Đạo Phật Ngày Nay

Tuần lễ 4: Hạnh phúc là tài nguyên quan trọng của quốc gia - Chương 1: Sự cần thiết nâng cao tổng hạnh phúc quốc gia

 

 

CHƯƠNG 1:

SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO

TỔNG HẠNH PHÚC QUỐC GIA

Vào năm 1972, vua  Jigme Singye Wangchuc của nước Bhutan, một vương quốc nhỏ giữa hai nước khổng lồ là Ấn Độ và Trung Quốc, tuyên bố chính phủ nước này không chỉ cố gắng phát triển tổng sản lượng quốc gia để phát triển kinh tế mà còn cả tổng hạnh phúc trong nước. Trên hai thế kỷ trước đây, vào năm 1729, nước Bhutan đã có tuyên ngôn về việc điều hành chính quyền là phải lo cho hạnh phúc người dân của họ.

ÔNG VUA PHẬT TỬ LO CHO HẠNH PHÚC NGƯỜI DÂN

Vua Wangchuc là một Phật tử học hỏi đạo Phật rất sâu sắc và thấy những lời dạy và sự thực hành trên thực tế của đức Phật, các vị tăng ni và Phật tử thực sự đem lại hạnh phúc cho con người. Đức Phật dạy có 40 loại hạnh phúc trong đó có 4 thứ quan trọng nhất cho những người Phật tử sống tại gia:[1]

1. Hạnh phúc do không bị khổ sở vì nợ nần (Anaya sukha).

2. Hạnh phúc do có của cải và tài sản (Atthi sukha).

3. Hạnh phúc vì do có tài sản nên sống cuộc đời có nhiều tiện nghi (Bhoga sukha).

4. Hạnh phúc do sống đời có mục đích và có ý nghĩa.

Tuy nhiên, tất cả những niềm hạnh phúc do của cải và tiện nghi đó thật là vô ích nếu đời sống không có kinh nghiệm về những hạnh phúc của đời sống lành mạnh và tốt đẹp hay thiện như tôn trọng dời sống của mình và của người, bảo vệ hạnh phúc gia đình, thành thật với người, tôn trọng tài sản người khác và không sử dụng các chất gây mê làm hại mình và hại người qua sự thực hành năm giới của người Phật tử (Anavajjasukha) là không sát hại, không tà dâm, không vọng ngữ, không trộm cắp và không sử dụng các chất gây mê mờ. Theo ngôn ngữ của các nhà tâm lý học hiện nay, khi một người Phật tử trở về nương tựa Phật, Pháp và Tăng, hay Quy y Tam bảo, và thọ năm giới căn bản thì họ quyết định chọn lựa đi theo con đường hạnh phúc do sống đời có mục đích và có ý nghĩa (eudaimonia).

Nước Bhutan bắt đầu có chính sách phát triển hạnh phúc cho người dân vào năm 1972 qua sự thực hiện bốn điều chính trong các chương trình phát triển xã hội như sau:

1. Thực hiện các dự án phát triển có hiệu quả thật sự,

2. Thúc đẩy bảo tồn các giá trị văn hóa,

3. Bảo vệ môi trường tốt đẹp,

4. Phân phát công bằng và sử dụng hữu hiệu các tài nguyên trong nước.

Những cuộc nghiên cứu của các chuyên gia về hạnh phúc cho thấy các nước giàu có trên thế giới như Nhật Bản lại có vị trí khá thấp trong bảng liệt kê các nước có hạnh phúc. Còn Hoa Kỳ, được nhiều người ca tụng là nước giàu mạnh nhất trên quả đất, thì được các nhà nghiên cứu nổi tiếng trên thế giới như giáo sư danh dự về kinh tế học Layar John F. Helliwell của đại học British Columbia, giáo sư Jeffrey D. Sachs, giám đốc trung tâm nghiên cứu về phát triển và nhu cầu người nghèo The Earth Institute, thuộc viện đại học Columbia và giáo sư Richard, giám đốc chương trình nghiên cứu về hạnh phúc thuộc đại học London School of Economics, đề cập đến trong bài Tường Trình Về Hạnh Phúc Toàn Cầu cho thấy có những trái ngược về phát triển kinh tế và sự khổ đau do mâu thuẫn về của cải vật chất và niềm hạnh phúc con người:[2]

Những điều mâu thuẫn này sẽ không gây ngạc nhiên cho các bậc đại hiền nhân gồm có Aristote và Phật Thích Ca. Các bậc hiền nhân đã dạy đi dạy lại cho nhân loại là vật chất không thôi không thể đáp ứng những nhu cầu sâu xa nhất của chúng ta. Đời sống vật chất phải được trau luyện để hướng tới sự đáp ứng các nhu cầu thâm sâu này của loài người. Quan trọng hơn hết là khích lệ sự chấm dứt khổ đau, thực hành công chính và đạt được hạnh phúc. Sự thách thức này là có thực sự cho mọi nơi trên thế giới.

Như một ví dụ then chốt, siêu cường quốc kinh tế thế giới Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, đã phát triển lớn lao trong phạm vi kinh tế và kỹ thuật trong nửa thế kỷ qua mà người dân nước này không đạt được hạnh phúc hơn qua sự nhận biết của họ. Mà ngược lại, sự bấp bênh và lo âu lên cao, sự bất bình đẳng về xã hội và kinh tế càng gia tăng đáng kể”.

Nhiều người đã kinh ngạc khi nghe những lời phát biểu này. Bản tường trình về hạnh phúc thế giới nói trên nhắc nhở cần phải quan tâm hơn nữa về sức khỏe và hạnh phúc của con người ở những nước giàu cũng như nghèo:

Những thực tế của sự nghèo nàn, bất an, môi trường bị xuống cấp và không có hạnh phúc ngay giữa sự giàu có, chúng ta không nên chỉ nhìn chúng với đôi mắt tò mò. Những điều đó đòi hỏi chúng ta cần có sự chú ý khẩn cấp, và nhất là trong giai đoạn tiếp nối hiện nay của nhân loại vì chúng ta đang bước vào một giai đoạn mới của lịch sử loài người gọi là Tân Nhân Loại, Anthropocene, do một nhà khoa học về hệ thống đất đai thế giới sáng tạo ra. Đây là một chữ mới được tạo ra qua sự ghép lại hai chữ Hy Lạp là con người, anthrop,  và mới là cene, con người trong một kỷ nguyên thời đại mới.

Đây là một kỷ nguyên thời đại mới mà trong đó nhân loại với sức mạnh của kỹ thuật lớn lao và với dân số 7 tỷ con người, đã trở thành một động lực thúc đẩy chính cho hệ thống vật lý của Quả Đất, trong đó bao gồm khí hậu, chu kỳ khí carbon, chu kỳ nước, chu kỳ khí nitrogen cùng với sự đa dạng của các đời sống sinh vật và thảo mộc”.

LIÊN HIỆP QUỐC KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN HẠNH PHÚC

Những trào lưu kêu gọi phát triển hạnh phúc đã tác động vào cơ quan Liên Hiệp Quốc và tổ chức quốc tế này đã nhắc nhở các nước hội viên đừng bỏ sót yếu tố hạnh phúc của người dân trong các dự án phát triển kinh tế xã hội. Điều này đã phản ánh qua phiên họp vào ngày 19 tháng 7 năm 2011[3] của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, kêu gọi các nước hội viên cố gắng thực hiện các bước để phát trển hạnh phúc và sức khỏe cho người dân qua cách nghiên cứu sự thành đạt xã hội và phát triển kinh tế. Trong bản tuyên ngôn về phiên họp này, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc mời gọi các nước hội viên xem sự kiếm tìm hạnh phúc là một mục đích căn bản của loài người và bao hàm trong sự đồng ý về Thiên Niên Kỷ Các Mục Đích Phát Triển, Millennium Development Goals, của nhân loại.

Những điều khuyến cáo về quyền theo đuổi hạnh phúc của con người nói trên có phần quan trọng nhắc nhở các nước hội viên Liên Hiệp Quốc như sau: “Thực hành sự soạn thảo kỹ lưỡng nhiều biện pháp thêm vào để thành đạt được sự quan trọng của sự theo đuổi hạnh phúc và sức khỏe trong các chương trình phát triển và sử dụng điều này như kim chỉ nam cho các chương trình công cộng”.

Các nước  hội viên Liên Hiệp Quốc cũng hân hoan chấp nhận đề nghị của nước Bhutan nên dùng Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia (Gross National Happiness, GNH) thay vì Tổng  Sản Lượng Nội Địa, (Gross Domestic Product, GDP) vì Tổng  Sản Lượng Nội Địa GDP không phản ánh được hạnh phúc và sức khỏe của người dân trong nước cũng như có những cách thức sản xuất và tiêu thụ có thể gây trở ngại cho sự phát triển. Điều này nước Bhutan đã thực hành trong nhiều năm qua nên được cơ quan Liên Hiệp Quốc mời chủ trì một phiên thảo luận của đại diện các nước về hạnh phúc và sức khỏe trong phiên họp đại hội đồng kỳ tới. 

Vào tháng 2 năm 2012 tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York chính phủ Bhutan đã chủ trì phiên họp “Hạnh phúc và thịnh vượng: Định rõ một mẫu kinh tế mới”. Về tổng hạnh phúc do vị vua Phật tử Wangchuc của nước Bhutan đề nghị thêm vào trong chương trình phát triển thịnh vượng quốc gia.

Với trên 600 các nhà lãnh đạo chính quyền và hoạt động xã hội tham dự, hội nghị về tổng hạnh phúc quốc gia đã ra một nghị quyết cần phải quan tâm đến tổng hạnh phúc trong nước không kém gì tổng sản lượng quốc gia trong vấn đề phát triển kinh tế vì “sự thịnh vượng của cải vật chất tuy quan trọng, nhưng nó không phải là yếu tố duy nhất quyết định hạnh phúc của con người”.[4]

Vị tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, ông Ban Ki-moon, cho rằng nghị quyết nói trên của phiên họp quan trọng đã phản ánh những quan niệm của nhân loại trước đây:

Những ý tưởng đó đã có vào những thời kỳ sớm nhất của loại người. Ví dụ, chúng ta có thể tìm thấy trong những lời giảng dạy của đức Phật và của triết gia Aristote”.

Lý do mà vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc mời chính phủ nước Bhutan chủ trì phiên họp quan trọng để thảo luận về sự liên hệ giữa hạnh phúc, sức khỏe và phát triển tại trụ sở Liên Hiệp Quốc, theo ông Ban Ki-moon, trong bài diễn văn khai mạc hội nghị:

Gần đây hơn, trong Báo cáo Brundtland vào năm 1987, của Ủy Ban Về Chỉ Số Phát Triển Nhân Loại và Đo Lường về Hoạt Động Kinh Tế và Phát Triển Xã Hội do tổng thống nước Pháp Sarkosky thành lập, khởi sự đặt câu hỏi về sự thành công qua đo lường mức độ giàu có trong nước mà thôi.

Nước Bhutan đã thừa nhận sự ưu thế của hạnh phúc trong nước hơn là lợi tức trong nước ngay vào buổi đầu của thập niêm 1970. Quốc gia này đã nổi danh khi chấp nhận tổng số hạnh phúc trong nước trên tổng sản lượng quốc gia. Lề lối suy nghĩ như thế hiện đang gia tăng trong nhiều vùng khác trên thế giới.

Tổng sản lượng quốc gia từ lâu được sử dụng như một tiêu chuẩn để đo lường về kinh tế và chính trị. Tuy thế, nó đã thất bại vì không quan tâm đến cái giá về xã hội và môi trường phải trả cho sự gọi là phát triển này. Chúng ta cần có một mẫu mới về kinh tế trong đó công nhận ba trụ cột của sự phát triển quan trọng bằng nhau. Đó là xã hội, kinh tế và môi trường hạnh phúc là bất khả phân. Ba thứ này cọng lại tạo ra tổng sản lượng hạnh phúc toàn thế giới…

Tôi cám ơn chính phủ Bhutan và vị thủ tướng nước này đã triệu tập buổi họp này và chúng tôi xin chúc quý vị có cuộc hội thảo với lợi ích tốt đẹp nhất”.

BIẾN ƯỚC MONG THÀNH HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ

Với mục đích soạn thảo một chương trình thực hành cụ thể để giúp con người gia tăng hạnh phúc, nhiều nhà khoa học danh tiếng đã tổ chức cuộc hội thảo với chủ đề thay đổi tâm để thay đổi thế giới cho tốt đẹp hơn, Change Your Mind Change The World 2013[5]. Cuộc hội thảo này được tổ chức tại thành phố Madison bang Wisconsin, Hoa Kỳ, do ngài Đạt Lai Lạt Ma chủ trì để đóng góp các ý kiến giúp tìm ra các phương pháp giải quyết các vấn đề thế giới đang đối diện do một hội đồng gồm các nhà chuyên môn thuộc nhiều ngành khoa học nổi tiếng như giáo sư Richard Davidson chuyên gia thần kinh học, Lord Richard Layard chuyên gia kinh tế học, bác sĩ Jonathan Patz chuyên gia ngành môi sinh, tiến sĩ Ilona Kickbusch nhà lãnh đạo về ngành chăm sóc sức khỏe toàn cầu, nhà báo nổi tiếng Arianna Huffington, tiến sĩ Daniel Goleman chuyên gia thông minh cảm xúc và tu sĩ Phật giáo Ricard Matthieu, tiến sĩ sinh hóa và là vị thiền sư được phong tặng là người hạnh phúc nhất thế giới. Buổi hội đàm được điều hợp bởi nhà báo Huffington và nhà tâm lý học Goleman.

Không phải vì tình cờ mà chủ đề cuộc hội thảo Thay Đổi Tâm Thay Đổi Thế Giới liên hệ đến lời đức Phật dạy trong kinh Pháp Cú, Phẩm Song Yếu như sau:

                  “Tâm dẫn đầu mọi pháp

                  Tâm chủ, tâm tạo tác

                  Nếu nói hay hành động

                  Với tâm tư trong sạch

                  Hạnh phúc sẽ theo ta

                  Như bóng không rời hình.

                  Tâm dẫn đầu mọi pháp

                  Tâm chủ, tâm tạo tác

                  Nếu nói hay hành động

                  Với tâm tư ô nhiễm

                  Khổ não sẽ theo ta

                  Như xe theo ngựa kéo”.[6]

Trong diễn văn khai mạc, viện trưởng viện đại học Wisconsin nhấn mạnh về sự quan trọng của hạnh phúc mà thế giới đang cần có như sau:

Không có đề tài nào tác động vào thế giới mạnh mẽ hơn là hạnh phúc bền vững có thể thực hành được”.

Nhà báo Huffington cũng tán thành ý kiến này và phát biểu về sự cần thiết của khôn ngoan trí tuệ cho thế giới đang lâm vào cơn bão thời đại hiện nay:

- Nhiều người thông minh làm những quyết định tai hại không phải là do không thông minh mà là do không có sự khôn ngoan của trí tuệ.

- Trước đây các cuộc nghiên cứu khoa học và chương trình hướng dẫn thực hành chánh niệm không được coi trọng, giờ đây thực hành chánh niệm là phương pháp chính thức được xã hội mọi nơi thừa nhận có tính cách quan trọng.

- Sự  phát triển kỹ thuật tân tiến không may trở thành gốc rễ của sự xa rời với cuộc sống và làm cho con người mất đi nhiều hạnh phúc. Nhiều người đã quá bị lệ thuộc vào các loại máy móc nên quên lãng đời sống.

Khi nghe nói đến nhu cầu cần thực hành chánh niệm để tránh có những quyết định sai lầm, có sự an tâm và thân thiết với đời sống hiện tại, người Phật tử biết rõ sự cần thiết thực hành phương pháp làm cho an tâm như lời Phật dạy trong Phẩm Tâm, kinh Pháp Cú:

                  “Tâm hoảng hốt dao động, 

                  Khó hộ trì, khó nhiếp,

                  Người trí làm tâm thẳng,

                  Như thợ tên, làm tên.

                  Như cá quăng lên bờ,

                  Vất ra ngoài thủy giới;

                  Tâm này vùng vẫy mạnh...

                  Lành thay, điều phục tâm;

                  Tâm điều, an lạc đến”.[7]

Tâm bất an do không có khả năng thực hành sự chú ý và nhận biết những gì đang xảy ra đưa đến khổ đau và làm cho thân thể bệnh tật. Nhu cầu thực hành các phương pháp đem lại hạnh phúc và sức khỏe vốn rất cần thiết cho nhân loại. Giáo sư Davidson, trong phần trình bày về các phương pháp huấn luyện để có hạnh phúc, nhấn mạnh năm yếu tố quan trọng về hạnh phúc như sau: Thứ nhất, hạnh phúc là một kỹ năng, một sự khéo léo, mà chúng ta có thể học hỏi và thực hành tốt đẹp được. Thứ hai, hạnh phúc đi ngược chiều với sự đảng trí hay tâm lang thang. Thứ ba, thân thể và tâm chúng ta có những hoạt động liên hệ mật thiết. Thứ tư, hạnh phúc xuất hiện khi tâm buông xả và thứ năm, tình thương làm phát sinh hạnh phúc.

THỰC HÀNH CHÁNH NIỆM LÀM GIA TĂNG HẠNH PHÚC

Giáo sư Davidson nói về từng yếu tố một như sau:

Yếu tố 1. Bộ não có khả năng thay đổi khi chúng ta trải qua các kinh nghiệm và khi chúng ta huấn luyện qua sự lập đi lập lại nhiều lần để làm phát sinh tính tình tốt đẹp. Giáo sư Davidson nói rõ:

Và điều này dạy cho chúng ta về mạch thần kinh cảm xúc trong bộ não dễ thay đổi qua sự huấn luyện và qua các trải nghiệm. Chúng ta có thể huấn luyện để cho sự thay đổi này xảy ra”. 

Giáo sư Davidson nói đến một cuộc nghiên cứu đặc biệt do một sinh viên lớp tiến sĩ Helen Weng thực hiện dưới sự hướng dẫn của ông và với sự hợp tác của nhiều chuyên gia tâm lý học khác. Trong cuộc nghiên cứu này, những người tham dự thực hành thiền Từ Bi Quán 30 phút mỗi ngày trong hai tuần lễ thôi thì họ gia tăng lòng vị tha và sự hợp tác với người khác trở nên tốt đẹp hơn. Và bộ não họ đã thay đổi cách hoạt động tốt đẹp hơn.

Như vậy, đây là một kỹ năng, một tài khéo mà bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể học hỏi, huấn luyện, phát triển và dạy cho người khác.

Yếu tố 2. Yếu tố thứ hai là mức độ hạnh phúc liên hệ ngược chiều với sự đãng trí hay tâm lang thang, không có chú ý, nhưng lại liên hệ cùng chiều với tâm có thực hành sự chú ý hay chánh niệm. Ngài Đạt Lai Lạt Ma giải thích khi tâm chúng ta không cảm thấy thích thú hay chán thì nó bắt đầu đi lang thang. Khi tâm lang thang thì tạo ra tác động tiêu cực cho hạnh phúc và sức khỏe nên chúng ta cần thực hành một thứ gì đó để có sự chú tâm như thiền, tập luyện hay làm việc mình ưa thích. Khi có chánh niệm thì có hạnh phúc.

Giáo sư Davidson nói đến cuộc nghiên cứu của bác sĩ kiêm tiến sĩ Judson Brewer, giám đốc phòng trị liệu Yale Therapeutic Neuroscience Clinic thuộc viện đại học y khoa Yale, cho thấy khi chúng ta có chú ý thì chúng ta hạnh phúc. Khi chúng ta đãng trí, để tâm mình lang thang thì khổ đau xuất hiện. Hạnh phúc hay khổ đau là những cảm xúc và những cảm xúc này lại tác động vào thân thể chúng ta.

Giáo sư Davidson trình bày cuộc nghiên cứu cho thấy có sự liên hệ rõ ràng giữa chú tâm và hạnh phúc. Những người tham dự mang theo điện thoại di động và họ được các nhà nghiên cứu gọi bất thình lình và hỏi như sau:

- Câu hỏi 1: Bạn đang làm gì ngay trong lúc này?

- Câu hỏi 2: Bạn có chú tâm vào việc bạn đang làm không?

- Câu hỏi 3: Bạn có mức độ hạnh phúc hay không hạnh phúc là bao nhiêu?

Họ có thể đánh giá mức độ hạnh phúc từ số 0 là không có gì cả, 50 là trung bình và 100 là tối đa. Mức độ không có hạnh phúc tối đa là 100, mức độ không có hạnh phúc trung bình là 50 và mức độ không có hạnh phúc ít nhất là 0.

Kết quả cuộc nghiên cứu thật đầy ấn tượng và cho thấy người Mỹ bình thường không chú ý vào việc họ đang làm trong 47% thời giờ của họ.

Họ không thực hành chú ý 47% thời giờ và trong 47% thì giớ này họ báo cho biết là họ không có hạnh phúc. Khi họ chú tâm vào việc họ đang làm thì họ báo cho biết họ cảm thấy thực sự tốt hơn. Họ hạnh phúc nhiều hơn.

Như vậy, cuộc nghiên cứu về tâm lang thang cho thấy 47% thời gian của người Mỹ bình thường không chú ý vào việc họ đang làm, tâm họ lang thang và đây là đầu mối của sự thiếu vắng hạnh phúc khi làm việc.

Chúng ta đã biết, để làm giảm đi sự đãng trí làm cho con người bị mất nhiều hạnh phúc, cách đây trên hai ngàn năm trăm năm, trong kinh Quán Niệm Hơi Thở, đức Phật đã dạy cách thực hành thiền chánh niệm trong đó có sự chú tâm và nhận biết hơi thở vào và hơi thở ra để làm gia tăng khả năng chú ý như sau:

Này A Nan, vị thánh đệ tử:

Trong khi thở vào, biết mình đang thở vào.                                                                    

Trong khi thở ra, biết mình đang thở ra.

Trong khi thở vào một hơi dài hoặc một hơi ngắn, biết rằng mình đang thở vào một hơi dài hay một hơi ngắn.

Trong khi thở ra một hơi dài hoặc một hơi ngắn, biết rằng mình đang thở ra một hơi dài hay một hơi ngắn”.[8]

Những nhà khoa học đã sử dụng phương pháp thực hành thiền chánh niệm trong các cuộc nghiên cứu để gia tăng khả năng chú ý và nhận biết cùng với các kết quả tốt đẹp của nó là mức độ hạnh phúc và sức khỏe gia tăng.

HUẤN LUYỆN CHO THÂN THỂ QUEN CẢM NHẬN HẠNH PHÚC

Yếu tố 3. Yếu tố thứ ba thân thể và tâm chúng ta có những hoạt động liên hệ mật thiết giúp cảm nhận sức mạnh, sự bình an và hạnh phúc.

Yếu tố thứ ba này liên hệ nhiều đến các loại vật dụng tân tiến mà nhiều người đang sử dụng hiện nay. Khoa học kỹ thuật phát triển giúp sản xuất nhiều loại máy móc như điện thoại cầm tay, máy vi tính, máy truyền hình, các chương trình giao dịch và kết nối trong mạng và các loại máy chơi game làm cho con người càng lúc càng bận bịu và dính vào máy để giải trí nên xa lìa với đời sống thực tế như cảm nhận được đời sống của chính bản thân mình cũng như mối tương quan  thân thiết thực sự với những người chung quanh.

Để thực hành được các điều trên, như ngài Đạt Lai Lạt Ma đã hướng dẫn, các nhà khoa học đã có chương trình miễn phí giúp định vị trí cho tâm hồn, Global Positioning System (GPS) For The Soul. Bạn chỉ cần chạm mắt cảm ứng của máy điện thoại cầm tay thì máy sẽ cho biết nhịp tim bạn đang đập rồi sau đó bạn tạo ra cho mình một người hướng dẫn riêng cho mình về mọi thứ để giúp bạn trở về với chốn trung tâm của chính mình bao gồm các hình ảnh của những người bạn thương yêu, các bản nhạc, các bài thơ và cách huấn luyện thở trong chánh niệm.

Giáo sư Davidson nói về ý nghĩa sự thực hành này như sau:

Sự thực hành này đặt trên nền tảng của hai sự thật:

- Sự thật thứ nhất là mọi người chúng ta đều có một nơi chốn trong chính bản thân mình về sức mạnh, sự bình an và sự thấy biết chân thật.

- Sự thật thứ hai là đa số thời gian chúng ta không an trú được ở nơi chốn này.

Như vậy, công việc của chúng ta là để tìm ra cách làm sao đến với chốn này nhiều hơn vì nếu chúng ta xa lìa chốn bình an này quá nhiều  thì làm sao chúng ta có thể tìm ra một cách thức hoàn hảo để trở về chốn này. Làm những điều đó là một cuộc hành trình rất thú vị mà chúng ta đang thực nghiệm”.

Trong phần góp ý, Thiền sư Matthieu, người được các nhà khoa học gọi là người hạnh phúc nhất thế giới, cho rằng lòng ham muốn quá nhiều hay tham lam cũng là một trở ngại cho sự cảm nhận hạnh phúc. Tham là sự ham muốn mà không đem lại sung sướng như ăn thật nhiều mà khi ăn không thấy thích thú, không thấy ngon. Tham là do các ý tưởng sai lầm, hay vọng tưởng, nơi con người làm phát sinh. Chúng ta cần thực hành sự tự huấn luyện, trong đạo Phật gọi là tu tập, để làm giảm sức mạnh của các ý tưởng làm cho phát sinh ham muốn mà không đem lại niềm vui  thì chúng ta khó có hạnh phúc. Chúng ta có thể làm cho tâm mình lắng dịu qua những hoạt động của cơ thể, qua sự điều hòa hơi thở và thiền. Khi tâm chúng ta trở về với sự vắng lặng thì chúng ta biết rõ mình thực sự muốn có Hạnh Phúc, Niềm Vui và sự Bình An thân tâm.

Những điều nói trên về kỹ thuật làm phát sinh hạnh phúc chúng ta đã thấy rõ đức Phật dạy trong kinh Quán Niệm Hơi Thở về thực hành sự chú ý vào hơi thở và cảm nhận niềm an vui nơi thân và tâm như sau:

Ta đang thở vào và cảm thấy an lạc. Ta đang thở ra và cảm thấy an lạc. Người ấy thực tập như thế”.[9]

Yếu tố 4. Yếu tố thứ tư là sự thực hành thân và tâm buông xả. Các cuộc nghiên cứu khoa học cho thấy có kết nối giữa hạnh phúc và thân thể con người. Ngược lại, khi chúng ta bị lôi kéo vào sự chú ý đến những cảm xúc tiêu cực như lo lắng, buồn rầu hay giận dữ và cứ tiếp tục lập đi lập lại nhiều lần như vậy thì chúng ta lại vô tình huấn luyện cho cơ thể mình quen với sự cảm nhận theo nề nếp các trạng thái tiêu cực do khổ đau làm phát sinh như căng thẳng, gia tăng cortisol, gia tăng huyết áp hay các trạng thái làm phát sinh bệnh tật. Ngược lại, khi cảm nhận hạnh phúc nhiều lần thì chúng ta huấn luyện cho cơ thể mình quen thuộc với sự cảm nhận theo nề nếp sự thanh thản, thoải mái và bình an. Giáo sư Davidson trình bày vấn đề này như sau;

Theo kết quả các cuộc nghiên cứu khoa học thì yếu tố thứ tư cho thấy có ba thành phần liên hệ đến hạnh phúc:

- Thứ nhất là sự buông xả hay sự quân bình cảm xúc. Dấu hiệu cho thấy người có tâm xả là người có khả năng trở về vùng gốc của tâm, trở về với trạng thái yên tĩnh sau khi bị lâm vào hoàn cảnh làm cho căng thẳng. Như vậy, họ có thể phản ứng nhưng họ cũng có khả năng làm cho lắng dịu các cảm xúc tiêu cực làm cho phát sinh căng thẳng rất nhanh chóng.

- Thành phần thứ hai là khả năng thực hành chánh niệm hay chú ý và thấy biết rõ ràng.

- Thành phần thứ ba là lòng hảo tâm mà ngài Đạt Lai lạt Ma nói đến. Các cuộc nghiên cứu cho thấy lòng hảo tâm làm gia tăng hạnh phúc”.

THƯƠNG YÊU LÀ HẠNH PHÚC

Yếu tố 5. Yếu tố thứ năm là lòng từ bi. Lòng hảo tâm nói trên chính là tình thương nơi mỗi chúng ta. Con người cứ phải chiến đấu hoài cho sự sống còn của mình là do không ý thức được mình là thành phần của cộng đồng nhân loại. Hậu quả là luôn luôn bị căng thẳng qua những cuộc chiến tranh và bạo động tàn phá môi trường sinh sống trên quả đất thân yêu của chúng ta. Như thánh Gandhi đã nói quả đất này có thể cung cấp “đầy đủ cho nhu cầu mỗi người nhưng không đủ cho lòng tham của mỗi người”. Trong đạo Phật nói thực hành về tự lợi và lợi tha. Ngài Đạt Lai Lạt Ma nói rằng bố thí là một hành động làm lợi cho kẻ khác nhưng lại  đem đến nhiều điều tốt cho người thực hành bố thí, đó là tự lợi hay ích lợi cho chính mình. Đây là một sự “tự lợi khôn ngoan”.

Về lòng từ bi, giáo sư Davidson nhắc đến một cuộc nghiên cứu đặc biệt như sau:

Có một cuộc nghiên cứu quan trọng đã được thực hiện vài năm trước đây và được phổ biến lại trong một tờ báo lớn. các nhà nghiên cứu tuyển chọn các người tham dự và chia họ làm hai nhóm. Họ cho những người trong nhóm thứ nhất 100 mỹ kim vào buổi  sáng và khuyến khích họ đi mua sắm các thứ mà họ ưa thích cho chính mình. Những thứ họ ưa thích mà chưa có cơ hội để mua sắm. đến cuối ngày họ trở về phòng nghiên cứu.

Những người trong nhóm thứ hai cũng được phát cho 100 mỹ kim mỗi người với điều kiện là họ đi mua sắm cho người khác. Mua sắm thứ gì cũng được miễn sao là mua sắm cho người khác chứ không phải cho chính mình.

Xin quý vị đoán thử nhóm nào vào cuối ngày báo cho biết họ có nhiều hạnh phúc hơn? Đó là những người thuộc nhóm tiêu tiền mua sắm cho người khác. Như vậy, đây là một cuộc nghiên cứu thực nghiệm rất tốt”.

Không phải chỉ nơi người lớn mới có điều này. Giáo sư Davidson nói rõ về tính cách bẩm sinh về tình thương nơi con người như sau:

Hạnh phúc và lòng từ bi có tính cách bẩm sinh. Cuộc nghiên cứu khoa học về các trẻ em sáu tháng cho thấy khuynh hướng trẻ em là có thái độ hợp tác và vị tha nhiều hơn là có thái độ chống đối và hung hăng”.

Ngoài ra, các nhà nghiên cứu thần kinh học cũng thấy rõ thực hành hạnh từ bi, thương người và giúp đỡ người khác, cũng giúp cho chúng ta gia tăng hạnh phúc. Phương pháp Từ Bi Quán đã được các nhà khoa học chính thức áp dụng vào các cuộc nghiên cứu để biết được mức độ tình thương tác động vào cơ thể và tâm thần con người làm phát sinh hạnh phúc và sức khỏe cùng sự kết thân với những người chúng quanh. Hạnh phúc, qua những thứ trên bao gồm trạng thái buông xả (như xả hay equanimity trong đạo Phật), chánh niệm hay có sự chú tâm và có sự quân bình trong đời sống.

Trong phần kết thúc buổi hội luận, ngài Đạt Lai Lạt Ma nhắc nhở điều cần thiết của sự phát tâm thực hành của từng người một cho hạnh phúc toàn cầu gia tăng:

Sự khởi đầu thực hành này phải bắt đầu nơi lòng bình an của mỗi cá nhân. Sức khỏe và hạnh phúc toàn cầu có thể đạt  được trong thế kỷ này nếu từng người một trong chúng ta nuôi dưỡng để làm cho phát triển nơi chính bản thân mình. Nếu chúng ta sống đời sống vị tha, vì tình thương chính là tánh chân thật của mình, thì chúng ta sẽ có sự cảm nhận về trách nhiệm hướng dẫn kẻ khác cách nào làm cho mình thay đổi tốt lên. Sức khỏe và hạnh phúc toàn cầu chỉ có thể đạt được nơi từng mỗi con người một. Khi số lượng những người có lòng vị tha gia tăng đến mức trở thành mội khối lượng có tính cách quyết định thì sức khỏe và hạnh phúc toàn cầu thành tựu”. 

Năm yếu tố căn bản để phát triển hạnh phúc do giáo sư Davidson nêu trên là sự đúc kết của rất nhiều các công trình nghiên cứu của những nhà tâm lý học và thần kinh học hiện nay. Ho nhấn mạnh nhu cầu hạnh phúc là động lực thúc đẩy con người hành động và chính các hoạt động có ý nghĩa trong đời sống đem đến nhiều hạnh phúc cho con người. Do đó,  chương trình hoằng pháp của Phật giáo cần có các mục chú trọng một cách cụ thể đến hạnh phúc của người cư sĩ tại gia thuộc các giới khác nhau cùng các phương pháp thực hành trong đời sống để giúp người Phật tử gia tăng hạnh phúc và thành công. Qua các cuộc nghiên cứu công phu của các nhà khoa học về tánh chất của niềm vui ưa thích hay sung sướng (lạc thọ), về cảm giác khổ (khổ thọ) và về cảm xúc trung tính (bất khổ bất lạc thọ hay xả thọ), gốc rễ của những cảm thọ này nơi tâm và nơi bộ não, cách làm giảm khổ đau và gia tăng hạnh phúc và sự thực hành của đạo Phật để phát triển niềm hạnh phúc lên tối đa, chúng ta có thể tìm ra các quy luật tâm lý thực nghiệm phối hợp với lời dạy cụ thể của đức Phật làm nền tảng cho chương trình hoằng pháp giúp phát triển hạnh phúc, sức khỏe và thành công của mọi giới Phật tử trong các ngành nghề cũng như nam nữ, già trẻ khác nhau. 

HUẤN LUYỆN TÂM CẢM NHẬN DẤU ẤN NƠI THÂN

Như giáo sư Davidson đã trình bày ở trên:

Như vậy, công việc của chúng ta là để tìm ra cách làm sao đến với chốn này nhiều hơn vì nếu chúng ta xa lìa chốn bình an này quá nhiều thì làm sao chúng ta có thể tìm ra một cách thức hoàn hảo để trở về chốn này. Làm những điều đó là một cuộc hành trình rất thú vị mà chúng ta đang thực nghiệm”.

Giáo sư thần kinh học Damasio[10] đã nói rõ các trạng thái hạnh phúc như sung sướng, vui mừng hay thương yêu hoặc các trạng thái khổ đau như sợ hãi, giận dữ hay buồn rầu là do nhiều hoạt động của các phần khác nhau trong bộ não kết hợp mà biểu lộ thành các trạng thái ấy. Ông gọi đó là dấu ghi nơi thân (somatic marker hay thân ấn). Như một người bị chó cắn mười năm trước đây làm anh khiếp hãi thì sau này chỉ cần nghĩ tưởng đến con chó là anh hoảng hốt sợ hãi. Thân thể và bộ não anh lúc đó phản ứng  giống hệt như lúc anh bị chó cắn. Một người khác được mẹ thương yêu chăm sóc, mỗi lần gần mẹ thì cô thấy rất sung sướng. Ngày nay, dù mẹ đã qua đời trên mười năm, khi nghĩ đến hình ảnh của mẹ là cô thấy lòng tràn ngập niềm vui. Cô là một người thật may mắn.

Đức Phật chỉ dạy cho chúng ta một phương pháp làm phát sinh dấu ấn hạnh phúc nơi thân qua sự thực hành ngay trong hiện tại, không cần phải lệ thuộc vào những kinh nghiệm quá khứ. Chúng ta đã thực hành chánh niệm qua ngồi thiền. Khi thực hành chú ý và nhận biết hay chánh niệm thành công thì định tâm xuất hiện. Định tâm là trạng thái tâm có khả năng chú ý lâu và trở nên vững chãi, bình an và có sức mạnh nên không bị dao động. Vào thời đức Phật danh từ bộ não chưa có mặt. Khi nói đến nhận thức hay cảm xúc người ta chỉ nói đến tâm, chủ thể của nhận biết hay suy nghĩ. Tuy nhiên, qua cách giảng dạy nói về sự quan trọng của sự kết hợp thân và tâm trong định cùng ‘nhập vào’ hay cảm nhận và an trú trong sự nhẹ nhàng và an vui nơi thân, đức Phật đã đề cập đến sự cảm nhận dấu ấn nơi thân. Điều này chúng ta đã được nghe nói đến trong kinh Hòn Sắt thuộc phẩm Capala khi đức Phật dạy về thực hành bốn sự thành tựu chắc chắn như ý hay tứ như ý túc. Ngài nói về sự thực hành cụ thể về thân và tâm kết hợp thành một trong định tâm. Sự thực hành này có phương pháp rất cụ thể là khi có chánh niệm thì tâm an ổn và vững chãi (tâm định) và tâm cảm nhận thân an ổn, và khi thân an ổn và vững chãi (thân định) thì thân cảm nhận tâm an ổn. Lúc tâm cảm nhận thân, và thân cảm nhận tâm, trong trạng thái định như trên thì thân và tâm đồng thời tâm cảm nhận trọn vẹn lẫn nhau, nhập vào với nhau và cảm nhận cảm giác an vui nơi thân cùng với sự nhẹ nhàng nơi thân như sau:

Khi nào, này Ananda, Thế Tôn định thân trên tâm và định tâm trên thân, trong khi nhập vào và an trú lạc tưởng và khinh an tưởng trong thân, trong khi ấy, này Ananda, thân của Như Lai lại càng khinh an hơn, càng nhu nhuyễn hơn, càng kham nhẫn hơn, càng chói sáng hơn”.

Ví như một hòn sắt (hâm nóng) cả ngày trở thành nhẹ nhàng hơn, nhu nhuyễn hơn, kham nhẫn hơn, chói sáng hơn..[11]

Chúng ta thấy rõ sự thực hành tâm cảm nhận dấu ấn an lạc nơi thân, là trạng thái ghi dấu nơi thân (Somatic Marker hay body marker), qua định thân trên tâm và định tâm trên thân mà đức Phật dạy cho ngài A Nan là một cách thực hành rất kỳ diệu rất phù hợp với những khám phá thần kinh học hiện đại. Khi thực hành “định thân trên tâm và định tâm trên thân” hay cảm nhận dấu ấn an lạc nơi thân thì tâm chúng ta  cảm nhận được niềm vui ưa thích nơi thân cùng với sự nhẹ nhàng, thanh thản, nhu nhuyễn, trong sáng và khỏe mạnh nơi thân. Đó là điều mà giáo sư Davidson gọi chốn bình an mình cần phải trở về như đã trình bày ở trên:

Sự thật thứ nhất là mọi người chúng ta đều có một nơi chốn trong chính bản thân mình về sức mạnh, sự bình an và sự thấy biết chân thật”.

Như vậy, công việc của chúng ta là để tìm ra cách làm sao đến với chốn này nhiều hơn vì nếu chúng ta xa lìa chốn bình an này quá nhiều  thì làm sao chúng ta có thể tìm ra một cách thức hoàn hảo để trở về chốn này. Làm những điều đó là một cuộc hành trình rất thú vị mà chúng ta đang thực nghiệm”.

Đức Phật đã chỉ cho cách trở về chốn hạnh phúc và bình an của mình qua tâm cảm nhận dấu ấn an lạc nơi thân như trong kinh Hòn Sắt nói trên mà chúng ta có thể thực hành qua các bước một cách cụ thể.

Đạo Phật đặt nặng vấn đề tu tập để có được sự thấy biết chân thật, tình thương và hạnh phúc trong đời sống. Tu tập là thực hành phương pháp huấn luyện của các tông phái Thiền, Tịnh hay Mật tông và sự tu tập hay huấn luyện này do mỗi người tự thực hành để có kết quả tốt đẹp cho chính bản thân. Trong phẩm Bông Hoa, kinh Pháp Cú, đức Phật dạy mỗi người chúng ta là một đóa hoa. Qua sự học hỏi và thực hành đạo Phật, mỗi người biểu lộ sự tươi đẹp và hương thơm đức hạnh qua thái độ sống và việc làm hàng ngày của mình để đóng góp vào niềm hạnh phúc cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội hầu nâng cao tổng số hạnh phúc trong nước như lời đức Phật dạy như sau:

                  “Như bông hoa tươi đẹp,

                  Có sắc nhưng không hương.

                  Cũng vậy, lời khéo nói,

                  Không làm, không kết quả”.

                  “Như bông hoa tươi đẹp,

                  Có sắc lại thêm hương;

                  Cũng vậy, lời khéo nói,

                  Có làm, có kết quả”.

                  “Như từ một đống hoa,

                  Nhiều tràng hoa được làm.

                  Cũng vậy, thân sanh tử,

                  Làm được nhiều việc lành”.

                  “Hương các loại hoa thơm

                  Không ngược bay chiều gió

                  Nhưng hương người đức hạnh

                  Ngược gió khắp tung bay

                  Chỉ có bậc chân nhân

                  Tỏa khắp mọi phương trời...

                  “Như giữa đống rác nhớp,

                  Quăng bỏ trên đường lớn,

                  Chỗ ấy hoa sen nở,

                  Thơm sạch, đẹp ý người”.[12]

Phần thực hành. Gồm hai phần:Ấn nhẹ vào vùng Ấn Đường thuộc đan điền thượng mà bác sĩ Siegel gọi là vùng trung não và ngồi thiền. Tiếp theo là tập Thế Chánh Định và Dưỡng Sinh Tâm Pháp.

Phần 1 và 2. Ấn nhẹ vào huyệt Ấn Đường để cảm nhận niềm vui:

Để cho sự cảm nhận niềm vui được dễ dàng, xin quý vị thực hành như sau: Dùng đầu ngón tay giữa xoa nhẹ ba lần vùng ấn đường rồi nhấn vào nơi đây 2 phút. Cách nhấn:

1. Để phía dưới đầu ngón tay giữa chạm vào vùng ấn đường, ngay nơi vùng xương hơi hỏm xuống ở giữa hai chân mày, xoa nhẹ ba lần và cảm nhận vùng này. 

2. Ấn nhẹ đầu ngón tay giữa xuống vùng ấn đường ở mức vừa phải cùng lúc chú ý vào hơi thở. Để ngón tay như vậy trong 2 phút. Hít vào, thở ra thoải mái cùng lúc niệm thầm A Di Đà Phật 20 lần là 2 phút.

3. Bạn có thể cảm nhận cảm giác thích thú, nếu không có cũng không sao. Sau 20 lần niệm Phật thì xoa hai tay cho ấm rồi xoa lên mặt cho tỉnh táo và bắt đầu thực hành thiền 10 phút theo phần thực hành trong tập Tuần Lễ Thứ 3.

Trong khi ngồi thiền, chúng ta có thể cảm nhận trạng thái an vui và nhẹ nhàng xuất hiện nơi thân. Cảm nhận và an trú trong cảm giác hỷ lạc này cùng với cảm giác khỏe mạnh nơi thân.

Sau khi hết ngồi thiền chúng ta tiếp tục hướng sự chú ý và cảm nhận cảm giác hạnh phúc nơi toàn thân, duy trì sự cảm nhận niềm an vui, nhẹ nhàng và trong sáng nơi đó cùng lúc với trạng thái  thoải mái và an lạc khắp thân thể như lời Phật dạy “an trú lạc tưởng và khinh an tưởng trong thân” nói trên. Duy trì sự chú ý và cảm nhận hạnh phúc mà đức Phật dạy khi thực hành định tâm rất quan trọng, do đó, chúng ta thực hành được càng lâu thì càng tốt.

Phần 3. Chúng ta thực hành tập Thế Chánh Định để an trú vào niềm an vui và sự nhẹ nhàng nơi thân “an trú lạc tưởng và khinh an tưởng trong thân” nói trên làm cho thân càng lúc càng nhẹ nhàng, uyển chuyển trong sự mềm mại linh động, sức chịu đựng càng gia tăng và thân tỏa chiếu cái đẹp của sự bình dị tự phát hay “chói sáng”.

1. Thở đan điền với tâm buông xả thì định tâm xuất hiện,

2. Tâm cảm nhận niềm vui ưa thích xuất hiện nơi bộ não và nơi thân,

3. Niềm vui nơi bộ não càng lúc càng rõ ràng nhưng êm dịu khi thực hành chú ý mở rộng hay thiền quán,

4. Tâm và bộ não cùng thân hòa hợp hay trở thành một trong mọi sinh hoạt như đi, đứng, nằm ngồi, làm việc, nói chuyện hay ăn uống một cách tự nhiên (không phải dụng sức, dụng công,  thực hành quá nhiều),

5. Cảm nhận thân và tâm biểu lộ cùng lúc niềm an vui nhẹ nhàng và trong sáng  cùng với sự thấy biết rõ ràng hay  “tỏa chiếu”.

Thực hành được như trên là chúng ta dụng công ít, nỗ lực  ít nên không mệt mõi mà kết quả nhiều nên chúng ta nói là “Làm ít mà hưởng nhiều”. Còn nếu dụng công quá nhiều, nỗ lực quá nhiều làm cho mệt mỏi mà kết quả an vui ít thì gọi là “Làm nhiều mà hưởng ít”.

Phần 3. Tập Thế Chánh Định (xin xem dĩa DVD kèm theo sách)

Chúng ta thực hành tập Thế Chánh Định để an trú vào niềm an vui và sự nhẹ nhàng nơi thân “an trú lạc tưởng và khinh an tưởng trong thân” nói trên làm cho thân càng lúc càng nhẹ nhàng, uyển chuyển trong sự mềm mại linh động, sức chịu đựng càng gia tăng và thân tỏa chiếu cái đẹp của sự bình dị tự phát hay “chói sáng”.

Ngoài ra, như chúng ta đã biết, thư dãn làm cho căng thẳng bớt đi những tác động nguy hại. Chúng ta tập Thế Chánh Định trong trạng thái thân tâm thư dãn để phòng ngừa bệnh tật và phát triển sức khỏe qua sự giải trừ căng thẳng. Đây là thiền hoạt động. Các động tác Thế Chánh Định gồm có 4 bước hay động tác. Khi tập, chúng ta phải để tay cho đúng khi bắt đầu tập, các động tác phối hợp với hơi thở nhẹ nhàng khi thở vào (mũi) và khi thở ra (mũi), thở đan điền hay thở thường đều được. Xin chú tâm thoải mái và thực hành các động tác nhẹ nhàng với sự chú tâm như trong các hình sau đây. Nếu muốn thấy rõ hơn, xin xem dĩa DVD kèm theo sách.

Chuẩn bị tập

Bước một: Hít vào bằng    mũi và đưa hai tay lên (Khi đã tập quen thì nhắm mắt lại khi hít vào và đưa hai tay lên)

Bước hai: Thở ra bằng mũi và hạ hai tay xuống. (Khi đã tập quen thì mở mắt ra khi hạ tay tay xuống)

Thuộc bước hai: Đồng thời đưa hai bàn tay lên sau lưng cùng lúc với hai gót chân đưa lên. 

Bước ba: : (hình trên, số 1) Hít vào bằng mũi khi đưa hai bàn tay ra phía ngoài để gần hai bên hông. (Khi đã tập quen thì nhắm mắt lại khi hít vào và đưa hai tay ra hai bên)

Bước bốn: (hình trên, số 2) Thở ra khi đưa hai bàn tay vào trong thành ấn Định Tâm như lúc bắt đầu. (Khi đã tập quen thì mở mắt ra khi hai tay đưa vào phía trong).

Xin lưu ý: Thế Chánh Định có mục đích làm phát sinh trạng thái thư dãn khi hoạt động và làm phát sinh dấu ấn thân an lạc. Khi tập thế này, chúng ta không cần phải thở đan điền mà chỉ cần thở tự nhiên với sự chú ý và nhận biết hơi thở vào, hơi thở ra, hai tay và hai chân cử động với tâm buông xả. Khi tập thế Chánh Định thuần thục thì theo cách hít vào nhắm mắt, thở ra mở mắt, để gia tăng sự cảm nhận trạng thái buông thư giúp chữa trị bệnh tật.

Tại sao cần tập Thế Chánh Định? Tập Thế Chánh Định với sự chú tâm thoải mái từ 10 đến 15 phút làm phát sinh trạng thái thư dãn và giải trừ căng thẳng nhanh chóng. Sau khi quen với động tác, bạn có thể tập bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu để làm giảm căng thẳng (stress, bức xúc). Trạng thái thư dãn là viên thần dược chữa trị và phòng ngừa rất nhiều thứ bệnh tật như đã được bác sĩ Fricchione thuộc Viện Y Khoa Thân/Tâm, Mind Body Medical Institute xác nhận. Viện Y Khoa Thân/Tâm này do bác sĩ Hertbert Benson, giáo sư y khoa trường đại học Harvard sáng lập.

Thế Chánh Định rất dễ tập để làm phát sinh trạng thái thư dãn thân và tâm là trạng thái buông thư rất quan trọng mà chúng ta cần nhớ lại tờ nguyệt san về sức khỏe tâm thần Mind, Mood and Memory, trong số tháng 9 năm 2008, đã ghi lại lời phát biểu của bác sĩ Fricchione, giám đốc trung tâm Y Khoa về Thân/Tâm: “Cuộc nghiên cứu cho thấy sự thay đổi sinh lý trong cơ thể liên hệ đến sự thực hành thiền thư dãn - như là làm cho huyết áp hạ xuống, giảm nhịp thở và nhịp tim đập - liên hệ đến sự thay đổi hoạt động của một số gen chuyên biệt. Khi thực hành thiền thư dãn thì những gen này hoạt động ngược lại chiều hướng khi bị căng thẳng”.

Điều đặc biệt hơn nữa là bác sĩ Fricchione nhấn mạnh: “Những người thực hành thiền thư dãn chỉ trong vòng 8 tuần lễ thì những hoạt động của gen cũng tương đồng với những người đã thực hành nhiều năm. Trước khi thực hành thiền thư dãn, cơ thể các người thực hành thiền thư dãn trong thời gian 8 tuần lễ nói trên không được bảo vệ chống lại hậu quả của căng thẳng như là bị viêm, tế bào bị quy định cho chết cùng với sự phản ứng (yếu kém) của cơ thể đối với các thứ gốc tự do (làm cho ốc xít hóa) làm hư hại các tế bào trong cơ thể. Sau khi họ thực hành Thiền buông thư trong 8 tuần lễ thì cơ thể họ được bảo vệ chống lại những điều tiêu cực này”.

Tập thế Dưỡng Sinh Tâm Pháp (xin xem dĩa DVD kèm theo sách) cũng có tác dụng như khi tập Thế Chánh Định.

***



[1]. Different Kinds of Happiness. (2006) Vipassana Research Institute, Igatpuri, Maharashtra, India. hppt://www.vridhamma.org/Research.aspx September 7, 2006.        

[2]. World Happiness Report. Edited by Jeffrey D. Sachs, director, The Earth Institute, Columbia University; John F. Helliwell, Professor Emeritus of Economics, University of British Columbia; Richard Layard, director, Well-being Programme, Centre for Economic Performance, London School of Economics. http//: www.scribd.com/World-Happiness-Report. Retrieved on 04/20/2012.               

[3]. General Assembly. (2011) Happiness should have greater role in development policy. UN Member States, United Nations News Centre.  http://www.un.org/News July 19, 2011.          

[4]. United Nations Secretary-General Ban Ki-moon. (2012) ‘Happiness and Well-being’, United Nations News Centre, http://www.un.org/News April 2, 2012.          

[5]. Change Your Mind and Change The World. http://www.cmcw2013.wis.edu. Retrieved on 09/20/2013.             

[6]. Kinh Pháp Cú, HT. Thích Thiện Siêu dịch.         

[7]. Kinh Pháp Cú, HT. Thích Minh Châu dịch.        

[8]. Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Thiền sư Nhất Hạnh dịch.       

[9]. Thiền sư Nhất Hạnh dịch.       

[10]. Damasio, A. (1991). Somatic Markers and the Guidance of Behavior. New York: Oxford University Press, tr. 217–299.

[11]. Kinh Tương Ưng Bộ, Phẩm Capala, Kinh Hòn Sắt, HT. Thích Minh Châu dịch.      

[12]. Kinh Pháp Cú, HT. Thích Minh Châu dịch.      

Bình luận