Chương 2: Thực hành sống hạnh phúc chân thật: Hưởng niềm vui ưa thích mà không bị ham muốn làm hư hại
CHƯƠNG 2:
THỰC HÀNH SỐNG HẠNH PHÚC CHÂN THẬT:
HƯỞNG NIỀM VUI ƯA THÍCH
MÀ KHÔNG BỊ HAM MUỐN LÀM HƯ HẠI
Dopamine là chất thần kinh dẫn truyền (neurotransmitter), một chất hóa học trong bộ não làm nhiệm vụ chuyển các tin tức giữa những tế bào thần kinh. Trước đây, người ta thường cho rằng chất dopamine làm phát sinh cảm giác sung sướng mà các nhà khoa học gọi là ‘niềm vui ưa thích’ (liking). Giáo sư Berridge[1] đã duyệt lại các tài liệu nghiên cứu về niềm vui ưa thích và thấy trên mấy chục năm trước đây, các nhà khoa học đều cho rằng hệ dopamine là gốc của mọi niềm vui ưa thích và gọi đó là trung tâm ban thưởng (reward center, xin xem hình 1): Khi ăn ngon, nghe tin vui, thấy cảnh đẹp, gặp người thân, v.v…cảm giác vui thích phát sinh do vùng bụng chỏm não (ventral tegmentum hay VTA) nơi đầu cột tủy xương sống chuyển chất dopamine đến vùng các nhân liền kế nhau (nucleus accumbens) và tác động vào các tế bào vùng này làm phát sinh ra cảm giác sung sướng.
SỰ NHẬN LẦM CHẤT LÀM PHÁT SINH NIỀM VUI ƯA THÍCH
Từ năm 1980 trở về sau, các nhà nghiên cứu về hạnh phúc cố gắng tìm ra nơi phát sinh niềm vui ưa thích và họ đã cho rằng trung tâm ban thưởng tạo ra các sự sung sướng là do chất thần kinh dẫn truyền dopamine nên trung tâm làm phát sinh niềm vui ưa thích này được gọi là ‘hệ thống dopamine’ và các nhà khoa học gán cho tất cả mọi niềm vui trên cuộc đời là phát xuất từ hệ dopamine này.
Tuy nhiên, nhiều năm sau đó, qua các cuộc nghiên cứu công phu khác, các nhà thần kinh học thấy gán cho hệ dopamine làm phát sinh mọi thứ sung sướng tự nhiên (như ăn uống) hay nhân tạo (như dùng ma túy hay kích thích não) là chưa ổn nên họ tiếp tục tìm hiểu thêm điều gì tạo ra sự cảm giác sung sướng trong tâm và trong bộ não và vùng làm phát sinh sung sướng đó thật sự ở đâu trong bộ não?
Hình 1. Từ The Brain from Top to Bottom
Hình 1. Các nhân liền kế nhau (nucleus accumbens) trước đây bị nhận lầm là nơi phát sinh cảm giác sung sướng dưới tác dụng của dopamine. Dopamine làm phát sinh sự ham muốn chứ không phải sung sướng. Chính sự ham muốn thúc đẩy con người hành động để đạt được điều mình muốn.
Giáo sư Kent Berridge nói trên đã nghiên cứu lại về các tài liệu chữa trị bệnh tật đặc biệt của bác sĩ phân tâm học Robert Heath thuộc viện đại học Tulane University kể từ năm 1960.[2] Bác sĩ Health cho rằng mọi bệnh tâm thần đều có gốc rễ vật chất nơi sự hư hại trong bộ não và cách chữa bệnh tâm thần hay nhất là chữa trị ngay trong bộ não. Ông ta đã thực hiện cuộc thí nghiệm kỳ lạ là dùng điện kích thích vùng sâu trong não (deep brain stimulation) với một ước mong làm cho các bệnh nhân bớt đi những chứng trầm cảm, tâm phân liệt, nghiện ngập, những thứ đau nhức và cả chứng đồng tình luyến ái (mà thời đó bị quan niệm sai lầm là một loại bệnh tâm lý), bằng cách tạo ra khoái cảm tràn ngập trong bộ não để làm cho những thứ bệnh trên tiêu đi.
Kích thích vùng sâu trong bộ não. Hình đường màu đen đậm là dây điện được đưa sâu vào trong não với hình tròn ở đầu mút là nơi phát ra dòng điện kích thích vùng não. (Hình trên là hình não người).
Bác sĩ Health mổ não bệnh nhân và gắn vào một dây diện có đầu được đưa sâu vào trong vùng não để phát ra những dòng điện nơi vùng phát ra khoái cảm (vùng ban thưởng, reward center). Trước đây các nhà khoa học đã khám phá vùng này sẽ gia tăng hoạt động khi có dòng điện kích thích làm cho con chuột cảm thấy sung sướng. Các nhà nghiên cứu huấn luyện cho các con chuột nhấn vào chiếc cần để dòng điện phát ra trong vùng não nơi phát sinh kích thích. Các con chuột tiếp tục nhấn hoài cái cần liên tu bất tận. Họ cũng thấy điều này xảy ra khi cho dòng điện kích thích não sâu nơi con người. Như vậy, cả chuột và người đều biểu lộ sự ham muốn mạnh mẽ.
Dù trong các cuộc thí nghiệm cả hai chuột và người đều nhấn vào nút để làm phát sinh sự kích thích trong bộ não cả ngàn lần nhưng thật ra đây là hành động phát sinh do ‘ham muốn’ hay tham dục thúc đẩy chứ không phải do ‘niềm vui ưa thích’ hay sung sướng thúc dục họ nhấn nút.[3] Đó là ham muốn mà không có chút sung sướng nào cả.
Riêng về phương pháp kích thích não sâu để chữa trị bệnh tật, các chuyên gia thực hiện các cuộc thí nghiệm cho rằng họ đã tìm ra một điều rất quan trọng là cảm giác ưa thích trên tàn lụi mau chóng khi dòng điện ngưng khích thích và sau cuộc thí nghiệm đó các bệnh nhân không thấy có triệu chứng gì là có kết quả tốt đẹp trong việc chữa trị bệnh tật[4].
Giáo sư Kent Berridge[5] tìm hiểu kỹ lưỡng hơn về sự kích thích sâu trong bộ não do bác sĩ Health làm trước đây và thấy rõ kích thích vùng sâu trong não không thật sự tạo ra sung sướng mà chỉ tạo ra sự ham muốn mà không có hạnh phúc. Và điều này liên hệ mật thiết với hệ dopamine tạo ra ham muốn chứ không làm phát sinh sung sướng. Hai thứ này khác xa nhau và đây là sự khám phá quan trọng về sự khác nhau giữa niềm sung sướng làm phát sinh niềm vui ưa thích và muốn (dục, và nếu ham muốn quá nhiều thì gọi là tham dục). Các nhà nghiên cứu cho rằng chính sự cảm nhận niềm sung sướng giúp cho con người niềm hạnh phúc còn sự ham muốn thì chỉ là sự thôi thúc có thật nhiều mà không hưởng được niềm sung sướng. Sự ham muốn quá đà này là do chất hóa học thần kinh dopamine làm phát sinh.
Điều này rất phù hợp với lời dạy của đức Phật cho người cư sĩ tại gia là phải biết hưởng niềm hạnh phúc đang có trong hiện tại và tránh bị ham muốn hay tham dục lôi kéo làm mất hạnh phúc thật sự đang có mặt qua sự thực hành sống trong chánh niệm. Những cuộc nguyên cứu mới nhất của các nhà thần kinh học cho thấy những nguyên nhân tại sao loài người chạy theo sự ham muốn mà quên đi sự thưởng thức hạnh phúc thật sự đang có mặt.
Giáo sư Morten L. Kringelbach[6] thuộc đại học University of Michigan ở Ann Arbor đã nhắc lại các cuộc nghiên cứu tâm lý trước đây đã phân biệt sự khác nhau giữa hạnh phúc sống đời có mục đích và có ý nghĩa (eudaimonia) và sống đời sung sướng (hedonia). Sống có mục đích, có nhiều ý nghĩa và có sự dấn thân vào các hoạt động mình cho là tốt đẹp mà giáo sư Kringelbach cho rằng có liên hệ đến hệ mặc nhiệm của bộ não (default network, vỏ não vùng giữa trước trán gia tăng hoạt động khi tâm ở trong trạng thái buông thư, không suy nghĩ hay tính toán, khi mơ màng hay khi không làm việc).
Điều quan trọng nơi đây là người sống hạnh phúc lành mạnh, sống có mục đích và ý nghĩa, thì phần hoạt động trong hệ thần kinh làm phát sinh ra ưa muốn hay sự thúc đẩy mạnh mẽ đưa đến sự hăng hái dấn thân vào những hoạt động tạo ra ý nghĩa tốt đẹp cho đời sống. Còn về sung sướng (hedonia) hay niềm vui ưa thích, ông ta cho rằng đó là sự cảm nhận trên mặt ý thức về cảm giác sung sướng một cách tốt đẹp. Đó là sự nhận biết một cách thích thú thực sự về niềm vui ưa thích và đây cũng là thành phần quan trọng của hạnh phúc. Đây là niềm vui ưa thích do chính mình nhận biết phát sinh ra từ hoạt động của vỏ não trước trán vùng mắt và các vùng liên hệ phối hợp hoạt động để trau chuốt (làm cho tinh tế hơn) cốt lõi (vùng trong não) niềm vui ưa thích do những ‘vùng nóng’ (hotspots) trong bộ não làm phát sinh ra. Sung sướng ảnh hưởng nhiều đến thái độ con người cũng như bộ não con người. Khi các nhà thần kinh học nói ‘niềm vui ưa thích’ là nói đến phần chúng ta có thể cảm nhận được hay nhận biết được trên mặt ý thức và cả phần vô thức là những hoạt động của các tế bào thần kinh mà tâm chúng ta không nhận biết được.
Chúng ta đã nói đến hai loại hạnh phúc. Một thứ do các giác quan mang lại niềm vui ưa thích qua sự thỏa mãn những thứ mình muốn và một thứ là hạnh phúc lành mạnh do đời sống có mục đích và có ý nghĩa. Trên thực tế, qua cuộc nghiên cứu của chuyên gia Oishi và các đồng nghiệp[7] cho thấy hai thứ trên liên hệ với nhau mật thiết. Cuộc nghiên cứu đó tìm thấy 80% những người có đời sống hạnh phúc lành mạnh (eudaimonia, sống có mục đích và ý nghĩa, vui nhiều về tinh thần) đánh giá có niềm vui ưa thích, có sự thỏa mãn trong đời sống từ ‘khá cho đến rất nhiều hạnh phúc’. Và 80% những người có nhiều sung sướng hay niềm vui ưa thích cũng đánh giá niềm hạnh phúc do sống đời có ý nghĩa của họ cũng tốt (từ 6 đến 7 điềm, mà 10 điểm là tối đa). Có một số người may mắn có mức độ hạnh phúc kéo dài ở điểm số 8. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nhắc nhở, nếu có lâu dài niềm sung sướng cao hơn từ số 9 lên đến 10 điểm thì chưa chắc đã tốt vì người sung sướng quá không thấy cần phải làm gì thêm nữa nên họ có thể không tiến xa trong việc học hành, tạo sự nghiệp tài chánh hay chính trị. Nói một cách bình dân: Sướng quá nên cứ phè ra, không muốn làm gì cả!
CÁC NHÀ THẦN KINH HỌC CA NGỢI HẠNH PHÚC TRONG ĐẠO PHẬT
Cùng với sự toàn cầu hóa kinh tế, người ta càng lúc càng đề cao sự gia tăng tiêu thụ qua sự thúc dục lòng ham muốn. Các nhà thần kinh học nói rõ niềm vui ưa thích, cảm giác sung sướng làm cho chúng ta thấy hạnh phúc, vốn khác xa với sự ham muốn. Niềm vui ưa thích hay sung sướng là do sự cảm nhận, như khi chúng ta ăn, chú ý vào hành động đang ăn thì cảm giác ngon làm chúng ta thấy thích thú. Ngược lại, ham muốn thì do sự thôi thúc của lòng tham, muốn tiếp tục ăn thật nhiều vì do không chú ý vào hành động đang ăn, dù ăn đã quá no mà không có cảm nhận được niềm sung sướng khi ăn nên cứ muốn ăn hoài cho đã thèm! Như vậy, ham muốn hay tham dục không mang đến hạnh phúc dù gia tăng tiêu thụ. Điều này đã làm cho giáo sư Kringelbach,[8] nhà thần kinh học chuyên về hạnh phúc và khổ đau, ca ngợi sự thực hành sống hạnh phúc thật sự trong đạo Phật:
“Sự liên hệ giữa ham muốn, niềm vui ưa thích và hạnh phúc ra sao? Hạnh phúc có thể được định nghĩa một cách tốt nhất là niềm vui ưa thích mà không có sự ham muốn. Đó là trạng thái thỏa mãn mà không có sự dính mắc, trạng thái an vui kỳ diệu mà người Phật tử hướng đến khi qua sự hành thiền.
Nếu như thế thì một ngày nào đó các chuyên gia thần kinh học sẽ tìm ra cách làm phát sinh trạng thái an vui kỳ diệu này. Lúc đó, chúng ta sẽ có được một xã hội có lợi ích chung thật sự mà trong xã hội đó niềm hạnh phúc của toàn thể mọi người được làm cho tăng lên tối đa”.
THỰC HÀNH ĐẠO PHẬT LÀ SỐNG HẠNH PHÚC
Niềm hạnh phúc đem đến lợi ích chung lớn lao cho xã hội hay hạnh phúc thực dụng do những nhà tư tưởng mong muốn đem lại hạnh phúc tối đa cho loài người trong đó có người tiên phong chủ nghĩa lợi ích thực dụng cho xã hội là triết gia Jeremy Bentham[9]. Theo chủ trương lợi ích chung cho xã hội hay công lợi này thì hạnh phúc quyết định giá trị đạo đức của các hành động con người. Như vậy, giá trị đạo đức là do kết quả của hành động. Hành động đem đến hạnh phúc là hành động có đạo đức và họ xem hạnh phúc hay sung sướng là sự quan trọng nhất trong cuộc đời. Mục đích là làm sao có hạnh phúc vậy thì phương tiện nào giúp cho đạt được hạnh phúc cũng tốt cả. Đây là sự khác biệt nền tảng với đạo Phật.
Đạo Phật tuy khích lệ con người sống hạnh phúc nhưng khác với chủ nghĩa lợi ích thực dụng nói trên ở chỗ đức Phật khuyến khích người Phật tử thực hành sống đời hạnh phúc và đem hạnh phúc đến cho cuộc đời qua những hành động lành và tốt hay thiện nghiệp.
Đạo Phật khuyến khích người Phật tử thực hành sống đời hạnh phúc và đem hạnh phúc đến cho cuộc đời qua những hành động lành và tốt hay thiện nghiệp. Niềm vui ưa thích hay hạnh phúc mỗi người có thể trực tiếp cảm nhận nơi thân và nơi tâm của mình qua sự thực hành chú ý và nhận biết về hơi thở vào và hơi thở ra hay thực hành chánh niệm như đức Phật giảng dạy về thực hành chú ý vào hơi thở vào và hơi thở ra trong kinh Quán Niệm Hơi Thở,[10] với phần liên hệ căn bản đến hạnh phúc mà chúng ta cảm nhận được một cách cụ thể.
Trên thực tế, trên 2.500 năm qua, các đệ tử của đức Phật đã tu tập và cảm nhận được niềm hạnh phúc lớn lao nơi mỗi người. Ai cũng có thể làm cho niềm hạnh phúc này xuất hiện được qua sự thực hành cụ thể như Ngài đã dạy quý thầy tại Sàvatthi trong Kinh Tương Ưng Bộ như sau:
“Này các Tỳ kheo, quán niệm hơi thở vào, hơi thở ra được tu tập, được làm cho sung mãn là tịch tịnh, thù diệu, thuần nhất, lạc trú, làm cho các ác, bất thiện pháp đã sanh biến mất, tịnh chỉ lập tức.
Ví như trong cuối mùa mưa, bụi nhớp bay lên và một đám mưa lớn trái mùa lập tức làm chúng biến mất, tịnh chỉ. Cũng vậy, quý thầy, quán niệm hơi thở vào, hơi thở ra được tu tập, làm cho sung mãn là tịch tịnh, thù diệu, thuần nhất, lạc trú, làm cho các ác, bất thiện pháp đã sanh biến mất, tịnh chỉ lập tức”.[11]
Niềm hạnh phúc đó bao gồm cả thân và tâm hay hỷ và lạc. Ngài đăc biệt hướng dẫn nhận biết về niềm vui nơi thân hay lạc như sau:
“Lại nữa, quý thầy tu tập biết trực tiếp về thân như sau: Quý thầy có vui mừng sung sướng do ly dục thấm nhuần vào thân, phổ biến, sung mãn biến khắp trong thân; hỷ lạc do ly dục không đâu không biến khắp. Như người thợ tắm, bỏ chùm kết đầy chậu, nước hòa thành bọt, nước thấm vào thân, phổ biến sung mãn, không đâu không biến khắp…”.[12]
Đức Phật nói đến một niềm an vui sâu thẳm mà không có sự ham muốn, như giáo sư thần kinh học Kringelbach,[13] chuyên gia về hạnh phúc, đã phát biểu trên 2.500 năm sau đó:
“Hạnh phúc có thể được định nghĩa một cách tốt nhất là niềm vui ưa thích mà không có sự ham muốn. Đó là trạng thái thỏa mãn mà không có sự dính mắc, trạng thái an vui kỳ diệu mà người Phật tử hướng đến khi qua sự hành thiền”.
Như vậy, mục đích của sự tu tập hay tự huấn luyện là cảm nhận niềm hạnh phúc tràn dâng ngay trong hiện tại mà không bị lệ thuộc vào ham muốn. Phương pháp thực hành đã có đầy dủ chứ không cần chờ đợi như nhà thần kinh học nói trên mong ước sẽ xuất hiện trong tương lai:
“… một ngày nào đó các chuyên gia thần kinh học sẽ tìm ra cách làm phát sinh trạng thái an vui kỳ diệu này. Lúc đó, chúng ta sẽ có được một xã hội có lợi ích chung thật sự mà trong xã hội đó niềm hạnh phúc của toàn thể mọi người được làm cho tăng lên tối đa”.
Điều này, trên thực tế, đã được đức Phật chỉ dạy cách làm phát sinh ra niềm an vui kỳ diệu và suốt qua hai mươi lăm thế kỷ cho đến nay hiện có hàng triệu người đang thực hành. Đạo Phật hướng đến sự xây dựng hạnh phúc tốt đẹp và vững chãi cho đời sống mỗi cá nhân qua sự tu tập hay tự huấn luyện thân và tâm cũng như thực hành các hoạt động đem lại niềm an vui lành mạnh, hạnh phúc cụ thể, chân thật và bền vững cho những người khác trong xã hội. Đó là giá trị đạo đức nền tảng trong đạo Phật. Do đó, chúng ta thấy trong lịch sử Phật giáo, không có những cuộc chiến tranh nhân danh đức Phật, không có sự hô hào giết hại để truyền bá đạo Phật vì các hành vi đó không đem lại hạnh phúc thật sự cho người Phật tử. Đức Phật còn nhắc nhở phải có sự thấy biết đúng hay chánh kiến trong đời sống hàng ngày. Khi chúng ta có sự thấy biết đúng thì sự suy nghĩ sẽ đúng vì dựa trên những dữ kiện có thật. Khi suy nghĩ đúng thì lời phát biểu là chân thật và đưa đến các hành động tốt đẹp cho mình và cho mọi người. Những điều này vốn rất cần thiết cho một xã hội công bằng, hạnh phúc và phát triển.
Đạo Phật là đạo của sự thấy biết chân thật hay trí tuệ. Đức Phật đã nói rất nhiều đến hạnh phúc trong tâm và hạnh phúc nơi thân mà Ngài gọi là hỷ lạc. Chúng ta tìm hiểu thêm về những kết quả các cuộc nghiên cứu khoa học về niềm vui trong bộ não và trong tâm để ứng dụng vào trong đời sống cụ thể để làm gia tăng hạnh phúc trong đời sống thường ngày.
VÙNG PHÁT RA NIỀM VUI ƯA THÍCH TRONG BỘ NÃO
Niềm vui ưa thích là một thành phần quan trọng của hạnh phúc. Khi chúng ta ăn thức ăn ngọt thì chúng ta cảm nhận được vị ngọt và thấy sung sướng. Tuy nhiên, cảm giác ngọt không phải là niềm sung sướng (các nhà nghiên cứu gọi là niềm vui ưa thích hay liking). Nếu vị ngọt làm phát sinh sung sướng thì mỗi lần ăn thức ăn ngọt vào và tiếp tục ăn hoài thì chúng ta sẽ thấy sung sướng hoài. Trên thực tế không phải như vậy vì nếu chúng ta tiếp tục ăn nhiều thì chúng ta sẽ bị ớn và không còn thấy sung sướng như khi bắt đầu ăn, sau đó chúng ta cảm thấy khó chịu và khổ khi bị bắt ăn hoài một thứ. Đây là khổ chứ không phải sướng. Như vậy vị ngọt có lúc làm phát sinh cảm giác sướng có lúc làm phát sinh cảm giác khổ.
Từ đó, các nhà khoa học đặt câu hỏi: Nếu vị ngọt không phải là cảm giác sung sướng thì cái gì đã phủ lên cảm giác ngọt để chúng ta cảm thấy sung sướng? Điều này không khác gì người thợ quét lên lớp sơn bóng lên lớp sơn thường làm cho bàn ghế trở nên bóng loáng, vì cảm giác ngọt, ví như lớp sơn thường trên gỗ, và sung sướng hay niềm vui ưa thích, ví như lớp vẹt ni bóng quét lên lớp sơn nay, rất khác nhau.
Sau nhiều cuộc nghiên cứu, chuyên gia thần kinh học Berridge và các đồng nghiệp[14] đã tìm ra câu trả lời: Đó là do hoạt động của các mạch thần kinh sung sướng. Chúng bao gồm các hoạt động phức tạp do nhiều sự kết hợp hoạt động của các trung tâm làm phát sinh sung sướng trong não khác nhau. Đó là các “điểm nóng sung sướng” (hedonic hotspot) có vị trí gần hay xa nhau trong bộ não kết thành các mạch thần kinh sung sướng mà họ gọi là các xa lộ sung sướng trong bộ não. Khi chúng ta cảm nhận được niềm sung sướng là do các hoạt động trong tâm (ý thức) và trong bộ não (vô thức). Nói khác đi, các hoạt động biểu lộ thành niềm vui ưa thích mà chúng ta tự mình nhận biết được hay ý thức, cùng lúc với những hoạt động trong hệ thần kinh thuộc vô thức, mà chúng ta không nhận biết được, phát xuất từ các “điểm nóng sung sướng”.
Các hoạt động vô thức này của các mạch thần kinh sung sướng có thể nhiều hơn là các hoạt động thần kinh làm chúng ta nhận biết trên mặt ý thức. Nói khác đi, chúng ta có thể có những niềm vui trong bộ não mà mình không biết.[15]
Ví dụ trường hợp có ông chồng vào ngày cuối tuần bỗng dưng dậy sớm cất tiếng hát vang nhà, thúc giục vợ con đi ăn tiệm rồi đi mua sắm áo quần cho vợ con, khác với thói quen lâu nay là ông năm dài và dậy rất trễ vào ngày chủ nhật. Không người nào trong gia đình biết lý do tại sao và cả chính người chồng cũng không biết tại sao mình có sự vui vẻ khác thường như vậy!
Lý do là tối hôm thứ bảy, ông nằm mơ thấy lại một kỹ niệm hạnh phúc thời ông còn là em học sinh. Mẹ ông cùng với ông đi ra chợ và cùng ngồi ăn cháo gà và chè đậu xanh rồi đưa ông đi dạo phố và mua sắm áo quần. Lúc ông tỉnh giấc, mạch thần kinh sung sướng còn hoạt động mạnh mẽ làm phát sinh cả ba thứ là sung sướng, ưa muốn và tìm cách làm cho niềm vui phát sinh như trước đây.
Nếu ông chồng không may gặp bà vợ hay nghi ngờ thì bà sẽ đặt câu hỏi: Ông này bữa nay tự nhiên dở chứng và có thái độ khác thường, không biết có chuyện gì đây. Thật đáng nghi ngờ!
Các nhà khoa học nghiên cứu sâu xa tiến trình các điểm nóng sung sướng khi hoạt động thì tạo ra sự sơn bóng cảm giác, như cảm giác vị ngọt làm xuất hiện cảm giác sung sướng, khi chúng ta ăn chất ngọt vào. Nơi đây, chúng ta tìm hiểu các “điểm nóng sung sướng” nằm ở vị trí nào trong bộ não và chúng kết hợp thành những mạch thần kinh hay vòng đai thần kinh chuyên chở các tín hiệu sung sướng đến các nơi khác ra sao sau khi các cảm giác được quét lên lớp sơn bóng sung sướng.
CÁC NHÂN LIỀN KẾ NHAU LÀ MỘT ĐIỂM NÓNG SUNG SƯỚNG
Để biết rõ điều trên, các nhà nghiên cứu Pecina, Smith và Berridge thuộc đại học Michigan[16] đã duyệt lại các cuộc nghiên cứu về các điềm nóng và sự khởi động của chúng làm phát sinh sung sướng trong bộ não. Trong các cuộc nghiên cứu,[17] các nhà thần kinh học đã tiêm chất ma túy vào các điểm nóng trong bộ não các con chuột để tìm hiểu hoạt động nơi các vùng này khi chúng ăn thức ngọt vào. Sau khi họ chích các hạt morphine (chất ma tuý) li ti vào vùng các nhân liên kế nhau – mà họ gọi là điểm nóng sung sướng - trong não các con chuột thì thấy mức độ sung sướng của chúng gia tăng rất nhiều khi chuột ăn thức ăn ngọt. Như vậy, các điểm nóng sung sướng có khả năng khuếch đại mức độ sung sướng khi bị kích thích bởi chất ma túy hay opioid, không khác gì máy karaoke làm gia tăng độ lớn của âm thanh khi chúng ta hát.
Hình từ The Brain from top to bottom
Các nhân liền kế nhau (nucleus accumbens,)
Hình điểm nóng các nhân liền kế nhau (nucleus accumbens hotspot) và điểm nóng bụng cầu nhạt (ventral pallidum hospot) khởi động và kết nối thành hai mạch thần kinh (như hai vòng đai xa lộ). Vùng màu đỏ và vàng làm phát sinh niềm vui ưa thích còn vùng màu xanh lá cây làm phát sinh ham muốn.
Ba điểm nóng các nhân liền kế nhau, bụng cầu nhạt và chỏm não kết thành các mạch thần kinh sung sướng vô thức (liking paths), sung sướng được nhận biết sau đó và ham muốn (wanting paths).
TỪ CẢM GIÁC NGỌT THÀNH NIỀM VUI ƯA THÍCH
Những điều trên giúp cho các chuyên viên nghiên cứu Pecina, Smith và Berridge[18] thấy tiến trình làm phát sinh ra niềm vui ưa thích có các bước liên hệ như sau:
1. Khi ăn chất ngọt vào, các kích thích gia tăng nơi vùng các nhân liền kế nhau (thuộc vô thức).
2. Điểm nóng sung sướng kế là bụng cầu nhạt (ventral pallidum hay VP) bị kích hoạt khi nhận được tín hiệu từ các nhân liền kế nhau (thuộc vô thức).
3. Từ đó, mạch thần kinh sung sướng xuất hiện nối kết các vùng này lại và quét lớp sơn bóng sung sướng lên cảm giác ngọt (chuyển thành ý thức).
Qua đó, các chuyên viên nghiên cứu thấy rõ có hai điểm nóng gần nhau khi nối kết hoạt động làm phát sinh ra niềm vui ưa thích là các nhân liền kế nhau và bụng cầu nhạt. Khi có một kích thích từ bên ngoài, như cảm giác ngọt khi ăn ly chè, thì chúng khởi động và nối kết thành những vòng đai thần kinh chuyển động làm phát sinh cảm giác sung sướng.
Tuy nhiên, chỉ khi nào các điều kiện có đủ thì các vùng này mới làm phát sinh niềm sung sướng mà thôi. Ví dụ, ‘điểm nóng sung sướng’ nơi các nhân liền kế nhau được kích thích bởi chất nha phiến (opioid, nha phiến thiên nhiên do cơ thể tiết ra như enkephalin). Chất enkephalin xuất hiện khi có một kích thích - như ăn chất ngọt vào – làm cho não tiết ra. Kích thước điểm nóng sung sướng này lại rất nhỏ ở vùng trước và lưng của vỏ giữa các nhân liên kế nhau. Trong khi đó vùng làm gia tăng ham muốn chứ không làm gia tăng cảm giác sung sướng ở quanh vỏ giữa của các nhân liên kế nhau lại lớn hơn nhiều. Do đó, trong cuộc thí nghiệm nói trên, khi các nhà nghiên cứu tiêm các chất nha phiến chệch ra khỏi ‘điểm nóng’ vốn rất nhỏ, chỉ độ một ly (milimét) khối này trong não con chuột - tương đương một phân (centimét) khối nơi não con người - thì thay vì cảm thấy sung sướng, các con chuột bị thúc dục bởi ham muốn mà không có chút sung sướng nào cả! Và nơi con người thì cơ chế làm phát sinh sự ham muốn trong bộ não cũng như vậy.
Hậu quả của ham muốn chúng ta đều biết vốn rất tai hại cho sức khỏe, hạnh phúc và sự nghiệp của nhiều người.
CUỘC THÍ NGHIỆM CHO UỐNG CHẤT NGỌT VÀ CHẤT ĐẮNG
Các phản ứng trong não biểu lộ thành các nét mặt ưa thích hay khó chịu khác nhau nơi chuột, khỉ và người khi các nhà nghiên cứu cho uống chất ngọt (dãy hình trên) và chất đắng (dãy hình dưới). (Hình từ University of Michigan.)
Vỏ giữa các nhân liên kế nhau với các vùng khác biệt nơi não con chuột. (Hình từ University of Michigan.)
Như thế, một niềm vui bao gồm nhiều hoạt động trong bộ não. Để hiểu cho rõ ràng hơn, nhà nghiên cứu Berridge và các đồng nghiệp[19] phân tích các hoạt động khác nhau trong vùng điểm nóng các nhân liền kế nhau trong bộ não của con người (dựa trên cuộc nghiên cứu bộ não con chuột):
- Điểm nóng sung sướng (hedonic hotspot, số 1): lớn chỉ bằng 1 phân khối nơi con người làm gia tăng sự ưa thích. Biểu lộ qua nét mặt bày tỏ sự sung sướng.
- Điểm lạnh sung sướng (hedonic coldspot, số 2): Điểm lạnh sung sướng làm giảm sự ưa thích chất ngọt. Nơi đây cũng làm phát sinh cảm giác không ưa thích như khi ăn vị đắng.
- Vùng số 3 làm giảm sự không ưa thích (disliking decrease): Làm giảm sự không ưa thích chất đắng quinine, hay nói khác đi, quen dần với vị đắng như ăn trái khổ qua nhiều lần thấy hết đắng.
- Vùng (số 4) rất lớn là vùng ham muốn (wanting hot spot), so với điểm nóng sung sướng, gồm toàn cả vỏ giữa các nhân liền kế nhau, làm phát sinh ra ham muốn.
Điều đặc biệt qua cuộc nghiên cứu, các nhà thần kinh học thấy khi sung sướng tăng gấp đôi thì ham muốn tăng gấp ba lần!
Theo giáo sư thần kinh học Berridge và Kringelbach[20] thì:
“Hạnh phúc không thể giảm thiểu thành chỉ còn là niềm vui ưa thích mà thôi vì sung sướng chỉ là một cảm giác thoáng qua trong trạng thái hạnh phúc. Tuy nhiên, hạnh phúc luôn luôn bao gồm sự cảm nhận niềm sung sướng xuất hiện. Có người còn cho rằng hạnh phúc ‘chân thật’ hay niềm hạnh phúc kỳ diệu là trạng thái niềm vui ưa thích mà không có ‘ham muốn’. Các chứng cứ hiện nay về điều này trong khoa thần kinh học đang trở thành một giả thuyết có thể thực nghiệm được”.
Điều nói trên vốn rất quan trọng trong sự tu tập trong đạo Phật vì đạo Phật thường nhắc nhở đến một trạng thái an vui kỳ diệu mà không có ham muốn hay tham dục.
Trong bài khảo cứu về niềm vui ưa thích có thể làm phát sinh hạnh phúc và sức khỏe, hai nhà thần kinh học Berridge và Kringelbach[21] đã kết luận như sau:
“Để kết luận, chúng ta có thể tưởng thấy nhiều thứ liên hệ đến hạnh phúc do tiến trình tâm lý của niềm vui ưa thích nói trên. Cách thứ nhất là nhận biết hạnh phúc do sung sướng là “niềm vui ưa thích” mà không có “ham muốn”. Đó là một trạng thái sung sướng mà không có những ham muốn làm cho hư hại. Đó là trạng thái toại ý.
Một cách khác là sự ưa muốn vừa phải, phù hợp với “niềm vui ưa thích” tích cực, làm cho đời sống hàng ngày được dễ dàng hơn. Đó là một tí khích lệ làm cho cuộc sống gia tăng hương vị hay cả xây dựng ý nghĩa của đời sống, như trong trường hợp những người bệnh được chữa trị bằng kích thích não sâu giúp cho họ bỏ được bức màn trầm cảm vì họ thấy những chuyện xảy ra trong đời sống hấp dẫn hơn.
Tuy nhiên, quá nhiều “ưa muốn” có thể làm phát sinh những thứ không tốt như nghiện ngập và đó là con đường dẫn đến khổ đau lớn lao”.
Đức Phật nói rất rõ ràng niềm hạnh phúc bao gồm cả thân và tâm hay hỷ và lạc như sau:
“Lại nữa, quý thầy tu tập biết trực tiếp về thân như sau: Quý thầy có vui mừng sung sướng do ly dục thấm nhuần vào thân, phổ biến, sung mãn biến khắp trong thân; hỷ lạc do ly dục không đâu không biến khắp. Như người thợ tắm, bỏ chùm kết đầy chậu, nước hòa thành bọt, nước thấm vào thân, phổ biến sung mãn, không đâu không biến khắp…”.[22]
Vui mừng sung sướng do ly dục là sự thưởng thức niềm vui ưa thích mà không có sự ham muốn.
ĐỐI CHIẾU VỚI THỰC TẾ
Hiện nay nhiều nước quan tâm tìm hiểu mức độ hạnh phúc của người dân để tìm cách làm gia tăng tổng số hạnh phúc trong nước. Để biết rõ một cách cụ thể về hạnh phúc và khổ đau chúng ta có thể lấy ví dụ về mức độ hạnh phúc của thanh niên Việt Nam. Thành phần trẻ trong dân số Việt Nam được xem là một yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Dân số Việt nam được xem là dân số trẻ với trên 20 triệu người từ 14 đến 25 tuổi. Để tìm hiểu về cảm xúc trong giới trẻ tại Việt nam, Tổng Cục Dân Số và Tổng Cục Thống Kê đã thực hiện cuộc nghiên cứu quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY) lần thư hai trong 3 tỉnh thành với hơn 10, 000 người tham dự trả lời các câu hỏi về cảm xúc trong đời sống, nhất là về những kinh nghiệm bản thân như buồn chán, thấy đời sống mình không giá trị, thất vọng hay muốn tự tử.[23] Kết quả cuộc tìm hiểu được công bố vào tháng sáu năm 2010 cho thấy:
- 73% thanh thiếu nhi từng có cảm giác buồn chán, 27% từng có cảm giác rất buồn, thấy mình vô tích sự đến nỗi không muốn hoạt động như bình thường.
- Có trên 21% thanh thiếu nhi từng thất vọng hoàn toàn về tương lai.
- Có 4,1% nảy sinh ý nghĩ muốn tự tử.
- Càng nhỏ tuổi thì cảm giác buồn chán càng gia tăng: Các em từ 14 đến 21 tuổi có đến 75% trải qua cảm giác buồn chán so với 65% các em từ 22 đến 25 trải qua cảm giác buồn chán. So với cuộc nghiên cứu tương tự vào năm 2008 thì số thanh thiếu niên trải qua trạng thái buồn chán này tăng lên từ 32% đến 73%.
Tại nhiều nước, giới trẻ có những khó khăn. Không phải chỉ có giới trẻ bị nhiều khó khăn và thiếu hạnh phúc mà thôi, những người lớn tuổi cũng bị nhiều bệnh tật, căng thẳng và khổ đau. Và điều này xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Chương trình hoằng pháp để giúp các thanh thiếu nhi và người lớn ở các nước nói chung và Việt Nam nói riêng gia tăng hạnh phúc là một điều thật sự cần thiết, cần phải được quan tâm vì đó là nhu cầu rất lớn, đang có thật sự và cần được đáp ứng để cho các thanh thiếu niên cũng như người lớn giảm bớt buồn khổ, gia tăng hạnh phúc để xã hội phát triển càng ngày càng tốt đẹp hơn. Để thực hành chương trình phát triển hạnh phúc, chúng ta cần biết hạnh phúc xuất hiện như thế nào trong tâm và trong bộ não.
HẠNH PHÚC VÀ KHỔ ĐAU TRONG BỘ NÃO
Khi con người hạnh phúc phúc hay khổ đau thì họ có cái nhìn tích cực hay tiêu cực về cuộc sống. Thường chúng ta nói lòng mình hay tâm mình vui hay buồn. Các nhà thần kinh học tìm thấy gốc rễ hai loại cảm xúc tích cực và tiêu cực này trong bộ não.
Chuyên gia nghiên cứu Pizzagalli và các đồng nghiệp,[24] thuộc phân khoa tâm lý học viện đại học Harvard, thấy rõ vỏ não lưng bên trước trán bên trái và các nhân liền kế nhau kết thành một mạch thần kinh ban phát niềm vui. Những tín hiệu từ vỏ nảo trước trán làm cho vùng các nhân liền kế nhau gia tăng hoạt động đưa đến kết quả làm phát sinh cảm giác vui sướng. Khi có hạnh phúc thì chúng ta có cái nhìn tích cực về cuộc đời, thấy cuộc đời tươi đẹp lên. Nếu hoạt động vùng các nhân liền kế nhau yếu kém do nhận được ít tín hiệu từ vỏ não trước trán thì chúng ta có cái nhìn tiêu cực về đời sống hay thấy cuộc đời buồn chán. Các chuyên gia thần kinh này nói rõ chính sự không cảm nhận được niềm vui là yếu tố chính của chứng buồn chán hay trầm cảm.
Nguyên nhân của sự không cảm nhận được niềm vui làm phát sinh sự buồn rầu này là do sự thiếu nối kết giữa hai vùng vỏ não trước trán và các nhân liên kế nhau. Giáo sư Kringelbach và Berridge[25] giải thích là khi các núm tiếp nhận (receptor) của các tế bào thần kinh nơi các nhân liền kế nhau hoạt động, ví dụ như khi chúng ta ăn bánh ngọt, thì chúng kích thích bụng cầu nhạt (ventral palidum hay VP) ghi nhận trực tiếp về cảm giác sung sướng. Chất nha phiến thiên nhiên tiết ra từ các nhân liền kế nhau làm phát sinh niềm vui ưa thích còn chất dopamine làm phát sinh sự ham muốn.
Khi các nhân liền kế nhau hoạt động thì làm phát sinh ra niềm vui nên con người có cái nhìn tích cực về cuộc đời. Khi họ có cái nhìn tươi sáng về đời sống thì thường:
- Thấy cái tốt khi nhìn các sự việc hay con người,
- Cảm nhận có sự tương quan với những người và cảnh vật chung quanh,
- Cảm nhận năng lực tích cực lâu dài.
Chúng ta đã biết các cuộc nghiên cứu cho thấy những người nào có hoạt động vỏ não trước trán bên trái nhiều thì có cái nhìn tích cực về cuộc đời. Những người có nhiều hoạt động nơi vỏ não trước trán bên phải thì hay sầu muộn.[26] Những người này thường không thấy có hứng thú, không có khuynh hướng tiến đến để đạt được điều mình muốn và nhiều lúc không nhận biết được sự có mặt của những thứ tốt đẹp như một khu vườn đang nở hoa, một căn nhà đẹp nơi góc phố hay một cửa tiêm khang trang vừa mới khai hiệu trong khu vực. Nhiều người tánh tính buồn rầu cũng có thể làm ra chương trình du lịch hay giải trí cho gia đình nhưng sau đó họ không có năng lực để thực hành chương trình du lịch họ soạn thảo!
Trong cuộc thí nghiệm tại trung tâm nghiên cứu thần kinh Waisman Center, giáo sư Richard Davidson, chuyên gia Heller và các đồng nghiệp[27] tìm thấy những người tham dự cuộc thí nghiệm khi nhìn thấy các hình ảnh vui làm cho họ vui thì các nhân liền kế nhau, nằm dưới và ở giữa vùng vỏ não, gia tăng hoạt động. Các cuộc nghiên cứu khác cho thấy những người nào tiên đoán mình sẽ nhận được phần thưởng hay niềm vui thì vùng này cũng hoạt động. Như vậy, chùm tế bào thần kinh các nhân liền kế nhau hoạt động làm phát sinh ra cảm giác sung sướng. Các nhân liền kế nhau đầy những tế bào thần kinh tiếp nhận và những tế bào thần kinh phát ra chất thần kinh dẫn truyền dopamine, có vai trò quan trọng trong việc làm phát sinh năng lực tích cực, động viên và ưa muốn (nếu quá nhiều thành ham muốn). Vùng này cũng tiếp nhận và cũng vừa tiết ra các chất hóa học trong bộ não làm là chất nha phiến thiên nhiên trong cơ thể (endogenous opiod), làm cho gia tăng sự cảm nhận sung sướng như trường hợp người chạy đường trường và cảm nhận trạng thái an lạc (runner high).
Các nhân liền kế nhau của những người bị phiền muộn và những người không bị phiền muộn đều có hoạt động như nhau. Khi cả hai nhìn vào một tấm hình vui cười thì vùng nhân liền kế nhau nơi họ đều khởi động. Tuy nhiên có sự khác biệt là nơi những người tích cực thì vùng này tiếp tục hoạt động lâu dài còn nơi người tiêu cực thì hoạt động giảm đi nhanh chóng trong vài phút.
Điều này cũng phù hợp với các cuộc nghiên cứu từ não chuột, giáo sư Kringelbach và Berridge[28] đi đến kết luận là chất dopamine tác động vào vùng các nhân liền kế nhau làm phát sinh sự động viên con người đạt được điều mình ưa thích qua sự thúc đẩy và kéo dài bền bỉ. Còn chất ma túy (thiên nhiên) do não tiết ra khi có những cảm giác (như vị ngọt) thì liên hệ với niềm vui ưa thích.
NIỀM VUI BÌNH THƯỜNG
Ba thành phần trên thuộc hệ thống ban thưởng làm phát sinh, vốn có nhiều sức mạnh làm cho con người cảm nhận sung sướng rất nhiều và ham muốn rất nhiều, vốn khác với sự ưa thích và muốn có bình thường trong đời sống. Các chuyên gia trong cuộc nghiên cứu nhắc nhở:
Niềm sung sướng bình thường - không do hệ thống ban thưởng nói trên làm phát sinh - là do sự cảm nhận có ý thức của chúng ta về một điều gì thú vị. Vì niềm sung sướng này không do hệ thống ban thưởng làm phát sinh nên nó không kèm theo sự ham muốn hay học hỏi như trong ba thành phần của hệ thống ban thưởng.
Chúng ta đã biết, hệ thống ban thưởng làm phát sinh gồm ba thứ là sung sướng hay niềm vui ưa thích, ham muốn và học hỏi để biết cách làm cho có niềm vui. Ba thứ này có thể xuất hiện trên mặt ý thức hay vô thức là do sự phối hợp hoạt động của nhiều vùng khác nhau trong bộ não. Quan trọng nhất là phản ứng nơi điểm nóng sung sướng vùng bụng cầu nhạt khi có kích thích làm phát sinh chất thần kinh dẫn truyền enkephalin. Từ đó kích động các nhân liền kế nhau và các vùng não khác làm cho các mạch thần kinh khởi động làm cho vòng đai sung sướng hoạt động.
Đó là phần hoạt động thần kinh não bộ của hệ thống ban thưởng gồm sung sướng, ham muốn và học hỏi. Thông thường thì ba thứ này cùng xuất hiện khi có niềm vui. Có nhiều lúc ba thành phần này có thể có độ mạnh cao thấp khác nhau như sung sướng mà ít hay không ham muốn hay ham muốn mà không thấy có sung sướng chút nào cả.
Tuy nhiên, con người có loại niềm vui ưa thích bình thường, không phải là do hậu quả của sự kích động làm cho mạch thần kinh sung sướng của hệ thống ban thưởng nói trên hoạt động. Từ niềm vui ưa thích bình thường này mà có ưa muốn bình thường trong đời sống hàng ngày, mà không thuộc loại ham muốn mạnh mẽ nói trên, chỉ là một sự ưa muốn mà con người biết rõ ràng mình muốn thứ đó do nhớ lại hình ảnh trong quá khứ hay do tưởng tượng làm phát sinh. Điều muốn này không phát sinh từ sự sung sướng nơi bộ não. Ví dụ như mình muốn một thứ gì đó như một máy truyền hình mới và tưởng tượng hình ảnh của máy này trước khi mình mua nó. Điều muốn này không phải là một năng lực thúc đẩy mạnh mẽ, không thúc dục mình phải đi mua máy truyền hình về. Đó chỉ là một cái muốn bình thường do ý tưởng hay do tưởng tượng phát sinh.
Có những chuyên gia thần kinh học chú trọng nhiều đến hạnh phúc sống đời có mục đích và ý nghĩa hay những nhà đạo đức có khuynh hướng đề cao sự từ khước niềm vui để sống đời có ý nghĩa như mình mong muốn. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, giáo sư thần kinh học Berridge và Kringelbach[29] nhắc nhở đến vai trò của niềm vui ưa thích trong đời sống con người:
“Hạnh phúc không thể giảm thiểu thành chỉ còn là niềm vui ưa thích mà thôi vì sung sướng chỉ là một cảm giác thoáng qua trong trạng thái hạnh phúc. Tuy nhiên, hạnh phúc luôn luôn bao gồm sự cảm nhận niềm sung sướng xuất hiện. Có người còn cho rằng hạnh phúc ‘chân thật’ hay niềm hạnh phúc kỳ diệu là trạng thái niềm vui ưa thích mà không có ‘ham muốn’. Các chứng cứ hiện nay về điều này trong khoa thần kinh học đang trở thành một giả thuyết có thể thực nghiệm được”.
Điều nói trên vốn rất quan trọng trong sự tu tập trong đạo Phật vì đạo Phật thường nhắc nhở đến một trạng thái an vui kỳ diệu mà không có ham muốn hay tham dục. Và điều quan trọng hơn nữa, sự thực hành này đã được các nhà khoa học xác nhận là có thể thực hiện được và cần có trong đời sống để cuộc sống có thêm hương vị.
Trong bài khảo cứu về niềm vui ưa thích có thể làm phát sinh hạnh phúc và sức khỏe, hai nhà thần kinh học Berridge và Kringelbach[30] đã kết luận như sau:
“Để kết luận, chúng ta có thể tưởng thấy nhiều thứ liên hệ đến hạnh phúc do tiến trình tâm lý của niềm vui ưa thích nói trên. Cách thứ nhất là nhận biết hạnh phúc do sung sướng là “niềm vui ưa thích” mà không có “ham muốn”. Đó là một trạng thái sung sướng mà không có những ham muốn làm cho hư hại. Đó là trạng thái toại ý.
Một cách khác là sự ưa muốn vừa phải, phù hợp với “niềm vui ưa thích” tích cực, làm cho đời sống hàng ngày được dễ dàng hơn. Đó là một tí khích lệ làm cho cuộc sống gia tăng hương vị hay cả xây dựng ý nghĩa của đời sống, như trong trường hợp những người bệnh được chữa trị bằng kích thích não sâu giúp cho họ bỏ được bức màn trầm cảm vì họ thấy những chuyện xảy ra trong đời sống hấp dẫn hơn.
Tuy nhiên, quá nhiều “ưa muốn” có thể làm phát sinh những thứ không tốt như nghiện ngập và đó là con đường dẫn đến khổ đau lớn lao”.
Điều này rất phù hợp với sự thực hành sống đời hạnh phúc và phát triển niềm hạnh phúc lành mạnh và tốt đẹp theo chủ trưởng của đạo Phật bao gồm có niềm vui sống và sống đời có mục đích và ý nghĩa theo con đường thực hành Bồ Tát Đạo.
Giáo sư Seligman,[31] chuyên gia giảng dạy hạnh phúc của viện đại học Pennsylvania, tán đồng quan điểm hạnh phúc bao gồm có sự cảm nhận niềm vui ưa thích và sống đời có mục đích và ý nghĩa sẽ làm cho đời mình nở rộ mà còn là một phương pháp diệt trừ các bệnh tật về tâm thần như chứng trầm cảm hay lo âu.
Cũng theo chiếu hướng đó, giáo sư Fredrickson và Losada[32] nhấn mạnh “cảm nhận niềm vui cọng với điều tốt” là làm cho đời người nở rộ. Sự nở rộ này làm cho chúng ta gia tăng khả năng hoạt động bao gồm tánh tốt, lòng hào hiệp, sự phát triển cùng sức chịu đựng bền bỉ gia tăng.
CÁCH LÀM CHO AN VUI CHÓNG PHÁT SINH
Đức Phật thường nhắc nhở người cư sĩ thực hành phương pháp tu tập để cho niềm an vui chóng phát sinh. Khi đức Phật thọ trai, Ngài ăn uống trong chánh niệm và cũng thưởng thức niềm vui trong khi ăn uống như chính Ngài dạy trong kinh Thừa Tự Pháp như sau:
“Này các Tỳ kheo, ở đây, một thời ta đã ăn xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã chấm dứt buổi ăn, tự cảm thấy thỏa thích, vừa ý…”.
Thường ngày, trong các khóa tu tập hay trong mùa an cư, quý vị tăng ni thực hành ăn trong chánh niệm và yên lặng. Nhiều chùa bữa ăn chỉ có cơm trộn khoai, rau lang hay mít kho với ít tương chao mà quý vị thấy rất hạnh phúc trong khi ăn. Đó là do tác động của vùng não ban thưởng niềm vui biểu lộ thành tâm hạnh phúc khi ăn với sự chú tâm và tỉnh thức. Ngày hôm nay chúng ta có nhiều thứ để thưởng thức, chúng ta cần thực hành cách ăn uống làm phát sinh niềm vui ngay từ buổi sáng, khi dùng cơm trưa hay cơm tối. Niềm vui ưa thích lành mạnh là nền tảng của hạnh phúc bền vững, sức khỏe tốt đẹp và sự thành công lâu dài trong việc học hành và phát triển sự nghiệp.
Chuyên gia Giovanni Fava[33] thuộc phân khoa tâm lý học, viện đại học Bologna nước Ý đã tạo ra phương pháp làm gia tăng hạnh phúc sống đời có mục đích theo giáo sư Riff bao gồm sống tự chủ, có khả năng làm các công việc cần thiết, có tình thân thiết với người khác, sống đời có mục đích, phát triển đời sống và có sự tự chấp nhận chính mình. Phương pháp thực hành này giúp cho vỏ não trước trán và các nhân liền kế nhau nối kết tốt đẹp. Mỗi ngày trong suốt một tuần thực hành ba điều sau đây:
1. Viết xuống một tánh tốt của mình hay một tánh tốt của người nào đó mình thường tiếp xúc. Viết ba lần trong một ngày và mỗi lần một tánh tốt khác nhau.
2. Bày tỏ lòng biết ơn thường xuyên. Khi nói lời cám ơn thì nhìn vào mắt người đó và cảm nhận sự biết ơn thật sự càng nhiều càng tốt. Viết vào sổ nhật ký hàng ngày và ghi lời nhận xét lúc nào mình tỏ bày sự cám ơn thành thật nhất.
3. Thường xuyên khen ngợi người khác. Quan sát để tìm ra cơ hội khen người khác như họ làm công việc gì tốt, họ có ngôi vườn đẹp, nhà cửa sạch sẽ hay chiếc áo choàng đẹp. nhìn thẳng vào mắt họ khi khen ngợi. Ghi vào sổ tay những lúc mình khen ngợi với lòng thành.
Một tuần sau đó, lượng giá xem cái nhìn cuộc đời của mình có tích cực hơn không, mình có gia tăng hạnh phúc hay không như thấy mình vui nhiều, hứng khởi nhiều, cảm thông với người khác nhiều và thấy cái đẹp và tích cực nhiều hơn cái xấu và tiêu cực.
Tuy nhiên, nếu thấy mình quá lạc quan, quá vui nhộn hay có những quyết định không phù hợp với thực tế do quá vui thì cần nhắc nhở mình dịu xuống như để miếng giấy với hàng chữ: Cẩn Thận! Hay Dịu Bớt Xuống! để tránh bị sự lạc quan quá mức thúc đẩy có những hành động sai lầm.
TẬP THƯỞNG THỨC NIỀM VUI ƯA THÍCH KHI ĂN UỐNG ĐỂ LÀM GIA TĂNG TÀI NGUYÊN HẠNH PHÚC CHO BẢN THÂN
Sau các phần thực hành trước đây qua, phần não phát sinh niềm vui của nơi chúng ta đã bắt đầu hoạt động làm phát sinh niềm vui thích thú trong bộ não cùng lúc với cảm giác tỉnh táo khi chúng ta thở đan điền. Theo các nhà thần kinh học, ăn uống mỗi ngày kích thích niềm vui trong bộ não. Ăn uống có chú tâm hay ăn trong chánh niệm như đức Phật dạy cho vua Pasanedi làm cho hạnh phúc phát sinh, khỏe mạnh và trẻ lâu. Để kiểm nhận kết quả tốt đẹp này ở mức độ nào nơi chính bản thân mình, xin quý vị chọn một hay nhiều cách thực hành như sau:
- Buổi sáng khi mới thức dậy, chúng ta ngồi thoải mái, thở đan điền khi uống ly nước trà ấm và cảm nhận cảm giác thích thú. Cảm giác này kích hoạt vùng não phát sinh niềm vui ưa thích và từ đó chúng ta cảm nhận niềm hạnh phúc xuất hiện mạnh mẽ.
- Những vị nào uống sô-cô-la hay cà phê xin chọn cách như sau: Bỏ vào tách một muỗng bột chocolate (cacao) và một muỗng nhỏ cà phê. Đổ ít nước sôi rồi trộn cho tan. Tiếp đó cho thêm sữa đậu nành cho đầy tách. Hâm cho vừa độ nóng. Ngồi trên ghế thoải mái, thở đan điền và thưởng thức mùi vị ba thứ này trộn lại. Vị ngọt sẽ kích hoạt vùng não phát sinh cảm giác ưa thích rất nhanh và mạnh. Chúng ta thở đan điền, buông xả và cảm nhận hạnh phúc cụ thể khi uống và thưởng thức từng hớp một.
- Những vị nào khả năng tài chánh ít hơn thì ăn xôi đậu xanh với dừa nạo và đậu phụng trộn đường cũng tốt. Khi ăn xôi hoặc ăn cơm, chúng ta ngồi thoải mái, tâm thư dãn, thở đan điền khi nhai và cảm nhận mùi vị. Hít vào, nhai 3 lần, thở ra nhai 5 lần. Sau ba hơi thở vào và ra thì nuốt, như vậy là nhai được 24 lần trong chánh niệm. Ăn uống trong chánh niệm làm cho niềm vui ưa thích phát sinh và kéo dài suốt buổi ăn. Đù nghèo hay giàu, mọi người đều bình đẳng trong việc xây dựng và thưởng thức hạnh phúc.
Theo định luật phát triển bộ não do giáo sư thần kinh học Merzenich[34] nêu ra “các tế bào thần kinh cùng hoạt động thì cùng quấn vào nhau”. Do đó, sau khi thực hành một thời gian và các tế bào nơi hai vùng não khác nhau quấn lại với nhau đưa đến kết quả là khi một thứ xuất hiện thì thứ kia cũng xuất hiện như theo luật duyên khởi đức Phật dạy: “Cái này có thì cái kia có…Cái này sinh thì cái kia sinh…”. Do đó, chúng ta tập thở đan điền và cảm giác hạnh phúc để chúng dần dần nối kết mạnh mẽ với nhau. Khi chúng ta thực hành nhiều lần sự nối kết này thì chúng trở thành bền chắc trong bộ não không khác gì phần cứng trong máy vi tính, chỉ cần nháy chuột (thở đan điền) là niềm vui ưa thích xuất hiện ngay tức thì.
Ngày hôm nay, những công nhân làm việc ở các hãng xưởng cần được hướng dẫn phương pháp cảm nhận ăn ngon khi họ ăn sáng, trưa và chiều để họ phát triển niềm hạnh phúc vì hạnh phúc làm giảm căng thẳng, và nhất là giúp cho họ có ít nhất là ba cơ hội trong một ngày, tự mình thấy rõ trong cuộc đời lao động vất vả họ vẫn có thể có khả năng thắp sáng ý nghĩa của đời sống của mình, hiện hữu hay hiện sinh tích cực trong hạnh phúc, qua thở đan diền, ăn uống và cảm nhận niềm vui ưa thích dù với các loại thức ăn khác nhau cũng như thực hành sự vui sống trong các sinh hoạt bình thường mỗi ngày. Qua sự thực hành phát triển hạnh phúc trong sinh hoạt bình thường hàng ngày mà họ có cơ hội thấy rõ tánh thấy biết chân thật nơi mình, thấy rõ sự mầu nhiệm và lợi ích của lời Phật dạy để ứng dụng vào các sinh hoạt và nhất là khi làm việc để có niềm vui. Nhờ thấy rõ ý nghĩa và mục đích của đời sống nên đời sống họ có thêm nhiều phẩm chất như khi làm việc họ gia tăng năng xuất nên có thêm tiền lương, họ giao tiếp vui vẻ với các bạn đồng nghiệp, giảm bớt căng thẳng trong các mối tương quan, vui sống với vợ chồng con cái và đóng góp những điều tốt đẹp nhất cho xã hội và cho tương lai con cháu.
Người chủ nào biết chăm sóc cho nhân viên là người biết cách xây sự nền móng vững chắc cho tài sản của mình càng lúc càng phát triển vì, như các cuộc nghiên cứu khoa học đã chứng minh, công nhân, nhân viên hay người làm hạnh phúc thì mang đến nhiều lợi ích cho công ty.
Sau khi đã thực hành cách thở và cảm nhận hạnh phúc nói trên, trong các sinh hoạt khác, khi chúng ta thở đan điền thì niềm vui ưa thích lành mạnh này, vốn là nền tảng của hạnh phúc, tự động xuất hiện làm cho trí óc chúng ta trong sáng, năng lực gia tăng và chúng ta hạnh phúc rất nhiều. Để cho sự thực hành có kết quả thật sự tốt đẹp, chúng ta ăn cơm trong chánh niệm và cảm nhận niềm vui khi ăn. Nhai và chú ý cảm nhận cảm giác, theo bài kệ đức Phật dạy vua Pasenadi, sẽ giúp chúng ta buông thư đồng thời cảm nhận được vị ngon của thức ăn làm chúng ta thấy hạnh phúc và cùng lúc giúp gia tăng sức khỏe. Chúng ta có thể thực hành đọc bài kệ trước khi ăn theo cách hít vào (không đọc), thở ra dọc câu một câu bài kệ:
“Thường thực hành chánh niệm
Ăn uống biết vừa đủ
Nhai lâu, cảm thọ mạnh
Trẻ lâu, tuổi thọ dài”.
Phần thực hành. Gồm ba phần thực hành cụ thể:
- Ăn mười hạt nho khô trong chánh niệm.
- Viết ra những tánh tốt và nói lời cám ơn.
- Tập thế Lạy Phật Theo Khí Công và cảm nhận niềm an lạc nơi vùng não trước trán.
Phần thực hành 1. Ăn mười hạt nho khô trong chánh niệm. Bạn nào cữ ăn đường xin ăn đậu phộng.
Ngồi thoải mái với tâm buông xả. Sau đó hít vào (không đọc) rồi thở ra thoải mái cùng lúc đọc thầm bài kệ ‘Thường thực hành chánh niệm’. Hít vào, thở ra dọc thầm ‘Ăn uống biết vừa đủ’ Hít vào, thở ra đọc thầm ‘Nhai lâu, cảm thọ mạnh’. Hít vào, thở ra đọc thầm ‘Trẻ lâu, tuổi thọ dài.’
Sau đó bắt đầu ăn trong chánh niệm. Bỏ một hạt nho vào miệng và hít vào nhai 3 lần, thở ra nhai 5 lần, 3 hơi thở vào và ra là nhai 24 lần. Chất ngọt làm cho niềm vui ưa thích phát sinh nhiều nhưng do ăn trong chánh niệm nên chúng ta không bị ham muốn làm quên lãng và thúc giục phải ăn nhiều thêm.
Khi đã quen cách ăn trong chánh niệm, chúng ta thực hành ăn cơm trong chánh niệm 3 lần mỗi ngày làm bộ não quen dần với nề nếp hạnh phúc gia tăng mà không ham muốn làm cho hư hại.
Phần thực hành 2. Viết ra những tánh tốt và nói lời cám ơn.
Phương pháp thực hành này giúp cho vỏ não trước trán và các nhân liền kế nhau nối kết tốt đẹp để hạnh phúc kéo dài. Năm ngày liên tiếp trong một tuần lễ xin thực hành bốn điều sau đây:
1. Viết xuống tánh tốt của mình, 3 lần trong ngày (như vui vẻ, cảm thông, thương con, làm việc giỏi, v.v…) và mỗi lần một tánh tốt khác nhau.
- Sáng:
- Trưa:
- Chiều:
2. Viết xuống tánh tốt của người mình hay tiếp xúc như bạn cùng sở hay thân nhân và mỗi lần một tánh tốt khác nhau.
- Sáng:
- Trưa:
- Chiều:
3. Nói lời cám ơn thường xuyên. Khi nói lời cám ơn thì nhìn vào mắt người đó và cảm nhận sự biết ơn thật sự trong lòng mình càng nhiều càng tốt.
4. Thực hành nhiều lần nói lời khen ngợi người khác khi thấy họ làm công việc gì tốt, họ có ngôi vườn đẹp, nhà cửa sạch sẽ hay điều gì hay. Xin nhìn thẳng vào mắt họ khi nói lời khen ngợi một cách thành thật.
Phần thực hành 3. Tập thế Lạy Phật Theo Khí Công và cảm nhận niềm an lạc nơi vùng não trước trán.
Phần thực hành 3. Lạy Phật theo Khí Công.
Để cho sự thực hành lạy Phật theo khí công có kết quả tốt đẹp, xin quý vị tập mỗi động tác cho chính xác theo hình vẽ. Khi tập xin nhớ hít hơi vào và thở hơi ra cho đúng cách. Phần thực hành gồm 6 bước như sau:
|
Bước 1. Chú tâm và buông xả. Hai tay lên trước vùng tim tỏ sự thành tâm. Đọc danh hiệu một vị Phật (nếu tụng với giọng ngân nga theo nhịp khánh thì rất tốt). |
Bước 2: Đọc xong danh hiệu một vị Phật rồi thì hít hơi vào bằng mũi, đưa hai tay lên trên đầu (khi lạy Phật theo khí công thì chỉ đưa hai tay ngang lên trước trán để tỏ lòng thành kính, không đưa lên quá cao trên đầu như trong hình trên là thế tập yoga). |
|
Bước 3: Thở ra bằng mũi, đồng thời ngồi thẳng xuống với lưng thẳng, không chồm người ra phía trước nên không bị cong lưng, hai gót chân đưa cao, hay tay thẳng phía trước để lấy thăng bằng (xin cố gắng thực hành đừng chống tay khi ngồi xuống như hình trên để làm gia tăng sức mạnh các cơ bắp bàn chân, cơ bốn đầu nơi bắp đùi và cơ bắp chuối). |
Bước 4: Tiếp tục thở ra, cúi người xuống phía trước, các đầu ngón tay chấm đất, hai chân phía dưới (đầu gối xuống đến hai bàn chân) nằm thẳng trên mặt đất để cho người được vững vàng và sức nặng thân thể không ép lên hai đầu gối. |
|
Bước 5: Tiếp tục thở ra cùng lúc tiếp tục lạy xuống. Tay không chống đất để luyện cơ bụng cho mạnh lên. Trán chạm đất thì hơi trong phổi được thở ra hết. Hai cùi chỏ và hai cánh tay trước nằm sát đất. Sau đó, hít hơi vào, đưa các ngón chân vào trong, chuẫn bị hất người ra phía sau và ngồi dậy thẳng lưng (như trong hình kế tiếp). |
Bước 6. Hít hơi vào, bật người ra phía sau, ngồi dậy trên phía trước bàn chân. (Xin cố gắng thực hành đừng chống tay khi ngồi lên mà dùng sức mạnh của cơ bắp vùng lưng khi ngồi lên để luyện hệ thống gân và bắp thịt vùng lựng mạnh lên.) Tiếp tục hít vào và đứng thẳng lên để luyện các cơ bắp nơi hai chân. |
|
Và khi đứng lên thì trở về lại bước 1 như lúc bắt đầu. |
Tại sao cần tập thế lạy Phật theo khí công? Lạy Phật theo khí công là Thiền buông thư khi hoạt động. Và đây cũng là loại vận động có oxy. Lạy Phật theo khí công giúp giảm nhiều đau nhức do chứng tê thấp sinh ra, làm gia tăng sức mạnh của hệ thống các bắp thịt và gân nâng đỡ cột sống để phòng ngừa cũng như giúp giảm bớt đau lưng, đau hông hay tay chân. Khi thực hành đều đặn thì giúp bàn chân, gân nơi mắt cá, bắp chuối và cơ bốn đầu nơi bắp đùi mạnh hơn. Nhờ đó mà đi đứng vững vàng hơn và ít bị vấp té, phòng ngừa hay giảm chúng đau lưng, đau vai hay tay chưn, rất tốt cho người trung niên và cao niên. Những người ngồi làm việc lâu thường bị đau dưới thắt lưng hay đau thần kinh tọa, đau vai, cánh tay và hai bàn tay, tập thế lạy Phật theo khí công với tâm buông thư và cầu nguyện chư Phật gia hộ giúp hết đau nhức, có kết quả trong thời gian mau chóng.
Lạy Phật theo khí công phối hợp trọn vẹn ba thứ: (1) tập luyện để phát triển sức mạnh bắp thịt nòng cốt và gân để nâng đỡ hệ thống cột xương sống, gia tăng sức mạnh chân và bàn chân, (2) tạo ra trạng thái buông thư cần thiết để làm hết đau nhức, và (3) có phần cầu nguyện tác động vào tâm linh (sau khi lạy Phật xong). Tuy nhiên, quý vị nào đã bị vẹo xương sống, xin hỏi ý kiến bác sĩ trước khi tập thế này, những vị cao huyết áp khi lạy, đừng bao giờ để đầu hạ thấp hơn tim và lạy vừa phải theo sức khỏe của mình là tốt nhất, khi thấy khó chịu nơi tim là ngừng lạy, không cần phải đủ số 108 và xin quý vị nhớ uống thuốc theo lời dặn của bác sĩ.
***
[1]. Berridge, K.C. (2007). The debate over dopamine’s role in reward: the case for incentive salience. Psychopharmacology, 191: 391-431.
[2]. Heath R.G. (1972). Pleasure and brain activity in man. Deep and surface electroencephalograms during orgasm. J Nerv Ment Dis, 154: 3–18.
[3]. Berridge, K. C. & Kringelbach, M. L. (2008). Affective neuroscience of pleasure: reward in humans and animals. Psychopharmacology 199: 457–480.
[4]. Như trên. Ibid.
[5]. Kringelbach M.L., Hansen P.C., Green A.L. & Aziz T.Z. (2010). Using magnetoencephalography to elucidate the principles of deep brain stimulation. In MEG. An introduction to methods (Hansen P.C., Kringelbach M.L & Salmelin R, eds.), New York: Oxford University Press, tr. 403-423.
[6]. Berridge, K.C & Kringelbach, M.L. Toward a neuroscience of well-being: implications of insights from pleasure research. In Human Happiness and the Pursuit of Maximization. (2013) Edited by H. Brockmann & J. Delhey. Netherlands: Springer, tr. 81-100.
[7]. Oishi, S., Diener, Ed, and Lucas, R. E. . (2007) The optimal level of well-being: Can we be too happy? Perspect. Psychol. Sci. 2: 346–360.
[8]. Kringelbach, M. L. (2009) The Pleasure Center. New York: Oxford University Press, tr. 219.
[9]. Waterman, A.S. (1993) Two conceptions of happiness: contrasts of personal expressiveness (eudaimonia) and hedonic enjoyment. J. Pers. Soc. Psychol. 64: 678–691.
[10]. Nhất Hạnh dịch từ Hán Tạng. Kinh Quán Niệm Hơi Thở II, Tạp A Hàm 801. http://www.crpcv.org/thuyentu/Kinh Quán Niệm Hơi Thở.
[11]. Kinh Tương Ưng Bộ, Tương Ưng Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra, Phẩm Một Pháp, Vesàli, HT. Thích Minh Châu dịch.
[12]. Kinh Trung A Hàm, Phẩm Trường Thọ Vương, Niệm Thân, kinh số 81.
[13]. Kringelbach, M. L. (2009). Sách đã viện dẫn. Opcit.
[14]. Kringelbach and Berridge 2008; Kringelbach ML, Berridge KC (2008) Pleasures of the brain. Oxford: Oxford University Press.
Berridge, K.C. Food reward: Brain substrates of wanting and liking. Neuroscience and Biobehavioral Reviews, 20, 1-25, 1996.
[15]. Berridge, K.C. Wanting and liking: Observations from the neuroscience and psychology laboratory. Inquiry, 52:4, 378-398, 2009.
Smith, K.S., and Berridge, K.C. Opioid limbic circuit for reward: interaction between hedonic hotspots of nucleus accumbens and ventral pallidum. Journal of Neuroscience, 27(7): 1594-605, 2007.
[16]. Peciña, S., Smith, K.S., & Berridge, K.C. Hedonic hotspots in the brain. The Neuroscientist, 12(6), 500-511, 2006.
[17]. Pecina, S. and Berridge, K.C. (2005) Hedonic hot spot in nucleus accumbens shell: where do mu opioids cause increased hedonic impact of sweetness? Journal of Neuroscience, 25(50): 11777-11786.
[18]. Peciña, S., Smith, K.S., & Berridge, K.C. Hedonic hotspots in the brain. The Neuroscientist, 12(6), 500-511, 2006.
[19]. Kent C Berridge, Terry E Robinson, and J Wayne Aldridge (2009). Dissecting components of reward: ‘liking’, ‘wanting’, and learning. Curr Opin Pharmacol. 2009 February; 9(1): 65–73.
[20]. Berridge, K.C. & Kringelbach, M.L. Affective neuroscience of pleasure: reward in humans and animals. Psychopharmacology, 199, 457-480, 2008.
[21]. Berridge, K.C & Kringelbach, M.L. Toward a neuroscience of well-being: implications of insights from pleasure research. In Human Happiness and the Pursuit of Maximization (2013). Edited by H. Brockmann & J. Delhey. pp. 81-100, Netherlands: Springer.
[22]. Kinh Trung A Hàm, Phẩm Trường Thọ Vương, Niệm Thân, kinh số 81.
[23]. Bức tranh toàn diện về vị thành niên và thanh niên Việt Nam. Trang điện tử giáo dục truyền thông sức khỏe. Bộ Y tế. http://www.t5g.org.vn. Retrived on 5/11/2013.
[24]. Pizzagalli DA, Iosifescu D, Hallett LA, Ratner KG, Fava M. (2008). Reduced hedonic capacity in major depressive disorder: evidence from a probabilistic reward task. J Psychiatr Res. Nov, 43(1):76-87.
[25]. Kringelbach, M.L. & Berridge, K.C. (2009). Toward a functional neuroanatomy of pleasure and happiness. Trends in Cognitive Sciences, 13(11), 479-487.
[26]. Davidson, R. J., Pizzagalli, D., Nitschke, J. B., & Putnam, K. M. (2002). Depression: Perspectives from affective neuroscience. Annual Review of Psychology, 53, 545-574.
[27]. Heller AS, Johnstone T, Shackman AJ, Light SN, Peterson MJ, Kolden GG, Kalin NH, Davidson RJ. (2009) Reduced capacity to sustain positive emotion in major depression reflects diminished maintenance of fronto-striatal brain activation. Proc Natl Acad Sci U S A. Dec 29;106(52):22445-50.
[28]. Kringelbach ML, Berridge KC. (2009) Towards a functional neuroanatomy of pleasure and happiness. Trends Cogn Sci. Nov, 13(11):479-87.
[29]. Berridge, K.C. & Kringelbach, M.L. (2008). Tài liệu đã viện dẫn. Opcit.
[30]. Seligman, M. E. P. (2011). Flourish: A visionary new understanding of happiness and well-being. New York, New York: Free Press.
[31]. Fredrickson, B. L., & Losada, M. F. (2005). Positive affect and the complex dynamics of human flourishing. American Psychologist, 60 (7):678–686.
[32]. Fava GA, Tomba E. (2009). Increasing psychological well-being and resilience by psychotherapeutic methods. J Pers. 77(6):1903-34.
[33]. Fava GA, Tomba E. (2009). Increasing psychological well-being and resilience by psychotherapeutic methods. J Pers. 77(6):1903-34.
[34]. Merzenich, M. and Keep, L. (2008). The Brain Fitness Program, PBS Home Video, DVD Special Feature.