Chương 2: Thực hành thiền chỉ và thiền quán
CHƯƠNG 2:
THỰC HÀNH THIỀN CHỈ
VÀ THIỀN QUÁN
Vào ngày 8, 9 và 10 tháng Mười Một năm 2005 viện nghiên cứu thân và tâm Mind and Body Institute, trường đại học y khoa John Hopkins University, School of Medecine và trung tâm y khoa viện đại học Georgetown University Medecine Center cùng bảo trợ tổ chức một cuộc hội luận với sự tham dự của ngài Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV để các nhà khoa học nổi danh và các người tu thiền nhiều nơi trên thế giới trình bày và thảo luận qua năm đề tài chính:
1. Can thiệp lâm sàng bằng Thiền tập: khoa học, thực hành.
2. Nền tảng khả hữu sinh học nơi Thiền
3. Nghiên cứu lâm sàng I: Thiền và sức khỏe tâm thần
4. Nghiên cứu lâm sàng II : Thiền và sức khoẻ thể chất
5. Tổng kết và phát biểu cảm tưởng.
THIỀN VÀ KHOA HỌC
Ngài Đạt Lai Lạt Ma tham dự thảo luận trong cả năm đề tài. Đây là thành quả của một chuỗi dài nhân duyên tốt đẹp được ngài Đạt Lai Lạt Ma và các nhà khoa học gieo trồng cách đây trên ba thập niên. Chúng ta tìm hiểu thêm về những yếu tố nhân và duyên đem đến kết quả tốt này qua phần tóm lược tin tức trình bày của ký giả Stephen S. Hall trong tờ The New York Times số ngày 14 tháng 9 năm 2000.
Vào năm 1992 ngài Đạt Lai Lạt Ma chuyển một lá thư qua máy fax đến tiến sĩ Richard Davidson để mời ông ta nghiên cứu về trạng thái thần kinh hay não bộ và hoạt động của các tế bào thần kinh khi thực hành thiền. Tại sao lại mời giáo sư Davidson? Vì ông là một nhà khoa học được huấn luyện về thần kinh học tại trường đại học nổi tiếng Harvard và cũng là một nhà khoa học nổi tiếng về nghiên về các cảm xúc tích cực, điều rất phù hợp với sự thực hành thiền đem lại hạnh phúc, tình thương yêu và sự lành mạnh trong đời sống của Phật giáo và ông cũng là người thực hành thiền.
Thường thì các nhà khoa học về thần kinh rất thận trọng trong vấn đề nghiên cứu và ít khi chọn một đối tượng nghiên cứu như Thiền Phật giáo vì nghe mơ hồ và không có vẻ gì là có nền tảng rõ ràng về khoa học. Tuy nhiên, tiến sĩ Davidson là một người thực hành thiền, ông ta biết rõ về giá trị thiền tập nên ông ta lập tức nhận lời đến vùng chân núi Hy Mã Lạp Sơn với các máy vi tính, máy điện não ký, máy phát điện cùng các dụng cụ khoa học khác để thu xếp một chương trình khảo cứu bộ não của các vị thiền sư Tây Tạng khi Thiền.
Sau khi vượt qua nhiều khó khăn ban đầu, nhóm nghiên cứu càng lúc càng phát triển và được sự tham dự của nhiều nhà khoa học khác cùng với những thiền sư nổi tiếng trong đó có thiền sư người Pháp Matthieu Ricard, có bằng tiến sĩ về phân tử sinh vật học. Không những vậy, máy móc nghiên cứu càng ngày càng tân kỳ hơn như máy chụp hình cộng hưởng họa hình các chuyển động trong bộ não qua các tiếng dội từ trường (Functional Magnetic Resonance Imaging hay fMRI), giúp cho thấy không những các hoạt động trong bộ não khi Thiền mà cả ảnh hưởng tốt đẹp tồn tại sau nhiều tháng kế đó. Các nhà khoa học khác như Paul Ekman thuộc viện đại học University of California vùng San Francisco và Stephen Kosslyn của trường đại học Harvard cũng nghiên cứu về Thiền.
Cứ hai năm một lần, dưới sự chủ tọa cùng như tham dự thảo luận của ngài Đạt Lai Lạt Ma, các nhà khoa học đến nơi ngài cư trú dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn hay các nơi khác để cùng hội luận về những ích lợi cụ thể của Thiền và những cảm xúc tích cực như lòng từ bi, niềm an lạc cũng như các phương thức chuyển hóa các cảm xúc tiêu cực như giận dữ, thù hận, bất an, phiền muộn qua sự thực hành đời sống tâm linh để đóng góp vào hòa bình và hạnh phúc nhân loại. Cách đây hơn 10 năm, năm 2003, có chương trình hội luận tại viện kỹ thuật nổi tiếng Massachussetts Institute of Technology hay M.I.T, mà tiến sĩ Kabat-Zinn, người khai sinh chương trình giải trừ căng thẳng qua thiền MBSR, cũng là một thành phần tham dự với những nhà nghiên cứu thần kinh tên tuổi khác như giáo sư Joathan D. Cohen, chuyên gia về sự chú ý và nhận thức của viện đại học Princeton, giáo sư Eric Lander, một trong những người lãnh đạo về chương trình nghiên cứu toàn bộ hệ gen con người, giáo sư Daniel Khaneman, nhà kinh tế học được giải Nobel qua chương trình nghiên cứu về tâm lý kinh tế, cùng nhiều nhà khoa học khác. Chúng ta cần biết đây là một quyết định quan trọng khi họ tham dự vào cuộc thảo luận về thiền vì các nhà khoa học đứng đắn không bao giờ muốn tên tuổi mình bị dính líu vào những vấn đề trừu tượng, mơ hồ hay không khoa học. Những đề tài trình bày trong cuộc hội luận vào tháng 11 năm 2005 là sự đúc kết các cuộc nghiên cứu quan trọng trong ngành thần kinh học liên hệ đến sức khoẻ thể chất và tinh thần mà các viện đại học, các tổ chức y tế cũng như những cơ quan cung ứng dịch vụ chữa trị thân và tâm đang mong chờ. Điều quan trọng hơn hết cho những người thực hành thiền và tập khí công, yoga và dưỡng sinh là các nhà khoa học và các thiền sư trình bày cho chúng ta thấy rõ sự liên hệ mật thiết giữa bộ não và tâm, nền tảng sự thực hành thiền có gốc rễ nơi thân thể cùng những phương thức thực hành đưa đến những kết quả cụ thể. Như vậy khi nói về tâm thì không chỉ nói đến nhận thức, suy nghĩ và cảm xúc mà còn nói đến hoạt động của các tế bào thần kinh nơi bộ não mà người ta có thể đo lường, huấn luyện và làm cho thành tốt đẹp hơn.
TAM MUỘI HỎA
Trong các cuộc nghiên cứu các nhà khoa học thường chọn quý thầy Tây Tạng thường là các vị thiền sư hay các vị Lạt Ma Tây Tạng làm đối tượng nghiên cứu vì họ thực hành những phương pháp tu tập đặc biệt như ngồi ngoài tuyết lạnh giá tám giờ đồng hồ không nhúc nhích với một chiếc tăng bào mỏng manh trên người gọi là Tam Muội Hỏa hay g-tummo, quán tưởng rất chi tiết với nhiều màu sắc các hình ảnh của chư Phật, chư Bồ-tát hay thực hành chú tâm nhiều giờ vào một đối tượng, điều mà các nhà khoa học đang muốn tìm hiểu, lý do là sự chú tâm và sự tưởng tượng các chi tiết về hình thể và màu sắc của người thường so với các vị Lạt Ma này rất giới hạn. Bác sĩ Herbert Benson, dạy tại trường đại học y khoa Harvard và sau này là giám đốc trung tâm chữa trị thân và tâm, là người tiên phong trong vấn đề nghiên cứu thiền thư dãn, relaxation response, qua sự thực hành thiền, cùng sự ứng dụng sự buông thư này vào trong các chương trình chữa trị bệnh tật, gia tăng sức khỏe, giảm sự hiếm muộn sinh con, chăm sóc thai nhi, chăm sóc con cái để mẹ con đều an lạc, giúp học sinh học giỏi, giúp thợ thuyền gia tăng hiệu năng làm việc. Chính bác sĩ Herbert Benson[1] đã cầm đầu một phái đoàn nghiên cứu y khoa đến tận vùng núi Hy Mã Lạp Sơn để nghiên cứu Tam Muội Hỏa và sau đó vào năm 2004, tiếp tục chương trình nghiên cứu này với các vị Lạt Ma Tây Tạng tại Pháp. Ông ta nghiên cứu rất tường tận khoa học về thiền và cách ứng dụng vào các sinh hoạt thường ngày như thể thao, học hành, tâm linh, nghệ thuật, chữa trị bệnh tật, gia tăng sức khỏe và hạnh phúc trong đời sống cho mọi người thuộc mọi tôn giáo.
Điều quan trọng chúng ta cần nhớ là trong đạo Phật các câu chuyện về phép lạ hay thần thông không được xem là quan trọng nhiều, mà chính sự giải thoát hay giác ngộ của mỗi người thực hành tu học mới thường được đề cao. Vậy tại sao Phật giáo Tây Tạng lại chú ý nhiều đến thần thông? Thật ra bên ngoài sự kỳ bí mà người ta thường khoác lên các môn tu tập, cốt tủy của sự thực hành của chư tăng ni Tây Tạng là sự giải thoát viên mãn ngay trong kiếp sống này mà quý ngài thường hay nhắc nhở: ‘Tức thân thành Phật’. Đó là một thông điệp dõng mãnh gởi đến mọi người Phật tử. Tuy nhiên, điều đó có ý nghĩa gì trên nền tảng khoa học? Những yếu tố tâm lý và cơ thể biểu lộ ra sao khi các vị thiền sư Tây Tạng thực hành các phép thần thông và ở trong trạng thái hỷ lạc của tâm giác ngộ?
Trong tác phẩm về sự thực hành thư dãn qua thiền tập cùng những kết quả kỳ diệu của nó[2] bác sĩ Benson có trình bày về kết quả cuộc nghiên cứu của phái đoàn y khoa về Tam Muội Hỏa là một trong sáu phép thần thông của các vị thiền sư Tây Tạng từ ngài Naropa truyền xuống. Các ngài ngồi thiền trên tuyết vào một ngày giá buốt tại vùng núi Hy Mã Lạp Sơn và có khả năng làm cho da của họ tăng lên 15 độ Farenheit (khoảng hơn 9 độ bách phân) nhất là nơi các vùng tay và chân, hai bàn tay, hai bàn chân, hai tai, mũi là những vùng dễ bị đông lạnh hay bị hư hại nếu để ra ngoài khí hậu quá lạnh trong thời gian dài. Nhiều cuộc khảo cứu sau đó họ lại đến các vùng lạnh hơn và các vị thiền sư Tây Tạng ngồi liên tiếp tám giờ ngoài trời lạnh buốt dưới không độ Farenheit hay trừ 18 độ (âm) bách phân mà không động đậy, hoặc họ có thể làm thân thể phát ra sức nóng, do các luồng ‘chân khí’ hay ‘khí’ (wind, air hay prana) chuyển động nơi các đường kinh mạch, làm cho những tấm khăn nhúng nước đắp lên người họ bốc lên thành hơi và khô đi.
Điều quan trọng khi thực hành Tam Muội Hỏa là các vị thiền sư đi vào một trạng thái mà Mật Tông gọi là Đại Lạc, niềm an vui vô cùng kỳ diệu mà thiền gọi là Hỷ Lạc, Tịnh Độ gọi là Cực Lạc, do sự ‘đốt cháy’ hay làm tiêu trừ mọi cội gốc của nghiệp chướng là các trở ngại trong tâm như tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Thân và Tâm các ngài trong trạng thái buông xả tuyệt đối mà người ta ghi nhận là mức độ hơi thở giảm xuống rất nhiều, 15 hơi thở trung bình trong một phút, có vị chỉ thở 6 hơi thở trong một phút, và mức độ chuyển hóa năng lượng giảm còn 64 phần trăm. Đó là một thành quả đặc biệt so với những người bình thường như chúng ta khi thực hành sự buông xả. Nhờ những cuộc nghiên cứu đó mà chúng ta hiểu rõ hơn về sự ích lợi của thiền giúp cho phát triển sức khỏe, gia tăng những khả năng chữa trị bệnh tật của cơ thể và niềm hạnh phúc kỳ diệu có sẵn nơi mỗi con người.
THIỀN PHÁT TRIỂN ĐỜI SỐNG VÀ GIA TĂNG SỨC KHỎE
Hiện nay có hàng trăm nhóm thực hành thiền và phát triển sức khỏe khắp nơi. Tuy nhiên, có hai nhóm rất quan trọng mà chúng ta cần biết đến vì hai nhóm này hợp tác với các viện đại học và các nhà thương lớn, có cơ sở và chương trình hoạt động quy mô, đã chữa trị cho rất nhiều bệnh nhân và có chương trình nghiên cứu khoa học liên tục về những tác dụng hữu ích của chương trình họ đang cống hiến cho quần chúng. Chúng ta đã biết qua về chương trình giảm căng thẳng qua thiền MBSR của tiến sĩ Kabat-Zin, nay chúng ta tìm hiểu chương trình thiền chữa trị bệnh tật của Viện Y Khoa Thân Tâm do bác sĩ Benson làm giám đốc.
Bác sĩ Benson rất quan tâm đến tác dụng của sự căng thẳng gây ra đủ thứ bệnh tật, làm gia tăng những cơn đau nhức và ngay cả chứng hiếm muộn con cái cũng như những hội chứng của người phụ nữ lớn tuổi. Bác sĩ Benson viện dẫn các cuộc nghiên cứu y khoa cho biết những bệnh nhân đến bác sĩ khám bệnh thì có từ 60 đến 90 phần trăm liên hệ đến sự căng thẳng mà họ có thể biết hay không biết tới. Viện này đã hợp tác với các bác sĩ khác để làm các cuộc nghiên cứu y khoa và thấy chương trình giảm trừ căng thẳng đã giúp cho trên 80% bệnh nhân tham dự chương trình trong sáu tháng bớt các chứng bệnh như đau kinh niên, đau đầu đông, bệnh tim mạch, huyết áp, đau các khớp, hiếm muộn, tiểu đường, hội chứng mãn kinh, bệnh đường ruột, chóng mặt, ù tai, đau lưng, mất ngủ, tim hồi hộp, hen suyễn và nhiều chứng bệnh nguy hiểm khác.
Các bác sĩ thường báo động sự căng thẳng không những liên hệ đến các bệnh tật về thể chất, căng thẳng cũng làm cho đời sống trở thành không quân bình như hút thuốc, uống rượu, hoặc ăn uống quá nhiều để trốn thoát căng thẳng. Sự căng thẳng không dừng lại nơi đó, nó tác hại đến trí nhớ, cách suy luận rõ ràng hợp lý, mất dần khả năng quyết định đúng, hay chỉ trích người khác, thiếu tự tin và làm cho đời sống dần dần trở nên cô lập và gia tăng khổ đau. Vì sự tác hại lớn lao của căng thẳng như vậy nên chương trình chữa trị của Viện Y Khoa Thân Tâm là huấn luyện cho bệnh nhân thực hành Thiền để giải trừ căng thẳng, tập thể dục hay Yoga, biểu lộ cảm xúc để lòng được nhẹ đi, sinh hoạt với nhóm hỗ trợ và viết nhật ký để gia tăng sự nhận thức về đời sống. Chương trình của tổ chức này hiện cung ứng các dịch vụ sức khỏe cho nhiều nhóm khác nhau với mục đích sau đây:
• Giảm các hội chứng hay các đau đớn bệnh tật,
• Giảm cân,
• Giúp những người bị ung thư thoải mái hơn,
• Những người bị hiếm muộn gia tăng khả năng có con,
• Phát triển sức khỏe tim mạch,
• Gia tăng niềm vui và sức khỏe cho người mẹ và các em bé,
• Chương trình phát triển sức khỏe qua tập Yoga hay vận động thể lực, có huấn luyện viên riêng, v.v…
Những người ghi danh sẽ tham dự chương trình trong 10 tuần lễ, mỗi tuần sinh hoạt một lần trong hai tiếng rưỡi đồng hồ để tập cách thở tạo ra cảm giác buông thư, cách điều hành căng thẳng, làm giảm và chuyển đổi các ý tưởng tiêu cực, biết cách dinh dưỡng tốt cùng được hướng dẫn tập luyện thể chất để phát triển thói quen vận động tốt. Cách tập thở để tạo ra cảm giác buông thư cũng tương đối giản dị: Chú tâm vào hơi thở vào và hơi thở ra, đừng để cho các ý tưởng lôi cuốn, có thể niệm một chữ hay một câu tự mình chọn lấy duyên theo hơi thở hoặc đếm số.
Ngoài ra tổ chức Thiền Chánh Niệm Giảm Căng Thẳng (Minhdfulness-Based Stress Reduction hay MBSR), một tổ chức tư nhân do tiến sĩ Jon Kabat-Zinn thuộc viện đại học y khoa Massachussetts Medical School đã thành lập trên 30 năm qua. Điều đặc biệt tổ chức thiền làm giảm căng thẳng MBSR có những chuyên viên như bác sĩ, y tá, cán sự xã hội, bác sĩ tâm thần, những người hướng dẫn cùng hợp tác với nhau để xây dựng thành những tổ chức địa phương khắp nơi cung ứng các dịch vụ cho các chương trình chữa trị bệnh tật và phát triển sức khỏe. Hiện nay có đến 250 trường đại học và nhà thương khắp nơi trên thế giới trong đó có những đại học lớn như Duke, Umass, Stanford, UC San Francisco đều có chương trình MBSR này. Uy tín của chương trình này càng lúc càng gia tăng vì qua nhiều cuộc nghiên cứu người ta thấy rõ những người thực hành các chương trình thiền tập của MBSR có khả năng làm cho sự căng thẳng tinh thần và thể chất giảm đi, các cảm xúc tiêu cực bớt đi và sức khỏe tổng quát gia tăng. Cách đây trên 10 năm, tiến sĩ Kabat Zinn và các đồng nghiệp của ông trong chương trình MBSR đã chữa trị cho trên 16.000 người và dạy cho trên 2.000 chuyên viên sức khỏe về chương trình Thiền Tỉnh Thức để họ hướng dẫn lại bệnh nhân.
Chúng ta đã biết khi một người ghi tên tham dự chương trình trong 8 tuần lễ do chương trình thiền giảm căng thẳng MBSR hướng dẫn, có tổng cộng 27 giờ sinh hoạt, tham dự viên có thể phải đóng khoảng 500 mỹ kim. So với chương trình 10 tuần lễ của Viện Y Khoa Thân Tâm, mỗi tuần đến sinh hoạt 2 giờ rưỡi, lệ phí có thể lên đến 800 mỹ kim. Sau phần thủ tục ghi danh chương trình thiền giảm căng thẳng MBSR, học viên được hướng dẫn phần chính có thể tóm lại như sau:
1. Thiền Nằm
• Nằm thẳng lưng hay ngồi thẳng trong một tư thế thoải mái.
• Nhắm mắt lại.
• Thở bụng và cảm nhận bụng phình lên và xẹp xuống.
• Cảm giác toàn thân, từ đầu đến chân, cảm giác phần lưng tiếp xúc với sàn.
• Chú tâm vào ngón chân cái bên trái, quán thấy hơi thở đi từ mũi đến ngón chân cái rồi trở về. Tiếp tục làm như vậy đến phía trước bàn chân, bàn chân dần dần cho đến mặt và đầu.
• Sau dó về nhà thực hành tiếp mỗi ngày độ 30 phút.
2. Tập các thế yoga với sự chú tâm tỉnh thức
3. Ngồi Thiền
• Ngồi thoải mái, lưng thẳng.
• Chú tâm vào mỗi hơi thở vào và hơi thở ra: Bụng phồng khi thở vào và xẹp khi thở ra.
• Đem sự chú tâm trở về với hơi thở mỗi khi mất sự chú tâm và chạy theo ý tưởng.
• Thực hành thiền ngồi 15 phút mỗi ngày
Sau khi phát triển khả năng họ có thể mở rộng phạm vi chú tâm nhận biết về cảm giác của thân thể hay các âm thanh xuất hiện. Ngoài ra, họ được hướng dẫn thêm về các vấn đề liên hệ đến điều hành căng thẳng liên quan đến đời sống hay bệnh tật. Người hướng dẫn thường nhấn mạnh đây không phải chỉ là một chương trình tạo thư giản làm bớt căng thẳng mà còn là một phương pháp tốt đẹp đi sâu vào đời sống tâm linh, đưa đến những thay đổi tốt đẹp lâu dài cho người thực hành. Những sự thực hành nói trên chúng ta thấy đức Phật chỉ dạy rất tường tận trong kinh Quán Niệm Hơi Thở.
Như thế, các chương trình thiền và phát triển sức khỏe này có đặc điểm chung là không dùng đến danh từ ‘Thiền’ vì ngại dân chúng hiểu lầm đây là một chương trình của tôn giáo nào đó. Họ chỉ dùng chữ ‘tỉnh thức’, (mindfullness như trong MBSR) hay ‘thư dãn’ (relaxation response như trong Mind and Body Medecine) như một nhãn hiệu hay logo đặc biệt của chương trình họ. Với hai chương trình trên, cách thở thì cũng tương tự vì tất cả nền tảng căn bản về cách thở đều phát xuất từ thiền Nam tông hay Bắc tông Phật giáo, ngay đến cách quán tưởng, tưởng tượng ra trong trí hay tâm các hình ảnh hoặc cảm nhận về các cảm giác nơi thân hay các cảm xúc như sướng khổ, vui buồn, ưa ghét mà đừng phản ứng hay chạy theo thì đó là nền tảng của thiền Quán Niệm Hơi Thở do đức Phật chỉ dạy cùng sự thực hành đăc biệt trong kinh Tứ Niệm Xứ hay thực hành Chú Tâm Vào Bốn Lãnh Vực của đời sống con người. Cái hay của những tổ chức này là họ có tinh thần sáng tạo, biết lấy cái tinh hoa mà ứng dụng vào hoàn cảnh hiện nay mà đạo Phật gọi là Khế Lý và Khế Cơ để giúp người một cách hữu hiệu hơn. Và một trong những sáng tạo đó là Thiền Nằm của MBSR thay vì ngồi và cảm nhận những cảm giác nơi thân mà đức Phật gọi là Niệm Thân trong sự thực hành Bốn Lãnh Vực Quán Niệm. Chương trình MBSR cũng có những khóa sinh hoạt thực hành đặc biệt gồm có tập thiền, tập Yoga, thảo luận chung, thức ăn ngon, đi bộ trong rừng do tiến sĩ Kabat Zinn hướng dẫn. Các học viên đóng lệ phí là 4. 650 mỹ kim (có phòng một người). Ghi danh sớm thì đóng ít hơn: 3. 950 mỹ kim và gọi điện thoại số (508) 856-5493 để ghi tên tham dự.
THIỀN CHỈ VÀ THIỀN QUÁN
Ngày hôm nay, khi nghiên cứu về cách thực hành thiền, các nhà khoa học nhận thấy dù các phương pháp thực hành với hàng trăm tên gọi khác nhau nhưng đều quy vào hai cách thực hành chính, đó là thiền chỉ và thiền quán do đức Phật chỉ dạy.
Ngay từ thời đức Phật, điều ước muốn được nghe lời giảng về Phật pháp giống nhau và sự thực hành giống nhau đã được nói đến trong kinh Đồng Pháp thuộc bộ Kinh Tạp A Hàm. Kinh nói khi đức Phật ở tại nước Câu Diêm Di, ngài A Nan đến đảnh lễ một bậc thầy tên là Thượng Tọa và hỏi nếu có tỳ kheo ở nơi vắng vẻ, dưới bóng cây hay ở trong phòng tu tập thì nên dùng phương pháp nào. Ngài Thượng Tọa trả lời:
“Này tôn giả A Nan, nếu người nào ở chỗ vắng vẻ, dưới bóng cây hay trong phòng yên tĩnh, nên dùng hai pháp này để chuyên tinh tư duy, đó là chỉ và quán”.
Ngài A Nan lại hỏi sau khi thực hành tu chỉ và quán nhiều thì kết quả thành tựu ra sao. ngài Thượng Tọa đáp:
“Tu tập chỉ, cuối cùng thành tựu được quán. Tu tập quán, cũng thành tựu được chỉ. Nghĩa là, Thánh đệ tử tu tập gồm cả chỉ và quán, chứng đắc giải thoát giới”.
Ngài A Nan hỏi về ý nghĩa giải thoát giới thì được đáp giải thoát giới là là đoạn giới, vô dục giới, diệt giới. Ngài A nan hỏi thêm thế nào là đoạn giới cho đến diệt giới và được trả lời là đoạn tất cả hành. Tất cả hành diệt, đó là diệt giới. Nói theo ngôn ngữ thời nay là người tu tập có khả năng điều hành được tâm mình nên không bị những ý tưởng, những ham muốn và những cảm xúc tiêu cực làm cho khổ đau và sống đời hạnh phúc chân thật.
Ngài A Nan rất vui mừng, sau đó ngài đi đến chỗ năm trăm vị Tỳ kheo và lập lại những câu hỏi trên thì các vị Tỳ kheo cũng trả lời giống đúc như ngài Thượng Tọa. Ngài A Nan lại rất vui mừng, ngài tìm đến đức Phật và cũng lập lại các câu hỏi nói trên và đức Phật trả lời cũng giống đúc ngài Thượng Tọa và năm trăm vị Tỳ kheo nói trên. Ngài A Nan thấy lòng tràn đầy hoan hỷ và bạch với đức Phật như sau:
“Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn, Bậc Đao Sư và các đệ tử, tất cả đều đồng một pháp, đồng một văn cú, đồng một nghĩa, đồng một vị… Cho nên biết rằng, Thầy và đệ tử, tất cả đều đồng một pháp, đồng một văn cú, đồng một nghĩa, đồng một vị”.[3]
Như vậy, chúng ta thấy các bậc thánh tăng thời đức Phật đã theo lời dạy của Ngài thực hành phương pháp giống nhau khi thiền và có kết quả tu tập giống nhau. Đó là thiền chỉ và thiền quán.
Thực hành thiền chỉ hay thiền quán đều là thực hành sự chú tâm. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thấy thực hành sự chú tâm không phải là dễ dàng vì tâm chúng ta hay bị các ý tưởng và cảm xúc khác nhau xuất hiện và lôi kéo sự chú ý của chúng ta. Thông thường, các cảm giác sướng hay khổ, các cảm xúc vui hay buồn tác động vào tâm con người rất mạnh mẽ. Khi nghe một lời khen hay tiếng chê, khi nhận được món quà quý hay bị mất một vật gì có giá trị, khi được người khác ca tụng hay chê bai trên báo chí, truyền hình hay trước đám đông, khi được vui sướng như ăn ngon hay khổ vì bị đói, thì những niềm vui hay nổi khổ xuất hiện trong tâm chúng ta thì chúng lôi kéo sự chú ý của chúng ta mạnh mẽ. Chú ý càng mạnh thì cảm xúc càng tăng và càng có mặt lâu dài. Nếu chúng ta muốn hướng sự chú ý đến thứ khác thì những cảm xúc này lôi kéo sự chú ý của chúng ta trở về lại với chúng. Nhà tâm lý học Daniel Goleman, trong cuốn sách về thông minh cảm xúc[4] gọi đó là chúng ta bị cảm xúc bắt cóc, không trốn thoát được và đạo Phật gọi đó là bị tám ngọn gió sướng-khổ, khen-chê, đề cao-hũy nhục và được-mất làm cho tâm mình chao động, làm mất khả năng làm chủ. Lúc đó, các hoạt động thần kinh trong bộ não cũng có sự thay đổi.
Các nhà khoa học thần kinh học Jha[5] và Lutz[6] cùng các đồng nghiệp nghiên cứu thiền và bộ não cho thấy khi chúng ta thực hành sự chú ý lâu dài vào một thứ, còn gọi là thực hành chánh niệm như khi ngồi thiền, thì hoạt động này ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến bộ não và làm thay đổi các hoạt động trong bộ não, giúp gia tăng sự chú ý và điều hành cảm xúc tốt đẹp, không những ngay trong lúc ngồi thiền mà còn lâu dài về sau. Những cuộc nghiên cứu khoa học cho thấy điều quan trọng nhất là chúng ta có thể huấn luyện làm khả năng chú ý của mình gia tăng qua sự thực hành thiền.
Theo các chuyên gia nghiên cứu về thiền Marlatt và Kristeller[7], một cách tổng quát, thiền có hai loại là thiền chỉ và thiền quán. Thiền chỉ (focus attention hay FA) là chú ý tập trung vào một thứ như hơi thở vào hơi thở ra, lời niệm Phật hay một chữ hay một câu thần chú. Còn thiền quán (open Monitoring meditation hay OM) là chú ý mở rộng, thấy biết trong một phạm vi lớn hơn, những gì đang xảy ra từ giây phút này qua giây phút khác, trong thân hay tâm khi ở một mình hay khi đối diện với cảnh bên ngoài. Khi thực hành thiền quán thì năm giác quan là tai, mắt, mũi, miệng và thân buông xả nhưng rất tinh tế. Trong khi thực hành thiền quán, tiến sĩ Kabat-Zinn[8] nhấn mạnh, thì sự chú tâm đó làm phát sinh sự thấy biết trực tiếp mà không có ý tưởng phê phán - như cho là xấu hay tốt – hay dính mắc vào cảm xúc – như ưa hay ghét, sướng hay khổ - khi thấy biết hình ảnh, âm thanh, mùi, vị, cảm giác hay cảm xúc. Chúng ta đã biết, thực hành như thế được đức Phật gọi là “tuệ tri”.
Ngoài ra, một loại thiền hiện có ở Hoa Kỳ là thiền niệm chú gọi là thiền siêu vượt Transcendental Meditation, hay TM, do một giáo sĩ Ấn Độ giáo Maharashi thành lập.[9] Những người thực hành thiền TM niệm một chữ mà nhóm TM nói chỉ có âm thanh thôi chứ không có ý nghĩa gì cả. Thực ra, đây là tên của những vị thánh trong Ấn Độ giáo như Ram, Shiriram hay một câu dài như Shrishri Shri Aing Aing Namah Namah.[10] Người thực hành thiền niệm chú TM ngồi thiền 20 phút mỗi lần và ngồi hai lần trong một ngày. Họ để thân và tâm buông xả và niệm thầm chữ hay câu chú.
Như vậy, về phương diện thực hành cụ thể, thiền TM có thể gọi là thiền niệm chú và cũng tương tợ như cách ngồi thiền buông xả thân tâm và niệm danh hiệu “A Di Đà Phật.” Và để cho dễ hiểu và dễ nhớ, chúng ta gọi thiền siêu niệm TM là thiền niệm chú.
Nhiều thiền viện, tu viện Phật giáo hay các trung tâm hướng dẫn thực hành gia tăng khả năng chú ý thường nhấn mạnh đến ngồi thiền. Những người thực hành được hướng dẫn ngồi thẳng lưng nhưng buông xả thân thể thoải mái và chú tâm vào hơi thở vào và hơi thở ra, đừng để bị các ý tưởng và cảm xúc xuất hiện lôi kéo làm mất chú tâm hay chánh niệm.
Đi vào chi tiết hơn, theo nhà nghiên cứu về thiền như Valentine, Sweet[11] và Wallace[12] thì các trung tâm thực hành thiền tập thường hướng dẫn một trong hai cách thiền mà cách thứ nhất là thiền chỉ hay chú tâm vào một thứ như chú tâm vào hơi thở vào và hơi thở ra hay phối hợp với lời niệm một chữ hay một câu. Như vậy thiền niệm chú hay niệm A Di Đà Phật là thiền chỉ.
ĐỨC PHẬT DẠY CHÚ Ý VÀO ĐÂU KHI THỞ VÀO VÀ THỞ RA
Trong kinh Quán Niệm Hơi Thở đức Phật dạy:
“Người hành giả đi vào rừng hoặc tới một gốc cây, nơi vắng vẻ, ngồi xuống trong tư thế hoa sen, giữ thân cho thẳng và đặt vững chánh niệm trước mặt mình. Thở vào, người ấy biết rằng mình thở vào; thở ra, người ấy biết rằng mình thở ra”.[13]
Khi thở vào và thở ra, người thực hành thiền chú ý vào đâu để biết hơi thở vào và hơi thở ra? Điều này chúng ta cần nghe lời dạy của các vị thiền sư hướng dẫn Thiền Tứ Niệm Xứ thuộc Phật giáo Nguyên thủy.
Theo thiền sư U Silananda dạy trong các khóa tu Thiền Tứ Niệm Xứ, ngài giảng về kinh Ðại Niệm Xứ và được Tỳ kheo Khánh Hỷ dịch sang tiếng Việt, thì cách thực hành lời đức Phật dạy như sau:
“Câu này giảng giải cách hành thiền. Khi hành thiền bạn giữ tâm trên hơi thở vào và hơi thở ra. Thực ra, bạn để tâm ở cửa mũi và quan sát hơi thở “vào ra”, “vào ra”... Tâm phải đặt ở cửa mũi trong khi theo dõi hơi thở vào và ra. Nghĩa là không cố ý theo hơi thở và tưởng tượng hơi thở đang đi vào trong cơ thể hay nghĩ rằng hơi thở giai đoạn đầu ở mũi, giai đoạn hai ở tim và giai đoạn ba ở rốn như nhiều người đã dạy và thực hành. (Thanh Tịnh Ðạo có nói rõ là thiền sinh sẽ bị loạn tâm ở ba giai đoạn mũi, tim và rốn. Phải để tâm ở cửa mũi như người gác cửa quan sát kẻ ra người vào, hoặc như người thợ mộc khi cưa một khúc gỗ thì phải chú tâm vào nơi lưỡi cưa tiếp xúc với gỗ chứ không theo dõi lưỡi cưa chạy tới chạy lui)”.[14]
Khi thiền Bạn để tâm ở cửa mũi và cảm nhận nhẹ nhàng hơi thở vào ra.
Lời dạy trên rất phù hợp với lời dạy của vị thiền sư cư sĩ nổi tiếng thế giới Goenka trong các bài Tứ Niệm Xứ Giảng Giải tại các khóa tu thiền được Tỳ kheo Pháp Thông dịch sang tiếng Việt:
“Bây giờ bạn đang làm việc với hơi thở, thực tại của sát-na này, đúng như nó là, (hơi thở) đi vào và đi ra, sâu hoặc nông. Bạn cũng cố gắng duy trì chánh niệm về thực tại của cảm thọ trong vùng thân này, tức vùng dưới mũi và trên môi trên, đúng như nó thể hiện từ sát-na này đến sát-na khác. Đối tượng là vùng thân ấy”.[15]
Thiền sư Goenka giảng thêm cho thật rõ về điểm này:
“Kế đó, đức Phật đưa ra ví dụ về một người thợ mộc, thỉnh thoảng, xoay và tiện gỗ để làm một cái chân cho món đồ dùng nào đó chẳng hạn. Ông ta dùng một cái máy tiện. Một vòng xoay dài của máy tiện tạo thành một vết cắt dày hơn một vòng xoay ngắn. Ông, hoặc người học việc của ông, biết rõ vòng xoay của mình khi nào thì dài, khi nào thì ngắn; tương tự như vậy, người hành thiền tuệ tri hay biết rõ (pajānāti) khi nào hơi thở dài hoặc ngắn.
Trong ví dụ, chiếc máy tiện chỉ cắt tại điểm tiếp xúc. Cũng vậy, sự chú ý phải được giữ ở nơi hơi thở xúc chạm. Bạn không nên theo hơi thở sâu vào bên trong hoặc đi ra ngoài vào bầu không khí. Bạn phải nhận biết rõ vùng (tiếp xúc) này và cũng phải cảm giác được toàn hơi thở đi vào hoặc đi ra”.
Như vậy, khi thở vào hay thở ra, người thực hành thiền chú ý vào vùng dưới mũi và trên môi trên và cảm nhận không khí vào và ra dù rất nhẹ nhàng.
THIỀN QUÁN HAY CHÚ Ý MỞ RỘNG
Cách thứ hai là thiền quán (Open Monitoring meditation hay objectless attention) là mở rộng sự chú tâm, không hướng đến một đối tượng nào cả và nhận biết mọi thứ khi chúng xuất hiện bên ngoài hay bên trong thân và tâm mà không phê phán. Khi có các ý tưởng khởi dậy tạo thành chuỗi suy nghĩ dài thì nhớ quay trở về với cái thấy biết lặng lẽ nhưng linh động.
Thiền sư Goenka dạy cách thực hành cụ thể như sau:
“Lúc này vị ấy tập: “Cảm giác toàn thân (sabbakāyapaṭisaṃvedī), tôi sẽ thở ra”. Thay vì tuệ tri hay hiểu đúng (pajānāti), chữ sikkhati, “tập” bây giờ được dùng. Là những người hành thiền, sau một hoặc hai ngày làm việc với hơi thở, bạn đã kinh nghiệm được cảm thọ trong vùng này. Rồi làm việc với cả hai (hơi thở và cảm thọ) bạn đạt đến giai đoạn cảm giác thọ ở khắp toàn thân. Mới đầu cảm thọ ấy rất thô, kiên cứng, căng thẳng, song khi bạn duy trì pháp hành một cách kiên trì, nhẫn nại, giữ thái độ xả với mọi kinh nghiệm, toàn thân tan ra thành những rung động vi tế…
Trong trạm quan trọng kế tiếp, với sự trợ giúp của hơi thở, toàn thân được cảm giác ở bên trong, tức bên trong tự thân, ajjhataṃ. Rồi nó cũng được cảm giác ở bên ngoài, bahiddhā, trên bề mặt của thân, và cuối cùng cảm giác cả bên trong lẫn bên ngoài cùng một lúc, ajjhattabahiddhā”.[16]
Như vậy, phải thực hành thiền chỉ một thời gian cho vững rồi thiền sinh tập thực hành thiền quán. Phù hợp với lời dạy nói trên, hai chuyên viên nghiên cứu về thiền Smallwood và Schooler[17] khảo cứu thấy trong các thiền viện Phật giáo tại Mỹ, các thiền sinh thường được hướng dẫn thiền chỉ, tập trung chú ý vào một đối tượng, thành công rồi mới thực hành thiền quán hay thiền chú ý mở rộng vì nếu không đủ khả năng duy trì sự chú ý khi thực hành thiền quán thì dễ bị vọng tưởng, để tâm lang thang. Đó là chạy theo các ý tưởng hay cảm xúc khởi dậy hoặc bị hôn trầm, trạng thái ngồi thiền mà buồn ngủ và mê mờ.
Thứ tự thực hành này chúng ta cũng thấy đức Phật dạy trong kinh Quán Niệm Hơi Thở, ban đầu là chú tâm vào hơi thở (thiền chỉ, chú ý tập trung) mà thôi như sau:
“Làm thế nào để phát triển và thực tập liên tục phép quán niệm hơi thở, để phép này mang lại những thành quả và lợi lạc lớn?”
“Này đây, quý vị khất sĩ! Người hành giả đi vào rừng hoặc tới một gốc cây, nơi vắng vẻ, ngồi xuống trong tư thế hoa sen, giữ thân cho thẳng và đặt vững chánh niệm trước mặt mình. Thở vào, người ấy biết rằng mình thở vào; thở ra, người ấy biết rằng mình thở ra.
Thở vào một hơi dài, người ấy biết: Ta đang thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài, người ấy biết: Ta đang thở ra một hơi dài.
Thở vào một hơi ngắn, người ấy biết: Ta đang thở vào một hơi ngắn. Thở ra một hơi ngắn, người ấy biết: Ta đang thở ra một hơi ngắn”.
Rồi sau đó chuyển sang thực hành chú ý mở rộng thấy biết nhiều thứ cùng lúc với tâm tỉnh thức hay thiền quán:
Ta đang thở vào và có ý thức về toàn thân ta. Ta đang thở ra và có ý thức về toàn thân ta. Người ấy thực tập như thế.
Ta đang thở vào và làm cho toàn thân an tịnh. Ta đang thở ra và làm cho toàn thân an tịnh. Người ấy thực tập như thế.
Ta đang thở vào và cảm thấy mừng vui. Ta đang thở ra và cảm thấy mừng vui. Người ấy thực tập như thế.
Ta đang thở vào và cảm thấy an lạc. Ta đang thở ra và cảm thấy an lạc. Người ấy thực tập như thế.
Ta đang thở vào và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta. Ta đang thở ra và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta. Người ấy thực tập như thế”.[18]
Như vậy, về phương diện thực hành cụ thể, trước hết chúng ta chú ý và biết về hơi thở vào và hơi thở ra (chỉ, chú ý tập trung). Sau khi thực hành một thời gian lâu dài, năng lực chú ý gia tăng chúng ta chuyển qua thiền quán là chú ý mở rộng nên có khả năng thấy biết các thứ khác như thân thể, cảm xúc và các hiện tượng chung quanh mà tâm duy trì được sự tỉnh thức và không bị chao động. Theo cách tự huấn luyện đó, như các chuyên gia nghiên cứu về thiền và thần kinh học Lutz và các đồng nghiệp cho thấy,[19] mà nhiều người thực hành thiền tập vững chãi qua sự thực hành thiền quán sau khi thành công trong việc thực hành thiền chỉ.
ĐỨC PHẬT DẠY THỰC HÀNH THIỀN CHÁNH NIỆM
Lời dạy của đức Phật về thực hành chú ý và nhận biết hay chánh niệm về hơi thở vào và hơi thở ra như vậy rất giản dị, cụ thể và dễ dàng thực hành. Khi thực hành thiền, bước đầu tiên là chúng ta huấn luyện chú ý vào hơi thở cùng lúc nhận biết hơi thở vào và hơi thở ra như lời Phật dạy:
“Trong khi thở vào, biết mình đang thở vào. Trong khi thở ra, biết mình đang thở ra”.[20]
Trong các thiền viện, quý vị tăng ni hướng dẫn thêm cách đếm số hơi thở, hay sổ tức quán, để gia tăng sự chú ý và tâm khỏi chạy lang thang: Hít vào thở ra đếm 1, hít vào thở ra đếm 2 cho đến 10 thì đếm 1 lại. Lý do không đếm quá số 10 vì đếm nhiều số quá cũng làm cho tâm bị xao lãng.
Khi thực hành ở nhà, ban đầu chúng ta dành mỗi lần từ 5 đến 10 phút để thực hành thiền chỉ, chú ý vào hơi thở và nhận biết hơi thở vào và hơi thở ra. Tốt nhất là thực hành thiền chỉ một thời gian rồi mới chuyển sang thiền quán.
Khi ngồi thiền và hoàn toàn chú ý vào hơi thở vào, hơi thở ra hay đếm số từ 1 đến 10 là chúng ta huấn luyện chú ý tập trung hay thiền chỉ. Những vị nào chọn thiền Niệm Phật thì có thể phối hợp thực hành chú ý vào hơi thở và niệm Phật như sau:
- Ngồi thật thoải mái trên ghế hay trên gối thiền và buông xả tất cả các bắp thịt từ đầu xuống mặt, cổ, ngực, bụng, tay và chân. Toàn thân buông xả.
- Sau đó hít hơi vào (bằng mũi, không niệm) và thở ra (bằng mũi) thoải mái và niệm thầm khi thở ra: ‘A Di Đà Phật’. Thở và niệm Phật trong 10 phút với sự chú tâm là thực hành 10 phút thiền chỉ.
Khi thực hành 10 phút như trên với thân thể thư dãn và tâm buông xả là thực hành thiền thư dãn và thấy có kết quả tức khắc ngay sau đó là tâm mình dịu xuống, thân thể thoải mái và khả năng chú ý bắt đầu gia tăng.
Thiền là để thư dãn thân tâm, buông xả mọi thứ ý tưởng và cảm xúc tiêu cực để cảm nhận niềm bình an và hạnh phúc. Thực hành được 5,10,15 hay 20 phút là sống bình an và hạnh phúc trong thời gian đó. Đừng đặt thêm nhiều vấn đề khó khăn cho mình khi thực hành thiền. Sức tới đâu thì làm tới đó. Sau khi thiền một thời gian thì năng lượng an lạc gia tăng và sự thấy biết trong sáng, tỉnh thức, bén nhạy và linh động gia tăng cùng lúc với sự phát triển sức khỏe thể chất.
KHOA HỌC ĐI SÂU VÀO SỰ THỰC HÀNH THIỀN CHÁNH NIỆM PHẬT GIÁO
Chú ý và thấy biết rõ ràng trong đời sống là sống tỉnh thức. Thực hành sống tỉnh thức là thực hành thiền chánh niệm (mindfulness meditation). Về huấn luyện thực hành thiền chánh niệm, tất cả các tông phái Phật giáo đều có hai cách thực hành chính mà chúng ta đã biết là chú ý tập trung hay chỉ và chú ý mở rộng hay quán. Cả hai cách thực hành điều nhắm đến sự duy trì trạng thái thấy biết rõ ràng từ lúc này đến lúc khác trong một thời gian lâu dài. Có chú ý và thấy biết rõ ràng là có thiền chánh niệm (mindfulness meditation), một danh từ được nhiều chương trình hướng dẫn thiền ở Hoa Kỳ sử dụng.[21] Các nhà nghiên cứu như Lutz[22] và Cahn[23] cùng các đồng nghiệp thì chú trọng đến các hoạt động thần kinh làm gia tăng khả năng nhận thức và khả năng điều hành sự chú ý khi thực hành thiền.
Khi ngồi thiền và thực hành chú ý tập trung (hướng đến một thứ) là thiền chỉ, người thực hành tập trung sự chú ý vào một thứ như hơi thở vào và hơi thở ra. Tuy nói tập trung sự chú ý vào một thứ như hơi thở vào và hơi thở ra, nhưng trên thực tế, người thực hành thiền cùng lúc cảm nhận bụng phồng lên và xẹp xuống (thở đan điền) cùng với cảm giác thích thú do sự chú ý vào hơi thở này mang lại dù họ không chủ ý cảm nhận các thứ đó. Mục đích thực hành thiền chỉ là ngưng lại mọi sự suy nghĩ liên miên cũng như dính vào các cảm xúc vui buồn để chú ý vào một thứ trong hiện tại. Quý vị tăng ni Việt Nam theo Tịnh Độ tông thực hành phương pháp thiền chỉ có mức tập trung chú ý cực kỳ mạnh mẽ qua công phu khuya. Vào lúc 4 giờ sáng, quý vị tăng ni, và có lúc cả quý vị Phật tử, tụng Kinh Lăng Nghiêm gồm các bài kinh tụng và rất nhiều bài chú rất dài và rất khó nhớ trên một tiếng đồng hồ mà không nhìn vào quyển kinh. Nếu thêm phần lạy Hồng Danh chư Phật thì trên một tiếng rưởi. Tất cả quý vị thuộc nằm lòng Kinh Lăng Nghiêm và tụng đọc lưu loát và mạnh mẽ theo tiếng mõ nhịp nhanh và mạnh liên tục như tiếng trống xuất quân. Sau phần trì tụng kinh chú và lạy Phật, có chùa cho ngồi thiền thêm 15 hay 20 phút, tổng cộng gần hai tiếng. Như vậy phần tụng kinh vào buổi sáng (được gọi là công phu khuya vì phải thức dậy rất sớm vào lúc trời còn tối) là một cách thực hành thiền chỉ rất đặc biệt và rất có hiệu quả của chư vị tăng ni Tịnh Độ tông. Nếu có phần thực hành thêm thiền quán sau phần tụng kinh 15 đến 20 phút nữa là quý vị thực hành đầy đủ thiền chỉ và thiền quán liên tục hằng ngày, hằng tháng, hằng năm và hằng chục năm cho đến hằng nửa thế kỷ.
Trong các cuộc nghiên cứu về thiền và não bộ, các nhà khoa học thường tuyển chọn các vị tăng ni Tây Tạng vì họ biết chắc các vị này ngồi thiền tối thiểu là mười ngàn giờ. Theo nguyên tắc phát triển não bộ, những người dánh đàn dương cầm trên mười ngàn giờ thì mới được xếp hạng là người có khả năng đánh đàn chuyên môn. Những lực sĩ thế vận hội tập luyện trên mười ngàn giờ mới phát triển đầy đủ khả năng để tham dự tranh tài thế vận hội.
Một cách tổng quát, quý vị tăng ni Việt Nam thuộc Tịnh Độ tông thực hành thiền chỉ qua tụng kinh, trì chú, niệm Phật trung bình 2 giờ mỗi ngày. Mỗi năm trung bình có 600 giờ thực hành thiền chỉ 10 năm là 6.000 giờ và 20 năm là 12.000 giờ. Đó là chưa kể giờ tu tập trong mùa An Cư Kiết Hạ hay trong các nghi lễ đăc biệt là cầu an hay cầu siêu khi các gia đình người Phật tử có nhu cầu. Nếu thêm phần thực hành thiền quán thì đó là sự thực hành tuyệt hảo chỉ và quán theo như các cuộc nghiên cứu khoa học.
Các cuộc nghiên cứu nói trên cho thấy trong các chương trình tu tập, thực hành thiền chỉ một thời gian với sự siêng năng, người thực hành phát triển ba khả năng về điều hành chú ý:
1. Khả năng tập trung sự chú ý và tiếp tục duy trì sự chú ý chính xác vào đối tượng mình đang chú ý vào như hơi thở vào và hơi thở ra hay như khi ngồi niệm Phật, hoàn toàn chú ý vào lời niệm Phật phối hợp với hơi thở, không suy nghĩ đến chuyện khác.
2. Khả năng nhận biết những thứ làm cho mình xao lãng (suy nghĩ hay chạy theo các cảm xúc, hình ảnh hay cảm giác) và trở về tiếp tục chú ý đến đối tượng mình đang hướng sự chú ý đến (hơi thở vào và ra cùng lời niệm Phật).
3. Khả năng chấm dứt sự dính mắc vào những thứ làm cho mình mình xao lãng. Như đang đếm số hay niệm Phật lại suy nghĩ hay chú ý đến tiếng nhạc, lời nói hay hình ảnh xuất hiện.
Lúc mới thực hành chú ý khi ngồi thiền, người thực hành chú ý tập trung (chỉ) tiêu phí nhiều năng lượng vì phải nỗ lực nhiều nên khả năng tiếp tục thực hành chú ý tập trung thường giảm dần, rồi các ý tưởng hay hình ảnh xuất hiện làm mất đi sự chú ý. Người thực hành thiền nhận biết và trở về với sự chú ý nơi hơi thở. Nhiều lúc người thực hành thiền mơ màng (day dream), để tâm chạy lang thang, nghĩ tưởng hết điều này đến điều kia và quên mất thực hành chú ý hay chánh niệm. Điều này có thể tiếp tục xảy ra cho đến lúc hết giờ ngồi thiền. Như vậy, người thực hành thiền tập không có đủ khả năng điều hành sự chú ý nói trên: Không có khả năng tập trung sự chú ý và duy trì sự chú ý lâu dài, không có khả năng nhận biết những thứ làm mình bị xao lãng sự chú ý và không có khả năng chấm dứt sự dính mắc vào các thứ lôi kéo tâm mình đi lang thang. Do đó, trong đạo Phật, Thiền Tông, Tịnh Độ tông và Mật tông khuyến khích cách thực hành ngồi thiền theo dõi hơi thở, niệm Phật hay tụng chú giúp cho người tu tập bớt bị xao lãng và gia tăng sự chú tâm dễ dàng.
Khi thực hành siêng năng một thời gian thì người thực hành thiền sẽ có tiến bộ. Và sự tiến bộ được căn cứ vào sự thực hành ba điều nói trên là khả năng tập trung sự chú ý và tiếp tục duy trì sự chú ý, khả năng nhận biết và khả năng chấm dứt sự dính mắc vào các ý tưởng, hình ảnh hay cảm xúc.
Các cuộc nghiên cứu nói trên cũng cho thấy những người mới thực hành thiền thường có nhiều cố gắng và tiêu phí nhiều năng lượng để thực hành ba điều nói trên và đưa đến sự mệt mõi. Tuy nhiên, những người thực hành thiền lâu hơn thì phát triển khả năng tỉnh thức (mindfulness) và có thể nhận biết lúc nào tâm có sự xao lãng (chạy theo các ý tưởng hay cảm xúc xuất hiện) và tiếp tục thực hành chú ý tập trung vào đối tượng một cách thoải mái. Những người này ít dụng công (cố gắng) hơn, họ không tiêu phí nhiều năng lượng thực hành ba khả năng điều hành chú ý nói trên nên tâm họ ở trong trạng thái trong sáng, vững chãi và thảnh thơi hơn.
Các chuyên viên nghiên cứu thiền nói trên cho thấy những người thực hành thiền chỉ (chú ý tập trung) thành tựu thì khả năng chú ý của họ nhanh chóng trở thành ổn định và kéo dài khi họ hướng sự chú ý đến nơi nào. Khả năng kéo dài sự thực hành chú ý tập trung giúp họ ở yên được trong trạng thái chú ý, tâm họ vững chãi và cảm giác thoải mái gia tăng. Dần dần khả năng chú ý này trở thành tự nhiên và kéo dài hơn. Lúc đó, họ thực hành thiền không cần có chút cố gắng nào và đồng thời ít còn bị những cảm xúc tác động tạo ra những phản ứng tiêu cực nên niềm an vui gia tăng.
Điều chúng ta cần nhớ là thực hành sự chú ý tập trung (thiền chỉ) giới hạn sự thấy biết của chúng ta, vì chỉ chú ý tập trung đến một thứ (như hơi thở và bụng phồng xẹp theo hơi thở) nên không thấy biết được những thứ khác đang xảy ra. Chú ý tập trung có tính cách loại trừ những thứ mình không chú ý đến. Ví dụ, khi ngồi thiền thực hành chú ý tập trung, chúng ta chỉ thấy một vùng rất nhỏ, những cảm giác khác xuất hiện có thể chúng ta không nhận biết chúng. Người theo tông phái Tịnh Độ thực hành thiền chỉ hay chú ý tập trung qua niệm danh hiệu A Di Đà Phật và lần chuỗi bồ đề, Thiền Tông như Tào Động qua sự hoàn toàn chú tâm vào hơi thở vào và hơi thở ra, Lâm Tế qua khán công án hay Mật tông qua cách chú tâm vào hơi thở, trì chú và quán tưởng hình ảnh chi tiết các vị Phật hay Bồ-tát.
Như thế, những người thực hành thiền chỉ thuộc ba tông phái nói trên tập trung chú ý vào hơi thở, lời niệm Phật phối hợp lần xâu chuổi hay trì chú và quán tưởng thấy hình ảnh chi tiết các vị Phật hay Bồ-tát (quán tưởng ở đây là tưởng tượng thấy) và loại trừ tất cả những thứ khác. Thực hành như vậy giúp gia tăng khả năng chú ý thêm mạnh mẽ cùng sức mạnh của sự tập trung tinh thần.
Thực hành thiền chỉ giúp ngăn chặn các ý tưởng, các hình ảnh, các cảm xúc khởi lên làm cho tâm suy nghĩ liên miên hay bị quấy nhiễu vì các cảm xúc lo lắng hay buồn rầu. Tuy nhiên, nếu thực hành thiền chỉ lâu thì dễ bị mệt mỏi. Ngoài ra, mục đích của sự tu tập không phải là ngăn chặn những thứ nói trên xuất hiện qua sự thực hành chú ý tập trung mà chính là phát triển khả năng thấy biết rõ ràng mọi thứ xuất hiện một cách chân thật hay như thị (như trạng thái tự nhiên của chúng) để gia tăng khả năng thấy biết chân thật tất cả mọi hiện tượng. Đó là khả năng tuệ tri trong khi thực hành thiền quán. Nếu chúng ta thực hành thiền chỉ không mà thôi thì tâm trở nên hạn hẹp vì muốn loại trừ tất cả mọi thứ thấy biết khác làm cho mình bất an. Khả năng chú ý tập trung của người thực hành có thể gia tăng nhưng đồng thời tâm họ trở nên hạn hẹp, cứng rắn, một chiều và nhiều khi thành quá khích. Mục đích của sự tu tập Phật giáo là phát triển trí tuệ, khả năng thấy biết rõ ràng, chân thật với tâm tỉnh thức, linh động và bén nhạy qua ‘tuệ tri’. Do đó, bên cạnh thiền chỉ (chú ý tập trung) còn có thiền quán, thực hành chú ý mở rộng để thấy biết bên trong mình cùng lúc bên ngoài một cách rõ ràng, linh động, vững chãi và lâu dài. Như vậy, mục đích của thiền quán là phát triển khả năng nhận biết rõ ràng, chân thật mọi thứ và chuyển hóa cảm xúc tiêu cực như lo lắng, buồn rầu thành cảm xúc tích cực như vui tươi, hạnh phúc.
NHỮNG LỢI ÍCH CỦA THỰC HÀNH THIỀN
Trong thời gian qua, chính phủ Hoa Kỳ và nhiều cơ quan nghiên cứu tư nhân đã chi tiêu hàng trăm triệu mỹ kim vào việc nghiên cứu thiền vì những lợi ích thiền mang lại cho người thực hành. Cách đây trên hai ngàn năm trăm năm, đức Phật dạy phương pháp thực hành chú ý và nhận biết hơi thở vào và hơi thở ra cùng lúc cảm nhận hạnh phúc trong trạng thái thân tâm thư dãn. Đức Phật nói rất rõ về lợi ích của sự thực hành chánh niệm làm cho hạnh phúc, sức khỏe và thành công gia tăng trong đời sống hàng ngày[24]. Ngày nay, các nhà tâm lý học, thần kinh học và các bác sĩ y khoa nghiên cứu rất sâu xa về những lợi ích mà thiền mang lại cho người thực hành.
1. Thiền giúp gia tăng khả năng điều hành công việc
Giáo sư Jha, Krompinger và Baime[25] thuộc viện đại học University of Pennsylvania, ở bang Pennsylvania nghiên cứu thiền giúp gia tăng trí nhớ và thấy mỗi ngày chỉ cần thực hành thiền trong 30 phút giúp cho khả năng chú ý và tập trung gia tăng. Nhà thần kinh học Jha nhấn mạnh thiền tuy thấy nhẹ nhàng nhưng thiền làm cho bộ não thay đổi cách hoạt động qua việc làm tốt hơn ba thành phần của sự chú ý: Khả năng đặt thứ tự ưu tiên và điều hành công việc cũng như mục đích công việc, khả năng quyết định hướng sự chú ý vào thứ nào mình muốn và khả năng tỉnh táo hay có sự cảnh giác với hoàn cảnh chung quanh.
2. Thiền giúp gia tăng thành công và sức khỏe
Những cuộc nghiên cứu khoa học về thiền nói trên cho thấy người thực hành thiền dù chỉ trong một thời gian ngắn, họ phát triển được nhiều khả năng cần thiết giúp thành công nhiều hơn trong công việc làm hay học hành. Các cuộc nghiên cứu khoa học khác cho thấy học sinh trung học thực hành thiền buông thư gia tăng sự tự quý trọng đáng kể.[26] Các học sinh trong thành phố gia tăng điểm số, sự hợp tác với nhau và giảm bớt vắng mặt.[27] Các học sinh trung học phát triển các cá tánh tốt khi tham dự thiền buông thư. Và Thiền giúp cho người đang làm việc và sinh viên phát triển khả năng nghề nghiệp và học giỏi hơn.
Ngoài ra, thực hành thiền giúp gia tăng sức khỏe rất tốt đẹp. Các cuộc khảo cứu y khoa cho thấy thực hành thiền buông thư là uống vào viên thần dược làm cho hết đau nhức, ngăn ngừa chứng viêm do căng thẳng gây ra và làm cho hệ miễn nhiễm hoạt động tốt đẹp hơn, từ đó cơ thể chúng ta có khả năng tự chữa trị nhiều bệnh tật như cao huyết áp, các chứng đau nhức, loét bao tử hay nhiều thứ bệnh khác.
Tờ Science Daily ngày 3 tháng năm 2008 khi tường thuật cuộc nghiên cứu đặc biệt về kết quả thiền buông thư đã đặt câu hỏi: “Làm thế nào mà một sự thực hành một thứ thôi, không cần thuốc men mà có thể giúp cho bệnh nhân chữa trị bệnh cao huyết áp, giảm các chứng đau, bệnh hiếm muộn, bệnh phong thấp? Câu hỏi này đã được trả lời trong cuộc nghiên cứu thực hành thiền buông thư - một trạng thái cơ thể nghỉ ngơi thật sâu – làm ảnh hưởng đến các hoạt động của gen trong cơ thể theo chiều hướng tốt đẹp (ngược lại với sự biểu lộ gen khi bị căng thẳng làm phát sinh bệnh tật)”.
Như vậy, khi bắt đầu thực tập thở và niệm Phật để tạo ra trạng thái buông thư, quý vị đã bắt tay vào việc chế tạo viên thần dược cho chính mình dùng sáng, trưa, chiều và tối mà không tốn một xu và không bao giờ bị phản ứng phụ khi dùng viên thần dược này.
3. Thiền làm gia tăng chất xám trong bộ não
Thực hành thiền chánh niệm trong 8 tuần lễ, mỗi ngày 27 phút làm thay đổi bộ não tốt hơn. Trong cuộc nghiên cứu của các chuyên gia thần kinh tại bệnh viện Massachusetts General Hospital, cho thấy thực hành thiền làm cho bộ não thay đổi tốt hơn và làm cho phẩm chất đời sống những người thực hành thiền tốt đẹp hơn. Nói khác đi, thiền giúp làm chậm lại tuổi già.
Các chuyên gia nghiên cứu thần kinh Britta và các đồng nghiệp nhận[28] thấy những người tham dự cuộc nghiên cứu thực hành thiền 27 phút mỗi ngày và kết quả là chất xám nơi các phần não thuộc vùng hồi hải mã (hippocampus) vốn rất quan trọng cho sự học hành và trí nhớ, thùy đáo (insula) vùng liên hệ đến sự nhận biết mình, lòng từ bi và nội quán (hướng sự quán sát vào nội tâm) dày lên. Ngoài ra, họ cũng giảm bớt bị căng thẳng, và chất xám trong não thuộc vùng hai hạch hạnh nhân (khi hoạt động nhiều làm tăng cảm xúc tiêu cực như lo âu và trầm cảm) cũng bị mỏng lại. Như vậy, cuộc nghiên cứu này cho thấy thiền thực sự làm cho não thay đổi tốt hơn qua sự gia tăng chất xám trong bộ não, làm cho bộ não ‘trẻ lại’, hoạt động hữu hiệu hơn nên làm cho phẩm chất đời sống người thực hành thiền tốt hơn.
4. Thiền làm ốcxít nitric xuất hiện
Ngoài ra, khi thực hành thiền buông thư thì một chất hóa học đặc biệt xuất hiện trong cơ thể, đó là chất ốcxít nitric (nitric oxide ký hiệu là NO). Bác sĩ Fricchione và các bác sĩ đồng nghiệp[29] nhấn mạnh đến tính cách tích cực, tốt đẹp và kỳ diệu mà chất ốcxít nitric tạo ra: Điều quan trọng nhất của chất này là những hoạt động của nó trong bộ não và trong thân người. Chất này là một phân tử nhỏ nên không bị giới hạn bởi các định luật chi phối các phản ứng sinh hóa trong cơ thể con người. Đây là những đám hơi li ti chạy khắp cơ thể và trong hệ thần kinh trung ương hay bộ não, và nơi khớp giữa hai đầu mút sợi nhánh của tế bào thần kinh, những tín hiệu hay tin tức truyền đi có thể được chuyển qua chuyển lại nhiều lần trong những đám hơi li ti đó nên gia tăng phần tích cực. Chất ốcxít nitric xuất hiện khi chúng ta thực hành thư dãn. Nhiều bác sĩ đã thực hiện các cuộc nghiên cứu về những lợi ích của ốcxít nitric trong một phạm vi rộng lớn liên quan đến sức khỏe của chúng ta mà chúng ta có thể tóm lại như sau: Làm gia tăng trí nhớ và học hỏi, làm gia tăng sự sản xuất các chất thần kinh dẫn truyền đưa đến cảm giác mạnh khỏe và an lạc nơi chúng ta., điều hòa máu huyết chạy đến mọi nơi trong cơ thể, chữa trị chứng não bộ thiếu dưỡng khí do hậu quả của tai biến não, làm cho các mạch máu dãn lớn ra để máu chạy nhiều hơn về tim, chống lại sự nhiễm trùng, giải trừ chứng bất lực, gia tăng khả năng của hệ thống miễn nhiễm, đưa đến sự thư dãn và tạo duyên cho sự chữa lành bệnh tật qua sự cầu nguyện.
Như vậy, thiền có khả năng làm phát sinh rất nhiều thứ tốt đẹp cho người thực hành như gia tăng hạnh phúc, sức khỏe và thành công. Do đó, chúng ta nên dành 20 phút để thực hành thiền.
Phần thực hành. Thực hành thiền chỉ 10 phút và thiền quán 10 phút qua thở đan điền. Bạn có thể thêm thiền quán tưởng để cảm nhận từng phần thần thể sau đó tập 7 thế Khí Công Thiếu Lâm.
Phần 1. Thực hành thiền chỉ.
Giờ đây, bạn đã quen cách thở đan điền hay thở bụng. Tùy theo căn cơ, bạn có thể chọn một trong hai cách:
- Thở đan điền khi thực hành thiền đếm số lúc thở ra (sổ tức quán):
1. Ngồi trên ghế hay gối thiền, lưng thẳng tự nhiên và buông xả các bắp thịt.
2. Hít vào và thở ra ba hơi thật thoải mái. Cảm nhận vùng nơi dưới mũi và giữa môi trên (nơi vùng không khí vào và ra).
Khi thiền bạn để tâm ở cửa mũi và cảm nhận nhẹ nhàng hơi thở vào ra.
3. Chú ý vào hơi thở vào, hơi thở ra. Hít vào, đồng thời biết một cách nhẹ nhàng vùng không khí vào. Thở ra, đồng thời biết một cách nhẹ nhàng vùng không khí ra, đếm 1. Tiếp đó, hít vào rồi thở ra và đếm 2 cho đến 10 thì bắt đầu đếm 1 lại. Khi nào quên chú ý hay quên đếm số chỉ cần nói thầm ‘quên, quên’ rồi trở lại thực hành như trước.
- Các bạn theo Tịnh độ thở đan điền khi thực hành thiền niệm Phật:
1. Ngồi trên ghế hay gối thiền, lưng thẳng tự nhiên và buông xả các bắp thịt.
2. Hít vào và thở ra ba hơi thật thoải mái. Cảm nhận vùng nơi dưới mũi và giữa môi trên (nơi vùng không khí vào và ra).
3. Chú ý vào hơi thở vào, hơi thở ra. Hít vào, đồng thởi cảm nhận nơi vùng không khí vào và ra. Thở ra, đồng thởi cảm nhận nơi vùng không khí vào và ra niệm thầm ‘A Di Đà Phật’ với âm thanh êm dịu trong tâm.
4. Khi nào quên niệm Phật, nói thầm ‘quên, quên’ rồi trở lại thực hành như trước.
5. Nếu bạn lần chuỗi Bồ Đề, sau mỗi lần niệm ‘A Di Đà Phật’ thì dùng ngón tay cái kéo vào phía trong một hạt. Có thể phát tâm thực hành lần chuỗi 5 hay 10 xâu chuỗi mỗi lần thiền.
Phần 2. Thực hành thiền quán (chú ý mở rộng).
Sau 10 phút, xin bạn ngưng đếm số hay niệm Phật, mở rộng sự chú ý ra toàn thân và chung quanh một cách nhẹ nhàng bằng cách gia tăng mức độ chú ý vào thấy, nghe và cảm nhận cảm giác nơi thân thể, thấy biết các thứ chung quanh một cách tổng quát mà không chú ý vào một thứ gì cả. Cái gì xuất hiện (như tiếng động) thì nhận biết rồi trở về với cái thấy biết toàn diện không dính mắc hay phê phán như trước. Thở vào và thở ra tự nhiên đồng thởi cảm nhận nơi vùng không khí vào và ra Xin thực hành 10 phút rồi xả thiền.
Phần 3.Thiền quán tưởng để cảm nhận từng phần thần thể.
Riêng những vị nào chọn nằm thiền, xin thực hành thiền quán tưởng (tưởng tượng thấy và cảm nhận) từng phần thân thể để gia tăng sức khỏe. Loại thiền này có thể ngồi hay nằm nghe và thực hành theo lời hướng dẫn trong CD kèm theo sách. Các bạn thực hành Phần 1 và Phần 2 nói trên cũng có thể thực hành thêm phần 3.
Phần 4. Tập 7 thế Khí Công Thiếu Lâm theo DVD kèm theo sách.
***
[1]. Benson, H. (1996). Timelss Healing, New York: Scribner, tr. 163-166.
Benson, H. ((1982). Body temperature change during the practice of g-tummo yoga. Nature 298: 402.
[2]. Benson, H. (1984). Beyond the Relaxation Response. New York: Times Books.
[3]. Kinh Tạp A Hàm, Đồng Pháp, kinh số 464, TT. Thích Đức Thắng dịch.
[4]. Goleman, D. (1995). Emotional Intelligence: Why It can Matter More Than IQ. New York: Bantam Books, tr. 13, 14.
[5]. Jha AP, Krompinger J, Baime MJ. (2007). Mindfulness training modifies subsystems of attention. Cogn Affect Behav Neurosci. Jun;7(2):109-19.
[6]. A. Lutz, H. A. Slagter, N. B. Rawlings, A. D. Francis, L. L. Greischar, And R. J. Davidson. Mental Training Enhances Attentional Stability: Neural and Behavioral Evi.
[7]. Marlatt, G. A., & Kristeller, J. L. (1999). Mindfulness and meditation. In W. R. Miller (Ed.), Integrating spirituality into treatment: Resources for practitioners (pp. 67-84). Washington, DC: American Psychological Association.
[8]. Kabat-Zinn, J. (1994). Mindfulness meditation for everyday life. New York: Hyperion.
[9]. Phelan, Michael (1979). “Transcendental Meditation. A Revitalization of the American Civil Religion”. Archives des sciences sociales des religions 48 (48-1): 5–20.
[10]. Religious meaning of the mantra. http:// www.behind-the-tm-facade.org/transcendental_meditation-religion.htm.
[11]. Valentine, E. R., & Sweet, P. L. G. (1999). Meditation and attention: A comparison of the effects of concentrative and mindfulness meditation on sustained attention. Mental Health, Religion, & Culture, 2, 59-70.
[12]. Wallace, B. A. (1999). The Buddhist tradition of Samatha: Methods for refining and examining consciousness. Journal of Consciousness Studies, 6, 175-187.
[13]. Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Thiền sư Nhất Hạnh dịch.
[14]. Tỳ Kheo Khánh Hỷ dịch. Xin xem thêm nơi http://www.buddhanet.net
[15]. trungtamhotong.org/NoiDung/ThuVien/TuNiemXu/index.htm.
[16]. trungtamhotong.org/NoiDung/ThuVien/TuNiemXu/index.htm.
[17]. Smallwood, J., & Schooler, J. W. (2006). The restless mind. Psychological Bulletin, 132, 946-958.
[18]. Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Thiền sư Nhất Hạnh dịch.
[19]. Lutz, A., Dunne, J. P., & Davidson, R. J. (in press). Meditation and the neuroscience of consciousness: An introduction. In P. D. Zelazo, M. Moscovitch, & E. Thompson (Eds.), Cambridge handbook of consciousness. New York: Cambridge University Press.
[20]. Kinh Quán Niệm Hơi Thở, thiền sư Nhất Hạnh dịch.
[21]. Bishop, S.R. et al. (2004) Mindfulness: a proposed operational definition. Clin. Psychol. Sci. Pract. 11, 230–241.
Kabat-Zinn, J. et al. (1985) The clinical use of mindfulness meditation for the self-regulation of chronic pain. J. Behav. Med. 8, 163–190.
[22]. Lutz, A. et al. (2006) Meditation and the neuroscience of consciousness: an introduction. In The Cambridge Handbook of Consciousness (Zelazo, P.D. and Thompson, E., eds), Cambridge University Press.
[23]. Cahn, B.R. and Polich, J. (2006) Meditation states and traits: EEG, ERP, and neuroimaging studies. Psychol. Bull. 132, 180–211.
[24]. Xin xem thêm chi tiết trong Phật Giáo Và Trị Liệu Trong Thế Kỷ 21, Phụng Sơn.
[25]. Amishi P. Jha, Jason Krompinger, and Michael J. Baime (2007). Mindfulness training modifies subsystems of attention. Cognitive, Affective, & Behavioral Neuroscience, 7 (2), 109-119.
[26]. The Journal of Research and Development in Education (1994). Volume 27, pages 226- 231.
[27]. Journal of Research and Development in Education (2000). Volume 33, pages 156-165.
[28]. Britta K. Hưlzel, James Carmody, Mark Vangel, Christina Congleton, Sita M. Yerramsetti, Tim Gard, Sara W. Lazar. Mindfulness practice leads to increases in regional brain gray matter density. Psychiatry Research: Neuroimaging, 2011; 191 (1): 36.
[29]. Esch T, Stefano GB, Fricchione GL, Benson H. (2002). Stress-related diseases-a potential role for nitric oxide. Med Sci Monit, 8:RA 103-118.