Đạo Phật Ngày Nay

Tuần lễ 5: Đóng góp để con người tiến hóa tốt đẹp hơn - Chương 1: Chúng ta đến từ đâu và đi về đâu qua quá trình tiến hóa

 

 

CHƯƠNG 1:

CHÚNG TA ĐẾN TỪ ĐÂU VÀ ĐI VỀ ĐÂU

QUA QUÁ TRÌNH TIẾN HÓA

Con người có mặt ngày hôm nay là từ sự tiến hóa của các chủng loại trên quả địa cầu qua nhiều tỉ năm. Khám phá này là kết quả nghiên cứu công phu của nhà bác học thời danh Charles Darwin vào thế kỷ thứ XIX. Sau các cuộc khảo cứu ở nhiều nơi, vào năm 1859, nhà bác học này cho xuất bản cuốn sách về nguồn gốc của mọi loài sinh vật trên quả đất với tựa đề ‘Về Nguồn Gốc Của các Chủng Loại Do Tuyển Lựa Tự Nhiên’.[1] Sau này cuốn sách có tựa đề rút gọn lại là ‘Về Nguồn Gốc Các Chủng Loại’.

TIẾN HOÁ VÀ PHÁT TRIỂN HẠNH PHÚC

Sự chọn lọc tự nhiên này chính là khả năng thích nghi của mỗi loại sinh vật nơi địa phương đang sinh sống với các yếu tố như khí hậu, cây cối, thực phẩm, các loài vật khác cùng sống gần hay xa, các hiện tượng xảy ra như mức độ sinh sản, động đất, núi lửa, bão lụt, v.v… trong một tiến trình lâu dài. Nếu loài nào thích nghi được tốt đẹp thì phát triển, loài nào không thích nghi thì bị thoái bộ hay bị diệt chủng như các loài khủng long sống trên trăm triệu năm rồi vì không thích nghi được với sự thay đổi quá lớn lao của quả đất nên bị diệt chủng cách đây trên 60 triệu năm.

Điều này rất phù hợp với thuyết duyên khởi trong đạo Phật: Không có một ông trời sinh ra muôn vật. Mọi thứ có mặt là do nhiều yếu tố kết hợp lại, gặp hoàn cảnh thuận lợi hay thuận duyên thì phát triển tốt đẹp, gặp hoàn cảnh không thuận lợi hay nghịch duyên thì bị lui sụt do định luật nhân quả tác động. Ví dụ nhân là hạt lúa, duyên là hoàn cảnh như khí hậu, phân bón, nước tưới và ít sâu bọ. Nếu nhân mà gặp duyên tốt thì quả tốt sẽ nảy sanh là lúa trúng mùa. Nếu nhân tốt mà gặp duyên xấu thì quả trở nên xấu là lúa mất mùa. Nhân và quả có thể xảy ra ngay tức khắc nhưng cũng có thể kéo dài hàng triệu năm và xảy ra khắp cả quả địa cầu như tình trạng gia tăng dân số hiện nay khởi đầu hàng trăm triệu năm về trước khi các loài vật từ dưới nước bò lên bờ để kiếm tìm cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong đạo Phật, đó là luật trùng trùng duyên khởi mà ngày nay người ta gọi là luật tiến hóa.

Hình minh họa tiến hóa từ Robert Loeber

Hình 1. Cây của đời sống: Từ các sinh vật dưới nước lên trên bờ cho đến loài người theo luật trùng trùng duyên khởi. Cây đời sống có thân lớn tỏa ra nhiều cành, các loài cùng trong cành nhỏ là ‘bà con gần’ với nhau, cùng trong cành lớn là ‘bà con xa với nhau’.

HÀNH TRÌNH TIẾN HÓA HÀNG TỶ NĂM

Cách dây độ 3. 5 tỷ năm, do những yếu tố thuận lợi kết hợp với nhau nên các vi sinh vật một tế bào xuất hiện.[2] Đến 650 triệu năm trước đây, những sinh vật có nhiều tế bào xuất hiện do sự phát triển dần dần của các sinh vật nguyên thủy. Rồi độ 50 triệu  năm sau đó, những loài này phát triển dần hệ thống thần kinh để điều hành cảm giác và các hoạt động thân thể.[3]

Các loài sinh vật có vú xuất hiện độ 200 triệu năm trước đây và con người đầu tiên có đủ hiểu biết để  làm các vật dụng bằng đá, Homo habilis, có mặt độ 2.5 triệu năm về trước hay có thể trước đó nữa[4] và con người có sự thông minh, Homo sapiens, là tổ tiên gần nhất của chúng ta, xuất hiện độ 200 ngàn năm trước đây.[5]

Cuộc tiến hóa từ các chủng loại tiến lên dần, như từ các con sứa dưới biển phát triển thành các loài sò thời cổ xưa rồi thành các loài thằn lằn, chuột, khỉ và sau hết là con người, đã làm cho hệ thống thần kinh ngày càng phát triển lớn dần và phức tạp hơn. Tổ tiên loài người đã bắt đầu sống với nhau thành những nhóm  để đi hái trái cây và săn bắt thú vật nhưng đến 10.000 năm trước đây, khi họ biết cách trồng trọt, họ bắt đầu phát triển thành những nhóm lớn hơn để canh tác. Từ đó mà các ngôi làng bắt đầu xuất hiện.[6]

Đời sống của tổ tiên chúng ta không phải dễ dàng. Họ sống thành những nhóm nhỏ với nhau và bảo vệ lẫn nhau chống lại những nhóm người đối nghịch cũng như thường xuyên phải đối phó với các loài thú dữ. Ngày hôm nay nhân loại có độ bảy tỉ người. Trong thế kỷ XX, trung bình một trăm người thì có độ một người chết do chiến tranh. Trong khi đó, theo các chuyên gia về tiến hóa Choi và Bowles[7], cách đây 5,000 năm, cứ tám người thì có một người chết do xung đột giữa các nhóm người. Con người phải thích nghi với các hoàn cảnh nguy hiểm như đối phó với kẻ thù, thú dữ, bệnh tật hay cả khi sinh con để tồn tại và phát triển cho đến ngày hôm nay. Những điều này còn ghi dấu lại trong bộ não chúng ta.

BA THÀNH PHẦN CỦA BỘ NÃO CON NGƯỜI

Sự tiến hóa qua hàng tỉ năm trên quả đất làm phát sinh rất nhiều loài động vật mà các nhà khoa học lấy hình ảnh cái cây to lớn, như hình ở trên, mà gốc chung của mọi loài hiện nay là các con vật cách đây hàng trăm triệu năm về trước, bắt đầu từ loài chỉ có một tế bào phát triển thành đa bào rồi thành các loài sứa, sò, cá, rồi từ dưới nước bò lên bờ sinh sản, thân hình chúng dần dần thay đổi như chân mọc dài ra, mắt thấy rõ hơn, tai nghe xa hơn hay mũi ngửi thính hơn trong sự thích nghi với hoàn cảnh mới để tồn tại và phát triển. Bộ não của loài bò sát phát triển lớn hơn tổ tiên sơ khai của chúng là loài cá. Sau đó bộ não này tiếp tục phát triển nơi loài có vú và cuối cùng là loài người với vùng vỏ não mới trùm lên bộ não cũ trước đây.[8]

Ba thành phần bộ não này là ba phần chính có mặt nơi bộ não chúng ta hiện nay và chúng hoạt động theo ba cách riêng biệt mà chúng ta cần biết rõ để biết về chính mình.

Trước hết là não loài bò sát trong não chúng ta. Bộ não loài bò sát rất là đơn giản và chỉ có chức năng điều hành các hoạt động cần thiết cho sự sống còn của cơ thể như nhịp tim đập, thở, nhiệt độ thân thể, ăn uống, tiêu hóa, bài tiết cũng như sự thăng bằng của thân thể. Bộ não chúng ta vẫn còn phần của loài bò sát này là cuống não và tiểu não. Phần não này hoạt động theo tính cách phản xạ mà chúng ta không điều khiển được.

 Hình tiểu não (hình bên trái) và cuống não

Bộ não của loài bò sát phát triển từ loài cá và sau đó trở thành lớn hơn rồi sau này trở nên một thành phần của bộ não con người như trong hình trên. Hàng trăm triệu năm về trước, loài bò sát tiến xa hơn vào trong đất liền để sinh sôi nẩy nở và con cái của chúng đi khắp nơi, thích nghi với hoàn cảnh mỗi địa phương mà thay hình đổi dạng thành rất nhiều loài vật khác nhau trong đó có các loài có vú như loài chuột và sau đó là loài khỉ. Hệ bán tính (limbic system) là hệ cảm xúc xuất hiện nơi các loài động vật có vú, như loài chuột. Qua hoạt động của hệ bán tính mà các loài thú vật có vú có cảm xúc như sợ hãi hay ưa thích cùng liên hệ với  trí nhớ để sống còn như biết chỗ nào có thức ăn thì tìm đến, nơi nào có con vật hung dữ muốn ăn thịt chúng thì tránh xa.

Hình: Hệ bán tính

Các loài có vú như chuột có hệ bán tính liên hệ đến sự phát sinh cảm xúc và ký ức. Đến loài khỉ thì có một vỏ não bọc quanh hệ viền xuất hiện và phát triển. Nơi con người, các phần chính của hệ bán tính (hình bộ não ở trên, phần màu đen là hệ bán tính hay hệ cảm xúc trong bộ não con người, nơi làm phát sinh niềm vui, nỗi buồn, giận dữ hay sợ hãi, bao gồm nhiều cấu trúc não khác nhau kết hợp mà thành, gồm có hạch hạnh nhân (amygdala), hồi hải mã (hippocampus) và vùng dưới đồi (hypothalamus).

 Hình từ internet.

Vùng này hoạt động âm thầm, chúng ta không biết được hay thuộc vô thức nhưng lại là thành phần quyết định quan trọng về thái độ, cách cư xử hay phản ứng của chúng ta. 

Tân vỏ não

Phần vỏ não (celebral cortex) bọc ngoài có mặt nơi loài khỉ và đến khi loài người xuất hiện thì càng ngày càng lớn hơn và được gọi là tân vỏ não (neocortex) với hai bán cầu não bên trái và bên phải chứa các phần vỏ não khác nhau gọi là thùy. Phần tân vỏ não có những chức năng cao cấp hơn hai phần não trước đây như thấy biết tinh tế từ năm giác quan, chỉ huy các cử động thân thể, biết về khoảng cách, thời gian, sử dụng ngôn ngữ, suy nghĩ, tưởng tượng và nhận thức. Như vậy tân vỏ não rất uyển chuyển và có tiềm năng phát triển lớn lao. 

Tân vỏ não (neocortex).

Vùng tân vỏ não nơi bộ não con người bao trùm lên hai phần não phát triển trước đây trong quá trình tiến hóa hàng trăm triệu năm về trước.

Sự tiến hóa này theo chiều dài của thời gian thì đi từ loài thấp có bộ não nhỏ như loài cá, loài bò sát như cá sấu đến loài cao có bộ não lớn hơn như loài khỉ và cuối cùng là loài người có bộ não lớn với nhiều nếp gấp tạo thành các hồi não nhiều nhất theo tỷ lệ thân thể. Bộ não con người chứa đựng đầy đủ ba phần trong tiến trình phát triển bộ não nói trên. Nơi con người, ba phần trong bộ não có mặt qua quá trình tiến hóa hoạt động hòa hợp với nhau một cách mật thiết để bảo tồn mạng sống của con người, sống hóa hợp với người khác, có cảm xúc tích cực và thăng tiến. Ba phần não này có những sợi thần kinh nối kết với nhau, cùng hoạt động với nhau và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Chúng ta có thể ví dụ như sau: Một đứa con nít thấy bánh ngọt là muốn lấy ăn liền (phần não loài bò sát). Cha mẹ không cho ăn thì giận và khóc (hệ cảm xúc). Cha mẹ dạy cho em đến giờ ăn mới được ăn và trước khi ăn phải xin phép thì cha mẹ mới chấp nhận. Em suy nghĩ (tân vỏ não) thấy mình cần thực hành điều đó để có bánh ăn cùng với sự chấp nhận của cha mẹ. Như vậy, phần vỏ não mới này điều hành hai phần trước để làm giảm sự đòi hỏi của bản năng và làm dịu cảm xúc xuống để sống vui vẻ với cha mẹ.  

    Bộ não con người có ba phần (triun brain)  Tân vỏ não (neocortex)

Khi bộ não con người phát triển với sự kết hợp của ba thành phần nói trên thì não làm phát sinh khả năng đáp ứng ba nhu cầu chính là an ninh, có niềm vui và kết thân với những người khác. Đây là ba thành phần hoạt động để giúp cho con người sống còn qua sự tránh xa điều nguy hiểm, tới gần điều làm cho mình có niềm vui và kết thân với những người khác để có tình thương và sự hỗ trợ lẫn nhau trong đời sống.[9]

Ba chức năng nói trên liên hệ đến ba thành phần quan trọng nơi con người là bản năng muốn sống còn và thỏa mãn những điều ưa thích, tránh xa khổ đau và hướng đến niềm vui cũng như suy nghĩ để lựa chọn những điều mình muốn phù hợp với hoàn cảnh sinh sống nhằm duy trì và  phát triển tình thân thiết với nhau trong đời sống xã hội.[10] Như vậy, nhu cầu căn bản của con người là cần có an ninh trong đời sống, cần có niềm vui và muốn kết thân với người khác. Tuy nhiên, trong đời sống của con người, không phải lúc nào chúng ta cũng có sự hòa hợp của ba phần bản năng, cảm xúc và suy nghĩ như trên. Do đó, chúng ta cần thực hành chương trình tự huấn luyện để cho ba phần não hoạt động hòa hợp tốt đẹp.

TÓM TẮT BA THÀNH PHẦN BỘ NÃO CON NGƯỜI

Trước khi tìm hiểu thêm về chức năng của mỗi phần não, chúng ta cần nhớ:

Bộ não của chúng ta chứa đựng độ 100 tỉ tế bào thần kinh và có độ một triệu tỉ (1,000,000,000,000,000) các khớp thần kinh nối kết các tế bào thần kinh với nhau để truyền đi các tin tức và từ đó mà phát sinh các phản ứng, những cảm xúc vui buồn hay những suy tư lý luận.

Chúng ta đã biết bộ não con người có ba phần chính là cuống não, hệ viền và vỏ não trùm lên bên ngoài, hay tân vỏ não (neocortex), kết hợp với nhau và hoạt động điều hòa để duy trì và phát triển đời sống con người:

1. Cuống não còn gọi là phần não loài bò sát: Phần này xuất hiện 300 triệu năm về trước nơi các loại bò sát, như con tắc kè. Phần này liên hệ đến bản năng như ăn, uống, truyền giống, chiến đấu hay đào thoát để bảo vệ mạng sống.

2. Hệ viền hay hệ cảm xúc: Đây là phần não cảm xúc, xuất hiện độ một triệu năm về trước, có chức năng là kiểm soát cảm xúc, giúp cho trí nhớ ngắn hạn để làm việc (như nhớ mình vừa bỏ gạo vào nồi cơm) và làm phát sinh niềm vui trong đời sống.

3. Tân vỏ não, xuất hiện sau cùng và còn đang tiếp tục phát triển, liên hệ đến trí năng con người. Tân vỏ não giúp cho chúng ta có được trí nhớ dài hạn (trong đó có nhiều thứ), tiên liệu và soạn thảo các chương trình hành động, suy nghĩ và tính toán hợp lý và có hiệu quả. Điều quan trọng nhất là giúp chúng ta có sự tự do chọn lựa.

Sự phối hợp ba phần não trên hoạt động đều hòa rất quan trọng để đem lại sức khỏe, niềm vui, sự bình an, cảm thông, hạnh phúc và phát triển. Nếu ba phần trên hoạt động không hòa hợp thì tạo ra rất nhiều vấn đề cho chúng ta. Chúng ta có thể lấy ví dụ khi trong tiệm ăn nhìn vào thực đơn với nhiều hình ảnh các món ăn thật ngon với nhiều thịt, mỡ, đường, bột như thịt nướng, chả giò chiên vàng óng, chuối chiên và chè xôi nước với nước cốt dừa đặc thật hấp dẫn. Não bò sát  thúc dục gọi ngay các món này. Não cảm xúc hay hệ viền nhớ lại cảm giác ngon khi ăn các món này trước đây nên cũng góp thêm phần thúc đẩy. Tuy nhiên, tân vỏ não biết rõ các món ăn trên chứa quá nhiều chất béo, chất đường và các thứ dầu chiên lâu có thể gây bệnh nên chọn các món ăn khác như cá hấp, rau tươi, đậu phụ xào nấm đông cô và trái cây tươi tráng miệng.  

Chúng ta có thể lấy thêm ví dụ khác: Một người đang đi ngang một bụi rậm nghe những tiếng động và thấy những nhánh cây chuyển động. Phản ứng đầu tiên của cơ thể, do não bò sát làm phát sinh, là sẵn sàng chiến đấu hay bỏ chạy. Sau đó một con thỏ chạy vụt ra, vùng tân vỏ não lập tức nhận biết không có gì nguy hiểm cả, anh ta thở cái phào và cảm thấy thư thái trở lại (vùng não cảm xúc êm dịu trở lại).

Lý tưởng nhất cho chúng ta là ba phần não hoạt động tốt đẹp và phối hợp với nhau đều hòa như khi một người mẹ chăm sóc con mình thì họ cảm thấy thân thể họ (não bò sát) rất thoải mái, lòng họ rất vui (não cảm xúc) và trí óc họ rất sáng suốt, biết cách cho con ăn uống đúng giờ và đủ số lượng (tân vỏ não). Tuy nhiên, có những trường hợp ba phần này không phối hợp hoạt động với nhau tốt đẹp làm phát sinh nhiều vấn đề khó khăn và khổ đau trong đời sống. Do đó, chúng ta cần tìm hiểu thêm về chức năng của ba phần não nói trên và cách làm cho mỗi thứ hoạt động tốt hơn để làm phát triển hạnh phúc, sức khỏe và thành công. Khi ba phần bộ não này hoạt động tốt đẹp và hòa hợp với nhau thì chúng ta có siêu não.                       

Nhiều nhà thần kinh học như Fredrickson,[11] Davidson[12], hay Hanson[13], đề nghị các phướng pháp làm êm dịu hệ thần kinh khi bị căng thẳng hay buồn rầu để trở về trạng thái an vui và buông xả. Những lời đề nghị này có thể tìm thấy trong lời dạy đức Phật về cách thực hành bảy phương pháp làm cho gia tăng sống đời tỉnh thức và an lạc qua chú ý, nhận biết, siêng năng, hạnh phúc, vững chãi và thảnh thơi:

Nếu có bảy Giác chi, thì có thể làm ánh sáng lớn, có thể làm con mắt, tăng trưởng trí tuệ, là minh, là chánh giác, chuyển hướng Niết-bàn. Những gì là bảy? Đó là Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Khinh an giác chi, Hỷ giác chi, Định giác chi, Xả giác chi, làm ánh sáng lớn, có thể làm con mắt, tăng trưởng trí tuệ, là minh, là chánh giác, chuyển hướng Niết-bàn”.[14]

Sự thực hành nói trên, qua các cuộc nghiên cứu khoa thần kinh học, thì đó là những phương pháo cụ thể làm cho các vùng trong bộ não khác nhau như tân vỏ não (liên hệ chú ý, nhận thức, suy nghĩ, phân biệt), hệ bán tình (liên hệ đến khinh an, hỷ, tinh tấn), thân não (liên hệ đến định và xả) kết hợp hoạt động.

KẾT HỢP HOẠT ĐỘNG BA PHẦN NÃO

Khi nói đến sự kết hợp hoạt động trong bộ não, là sự kết hợp hoạt động các vùng riêng biệt thành một hệ thống hoạt động lớn hơn, các nhà thần kinh học nói đến sự kết hợp của các sợi thần kinh trong một vùng nhỏ hay một vùng lớn. Như chuyên gia thần kinh học Soltesz[15] nói về sự liên kết của các tế bào thần kinh của các vùng nhỏ kế cận nhau.

Sự kết hợp các tế bào thần kinh các vùng trong bộ não là gốc rễ của sự suy nghĩ và hành động khác nhau của con người. Chuyên gia thần kinh học Mueller và các đồng nghiệp[16] khi nghiên cứu thấy các vùng não của nhiều người khác nhau thì thấy sự khác nhau về mức độ kết hợp nơi các vùng liên hệ đến kiểm soát và chú ý với vùng cảm giác nơi thân thể và thị giác. Chính sự khác biệt này làm cho con người suy nghĩ và có thái độ khác nhau.

Còn về sự kết hợp các vùng não thành hệ thống hoạt động lớn hơn thì liên hệ đên những sợi thần kinh mọc dài ở nhiều vùng trong não. Một trong những loại tế bào thần kinh này, chuyên gia thần kinh Nimchinsky và các đồng nghiệp[17] tìm thấy có loại tế bào thần kinh lớn hơn (spindle cell) nơi vùng mỏ trước bó khuy có mặt ở nhiều nơi khác trong não.

Sự thực hành thiền tạo ra sự kết hợp các vùng thần kinh làm phát sinh những phép lạ mà người Phật tử gọi là thần thông. Như trong thế kỷ trước đây, bà Alexandra David-Neel đã nói đến sự thực hành nhiều phép thần thông của các vị Thiền sư Tây Tạng. Vào thế kỷ XX, giáo sư kiêm chuyên gia tim mạch Herbert Benson đã được ngài Đạt Lai Lạt Ma hỗ trợ thực hành nghiên cứu phép thần thông tam muội hỏa (làm cho sức nóng trong người gia tăng) khi các vị Thiền sư Tây Tạng ngồi tám tiếng ngoài trời tuyết băng giá mà nhiệt độ cơ thể họ tăng lên để duy trì sự ấm áp cho thân thể không bị đông thành nước đá. Bác sĩ Benson cho rằng người thường chỉ cần ngồi 45 phút như vậy thì cơ thể họ sẽ run lên bần bật và sẽ chết.

Trong hai cuộc nghiên cứu vào năm 1982[18] và 1990[19], bác sĩ Benson và các nhà nghiên cứu khoa học đo mức nhiệt độ cơ thể, nhất là vùng ngoại vi dễ bị lạnh làm cho hư hại - nơi vùng ngón tay và ngón chân - của các vị Thiền sư Tây Tạng tăng lên đến 8.3 độ bách phân khi ngồi ngoài trời băng giá.

Đến năm 2013, tiến sĩ Kozhevnikov và các đồng nghiệp[20] làm cuộc nghiên cứu khả năng kỳ lạ này ở miền đông Tây Tạng do các nữ Thiền sư Tây Tạng thực hành. Thực hành tam muội hỏa, theo tiếng Tây Tạng là g-tummo, là một phương pháp tu tập cao quý nhằm đốt tan những nghiệp chướng và chuyển chúng thành một nguồn năng lượng hạnh phúc thâm sâu và kỳ diệu vô cùng.

Trong ngày thật buốt giá nơi vùng Hy Mã Lạp Sơn, nhiệt độ xuống âm (trừ) 25 độ bách phân (– 25), các chuyên gia nghiên cứu đã đo nhiệt độ nơi vùng cơ thể chính của các vị nữ Thiền sư tăng lên 38.3 độ bách phân khi họ cử hành nghi lễ đặc biệt tam muội hỏa. Các chuyên gia nghiên cứu cho rằng cách thực hành này có thể ứng dụng vào y khoa để làm gia tăng sức khỏe.

BA CHỨC NĂNG CỦA BA VÙNG NÃO

Khi nói đến sự kết hợp các hoạt động có mục đích riêng biệt, hay chức năng, của ba thành phần bộ não, chúng ta cần biết rõ mỗi phần não có chức năng, những hoạt động có mục đích của mỗi phần, khác nhau ra sao. Qua các tài liệu về ba thành phần bộ não nói trên, chúng ta có thể mô tả ngắn gọn các chức năng của ba phần não gồm cuống não, hệ viền và tân vỏ não trong bộ não của chúng ta có những chức năng hay hoạt động với mục đích riêng biệt như sau:

1. Cuống não: điều hành các hoạt động duy trì đời sống mà chúng ta không biết đến hay thuộc vô thức như:

1. Thở (có cả ý thức lẫn vô thức),                                                                         

2. Tiêu hóa,

1. Bài tiết,

2. Tuần hoàn trong đó có phần tim đập may hay chậm,

3. Điều hòa nhiệt độ thân thể,

4. Quan sát thường xuyên chung quanh để phòng ngừa nguy hiểm xảy ra,

5. Phản ứng cơ thể kịp thời để bảo vệ thân thể, như khi cần chiến đấu hay đào thoát để bảo vệ mạng sống,

6. Hoạt động thân thể và duy trì sự thăng bằng.

Như vậy, các hoạt động cuống não nhằm duy trì và bảo vệ mạng sống được tốt đẹp.                 

2. Não cảm xúc (limbic brain): Não cảm xúc có những cấu trúc quan trọng liên hệ đến các phản ứng nhanh chóng để bảo vệ mạng sống cũng như các cảm xúc vui buồn:

- Hạch hạnh nhân làm phát sinh phản ứng chiến đấu hay đào thoát để bảo vệ mạng sống. Nếu chúng hoạt động quá nhiều thì làm gia tăng lo lắng, sợ hãi hay giận dữ.

- Các nhân liền kế nhau, bụng cầu nhạt và chỏm não làm phát sinh ra niềm sung sướng (niềm vui ưa thích).

- Hồi hải mã ghi nhận những ký ức ngắn hạn rồi sau đó chuyển đến vùng não trước trán để trở thành ký ức dài hạn.

Các cấu trúc trên trong não cảm xúc liên hệ mất thiết với nhau:

- Trí nhớ chúng ta liên hệ nhiều với cảm xúc mạnh.

- Do đó, chúng ta dễ nhớ những gì làm cho mình vui nhiều hay buồn nhiều. Chúng ta thường nhớ đến những chuyện làm mình kinh hãi, tức giận hay làm mình vui vẻ hoặc sung sướng nhiều.

- Cảm xúc càng mạnh thì điều xảy ra liên hệ càng được nhớ lâu.

- Những cảm xúc tích cực như niềm vui ưa thích, tình thương hay sự thích thú giúp ích rất nhiều cho trí nhớ.

Hoạt động não cảm xúc liên hệ đến niềm vui nỗi buồn của con người cùng những thúc đẩy tìm đến hạnh phúc và tránh khổ đau. Sự sợ hãi và ham muốn là những cảm xúc mạnh mẽ chi phối hành động con người.

3. Tân Vỏ Não (neocortex): Vùng não cao cấp.

Tân vỏ não có sáu lớp gồm các tế bào thần kinh xám và trắng. xuất hiện sau cùng nhưng trở thành phần lớn nhất và quan trọng nhất nơi bộ não con người. Tân vỏ não giúp chúng ta có khả năng thấy biết các thứ khác nhau, tưởng tượng, mơ mộng, thưởng thức nghệ thuật, sáng tạo, lập chương trình và theo đuổi điều chọn lựa, có sự tự do lựa chọn (free will) qua sự theo đuổi hay tự chế. Tân vỏ não cũng cho biết ý nghĩa của mọi thứ chúng ta thấy biết hay cảm nhận.

Như vậy, tân vỏ não là nơi phát sinh sự thông minh cũng như khả năng tự chế không làm những điều con người thấy không thích hợp hay do sợ hãi bị trừng phạt.

Chúng ta cần làm cho hoạt động mỗi phần não tốt hơn cùng với gia tăng kết hợp hoạt động não để cho bộ não trở thành một hệ thống hoạt động toàn thiện. Khi thực hành thiền chánh niệm là chúng ta làm điều đó. Giáo sư Siegel[21] nói rõ khi chúng ta thực hành tâm thấy biết hay thiền chánh niệm từ giây phút này qua giây phút tiếp thì làm phát sinh sự kết hợp hoạt động trong bộ não:

Trạng thái thấy biết này làm cho các vùng trong bộ não, bao gồm cả những vùng quan trọng trước trán thuộc tân vỏ não, hệ bán tính và cuống não kết với nhau lại chặt chẽ và mạch lạc. Sự kết hợp thần kinh, một phần do các vùng não trước trán làm phát sinh, là cần thiết cho sự tự điều hòa được thăng bằng. Chúng ta nên nhớ đến vùng não trước trán này khi cúng ta tìm hiểu sự kết hợp này đóng vai trò quan trọng cho hạnh phúc và sức khỏe của chúng ta”.

BA PHẦN NÃO LIÊN HỆ ĐẾN HẠNH PHÚC VÀ KHỔ ĐAU

Chuyên gia thần kinh học Hanson[22] đã tóm lượt ba phần bộ não con người, chức năng chính của mỗi phần và đề nghị phương pháp làm cho hoạt động ba thành phần não hòa hợp với nhau qua phương pháp thực hành cảm nhận những gì tốt đẹp đến với mình trong đời sống như sau:

1. Bộ não gồm ba thành phần là cuống não, dưới vỏ não (hệ cảm xúc) và vỏ não trùm lên trên. Qua quá trình tiến hóa, thần kinh lang thang (vagus nerve) xuất hiện. Chức năng của thần kinh lang thang là làm cho êm dịu các hoạt động của các bộ phận trong cơ thể sau khi bị khích động bởi phản ứng chiến đấu hay bỏ chạy để bảo vệ mạng sống.

2. Ba thành phần của não trong quá trình tiến hóa đáp ứng nhu cầu căn bản của con người là nhu cầu an ninh (sống còn), nhu cầu được thỏa mãn (những niềm vui) và nhu cầu kết nối với người khác (tình thân thiết).

3. Từ đó phát sinh ra ba hệ thống điều hành thái độ của chúng ta: Tránh né (khi nguy hiểm), tiến đến, hướng hoạt động đến (để có niềm vui) và kết thân với (những người mình ưa thích).

4. Bộ não trở về với trạng thái yên nghĩ sau khi chúng ta thỏa mãn những nhu cầu căn bản ở mỗi trong ba hệ thống điều hành thái độ nói trên. Đó là sự đáp ứng tốt đẹp mà chuyên gia thần kinh học Hanson gọi là Não Xanh (green brain): Bộ não trở về trạng thái bảo trì, bồi dưỡng và sửa chữa những hư hao. Đây là sự trở về ngôi nhà yên lành của não. Đây là lúc hệ đối giao cảm hoạt động mạnh.

5. Khi bộ não đáp ứng tốt đẹp với những thách thức xuất hiện trong đời sống (não xanh) qua các hành động tránh xung đột, tiến đến hay kết với người hay đối tượng khác như không phản ứng giận dữ khi bị chê bai, gặp chuyện khó khăn thì tiến lên giải quyết hay tạo được sự kết thân với người nào, thì chúng ta duy trì và cảm nhận sự bình an, sự thỏa mãn và tình thân thiết với người khác. Như vậy, chúng ta hoàn toàn tham dự vào đời sống và đối diện với các thách thức nhưng luôn luôn cảm nhận sự bình an, sự thỏa mãn cùng sự được nuôi dưỡng và chăm sóc.

6. Ngược lại khi các nhu cầu căn bản không được đáp ứng hoặc bộ não phản ứng qua cách chiến đấu, bỏ chạy hay nằm bất động thì đó không phải là sự đáp ứng tốt đẹp mà là sự phản động đưa tới căng thẳng. Như khi lái xe bị lấn thì nổi giận, thấy chuyện khó thì lánh đi hay giả vờ không thấy hoặc không có khả năng kết thân với người khác đưa đến căng thẳng, bực bội, lo lắng, buồn rầu, không thỏa mãn hay chán chường.  Đó là não phản động đối nghịch với não đáp ứng có trách nhiệm là não xanh.

7. Não xanh biểu lộ trạng thái an ổn, tự tại, không cảm thấy bị đe dọa, bị khai trừ hay mất mát do đó không cần phải chiến đấu hay bỏ chạy, không phải bám vui hay ham muốn do đó không bị căng thẳng hay bị các cảm xúc tiêu cực như trên.

8. Tổ tiên chúng ta trước đây sống lâu dài với não xanh, não đáp ứng có trách nhiệm. Thỉnh thoảng khi đối diện với các sự tấn công từ thú dữ hay bộ lạc khác họ mới phản ứng mạnh mẽ trong thời gian ngắn, sau đó họ trở về với trạng thái bình an. Đời sống xã hội tân tiến làm thay đổi cách phản ứng con người làm cho đa số nhân loại hiện nay bị căng thẳng do thường xuyên bị bất an, lo lắng hay bị các áp lực khác nhau trong đời sống. 

CẦN TIẾP NHẬN THÊM HẠNH PHÚC

Vì những lý do trên mà con người trong thời đại chúng ta cần nhận vào những điều tốt để có được niềm vui và nhờ đó mà không phản ứng theo lối vọng động, hay phản động, do thiếu hạnh phúc. Sự tiếp nhận hạnh phúc làm cho con người có thêm sức mạnh và khả năng đáp ứng với hoàn cảnh một cách có trách nhiệm. Khi sức mạnh nội tâm gia tăng thì hạnh phúc dễ dàng xuất hiện mà không cần lệ thuộc vào thứ gì bên ngoài. Hạnh phúc có mặt tự nhiên, vô điều kiện qua sự cảm nghiệm sự an bình, bằng lòng và tình thương là những mục tiêu của đời sống có ý nghĩa.

Sự thực hành tiếp nhận hạnh phúc, mà tiến sĩ Hanson[23] gọi là lấy vào các điều tốt, gồm bốn bước:

1. Cảm nhận một kinh nghiêm vui: Nhận ra một cảm xúc tích cực dang có mặt như niềm vui nơi thân thể, sự mạnh mẽ của quyết tâm hay cảm nhận sự thân tình với người nào.

Hoặc tự mình làm phát sinh ra cảm xúc tích cực như nghĩ đến những điều gì làm cho mình biết ơn, tưởng đến người thân hay một công việc hoàn tất tốt đẹp. Thực hành Từ Bi Quán cũng rất tốt.

Chuyển những thứ trên thành kinh nghiệm cảm nhận, làm cho mình vui  thật sự chứ không phải chỉ là ý tưởng mà thôi.

2. Làm cho phong phú thêm, làm cho giàu thêm kinh nghiệm vui đó.

Duy trì, sống trọn vẹn với kinh nghiệm trên trong 10 giây hay lâu hơn. Mở rộng lòng mình và đón nhận cảm giác tích cực này nơi thân thể của mình và để nó tràn đầy nơi tâm. Hãy thưởng thức niềm vui này và nhẹ nhàng làm cho nó phát triển mạnh lên. Cảm nhận sự tươi mới của cảm giác này.

Cảm nhận giá trị của nó, tính chất nuôi dưỡng và ích lợi của nó. Sự cảm nhận nhiều thứ cùng xuất hiện như vậy làm cho các tế bào thần kinh ở các vùng khác nhau cùng kích xạ, hoạt động, và kết nối với nhau.

Điều thực hành này đã được đức Phật nói rõ trong Kinh Quán Niệm Hơi Thở như sau:

Trong khi thở vào, cảm thấy niềm vui,

Trong khi thở ra, cảm thấy niềm vui.

Trong khi thở vào, cảm thấy niềm hạnh phúc,

Trong khi thở ra, cảm thấy niềm hạnh phúc…

Trong khi thở vào, ý thức được tâm mình,

Trong khi thở ra, ý thức được tâm mình.

Trong khi thở vào, làm cho tâm mình được hoan lạc,

Trong khi thở ra, làm cho tâm mình được hoan lạc…[24]

3. Để cho nó thấm vào. Cảm nhận kinh nghiệm vui này thấm sâu vào toàn thể thân và tâm mình như nước ấm thơm tràn ngập cơ thể và tâm.

Niềm hạnh phúc đó bao gồm cả thân và tâm hay hỷ và lạc. Đức Phật đặc biệt hướng dẫn nhận biết về niềm vui tấm vào nơi thân hay lạc như sau:

Lại nữa, quý thầy tu tập biết trực tiếp về thân như sau: Quý thầy có vui mừng sung sướng do ly dục thấm nhuần vào thân, phổ biến, sung mãn biến khắp trong thân; hỷ lạc do ly dục không đâu không biến khắp. Như người thợ tắm, bỏ chùm kết đầy chậu, nước hòa thành bọt, nước thấm vào thân, phổ biến sung mãn, không đâu không biến khắp…”.[25]

4. Kết nối cảm xúc tích cực với cảm xúc tiêu cực trong quá khứ: Để bứng gốc rễ những nỗi buồn đã có gốc rễ sâu trong chúng ta, như nỗi buồn người thân mất sớm, chúng ta thực hành như sau: Trong khi cảm nhận niềm vui tràn đầy, nhớ đến một kỷ niệm buồn rầu thì sức mạnh cảm xúc tiêu cực sẽ bớt dần. Thực hành nhiều lần như vậy thì nỗi buồn sẽ mất đi sức mạnh và không còn ám ảnh chúng ta nữa.

Để làm cho tiêu đi những cảm xúc tiêu cực như buồn rầu, lo lắng, sợ hãi, tiếc thương hay giận hờn, trên phương diện thực hành cụ thể, đức Phật đã dạy quý thầy tại Sàvatthi trong kinh Tương Ưng Bộ như sau:

Này các Tỳ kheo, quán niệm hơi thở vào, hơi thở ra được tu tập, được làm cho sung mãn là tịch tịnh, thù diệu, thuần nhất, lạc trú, làm cho các ác, bất thiện pháp đã sanh biến mất, tịnh chỉ lập tức.

Ví như trong cuối mùa mưa, bụi nhớp bay lên và một đám mưa lớn trái mùa lập tức làm chúng biến mất, tịnh chỉ. Cũng vậy, quý thầy, quán niệm hơi thở vào, hơi thở ra được tu tập, làm cho sung mãn là tịch tịnh, thù diệu, thuần nhất, lạc trú, làm cho các ác, bất thiện pháp đã sanh biến mất, tịnh chỉ lập tức”.[26]

Phần thực hành. Cảm nhận cảm xúc tích cực làm cho ba phần não hòa hợp, gồm 3 phần:   

- Cảm nhận tình thương mẹ.

- Cảm nhận niềm vui ưa thích khi ăn uống.

- Tập 8 thế Dưỡng Sinh Tâm Pháp.

Phần thực hành 1. Cảm nhận tình thương mẹ

Những điều trình bày dưới đây là tóm lược các ý kiến của tiến sĩ tâm lý thần kinh học Hanson[27] về cách thức tiếp nhận và làm cho hạnh phúc trở nên phong phú hơn rồi tự mình ứng dụng vào tình thương mẹ.

Xin ngồi thoải mái trên ghế và bắt đầu thực hành.

1. Cảm nhận một kinh nghiệm vui: Mỗi người chúng ta có những cảm xúc tích cực làm phát sinh niềm vui như thích thú, lòng thương yêu, vui mừng hay hứng khởi. Khi có bất cứ một cảm giác vui nào, chúng ta chú ý và cảm nhận niềm vui khởi lên đó. Như khi nhìn hình ảnh mẹ mình và tình thương khởi dậy làm cho lòng chúng ta sung sướng thì hướng sự chú tâm đến niềm vui này.

2. Làm cho phong phú thêm, làm cho giàu thêm kinh nghiệm vui đó.

Chúng ta thở vào, thở ra thoải mái để cảm nhận sâu hơn niềm vui này. Dừng lại trong niềm vui này.

Duy trì, sống trọn vẹn với kinh nghiệm trên trong 10 hơi thở vào và ra hay nhiều hơn càng tốt. Mở rộng lòng mình và đón nhận cảm giác tích cực này nơi thân thể của mình và để nó tràn đầy nơi tâm. Thưởng thức trọn vẹn niềm vui này và làm cho nó phát triển mạnh lên qua sự chú tâm.

Cảm nhận giá trị và tính chất nuôi dưỡng của tình thương. Sự cảm nhận nhiều thứ cùng xuất hiện như vậy làm cho các tế bào thần kinh ở các vùng khác nhau cùng kích xạ, hoạt động, và kết nối với nhau.

3. Để cho tình thương thấm sâu vào người. Cảm nhận kinh nghiêm vui này thấm sâu vào toàn thể thân và tâm mình như nước ấm thơm tràn ngập cơ thể và tâm. Cảm nhận sự bằng lòng, sự ưng ý và cảm giác tràn đầy.

4. Kết nối cảm xúc tích cực với cảm xúc tiêu cực trong quá khứ: Trong khi cảm nhận niềm vui tràn đầy, nếu chợt thấy lòng cảm khái, buồn tủi vì mẹ đã mất đi lúc mình ở xa thì tiếp tục cảm nhận tình thương và chuyển tình thương đến hình ảnh của mẹ mình. Thực hành nhiều lần thì nỗi buồn sẽ giảm dần và tình thương sẽ gia tăng cùng với hạnh phúc do tình thương làm phát sinh.

Phần thực hành 2. Cảm nhận niềm vui ưa thích khi ăn uống.

Ăn uống thường đem đến niềm vui. Mội ngày ăn hai hay ba bữa là có niềm vui hai hay ba lần xuất hiện trong ngày.

1. Cảm nhận kinh nghiêm vui: Trước khi ăn chú ý vào hơi thở vào, hơi thở  ra để đưa tâm về nhà, về chốn bình an gốc của mình. Chú ý vào cử động gắp thức ăn, bỏ vào miệng và nhai. Khi nhai thưởng thức vị ngon của thức ăn là một niềm vui.

2. Làm cho phong phú thêm, làm cho giàu thêm kinh nghiệm vui đó.

Cảm nhận trọn vẹn niềm vui ưa thích khi ăn uống trong chánh niệm. Cảm nhận tính chất của niềm vui ưa thích khởi lên của mỗi món ăn khác nhau. Khi ăn trong chánh niệm thì chúng ta thưởng thức trọn vẹn cái ngon, ngọt hay bùi của mỗi thứ và sự tổng hợp mùi vị của chúng.

Cùng với niềm vui, cảm nhận tính chất nuôi dưỡng của thức ăn lành mạnh. Sự cảm nhận như vậy làm cho các tế bào thần kinh ở các vùng khác nhau cùng kích xạ, hoạt động, và kết nối với nhau làm cho nền tảng hạnh phúc gia tăng.

3. Để cho niềm vui ưa thích thấm sâu vào người. Cảm nhận kinh nghiêm vui này thấm sâu vào toàn thể thân và tâm mình như nước ấm thơm tràn ngập cơ thể và tâm. Ăn trong niềm vui trọn vẹn thì thân thể trở nên bén nhạy hơn và tự dừng lại khi vừa thấy no. Niềm vui này trở thành một với mình dù mình không muốn bám víu vào nó.

4. Kết nối cảm xúc tích cực với cảm xúc tiêu cực trong quá khứ: Trong khi ăn với niềm vui nếu một cảm xúc buồn nào đó bỗng dưng xuất hiện không phải do mình cố tình suy nghĩ, như nhớ lại mình bị la rầy trong bữa cơm lúc còn nhỏ, thì tiếp tục cảm nhận niềm vui và để niềm vui tràn đầy phủ lên nỗi buồn. Cảm nhận niềm vui và nhìn thẳng vào nỗi buồn thì nỗi buồn tan biến dần qua nhiều lần thực hành.

Để cho niềm vui tràn đầy thân và tâm mình. Cảm nhận sự ấm áp, bình an và sự bằng lòng trọn vẹn, không cần phải có thứ gì khác hơn nữa.

Phần 3. Tập 8 thế Dưỡng Sinh Tâm Pháp theo DVD kèm theo sách.



[1]. Darwin, C. (1866) “On the Origin of Species by Means of Natural Selection, or the Preservation of Favoured Races in the Struggle for Life”. http://en.wikisource.org/wiki/On the Origin of Species (1859).

[2]. El Albani, Abderrazak; Bengtson, Stefan; Canfield, Donald E.; Bekker, Andrey; Macchiarelli, Reberto; Mazurier, Arnaud; Hammarlund, Emma U.; Boulvais, Philippe et al. (2010). “Large colonial organisms with coordinated growth in oxygenated environments 2.1 Gyr ago”. Nature, July,  466 (7302): 100–104.          

[3]. Elizabeth Pennisi, “Nervous System May Have Evolved Twice,” Science 339 (2013): 391.       

[4]. Shannon McPherron et al., (2010). “Evidence for Stone -Tool Assisted Consumption of Animal Tissues before 3.39 Million Years Ago at Dikika, Ethiopia,” Nature 446:  857– 860;

Semaw et al., (1997): “2.5-Million-Year-Old Stone Tools from Gona, Ethiopia,” Nature 385: 333– 336.

[5]. Michael Balter, “New Light on Revolutions That Weren’t,” Science 336 (2012): 530– 561.    

[6]. Placais, Pierre-Yves and Preat, T. (2010) To Favor Survival Under Food Shortage, the Brain Disables Costly Memory:  Science 339 440– 442; Linda Palmer and Gary Lynch, (2013) “A Kantian View of Space,” Science 328: 1487–1488;

Tobias Esch and George B. Stefano, “The Neurobiology of Stress Management,” Neuroendocrinology Letters 31, no. 1 (2010): 19– 39.

Pontus Skoglund et al., “Origins and Genetic Legacy of Neolithic Farmers and Hunter-Gatherers in Europe,” Science 336 (2012): 466– 4698.

MacLean, P. D. (1990). The Triune Brain in Evolution: Role in Paleocerebral Functions. New York: Springer.       

[7]. Jung-Kyoo Choi and Samuel Bowles, “The Coevolution of Parochial Altruism and War”, Science 318 (2007): 636– 640.               

[8]. Paul D. MacLean. (1990). The Triune Brain in Evolution: Role in Paleocerebral Functions. New York: Springer,.          

[9]. Panksepp, J. (1998), Affective Neuroscience: The Foundations of Human and Animal Emotions (New York: Oxford University Press,).

Panksepp, J. (2005). Affective Consciousness: Core Emotional Feelings in Animals and Humans. Consciousness & Cognition 14(1) : 30-80;

Burgdorf, J. and Panksepp, J.  (2006). The Neurobiology of Positive Emotions. Neuroscience and Biobehavioral Reviews, 30: 173– 187.             

[10]. Porges, S. W. (2011). The Polyvagal Theory: Neurophysiological Foundations of Emotions, Attachment, Communication, and Self-Regulation. New York: W.W. Norton & Company.            

[11]. Kok, B. E., Waugh, C. E., & Fredrickson, B. L. (2013). Meditation and Health: The Search for Mechanisms of Action. Social and Personality Psychology Compass, 7: 27-39.        

[12]. Davidson, R. J., & Lutz, A. (2008). Buddha’s brain: Neuroplasticity and meditation. IEEE Signal Processing Magazine, 25(1): 171-174.               

[13]. Soltesz, I. (2006). Diversity in the neuronal machine: Order and variability in interneural microcircuits. New York: Oxford University Press.  

[14]. Kinh Tạp A Hàm, kinh Cái, kinh số 708. TT. Thích Đức Thắng dịch. 

[15]. Mueller, S., Wang, Danhong, Fox, M. D., B.T., Yeo T., Sepulcre J., Sabuncu, M. R., Shafee, R., Lu, Jie, Liu, Hesheng. (2013) Individual Variability in Functional Connectivity Architecture of the Human Brain. Neuron, 77 (3): 586.  

[16]. Nimchinsky EA, Gilissen E, Allman JM, Perl DP, Erwin JM, Hof PR. (1999). A neuronal morphologic type unique to humans and great apes. Proc Natl Acad Sci U S A. ,Apr 27; 96(9):5268-73.2.     

[17]. Benson H, Lehmann JW, Malhotra MS, Goodman RF, Hopkins J, et al. (1982). Body temperature changes during the practice of g-tummo yoga. Nature 295: 234–236.       

[18]. Benson H, Malhotra MS, Goldman RF, Jacobs GD, Hopkins PJ (1990) Three case reports of the metabolic and electroencephalographic changes during advanced Buddhist meditation techniques. Behav. Med 16: 90–95.      

[19]. Kozhevnikov, M., Elliott, J., Shephard, J., Gramann, K. (2013) Neurocognitive and Somatic Components of Temperature Increases during g-Tummo Meditation: Legend and Reality. PLoS ONE,; 8 (3).  

[20]. Seigel, D. (2007). The Mindful Brain: Reflection and Attunement in the Cultivation of Well-Being. New York: WW Norton & Company, trang 40.           

[21]. Hanson, Rick (2013). Hardwiring Happiness: The New Brain Science of Contentment, Calm, and Confidence. Crown Publishing Group. Kindle Edition..

[22]. Như trên, Ibid.          

[23]. Như trên, Ibid.          

[24]. Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Thiền sư Nhất Hạnh dịch.      

[25]. Kinh Trung A Hàm, Phẩm Trường Thọ Vương, Niệm Thân, kinh số 81.      

[26]. Kinh Tương Ưng Bộ, Tương Ưng Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra, Phẩm Một Pháp, Vesàli, HT. Thích Minh Châu dịch.           

[27]. Hanson, Rick (2013). Sách đã viện dẫn. Op. Cit.             

Bình luận