các hành động của mình. Có kỷ luật, biết tự kiềm chế.

3. Công chính

Công bằng

Đối xử với mọi người công bằng và không thiên vị thân sơ. Không để cho tình cảm cá nhân ảnh hưởng làm cho quyết định liên hệ người khác bị thiên lệch.

Bổn phận công dân, đoàn viên

Làm việc hòa hợp trong nhóm hay đoàn thể và trung thành với nhóm.

Khả năng lãnh đạo

 Khích lệ nhóm, mà mình đang là nhóm viên, hoàn thành các công việc cùng lúc duy trì sự đoàn kết nội bộ.

4. Tình nhân đạo

Lòng tử tế

Giúp đỡ người khác và làm những công việc tốt cho người khác.

Tình thương

Quý trọng sự tương quan thân thiết với người khác nhất là đối với những người đã chia sẻ hay quan tâm tới mình.

Thông minh xã hội

Nhận biết về cảm xúc của người khác cũng như chính mình cũng như nguyên nhân làm phát sinh ra những cảm xúc đó.

5. Lòng can đảm

Dũng cảm

Không thu người nhỏ lại, hay sợ hãi, trước những sự đe dọa, thách thức, khó khăn hay đau đớn. Hành động theo điều mình tin là đúng dù có nhiều người nghĩ khác.

Bền bỉ

Hoàn tất công việc mà mình khởi đầu. Bền bỉ tiếp tục làm cho xong việc dù gặp phải gian nguy, trắc trở hay khó khăn.

Chính trực  

Sống chân thật, mình như thế nào thì trình bày như thế đó. Có trách nhiệm về cảm xúc và hành động của mình.

6. Trí tuệ và kiến thức

Có óc sáng tạo

Có đường lối suy tư mới mẻ đem lại kết quả cụ thể qua sự vạch ra đường lối và làm việc.

Tính hiếu kỳ

Ưa thích tìm tòi, khám phá nghiên cứu và tìm hiểu đồng thời có niềm vui trong những hoạt động này.

Ưa thích học hỏi

Tinh thông những kỹ năng, những đề tài và những kiến thức chuyên môn do tự mình nghiên cứu hay do học tại trường.

Cởi mở

Suy nghĩ vấn đề bằng cách quan sát từ mọi khía cạnh khác nhau. Đối chiếu mọi chứng cứ không thiên vị để hiểu vấn đề thật sự rõ ràng.

Có cái nhìn toàn diện vấn đề

Có khả năng cố vấn, chỉ dẫn cho người khác một cách thông tuệ. Có khả năng nhìn toàn diện thế giới để hiểu được ý nghĩa về mình cũng như về người.

Giáo sư Seligman là con người hành động do sự thúc đẩy của lòng mong muốn đem lại lợi ích cho xã hội. Những hoạt động hướng dẫn làm cho đời người nở rộ của giáo sư Seligman được cụ thể hóa trong ba chương trình:

- Bằng cao học (thạc sĩ) về ứng dụng tâm lý tích cực Master of Applied Positive Psychology (MAPP) tại viện đại học University of Pennsylvania để ứng dụng cụ thể vào đời sống hàng ngày.

- Chương trình hợp tác với Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, huấn luyện hàng trăm ngàn quân nhân thuộc quân đội Mỹ qua chương trình làm gia tăng sức mạnh tinh thần và thể chất qua sự huấn luyện Comprehensive Soldier Fitness and Master Resilience Training.

- Chương trình giúp những quân nhân bị chứng hậu chấn thương sau khi tham chiến phục hồi và phát triển, Post-Traumatic Stress Disorder (PTSD) into Post-Traumatic Growth (PTG).

Ông hy vọng khi nhiều người thực hành sống đời lành mạnh và có ý nghĩa qua phương pháp làm nở rộ đời người PERMA thì hy vọng đến năm 2051, ba mươi mốt phần trăm nhân loại sẽ nở rộ, hay sống đời thật sự hạnh phúc.

ĐỨC PHẬT DẠY HÃY LÀM GIA TĂNG HẠNH PHÚC

Quan niệm hạnh phúc do phong trào nghiên cứu và ứng dụng này đã thành công đã cất cánh và bay cao qua sự ứng dụng cụ thể trong các ngành y tế, giáo dục, thương mại và cả quân sự tại Hoa Kỳ.

Đạo Phật phân tích rất chi tiết về các loại hạnh phúc do đáp ứng các nhu cầu vật chất hay không phải vật chất. Điều đặc biệt là đức Phật khích lệ các đệ tử của Ngài trên 2,500 năm trước đây là phải có ý muốn làm cho niềm vui có phẩm chất, có ý nghĩa phát sinh, hưởng niềm vui và làm cho niềm vui kéo dài:

An vui chưa sinh, người ấy có thể khiến cho chóng sinh, an vui đã sinh, người ấy có thể khiến cho không mất. Đó gọi là thiện nam tử đầy đủ Thiện Tri Thức”.[16]

Chính bản thân đức Phật, qua sự thực hành tu tập cũng thường trải nghiệm niềm an vui sâu thẳm. Niềm an vui kỳ diệu này thật khác xa với những khoái cảm của nhà phân tâm học Sigmund Freud do chất ma túy hay thuốc lá mang lại được đức Phật nói rõ như sau:

Lại nữa, Tỳ kheo tu tập niệm thân như sau. Tỳ kheo có hỷ lạc do định sanh nhuần thấm thân, phổ biến sung mãn. Khắp trong thân thể, hỷ lạc do định sanh không đâu không có. Cũng như suối trên núi trong sạch không nhơ, nước từ bốn phương chảy đến, đổ vào một cách tự nhiên, tức thì đáy suối nước tự phun lên, chảy tràn ra ngoài, thấm ướt cả núi, phổ biến  sung mãn, không đâu không có. Cũng vậy, Tỳ kheo  có hỷ lạc do định sanh nhuần thấm thân, phổ biến sung mãn. Khắp trong thân thể, hỷ lạc do định sanh không đâu không có...”.[17]

Qua lời dạy của đức Phật nói rõ về trạng thái hạnh phúc nơi thân thể khi thực hành phương pháp tu tập nói trên, chúng ta thấy rõ con người có khả năng phối hợp hai loại hạnh phúc có được niềm sung sướng nơi thân tràn đầy khi sống đời lành mạnh có ý nghĩa qua sự thực hành tu tập.

Như trong một bản tin của hãng thông tấn Reuter vào ngày 21 tháng 5 năm 2003 đã gởi một bản tin đi khắp thế giới báo tin là các nhà thần kinh học, sau khi đo bộ não, đã xác nhận những ngươi Phật tử thực hành tu tập là những người hạnh phúc và có tâm bình an. Họ đã dùng điện não kế để đo các hoạt động trong bộ não những người tu tập theo Phật giáo ở vùng Dharamsala, Ấn Độ, nơi ngài Đạt Lai Lạt Ma và chư tăng Tây Tạng có các chương trình hướng dẫn Phật tử tu học, và thấy hoạt động của các tế bào thần kinh vùng hạnh phúc hoạt động lâu bền. Điều này tiếp tục xảy ra cả sau khi họ không ngồi thiền. Bản tin đó có ghi lời phát biểu của giáo sư Owen Flanagan, thuộc viện đại học Duke University ở bang North Carolina như sau:

Bây giờ chúng ta có thể giả thiết với sự tự tin rằng những người Phật tử hạnh phúc, bình an này thường đến vùng Dharamsala thật sự là những người hạnh phúc. Một giả thiết hợp lý nhất là sự thực hành Phật pháp tinh tấn đã đưa đến kết quả mà mọi người chúng ta đang tìm kiếm”.

Trên 2,500 năm qua, truyền thống thực hành tu tập trong đạo Phật của ba tông phái Thiền, Tịnh, Mật cũng như các tông phái khác đã chứng tỏ con người đã có cách làm cho trạng thái hạnh phúc kỳ diệu phát sinh. Ngày nay khoa học đã chứng minh con người cần có hạnh phúc vì hạnh phúc đem lại rất nhiều thứ rất tốt đẹp cho đời sống con người.

ĐỨC PHẬT DẠY PHẢI CHÚ TRỌNG ĐẾN HẠNH PHÚC DO SỐNG ĐỜI CÓ MỤC ĐÍCH VÀ CÓ Ý NGHĨA

Trên 2,500 năm trước đây, đức Phật thấy rõ có sự liên hệ và ảnh hưởng qua lại giữa hai loại hạnh phúc tự bản thân mình cảm nhận niềm vui ưa thích và sống đời có ý nghĩa. Điều này chính các chuyên gia tâm lý trong thế kỷ XXI như giáo sư Hicks[18] và các đồng nghiệp[19], qua các cuộc nghiên cứu nghiêm túc về hạnh phúc, thấy rõ hai loại hạnh phúc do niềm sung sướng và hạnh phúc do sống đời có ý nghĩa có mối liên hệ với nhau mật thiết. Hai loại hạnh phúc này có cùng những nguồn gốc như có sự nối kết xã hội và có thể hỗ tương ảnh hưởng lẫn nhau.[20] Ngoài ra, những cảm xúc tích cực dẫn đến sự tìm kiếm ý nghĩa tốt đẹp của đời sống và sự tìm ra ý nghĩa đời sống làm gia tăng sự cảm nhận niềm sung sướng.[21]

Đức Phật nhắc nhở con người cần thực hành đời sống hạnh phúc cho bản thân và mang lại niềm vui cho mọi người trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Nhiều người Phật tử thời nay cũng như thời đức Phật còn tại thế mong muốn nghe lời Ngài giảng dạy về sự thực hành đạo Phật để có được niềm hạnh phúc lâu dài và phù hợp với hoàn cảnh sinh hoạt thường ngày. Khi đức Phật ở thị trấn Kakkarapatta thuộc dân chúng Koliya, một người Phật tử tại gia đến đảnh lễ đức Phật rồi thưa Ngài như sau:

Bạch Thế Tôn, chúng con là những gia chủ thọ hưởng dục vọng. Sống hệ phược với vợ con, dùng các hương chiên đàn ở Kasi, đeo và dùng các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, thọ lãnh vàng và bạc. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho những người như chúng con, thuyết thế nào mà để những pháp ấy đem đến cho chúng con hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại, và an lạc và hạnh phúc trong tương lai”.[22]

Chúng ta đã biết, người Phật tử này chỉ chú tâm vào loại hạnh phúc do niềm vui sướng trong đời sống mà không biết đến hạnh phúc do thực hành đời sống có ý nghĩa qua sự tu tập và đem lại lợi ích cho tha nhân. Những điều này đức Phật đã nhiều lần giảng dạy cho người Phật tử tại gia ở nhiều nơi.  Như trong trường hợp khi đức Phật ở nơi thị trấn của dân  Malla, có thôn trưởng Ràsiya đến hỏi về cách sinh sống, tiêu xài sau khi kiếm ra nhiều của cải. Đức Phật nói về cách làm ra tài sản qua sự làm việc chuyên cần để có được tài sản rồi hưởng các thứ đó mà cũng không chia sẻ với ai là người đáng bị chỉ trích. Ngài ca ngợi người thực hành chánh mạng qua sự làm việc và tiêu xài như sau:

Ở đây, này thôn trưởng, có người hưởng thọ vật dục, tìm cầu tài sản hợp pháp và không dùng sức mạnh. Sau khi tìm cầu tài sản hợp pháp và không dùng sức mạnh, người ấy tự mình vui sướng, hoan hỷ, san sẻ và làm các công đức. Người ấy hưởng thọ các tài sản ấy, không có tham trước, không có say đắm, không có phạm tội, thấy sự nguy hiểm và với trí tuệ xuất ly. Người thọ hưởng vật dụng này, này thôn trưởng, về bốn phương diện được tán thán. Về bốn phương diện nào được tán thán? Người ấy tìm cầu tài sản hợp pháp và không dùng sức mạnh, về phương diện thứ nhất này, người ấy được tán thán. Người ấy tự mình vui sướng, hoan hỷ, về phương diện thứ hai này, người ấy được tán thán. Người ấy san sẻ và làm các công việc công đức,về phương diện thứ ba này, người ấy được tán thán. Người ấy thọ hưởng tài sản ấy không tham trước, không có say đắm, không có phạm tội, về phương diện thứ tư này, người ấy được tán thán.

Người hưởng thọ vật dục này, này thôn trưởng, về bốn phương diện được tán thán”.[23]

Qua lời dạy của đức Phật với người cư sĩ tại gia nói trên, chúng ta thấy rất rõ ràng Ngài không chủ trương loại trừ những niềm vui do sự tiêu thụ mang đến trong đời sống hàng ngày mà các nhà tâm lý học hiện nay gọi là những niềm vui làm phát sinh hạnh phúc do mình cảm nhận được khi có những cảm giác sung sướng. Tuy nhiên, Ngài nhắc nhở những niềm vui đó phải là những thứ lành mạnh và tốt đẹp cho bản thân cộng thêm với những niềm vui phát sinh từ những việc làm có ý nghĩa và mục đích tốt đẹp. Đó là niềm hạnh phúc do sống đời có ý nghĩa mang lại. và hai thứ này liên hệ mật thiết với nhau một cách rõ ràng.

Phật dạy người Phật tử phải tự huấn luyện mình, hay tu tập,  để cho mình được hạnh phúc, vui vẻ, thành thật, biết thương yêu và làm điều lành. Có được những đức tính này thì tự nhiên mình trở thành một người làm những điều tốt đẹp và có sự thấy biết chân thật hay thiện tri thức. Một người thiện tri thức thì đương nhiên thương yêu người khác và được người khác thương yêu và thân thiết. Nói khác đi, người Phật tử phải chủ động trong sự tạo dựng hạnh phúc cho mình và cho những người khác qua sự biểu lộ tình thương yêu và thân thiết trong đời sống giữa vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh em trong gia đình và bè bạn bên ngoài như lời Phật dạy: 

                  “Mẹ cha lo phục vụ,

                  Vợ con thường thương tưởng,

                  Vì hạnh phúc nội nhân,

                  Cùng với kẻ tùng sự,

                  Vì hạnh phúc cả hai,

                  Lời hòa nhã, giữ giới,

                  Vì hạnh phúc bà con,

                  Vì hương linh đi trước,

                  Vì mạng sống hiện đại,

                  Vì Sa môn, Phạm chí,

                  Vì chư Thiên bậc trí,

                  Thành người bạn hạnh phúc.

                  Sống gia đình, đúng pháp,

                  Vị ấy làm thiện sự,

                  Được cúng dường tán thán,

                  Đời này họ được khen,

                  Đời sau sống hoan hỷ...”.[24]

Ngoài sự chăm sóc hạnh phúc cho vợ chồng con cái, cho bà con và cho những người làm việc cho mình, một điều quan trọng khác đức Phật dạy người cư sĩ phải thực hành những sự đóng góp phúc lợi cho cộng đồng và xã hội như Ngài đã dạy trong kinh Tạp A Hàm, như sau:

                  “Trồng vườn cây ăn quả,

                  Rừng cây cho bóng mát,

                  Cầu thuyền dùng qua sông,

                  Tạo ra nhà phước đức,

                  Đào giếng giúp đỡ khát,

                  Khách xá giúp lữ hành;

                  Những công đức như vậy,

                  Ngày đêm thêm tăng trưởng”.[25]

Thực hành những điều nói trên chắc chắn sẽ có hạnh phúc do cảm nhận nhiều niềm vui và sống đời có ý nghĩa. Những người Phật tử có tu học có hạnh phúc và sống đời sống có mục đích và có ý nghĩa thì đức Phật gọi họ là các bậc Chân Nhân. Họ là những người biết sống hạnh phúc và biết cách đem lại hạnh phúc cho nhiều người:

Bậc chân nhân, này các Tỳ kheo, sinh ra trong gia đình, đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho nhiều người; đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho mẹ cha; đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho vợ con; đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho người hầu hạ, làm công; đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho các bạn bè, thân hữu; đưa lại lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho Sa môn, Bà-la-môn”.

Đức Phật thấy rõ người giàu có mà sống đời có ý nghĩa thì đem lại nhiều lợi ích cho xã hội. Do đó, Ngài luôn luôn khuyến khích các vị thương gia học hỏi các điều hay để phát triển sự nghiệp. Đức Phật ví họ như một trận mưa lớn làm cho lúa tốt tươi. Ngài khích lệ họ phải làm giàu thêm để giúp gia tăng phúc lợi, hạnh phúc và phát triển cho xã hội:

                  “Vì hạnh phúc nhiều người,

                  Hãy gây dựng tài sản,

                  Chư Thiên bảo vệ người

                  Biết bảo vệ đúng pháp,

                  Tiếng tốt không từ bỏ,

                  Người được học, nghe nhiều,

                  Đầy đủ các cấm giới,

                  An trú trên chánh pháp”.[26]

Những điều đức Phật dạy người cư sĩ thực hành để phát triển các niềm vui cho đời sống chính mình và sống đời có mục đích và có ý nghĩa qua sự đóng góp cho hạnh phúc xã hội gia tăng không phải chỉ là những giá trị đạo đức xã hội mà là những điều cần phải làm để cho con người có được niềm hạnh phúc thật sự cùng sức khỏe lâu dài. Những điều này được các nhà khoa học hiện đại nghiên cứu rất thâm sâu và tìm thấy những lợi ích chúng mang lại cho cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội.

SỐNG CÓ MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA LÀM GIA TĂNG SỨC KHỎE

Giáo sư thần kinh học Steven Cole[27], chuyên gia nghiên cứu thuộc viện đại học miềm nam bang California UCLA,  làm trưởng nhóm nghiên cứu tìm hiểu bộ di truyền con người (human genome) liên hệ đến các loại hạnh phúc khác nhau ra sao. Bộ di truyền của chúng ta có những đơn vị cơ bản của di truyền được gọi là gen và mỗi người có độ 21,000 gen. 

Các nhà tâm lý học chia hạnh phúc làm hai loại:

• Hạnh phúc do sống đời có mục đích  và có ý nghĩa (Eudaimonic well-being) như sống có lý tưởng đóng góp vào sự phát triển xã hội hay giúp người nghèo khổ.

• Hạnh phúc do các niềm vui mang lại (Hedonic well-being) như mua được một chiếc xe đẹp theo ý mình mong muốn, ăn uống ngon miệng các thức ăn mình ưa thích hay mua được áo quần đẹp như ý, làm cho mình thỏa mãn.

Để biết rõ những người tham dự cuộc nghiên cứu có hạnh phúc loại nào, các chuyên gia hỏi họ những câu hỏi để xếp họ vào hai nhóm hạnh phúc khác nhau nói trên.

1. Câu hỏi để biết về mức độ hạnh phúc do sống đời có mục đích và có ý nghĩa. Người trả lời cho biết trong tuần qua họ có bao nhiêu lần cảm thấy như vậy từ số 0 là không bao giờ cả, số 1 và 2 là một hay hai lần, số ba là độ ba lần, số 4 là gần như mỗi ngày và số 5 là ngày nào cũng có.

• Bao nhiêu lần (trong tuần qua) bạn cảm thấy đời mình có mục đích hay có ý nghĩa?

• Bao nhiêu lần bạn cảm thấy bạn có điều gì đóng góp cho xã hội?

• Bao nhiêu lần bạn cảm thấy bạn thuộc vào một cộng đồng/một nhóm xã hội?

2. Những câu hỏi để biết mức độ hạnh phúc do có sự thỏa mãn từ các niềm vui đem lại. Trong tuần qua:

• Bao nhiêu lần bạn thấy mình có hạnh phúc?

• Bao nhiêu lần bạn cảm thấy thích thú?

• Bao nhiêu lần bạn cảm thấy thỏa mãn?

Sau khi các người tham dự cuộc nghiên cứu trả lời các câu hỏi và được xếp loại thành hai nhóm hạnh phúc do có những cảm giác sung sướng và hạnh phúc do có đời sống ý nghĩa và có mục đích, các chuyên viên lấy máu của hai nhóm người này để tìm hiểu sự khác nhau trong bộ di truyền của họ ra sao.

Kết quả thử nghiệm làm cho các chuyên gia nghiên cứu ngạc nhiên:

- Những người hạnh phúc do đời sống có mục đích và có ý nghĩa thì có mức độ viêm thấp cùng với mức độ đề kháng chống lại vi khuẫn gây bệnh tật cao.

- Ngược lại, những người có hạnh phúc do có nhiều niềm sung sướng thì có mức độ viêm cao và mức kháng thể chống vi khuẩn gây bệnh tật thấp.

Các yếu tố di truyền hay gen trong cơ thể chúng ta có thể biểu lộ (gene expression), hay hoạt động, tốt lên làm cho chúng ta gia tăng sức khỏe hay xấu đi làm cho chúng ta bị bệnh tật. Như khi chúng ta sống ở vùng không khí trong sạch hay dinh dưỡng lành mạnh thì gen hoạt động tốt lên làm cho chúng ta khỏe mạnh, còn khi ở nơi ô nhiễm hay ăn nhiều thịt mỡ thì gen hoạt động xấu đi làm phát sinh bệnh tật.

Tại sao hai loại hạnh phúc khác nhau một thứ làm cho con người khỏe mạnh và thứ kia làm cho con người bệnh tật? Các chuyên gia nghiên cứu giải thích như sau:

- Hạnh phúc từ các niềm vui làm cho con người thỏa mãn chỉ là những thứ hạnh phúc mong manh, ngắn hạn, không có thực chất bền vững. Chúng xuất hiện khi con người tìm cầu sự thỏa mãn như ăn món ngon hay mua áo quần đẹp. Nhưng sau khi có được các thứ này thì niềm vui cũng hết nhanh chóng.

- Hạnh phúc do sống đời có mục đích và có ý nghĩa thâm sâu không lệ thuộc vào sự tiêu thụ các sản phẩm. Đó là những hoạt động lâu dài hướng về một mục đích lớn hơn trong đời sống. Chính vì đó làm phát sinh niềm hạnh phúc dài hạn đem lại cho đời sống chúng ta nhiều ý nghĩa tốt đẹp và mục đích cao quý để hướng tới lâu dài.  

• Viêm là một phản ứng xảy ra khi cơ thể bị thương tổn như khi chúng ta bị thương thì cơ thể làm cho chỗ vết thương nóng lên để giết các vi khuẩn xâm nhập. Tuy nhiên, nếu tình trạng viêm kéo dài thì cơ thể sẽ bị bệnh tật như trong trường hợp xảy ra cho những người bị chứng căng thẳng dài hạn. Khi so sánh những người hạnh phúc do sống đời thỏa mãn với những người bị chứng căng thẳng hay trầm cảm lâu dài thì các yếu tố di truyền DNA (hay tiếng Pháp ADN) của họ giống nhau. Nói khác đi, người có nhiều hạnh phúc do thỏa mãn những điều mình ưa muốn thì mức độ viêm cao và mức độ kháng thể chống lại vi khuẩn xâm nhập nơi cơ thể họ rất thấp. Như vậy, họ có khuynh hướng bị nhiều bệnh tật.

Giáo sư Steven Cole kết luận:

Cuộc nghiên cứu này cho chúng ta thấy làm điều tốt và cảm nhận niềm sung sướng có những tác động khác nhau vào bộ di truyền của con người. dù hai loại hạnh phúc này đều làm phát sinh những cảm xúc tích cực. Về mặt ý thức, con người cảm nhận hai loại hạnh phúc này như nhau. Tuy nhiên, bộ di truyền lại cảm nhận nhạy bén hơn sự khác biệt của hai loại hạnh phúc này”.

Để nói rõ về nguyên do có sự khác biệt sâu xa này, một bên đem lại sức khỏe và một bên làm phát sinh bệnh tật, giáo sư Cole giải thích là hạnh phúc do thỏa mãn lệ thuộc vào sự tìm cầu để cho có sự thỏa mãn tiếp tục có hoài đưa đến hậu quả như sau:

Khi có điều gì gây trở ngại cho sự tìm kiếm loại hạnh phúc do thỏa mãn này – ví dụ khi bạn bị thương hay bị mất đi (thứ làm cho thỏa mãn đó) thì toàn thể nguồn hạnh phúc đó bị đe dọa. Như vậy, bạn sống cận kề bờ của căng thẳng”.

Giáo sư Cole cho rằng hạnh phúc do sống đời có mục đích và ý nghĩa là một loại hạnh phúc có gốc rễ sâu và vững chắc. Đây là niềm hạnh phúc phát sinh từ sự kết thân với những người khác cùng những công việc chúng ta làm để cống hiến những điều tốt đẹp cho gia đình, cộng đồng và xã hội nên chúng ta cảm nhận rõ ràng đời sống mình có ý nghĩa và có mục đích tốt đẹp. Chính nhờ đó mà chúng ta có sức mạnh bên trong cũng như sự hỗ trợ, nâng đỡ bên ngoài để tiến tới và vượt qua những khó khăn khi chúng ta gặp phải.

Những kết quả khoa học tìm thấy nói trên rất phù hợp với lời dạy của đức Phật. Ngài nhắc nhở người Phật tử thực hành sống đời hạnh phúc, phải làm cho hạnh phúc phát sinh để có niềm vui sống.

Vào tháng bảy năm 2013, giáo sư Fredrickson[28] đã xác nhận lại lợi ích của các cảm xúc tích cực nói trên qua các cuộc nghiên cứu khoa học như sau:

Những kinh nghiệm hàng ngày về các cảm xúc tích cực báo cho biết trước cũng như làm phát triển tài nguyên nơi mỗi người như khả năng (làm các công việc), sống đời có ý nghĩa (sống có mục đích), thái độ tích cực (có lối suy nghĩ tích cực), có sức chịu đựng bền bỉ, chấp nhận con người chính mình, có các tương quan tốt đẹp với người khác cũng như có sức khỏe tốt. Nói cách khác, cảm nhận niềm vui nơi mình không chỉ là một thành phần có mặt thụ động bên cạnh sự hoạt động tối ưu như là một dấu hiệu báo cho biết có sự nở rộ đời người. Chính sự cảm nhận niềm vui thúc đẩy hoạt động tối ưu bằng cách xây dựng những tài nguyên bền vững mà con người có thể sử dụng để lèo lái cuộc đời mình với sự thành công lớn lao hơn”.

Đạo Phật rất chú trọng đến phát triển hạnh phúc mỗi người. Đức Phật dạy có 40 loại hạnh phúc trong đó có 4 thứ quan trọng nhất cho những người Phật tử sống cuộc đời tại gia:[29]

1. Hạnh phúc do không bị khổ sở vì nợ nần (Anaya sukha).

2. Hạnh phúc do có của cải và tài sản (Atthi sukha).

3. Hạnh phúc vì do có tài sản nên sống cuộc đời có nhiều tiện nghi (Bhoga sukha).

4. Hạnh phúc do sống đời có mục đích và có ý nghĩa. Tuy nhiên, tất cả những của cải và tiện nghi đó thật là vô ích nếu đời sống không có kinh nghiệm về những hạnh phúc của đời sống lành mạnh và tốt đẹp hay thiện như tôn trọng dời sống của mình và của người, bảo vệ hạnh phúc gia đình, thành thật với người, tôn trọng tài sản người khác và không sử dụng các chất gây mê làm hại mình và hại người qua sự thực hành năm giới của người Phật tử (Anavajjasukha) là không sát hại, không tà dâm, không vọng ngữ, không trộm cắp và không sử dụng các chất gây mê mờ. Theo ngôn ngữ của các nhà tâm lý học hiện nay, khi một người Phật tử quay về nương tựa ba viên ngọc quý là Phật, Pháp và Tăng bảo với lời phát nguyện:

Con về nương tựa Phật, bậc có sự hiểu biết chân thật và chỉ dẫn cho con trong cuộc đời.

Con về nương tựa pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.

Con về nương tựa tăng, đoàn thể của những người thực hành lời Phật dạy”.

 thì họ quyết định chọn lựa đi theo con đường hạnh phúc do sống đời có mục đích và ý nghĩa (eudaimonia). Sau đó, họ sẽ quyết định nhận lãnh và thực hành bắt đầu từ một đến năm giới. Đăc biệt trong Phật giáo, sự lựa chọn này đặt trên nền tảng tự do chọn lựa vì thấy lợi ích cho đời sống lành mạnh và hạnh phúc của chính bản thân mình, gia đình, cộng đồng và xã hội.

SÁU THÀNH PHẦN CỦA HẠNH PHÚC SỐNG CÓ MỤC ĐÍCH VÀ CÓ Ý NGHĨA

Giáo sư Ryff chú trọng đến hạnh phúc do sống đời có mục đích và có ý nghĩa. Cùng với chuyên gia tâm lý Keyses,[30] họ đã nhấn mạnh sáu thành phần của con người có hạnh phúc do sống đời có mục đích và có ý nghĩa  như sau:

1. Tự chấp nhận (Tôi ưa thích những khía cạnh của nhân cách mình (lề lối suy nghĩ, hành động và cách cư xử.) 

2. Tương quan tốt đẹp với người khác (Người khác nhận thấy tôi là người hay giúp đỡ kẻ khác, dành thời giờ cho người khác).  

3. Tính độc lập (Tôi có sự tin tưởng nơi các ý kiến của mình dù không hợp với nhiều người khác).

4. Có khả năng làm các công việc trong đời sống (Một cách tổng quát, tôi chủ động trong các hoạt động tôi cần làm hàng ngày).

5. Phát triển nhân cách (Cho rằng điều quan trọng là có những kinh nghiệm mới thách thức chúng ta suy nghĩ về bản thân cũng như thế giới bên ngoài).

6. Sống đời sống có mục đích và có ý nghĩa (Nhiều người sống đời không có mục đích gì cả, như những kẻ lang thang không định hướng, tôi không phải là những người này).

Tuy nhiên, nữ giáo sư tâm lý học Carol Ryff nhắc nhở chúng ta cần lưu tâm đến yếu tố văn hóa liên hệ đến hạnh phúc do sống đời có mục đích và có ý nghĩa. Kể từ năm 1995, giáo sư Ryff cùng các đồng nghiệp ở viện đại học Wisconsin đã nghiên cứu 7.000 người để tìm hiểu sự liên hệ giữa hạnh phúc và sức khỏe tại Hoa Kỳ. Bà cũng tham gia một chương trình nghiên cứu tương tự tại Nhật Bản.[31]

Qua kinh nghiệm thực tế các cuộc nghiên cứu này. Giáo sư Ryff nhắc nhở cần phải chú trọng đến sự khác biệt giữa văn hóa Tây và Đông. Như ở Hoa Kỳ, người ta tôn sùng sự trẻ trung và đẹp đẽ, tuổi già bị xem như là một yếu tố tiêu cực. Ngược lại, ở Nhật Bản, người ta kính trọng người già và đề cao lòng hiếu thảo. Bà đã so sánh sự khác nhau như sau:

Chúng tôi tự hỏi sự tương phản với nền văn hóa Hoa Kỳ, đề cao tuổi trẻ và có khi đưa tới ý nghĩ già là một sự thất bại, nền văn hóa Nhật Bản có sự khác biệt gì trong tiến trình già và hạnh phúc? Chúng tôi tìm thấy những người cao niên ở Nhật Bản, khác với những người cao niên ở Hoa Kỳ, mức độ phát triển nhân cách không bị sút giảm. Điều này hỗ trợ cho ý kiến chúng tôi là trở thành già  ở Nhật Bản vốn dễ hơn ở Hoa Kỳ”.

Có một điều quan trọng mà các vị phụ trách chương trình hoàng pháp cần chú ý. Theo giáo sư Ryff:

Mặc khác, trong cả hai nền văn hóa Đông và Tây, chúng tôi tìm thấy những người cao niên có điểm thấp về mục đích trong đời sống. Điều đang xảy ra hiện nay là những người cao niên sống lâu hơn ở Nhật Bản và Hoa Kỳ là một điều thách thức. Nhật Bản, hiện nay thật sự có tỷ lệ người cao niên cao nhất so với bất cứ nước nào. Những người cao niên có điểm thấp về mục đích trong đời sống so với những nhóm trẻ tuổi hơn là điều quan tâm cho cả hai nước. Hai nước đang đối diện với những thách thức làm sao tìm ra được cách sử dụng tài ba cùng khả năng của những nhóm người lớn tuổi”.

Chúng ta đã biết hậu quả của thiếu sự cảm nhận về ý nghĩa của đời sống theo giáo sư Ryff[32] là sống mà không có định hướng, có ít mục đích và ít sự hướng đến các mục tiêu trong đời sống. Không thấy mục đích của đời sống mình trong quá khứ  và không có cái nhìn hay những niềm tin làm cho đời sống mình có ý nghĩa trong hiện tại. Đạo Phật có thể cung cấp cho những người cao niên gia tăng mục đích đời sống qua sự thực hành Bồ Tát Đạo là làm những điều mang lại lợi ích cho mình (như gia tăng sức khỏe và tuổi thọ) và cho người khác (như chỉ dẫn cho người khác về sự thực hành đạo Phật và tập luyện) qua sự thực hành và truyền bá chánh pháp. Qua hoạt động hoằng pháp, họ đặt cho mình một mục đích rõ ràng và cụ thể: Thực hành đạo Phật để sống có tình thương, có sự hiểu biết chân thật, có hạnh phúc, phục vụ cộng đồng và khi qua đời nguyện vãng sinh về thế giới chư Phật là chốn an vui kỳ diệu hay chốn Cực Lạc.

Đức Phật khuyến khích người cư sĩ cần phải tu tập, có kinh nghiệm tâm linh, hiểu biết về Phật pháp để đóng góp tích cực vào chương trình hoằng pháp  nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho người như Ngài dạy cho một người Phật tử như sau:

Khi nào mình muốn nghe diệu pháp và khích lệ người khác nghe diệu pháp; khi nào thọ trì những pháp đã được nghe và khích lệ người khác thọ trì những pháp được nghe; khi nào tự mình suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì; sau khi tự mình biết các ý nghĩa, biết pháp, thực hiện pháp đúng Chánh pháp, khích lệ người khác sau khi biết nghĩa biết pháp, thục hiện pháp đúng Chánh pháp. Cho đến như vậy, này Mahànàma, là nam cư sĩ tự lợi và lợi tha”.[33]                                                                                                                     

Tại sao đức Phật lại tha thiết đến việc phải đem lại lợi ích cho người khác? Câu trả lời nằm trong cuộc nghiên cứu của ngành tâm lý học hiện đại. Tiến sĩ Seligman, giáo sư về tâm lý học thuộc viện đại học University of Pennsylvania, một chuyên viên tâm lý nổi tiếng về tâm lý tích cực và có chương trình đặc biệt hướng dẫn phát triển hạnh phúc, tác giả cuốn “Hạnh Phúc Thứ Thiệt”, Authentic Happiness[34], cho rằng con người muốn có hạnh phúc thật sự và bền vững cần sống đời có ý nghĩa: Tham dự vào một tổ chức, sử dụng khả năng tốt nhất của mình để phục vụ một thứ gì lớn hơn là quyền lợi  cá nhân mình. Khi đời sống mình có một mục đích và ý nghĩa lớn lao hơn là chỉ riêng lo nghĩ cho chính mình thì hạnh phúc có mặt bền vững.

Như vậy, ngành tâm lý học chuyên về hạnh phúc cũng công nhận tự lợi chính là lợi tha mà người cư sĩ thực hành qua chương trình hoằng pháp trong thế kỷ XXI này. Đó là sự mời gọi đầy hứng thú người cư sĩ Phật tử thực hành lý tưởng Bồ Tát Đạo: Tu tập hay tự huấn luyện mình để phát triển hạnh phúc, sức khỏe và thành công và giúp cho người khác được gia tăng hạnh phúc, sức khỏe và thành công hầu cùng chung góp sức làm gia tăng tổng sản lượng hạnh phúc cùng với tổng sản lượng quốc gia ở bất cứ dất nước nào mình đang cư ngụ hay tại chính nơi quê hương mình.

Phần thực hành. Có hai phần thực hành trắc nghiệm mức độ hạnh phúc của mình và phần tập các thế Khí Công Tâm Pháp:

- Trắc nghiệm mức độ hạnh phúc của mình và xem mình có cần phát triển các thành phần của hạnh phúc do sống đời có mục đích và có ý nghĩa.

-  Phát nguyện giúp đỡ những người có nhu cầu tập luyện để phát triển sức khỏe và hạnh phúc. Tập thế Chánh Định, Khí Công Thiếu Lâm, Quân Bình Chân Khí, Vượng Não và Vận Nội Lực Gia Tăng Chân Khí. Nếu có thì giờ xin tập toàn bộ Khí Công Tâm Pháp theo dĩa DVD.

Phần 1. Trắc nghiệm đề biết rõ mức độ hạnh phúc của mình.

Chúng ta đã thực hành thở đan điền hay thở bụng. Xin ngồi thoải mái, thư dãn các bắp thịt và thở đan điền. Quý vị có thể chọn cách thực hành đếm số (sổ tức quán) hay niệm Phật tùy ý thích:

1. Đếm số: Hít hơi vào bụng phồng, thở ra bụng xẹp ra và đếm ‘một’ cho đến ‘mười’ thì bắt đầu đếm ‘một’ lại. nếu quên số đếm thì bắt đầu đếm lại số một.

2. Những vị thực hành thiền niệm Phật thì lúc hít vào không niệm, khi bắt đầu thở ra niệm thầm ‘A Di Đà Phật’ cùng lúc cảm nhận bụng xẹp dần xuống cùng với hơi thở ra. Sau chữ Phật thì bụng đã xẹp hết và bụng tự động phình lên một cách tự nhiên để bắt đầu hơi thở vào.

Thở càng nhẹ nhàng và càng tự nhiên càng tốt. Sau 10 phút ngồi thiền và thở đan điền, xin quý vị đánh giá mức độ hạnh phúc  hiện tại của mình theo phương pháp nghiên cứu của các nhà tâm lý học.

Chúng ta có thể biết được mức độ hạnh phúc nơi bản thân mình qua các câu trả lời mình có đồng ý với câu hỏi  từ  nhiều nhất (1) đến ít nhất (7). Xin bạn chọn con số từ 1 đến 7 để chỉ rõ mức độ đồng ý của bạn cho các vấn đề được nêu ra ở phía dưới. Giá trị của con số liên quan đến mức độ đồng ý với câu hỏi như sau:

1. Rất đồng ý (rất đúng với hoàn cảnh của mình đang sống nên đồng ý một cách mạnh mẽ).       

2. Đồng ý                                                                                                                                                        

3. Hơi đồng ý.

4. Không đồng ý mà cũng không không đồng ý.

5. Hơi không đồng ý.

6. Không đồng ý. 

7. Rất không đồng ý (không đồng ý mạnh mẽ).

Sau đó, xin quý vị đọc từng câu hỏi và ghi vào con số chỉ các mức độ đồng ý từ 1 đến 7 ở trên vào đầu mỗi câu hỏi.   Xin bạn trả lời chân thật và cởi mở:

- Hầu hết những thứ trong đời sống của tôi gần với điều tôi mong ước nhất.

- Những điều kiện sống của tôi thật tối hảo.

- Tôi thoả mãn với đời sống của tôi.

- Cho đến nay, tôi đã có được những thứ quan trọng tôi muốn có trong cuộc sống.

- Nếu tôi bắt đầu sống lại cuộc đời từ đầu, tôi sẽ không thay đổi hầu như bất cứ điều gì.

Sau đó, xin bạn cộng lại các con số ghi vào để biết được mình có nhiều hay ít hạnh phúc theo sự nhận biết của chính mình. Cuộc đánh giá này giúp bạn hiểu rõ được hạnh phúc của mình  nhiều hay ít cũng như sự thoả mãn hay không thoả mãn với chính đời sống của mình như sau:

- Cộng lại tất cả các con số ghi nơi đầu câu hỏi rồi chia cho 7.

- Tìm hiểu mức độ hạnh phúc của chính mình:

Số thành từ số 4 trở lên là không có hạnh phúc, số 3 là hơi hạnh phúc, số 2 là khá hạnh phúc, và số 1 là hạnh phúc rất nhiều.

Nếu bạn có từ 4 điểm trở lên, là thuộc nhóm không có hạnh phúc, bạn có thể làm cho hạnh phúc mình gia tăng qua các phương pháp thực hành trong sách này. Nếu bạn có từ 3 điểm là hơi hạnh phúc và 2 điểm là khá hạnh phúc, bạn có thể làm cho hạnh phúc gia tăng hơn nữa qua sự tập luyện.

Phần 2. Tự trắc nghiệm xem mình có cần phát triển sáu thành phần của hạnh phúc do sống đời có mục đích và có ý nghĩa hay không.

Sáu thành phần hạnh phúc nói trên được các chuyên gia tâm lý Ryff và Keyes xếp vào bảng định giá về mức độ cao và thấp của sáu thành phần sống đời hạnh phúc có mục đích và có ý nghĩa. Chúng ta có thể thực hành một phương pháp giản dị để tự biết mức độ mỗi thành phần  nơi mình qua đánh số từ 1 đến 10.1 là điểm thấp nhất, 5 là trung bình và cao nhất là 10. Xin quý vị suy nghĩ và cho điểm mình ở mỗi thành phần. 5 là trung bình. Từ 4 trở xuống 1 thì số càng nhỏ thì càng ít. 6 trở lên, số càng lớn thì càng có nhiều.

Xin bắt đầu tự cho điểm rồi đối chiếu với hai loại điểm cao và điểm thấp.

1. Tự chấp nhận con người mình:

• Người có điểm cao: Có thái độ tích cực về con người của mình. Biết rõ và chấp nhận những khía cạnh đời sống mình (bao gồm những cái tốt và cái xấu). Cảm thấy tích cực về đời sống mình trong quá khứ.  

• Người có điểm thấp: Không bằng lòng với con người của mình. Không bằng lòng với đời sống mình trong quá khứ. Thấy mình không có vài khả năng như ý. Muốn mình là người khác với chính mình trong hiện tại.

2. Tương quan tốt đẹp với người khác

• Người có điểm cao: Có mối tương quan ấm áp, ưng ý, tin tưởng với những người khác. Quan tâm đến đời sống kẻ khác. Có khả năng có sự  cảm thông, quý mến và thân thiết với người khác. Có sự hiểu biết về cho và nhận trong mối tương quan giữa con người.

• Người có điểm thấp: Có ít tình thân và sự tin tưởng trong mối tương quan với người khác. Thấy khó khăn khi bày tỏ sự ấm áp, cởi mở và quan tâm đến người khác. Bị cô lập và thấy khó khăn trong mối liên hệ với người khác. Không muốn hòa đồng để duy trì mối liên hệ quan trọng với người khác.

3. Tính độc lập

• Người có điểm cao: Có khả năng tự chủ và tự quyết định. Có khả năng chịu đựng được những áp lực xã hội khi làm việc gì ngoài lề lối thông thường. (Ví dụ: Một người biết mình có khả năng viết văn và muốn trở thành văn sĩ. Những người chung quanh chê bai, cho rằng đó là không tưởng, khuyến khích học các nghề như kỹ sư, bác sĩ thực dụng hơn. Người này theo đuổi con đường viết văn của mình và trở thành văn sĩ nổi tiếng). Tự mình có khả năng điều hành cảm xúc của mình và điều chỉnh thái độ của mình. Đánh giá con người mình bằng những tiêu chuẫn do mình đề ra .  

• Những người có điềm thấp: Luôn luôn quan tâm tới những điều người khác mong muốn về mình. Phải dựa vào ý kiến những người khác để làm những quyết định quan trọng. Thuận theo áp lực xã hội để suy nghĩ và hành động theo bên ngoài.

4. Có khả năng làm các công việc trong đời sống

• Người có điểm cao: Cảm thấy mình có khả năng  để giải quyết các vấn đề thông thường trong cuộc sống. Có thể làm được nhiều công việc thường ngày dù đôi khi phức tạp. Khi có cơ hội tốt thì biết cách sử dụng để làm tốt cho đời sống. Có khả năng chon lựa hay tạo ra những thứ đáp ứng cho nhu cầu đời sống của mình hay giá trị mình theo đuổi.

• Người có điểm thấp: Gặp khó khăn trong việc điều hòa cuộc sống hàng ngày. Cảm thấy khó khăn hay không thể thay đổi được hoàn cảnh sinh sống. Không biết được những cơ hội xuất hiện để nắm lấy và làm cho đời sống mình tốt hơn. Không có khả năng kiểm soát hoàn cảnh sinh sống.

5. Sống đời sống có mục đích và có ý nghĩa

• Người có điểm cao: Có mục đích trong đời sống và có định hướng trong đời sống. Cảm nhận đời sống mình trong hiện tại và trong quá khứ có ý nghĩa. Có những niềm tin làm cho đời sống mình có ý nghĩa. Có sự hướng đến và có mục tiêu cho đời sống của mình.

• Người điểm thấp: Thiếu sự cảm nhận về ý nghĩa của đời sống. Sống mà không có định hướng: Có ít mục đích và ít sự hướng đến trong đời sống. Không thấy mục đích của đời sống mình trong quá khứ và không có cái nhìn hay những niềm tin làm cho đời sống mình có ý nghĩa.  

6. Phát triển nhân cách

• Người điểm cao: Cảm thấy mình có sự tiếp tục phát triển. Thấy mình phát triển và lớn rộng ra. Mình sẵn sàng đón nhận những điều mới mẽ. Nhận biết được về tiềm lực phát triển của mình. Thấy có sự phát triển về nhân cách và thái độ của mình so với trước đây. Mình có những thay đổi tốt đẹp làm cho gia tăng kiến thức và sự hữu hiệu trong việc làm.  

• Người có điểm thấp: Cảm thấy bị trì trệ. Không có sự phát triển khi so với quá khứ. Cảm thấy chán và không thú vị trong cuộc sống. Cảm thấy không thể nào làm cho cách suy nghĩ và thái độ thay đổi tốt hơn.

Nếu quý vị có điểm cao xin làm cho cao hơn. Nếu quý vị có điểm trung bình hay thấp xin làm cho cao hơn qua cách tập luyện. Điều quan trọng chúng ta cần nhớ là các tiêu chuẫn nói trên áp dụng phù hợp nhiều hơn cho người Phương Tây. Người phương Đông, như giáo sư Ryff trình bày trong cuộc nghiên cứu nói trên, đặt nặng sự đồng thuận trong xã hội, lòng hiếu thảo với cha mẹ, sự kính trọng người lớn tuổi và tôn trọng truyền thống xã hội. Chúng ta đang ở vào thời đại toàn cầu hóa kinh tế đưa đến những giao thoa về ý tưởng các giá trị khác nhau của các nền văn hóa khác biệt. Sự thực hành và chứng nghiệm các kết quả thật sự tốt đẹp là nền tảng của mọi sự chọn lựa như lời đức Phật dạy các thanh niên trong kinh Kammala.

Kinh Kamala được nhiều học giả trên thế giới ca ngợi là một tuyên ngôn về tự do tôn giáo và ngôn luận, bác bỏ cách suy nghĩ máy móc theo giáo điều và lòng tin vô căn cứ hay mù quáng có thể tạo ra tranh chấp, hận thù và chiến tranh. Bài kinh nói đến lúc đức Phật với quý thầy đi đến thành phố của người Kamala. Những người Kamala rất mừng vì họ đã nghe danh tiếng đức Phật qua những bài thuyết giảng rõ ràng, có thứ lớp, trong sáng và dễ hiểu cho mỗi hạng người nghe. Họ đi đến tìm Ngài, đảnh lễ Ngài, chắp tay cung kính vái chào Ngài và ngồi xuống bên Ngài trong yên lặng. Sau đó có người đại diện hỏi Ngài như sau:

Bạch Ngài, có một số du sĩ, Bà-la-môn, đến đây. Họ thuyết mình và phát huy giáo lý của mình, nhưng họ bài xích, khinh miệt, chê bai và xuyên tạc giáo lý người khác. Lại có có một số du sĩ, Bà la môn, đến đây. Họ thuyết mình và phát huy giáo lý của mình, nhưng họ cũng lại bài xích, khinh miệt, chê bai và xuyên tạc giáo lý người khác. Bạch Ngài, với những người ấy, chúng con nghi ngờ phân vân ‘trong những du sĩ, Bà-la-môn này, ai nói đúng sự thật, ai nói không đúng sự thật?”.

Đức Phật lắng nghe điều trình bày và Ngài trả lời thật rõ ràng như sau:

Này quý vị Kamala, dương nhiên quý vị có những nghi ngờ, phân vân! Khi có những điều đáng nghi ngờ, đương nhiên phân vân khởi lên.

Này quý vị Kamala, đừng tin vì nghe truyền khẩu, đừng tin vì đó là truyền thống, đừng tin vì nghe đồn đãi, đừng tin vì được ghi trong kinh điển, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì suy diễn, đừng tin vì đã tư duy trên mọi lý lẽ, đừng tin vì dựa theo ý kiến và được cân nhắc, đừng tin vì vị ấy có quyền uy, đừng tin vì nghĩ rằng vị ấy là thầy của mình.

Nhưng này quý vị Kamala, khi nào quý vị tự mình biết rõ: ‘Các pháp này là bất thiện; các pháp này đáng chê; các pháp này bị người trí chỉ trích; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau’, quý vị hãy từ bỏ chúng”.

Rồi Ngài dạy họ về điều quan trọng như sau:

Khi nào quý vị biết rõ: ‘Các pháp này là thiện, các pháp này là đáng khen, các pháp này được người trí ca ngợi, các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa đến lợi lạc hạnh phúc’, quý vị hãy đạt đến và an trú”.

Như vậy, đức Phật nhắc nhở chúng ta phải chú ý nhận biết và phân biệt để thấy những lời rao truyền ra sao, có đúng sự thật không, có được những người hiểu biết trong các bộ môn nghiên cứu nghiêm túc chấp nhận hay không, khi thực hành có thực sự đem lại điều tốt đẹp như hạnh phúc hay không. Nếu đúng như vậy thì phải thực hành cho thành công và thực hành thường xuyên những điều đem lại lợi  ích cho đời sống chính mình và của mọi người. Vào thời đại kinh tế toàn cầu hóa với các phương tiện truyền thông nhanh chóng, lời dạy của đức Phật cho người dân Kamala càng trở nên chói sáng.

Phần 3. Phát nguyện giúp đỡ những người có nhu cầu tập luyện để phát triển sức khỏe và hạnh phúc rồi tập luyện.

Tập thế Chánh Định, Khí Công Thiếu Lâm, Quân Bình Chân Khí, Vượng Não và Vận Nội Lực Gia Tăng Chân Khí. Nếu có thì giờ xin tập toàn bộ Khí Công Tâm Pháp theo dĩa DVD.



[1]. Kahneman, D., Diener, E., & Schwarz, N. (Eds.). (1999). Well-being: The foundations of hedonic psychology. New York: Russell Sage Foundation, p. ix.      

[2]. Diener, E., Suh, E. M., Lucas, R. E., & Smith, H. L. (1999). Subjective well-being: Three decades of progress. Psychological Bulletin, 125: 276–302.    

[3]. Diener, Ed., Suh E., and Oishi S. (1997). Recent Findings on Subjective Well-Being. Running Head: Subjective Well-Being. Indian Journal of Clinical Psychology, March. 9.        

[4]. C. D. Ryff. (1989). Happiness is everything, or is it? Explorations on the meaning of psychological well-being. Journal of Personality and Social Psychology, 57: 1069-1081. 

[5]. Seligman, M.E.P. (2011). Flourish: A visionary new understanding of happiness and well-being. New York: Free Press.

[6]. Kesebir, P., & Diener, E. (2008). In pursuit of happiness: Empirical answers to philosophical questions. Perspectives on Psychological Science, 3: 117-125.            

[7]. Freud, S., and J. Riviere. Civilization and Its Discontents. New York: J. Cape and H. Smith, 1930, tr. 76.            

[8]. Ryan, R.M. and Deci, E.L. (2001) On happiness and human potentials: a review of research on hedonic and eudaimonic well-being. Annu. Rev. Psychol. 52 : 141–166.     

[9]. Diener, E. et al. (2003) Personality, culture, and subjective well-being: emotional and cognitive evaluations of life. Annu. Rev. Psychol. 54: 403–425.      

[10]. Kahneman, D. (1999) Objective happiness. In Foundations of hedonic psychology: Scientific perspectives on enjoyment and suffering New York: Russell Sage.  

[11]. Diener, E., Scollon, C. N., & Lucas, R. E. (2004). The evolving concept of subjective well-being: The multifaceted nature of happiness. Advances in cell aging and gerontology, 15: 187-219.         

[12]. Ryff, C. D.. (1989). Happiness is everything, or is it? Explorations on the meaning of psychological well-being. Journal of Personality and Social Psychology, 57, 1069-1081.  

[13]. Seligman, M.E.P. (2002). Authentic Happiness: Using the New Positive Psychology to Realize Your Potential for Lasting Fulfillment. New York: Free Press.  

[14]. Seligman, M.E.P. (2011). Flourish: A visionary new understanding of happiness and well-being. New York: Free Press, pp. 13-26.         

[15]. Peterson, C., Seligman, Martin E. P. (2004). Character strengths and virtues: A handbook and classification. Oxford: Oxford University Press.  

[16]. Kinh Tạp A Hàm, Uất Xà Ca, kinh 91, TT. Thích Đức Thắng dịch.               

[17]. Kinh Trung A Hàm, Phẩm Trường Thọ Vương, Kinh Niệm Thân, TT. Thích Tuệ Sỹ dịch.       

[18]. King LA, Hicks JA (2012) Positive affect and meaning in life: The intersection of hedonism and eudaimonia. The Human Quest for Meaning, ed Wong PT.  New York: Routledge, pp 125–142.   

[19]. King LA, Hicks JA, Krull JL, Del Gaiso AK (2006) Positive affect and the experience of meaning in life. J Pers Soc Psychol 90(1):179–196.   

[20]. Fredrickson BL, Cohn MA, Coffey KA, Pek J, Finkel SM (2008) Open hearts build lives: Positive emotions, induced through loving-kindness meditation, build consequential personal resources. Journal of Personality and Social Psychology 95:1045–1062.               

[21]. Yamasaki K, Uchida K, Katsuma R (2009) An intervention study of the effects of the coping strategy of “finding positive meaning” on positive affect and health. Int J Psychol 44(4):249–256.  

[22]. Kinh Tăng Chi Bộ, Phẩm Koliya, kinh Dighàjamu, HT. Thích Minh Châu dịch.      

[23]. Kinh Tương Ưng Bộ, Tương Ưng Thôn Trưởng, Ràsiya, HT. Thich Minh Châu dịch.              

[24]. Tương Ưng bộ, Phẩm Triền Cái, Thanh Niên Licchavi, kinh số 58, HT. Thích Minh Châu dịch.           

[25]. Kinh Tạp A Hàm, Công Đức Tăng Trưởng, kinh số 997, TT. Thích Đức Thắng dịch.

[26]. Kinh Tương Ưng Bộ, Phẩm Vua Munda, Bậc Chân Nhân, kinh số 42, HT. Thích Minh Châu dịch.    

[27]. Barbara L. Fredrickson, Karen M. Grewen, Kimberly A. Coffey, Sara B. Fredrickson BL, Grewen KM, Coffey KA, Algoe SB, Firestine AM, Arevalo JM, Ma J, Cole SW. A functional genomic perspective on human well-being. PNAS, July 29, 2013.      

[28]. Fredrickson, B. L. (2013, July 15). Updated Thinking on Positivity Ratios. American Psychologist. Advance online publication. doi: 10.1037/a0033584    

[29]. Different Kinds of Happiness. (2006) Vipassana Research Institute, Igatpuri, Maharashtra, India. hppt://www.vridhamma.org/Research.aspx. September 7, 2006.       

[30]. Ryff, C., & Keyes, C. (1995). The structure of psychological well-being revisited. Journal of Personality and Social Psychology, 69, 719–727.       

[31]. Psychologist Carol Ryff on Wellbeing and Aging: The FPR Interview.(2012).http://www.psychologicalscience.org/index.php/news/psychologist. Retrieved on 11/16/2013.              

[32]. Ryff, C., & Keyes, C. (1995). The structure of psychological well-being revisited. Journal of Personality and Social Psychology, 69, 719–727.       

[33]. Kinh Tăng Chi Bộ, Phẩm Gia Chủ, kinh Thích Tử Mahanàma, HT. Thích Minh Châu dịch.

[34]. Seligman, M., E.P. (2002). Authentic Happiness: Using the New Positive  Psychology to Realize Your Potential for Lasting Fulfillment. New York: Free Press, tr. 261-263.            

Bình luận