Tuần lễ 3: Phương pháp huấn luyện não bộ thay đổi tốt hơn - Chương 1: Tu tập làm cho bộ não thay đổi tốt hơn
CHƯƠNG 1:
TU TẬP
LÀM CHO BỘ NÃO THAY ĐỔI TỐT HƠN
Tu tập là thực hành chánh niệm. Thực hành chánh niệm là chú ý và thấy biết rõ ràng. Sự chú ý và thấy biết làm cho bộ não thay đổi được hai tác giả nổi tiếng là bà Sharon Begley và nhà thần kinh học Norman Doidge trình bày rất tường tận.
Bà Sharon Begley, người viết bài hàng tuần về mục tâm lý và thần kinh học cho tờ báo chuyên môn thương mại hàng đầu tại Hoa Kỳ, The Wall Street Journal, trong cuốn sách nổi tiếng “Huấn Luyện Tâm Của Bạn, Thay Đổi Bộ Não Của Bạn”,[1] kể chuyện ngài Đạt Lai Lạt Ma khi thăm viếng một trường đại học và quan sát một cuộc giải phẫu não mười mấy năm trước đây đã hỏi các bác sĩ giải phẫu não: Tâm có thể làm thay đổi bộ não không? Một bác sĩ không ngần ngại trả lời ngay: Các trạng thái của tâm, như vui hay buồn, chỉ là sự phản ánh của các chuyển động thay đổi của các chất hóa học hay các luồng điện trong các tế bào thần kinh. Ví dụ khi một chất hóa học truyền tin tức, là chất thần thần kinh dẫn truyền, trong bộ não được tiết ra thì chúng ta cảm thấy vui sướng, khi một luồng điện não chuyển đến vùng thần kinh thị giác thì chúng ta thấy màu sắc, hình dáng và chuyển động.
Các nhà thần kinh học chỉ nói đến khía cạnh vật chất là bộ não, trong khi đó đạo Phật nhấn mạnh tính cách chủ động của tâm. Chúng ta hãy đọc một đoạn trong kinh Pháp Cú về những lời hướng dẫn ngắn gọn của đức Phật:
“Tâm dẫn đầu mọi pháp
Tâm chủ, tâm tạo tác
Nếu nói hay hành động
Với tâm tư ô nhiễm
Khổ não sẽ theo ta
Như xe theo vật kéo.
Tâm dẫn đầu mọi pháp
Tâm chủ, tâm tạo tác
Nếu nói hay hành động
Với tâm tư thanh tịnh
Hạnh phúc sẽ theo ta
Như bóng không rời hình…”.[2]
Nói như trên là tâm tác dụng, ảnh hưởng, làm thay đổi bộ não hay nói theo danh từ chuyên môn đó là “tác động từ trên xuống”, từ tâm xuống não. Các nhà thần kinh học cho rằng không thể có điều đó được. Chỉ có “tác động từ dưới lên” là từ bộ não đến tâm. Do đó, nếu chúng ta nói theo cách của họ, không thể nói “Tâm dẫn đầu mọi pháp, Tâm chủ tâm tạo tác…” mà phải nói “Não dẫn đầu mọi pháp, Não chủ, não tạo tác…”.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma đã tham dự nhiều cuộc hội thảo về bộ não và nghiên cứu rất tường tận về vấn đề này, ngài cũng biết sự quan trọng lớn lao của bộ não đối với nhận thức, cảm xúc, động viên con người hoạt động nhưng ngài vẫn nghĩ tâm và nhất là tâm vi tế hay chân tâm có thể ảnh hưởng đến bộ não, hay nói khác đi, làm thay đổi những hoạt động trong bộ não. Nhiều nhà thần kinh học trong hơn hai thập niên qua đã nghiên cứu tính cách mềm dẽo dễ thay đổi của bộ não (brain plasticity hay neuroplasticity) và đã hợp tác với ngài Đạt Lai Lạt Ma trong việc tìm hiểu ảnh hưởng của sự huấn luyện tâm làm gia tăng hạnh phúc con người qua tâm làm cho bộ não thay đổi tốt đẹp hơn.
TÂM LÀM THAY ĐỔI HOẠT ĐỘNG NÃO
Thực hành thiền là thực hành sự chú ý và nhận biết hơi thở, các động tác thân thể hay những gì chúng ta đang làm. Sự chú ý đó sẽ giúp cho phần tương ứng trong bộ não của chúng ta phát triển và khả năng thực hành những công việc đó sẽ gia tăng kết quả.
Bà Sharon Begley,[3] trình bày các chứng minh khoa học về huấn luyện tâm làm thay đổi bộ não nhắc nhở năm giác quan chúng ta đối diện hàng ngàn thứ tin tức trong mỗi tích tắc. Tuy nhiên, chỉ có một số ít hiện lên trên vùng ý thức như các diễn viên xuất hiện trên sân khấu. Điều gì chúng ta thấy biết, như một cánh hoa anh đào rơi trong nắng sớm, tiếng gió nhẹ lướt qua, cảm giác mát mẻ nơi mặt, một xúc cảm bâng khuâng thoáng hiện, một niềm vui hay nỗi buồn trong lòng là do sự chú ý làm cho những hình ảnh, âm thanh, cảm giác, cảm xúc đó hiện trên sân khấu ý thức. Những gì chúng ta thấy biết là hậu quả của sự chú ý dù chúng ta không biết mình đang có sự chú ý.
Chú ý gồm hai loại, thứ nhất là chú ý do mình muốn, như tâm mình hướng đến thứ mình muốn nghe thấy, là chú ý do mình chủ động như trường hợp người mẹ chú ý nhìn canh chừng em bé đang bước đi chập chững. Chú ý loại thư hai không do mình muốn mà mình bị lôi kéo vào, như khi người mẹ nghe con khóc là chú ý đến con liền dù đang chú tâm vào việc nấu ăn, hay cơn đau bụng nổi lên làm cho mình chú ý. Như vậy, loại một là chú ý từ tâm xuống não và loại hai là từ não lên tâm. Chú ý làm cho thấy biết và những thứ thấy biết này được ghi lại thành những ký ức trong các vùng khác nhau nơi bộ não mà đạo Phật gọi đó là những hạt giống hay chủng tử. Những hạt giống này nếu được tưới tẩm thì sẽ lớn mạnh hơn và xuất hiện dễ dàng hơn trên sân khấu ý thức.
Chúng ta có thể lấy ví dụ một người, không phải là ca sĩ, thích hát các bài tình ca và làm cho các cảm xúc bâng khuâng, thương nhớ, mộng mơ xuất hiện nhiều lần trong ngày thì đó là sự tưới tẩm làm cho đời sống tình cảm lãng mạn gia tăng. Nếu anh say mê những rung cảm và dành quá nhiều thì giờ nghe nhạc buồn để có những cảm giác buồn êm dịu làm cho anh thích thú thì có thể làm cho công việc học hành bê trễ hay tương giao với những ngươi chung quanh không được đúng mức.
Có những thanh niên ưa nghe nhạc kích động căm thù hay bạo động và chú ý nghe đi nghe lại loại nhạc này thì có thề có cái nhìn kém vui và lệch lạc về đời sống. Đó là hậu quả khu vực về cảm xúc tiêu cực nơi bộ não của họ mạnh dần lên và ảnh hưởng đến các khu vực khác như nhận thức, trí nhớ, quyết định, ngôn ngữ, tánh khí và suy luận. Nhiều cuộc bắn giết bừa bãi tại nhiều nước là hậu quả của điều này.
Tác giả Sharon Begley[4] nhắc lại lời giải thích của các nhà thần kinh học nói rõ về hiện tượng làm cho thói quen xuất hiện: Các tế bào thần kinh lúc nào cũng cạnh tranh với nhau ráo riết để làm cho những tin tức của chúng xuất hiện trên sân khấu ý thức. Xin tưởng tượng bạn đang đứng trên một bờ biển dày đặc những người nằm phơi nắng không có một khoảng trống. Bạn đưa mắt tìm kiếm các người thân đã hẹn tới nơi đây. Mắt bạn chú ý vào hình các người bận áo thun xanh, những người cầm những trái banh trắng, những người ngồi dưới những vải dù màu vàng hay có sọc đỏ, tóm lại, bộ não bạn đang thực hiện công việc ‘tìm các người thân của mình’. Những tin tức trong tế bào thần kinh liên quan đến hình ảnh của những người thân này gia tăng cường độ làm giảm đi sức mạnh của các tin tức khác trong tế bào thần kinh không có nhiệm vụ ‘tìm các người thân của mình’ này. Nói khác đi, lúc đó chúng ta chú tâm vào một việc thôi nên không thấy nghe các thứ khác nếu không liên hệ đến cuộc tìm ra các người thân này. Và nếu cứ chú tâm vào một thứ lâu dài thì những hoạt động trong bộ não liên hệ đến sự chú tâm gia tăng.
Các tế bào thần kinh cảm giác có nhiều thứ thuộc về tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, chúng lại không dính dáng với nhau, như tế bào thần kinh mắt chỉ thấy mà không nghe, tế bào thần kinh lưỡi thì chỉ biết chua ngọt mà không biết âm thanh cao hay thấp. Như khi một người nhìn khuôn mặt một người khác thì tế bào thần kinh chuyên biệt về nhận biết và phân tích khuôn mặt hoạt động. Chú tâm vào màu sắc làm cho tế bào thần kinh xử lý màu sắc khởi động. Điều này cũng xảy ra nơi loài khỉ. Điều chúng ta cần nhớ nơi đây là các hình ảnh, âm thanh hay mùi vị này luôn luôn đến với các giác quan chúng ta không bao giờ thay đổi. Điều thay đổi là sự chú ý của chúng ta: Nếu có chú ý thì các hình ảnh, âm thanh hay mùi vị đó được nhận biết, xuất hiện rõ ràng trên sân khấu ý thức mà đạo Phật gọi là hiện hành, nếu không có chú ý thì mặc dầu chúng ta đối diện với các thứ này nhưng mình không thấy hay không nghe vì chúng không xuất hiện trên sân khấu ý thức, hay nói theo đạo Phật là không hiện hành. Nếu hành vi được lập đi lập lại nhiều lần thì trở thành thói quen và vùng não liên hệ đến hành vi trở nên dày hơn.
THỰC HÀNH CHÚ Ý LÀM THAY ĐỔI BỘ NÃO
Vào năm 1993, giáo sư thần kinh học Mike Merzenick[5] nổi danh qua cuộc nghiên cứu chứng tỏ sự liên hệ giữa sự chú ý và sự phát triển của các khu vực liên hệ trong bộ não một cách tài tình với sự tham dự của các con khỉ. Ông ta cho đeo vào bàn tay các con khỉ một bộ phận như chiếc găng tay với những núm kết với dòng điện. Khi điện chạy vào các núm này thì làm phát sinh những cái nhịp nhẹ liên tục vào các ngón tay của những con khỉ 100 phút mỗi ngày và suốt trong sáu tuần lễ. Trong khi những cái nhịp nhẹ vào các ngón tay các con khỉ xảy ra liên tục thì những con khỉ này lại nghe những âm thanh phát ra nơi ống nghe chúng đeo vào hai bên tai.
Những con khỉ này chia làm hai nhóm: Một nhóm được huấn luyện nhận biết cảm giác nơi các ngón tay (những cái nhịp nhẹ) và nhóm kia nghe những âm thanh từ ống nghe đeo hai bên tai. Những cái nhịp nhẹ vào các ngón tay này được làm cho xuất hiện liên tục và đều đặn. Tuy nhiên khi có sự thay đổi tiết nhịp (như mau hơn hay chậm hơn) thì con khỉ phải báo động cho người nghiên cứu biết, nếu làm đúng như thế thì con khỉ được thưởng bằng cách cho uống thứ nước ngon chúng ưa thích. Nếu không báo động khi có sự thay đổi tiết nhịp chạm nơi ngón tay, tức là không chú ý cảm nhận cảm giác của những cái nhịp nhẹ vào ngón tay, thì chúng không được thưởng. Các con khỉ khác thì được huấn luyện ngược lại: Đừng chú ý vào cảm giác nơi những cái nhịp chạm vào nơi các ngón tay mà phải chú ý nghe âm thanh. Âm thanh phát ra đều đặn, nếu có sự thay đổi nơi luồng âm thanh thì con khỉ phải báo động, và chúng được thưởng khi làm đúng để khích lệ chúng thực hành tốt đẹp lâu dài. Hai nhóm khỉ này đều được đeo ống nghe và mang găng tay có bộ phận phát ra những nhịp gõ nhẹ vào các ngón tay như nhau.
Hình Não Vận Động (primary motor cortex), vị trí vùng vỏ não điều khiển các cơ quan liên hệ trong thân thể. Bộ phận nào có nhiều hoạt động thì chiếm phần vỏ não nhiều hơn. Chúng ta thấy nơi bản đồ của vùng vỏ não vận động này có những bộ phận như bàn tay, mặt, lưỡi, chiếm nhiều chỗ hơn cánh tay hay chân là vì những bộ phận này có những hoạt động tinh vi hơn.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy, về mặt tiếp nhận cảm giác nơi ngón tay và nghe âm thanh, không có sự khác nhau giữa hai nhóm khỉ, chỉ có sự khác biệt là một bên chú ý vào cảm giác nơi bàn tay và một bên chú ý vào âm thanh chúng nghe. Theo nguyên tắc thì khi vùng nơi da ngón tay có những sự khích động bất thường và nhiều thì vùng vỏ não vận động tương ứng trong bộ não lớn ra. Tuy nhiên, với những con khỉ được huấn luyện chú tâm vào âm thanh mà không quan tâm vào cảm giác nơi da ngón tay nhận nhịp nhẹ liên tục và có thực hành sự chú ý, vùng vỏ não vận động tương ứng nói trên trong bộ não không lớn ra dù da chúng bị khích động liên tục. Từ đó các nhà nghiên cứu thần kinh học kết luận: Chính sự chú ý đóng vai trò rất quan trọng trong việc làm bộ não thay đổi.
Như thế, ngược lại với lý thuyết phát triển tế bào thần kinh trước đây chưa quan tâm nhiều đến yếu tố chú ý, nơi những con khỉ chú ý vào âm thanh thì mặc dù da ngón tay của chúng bị khích động liên tục (nhưng khi chúng không chú ý để cảm nhận) thì phần vỏ não vận động tương ứng trong bộ não của chúng không lớn ra trong khi phần tương ứng về âm thanh lớn ra. Các con khỉ chú ý vào cảm giác nơi ngón tay qua những nhịp nhẹ vào các ngón tay, mặc dù chúng có đeo ống nghe phát ra âm thanh liên tục nhưng không chú ý nghe, thì phần vỏ não liên hệ đến vận động các ngón tay này lớn ra từ hai cho đến ba lần trong khi vỏ não liên hệ âm thanh không thay đổi.
Đó là tính cách mềm dẽo của bộ não có thể thay đổi được qua sự tập luyện có chú ý.
Trong các cuộc nghiên cứu sau này về tính cách mềm dẽo có thể làm cho thay đổi của bộ não, các chuyên gia thần kinh học nói rõ sự thay đổi nói trên cũng xảy ra nơi bộ não con người.[6] Khi chúng ta thực hành sự chú ý và thấy biết thì điều này sẽ tác động vào bộ não và làm cho bộ não thay đổi. Do đó, chúng ta thấy rõ sự huấn luyện trong Phật giáo gọi là sự tu tập, chú ý là bước đầu tiên và cũng là bước cuối cùng: Một chú tiểu vừa vào chùa để được huấn luyện hay một vị Hoà thượng lớn tuổi đều thực hành một thứ giống nhau: Chú ý vào thân thể khi cử động, vào cảm giác, vào lời nói, vào ý nghĩ, vào cảm xúc và vào mọi thứ sinh hoạt trong đời sống tu tập hàng ngày. Chú ý và thấy biết rõ ràng là chánh niệm. Thực hành chánh niệm là có hanh phúc như đức Phật đã nói đến một cách cụ thể trong kinh Niệm Xứ thuộc Kinh Trung Bộ như sau:
“Này quý thầy, Như Lai thường thực hành phương pháp quán niệm hơi thở hầu hết trong mọi thì giờ. Nhờ sống thực hành phương pháp này mà thân thể và đôi mắt của Như Lai không hề mệt nhọc, nhờ kết quả ấy mà tâm ta được an vui kỳ diệu”.
Tùy theo khả năng thực hành chánh niệm hàng ngày và mức độ thành công của mỗi chúng ta biểu lộ qua niềm an vui, sự thoải mái, sự thấy biết chân thật và lòng từ bi trong đời sống hàng ngày.
CÁC CƠ HỘI THỰC HÀNH CHÁNH NIỆM
Chánh niệm là chú ý và thấy biết. Chú ý có hai loại. Loại thứ nhất là tự động xảy ra khi giác quan tiếp xúc với các đối tượng bên ngoài như khi mắt thấy một màu sắc chói hay một hình ảnh đẹp hoặc khi tai nghe một tiếng nổ lớn thì sự chú ý lập tức xuất hiện vì các giác quan của chúng ta bị lôi kéo ngay tức thời. Nếu một giác quan bị thu hút nhiều thì các hoạt động của các giác quan khác bị ngưng lại như khi nghe một bản nhạc hay chúng ta có thể quên đi cảm giác đang bị đau hay không thấy có người bước vào phòng. Điều này hiện nay thường xảy ra ở mọi nơi mọi chốn: Vừa ăn vừa xem truyền hình, nghe ca nhạc hay suy nghĩ miên man nên không biết mình đang ăn gì, không biết mùi vị thức ăn và cả không biết đã ăn no.
Sự thấy biết của chúng ta liên hệ đến các giác quan bên ngoài như tai, mắt, mũi, lưỡi và thân mà đạo Phật gọi là các căn thô và những phần liên hệ trong bộ não mà đạo Phật gọi là các căn vi tế.
Mỏ trước bó khuy (nơi vùng như hình mỏ con chim) có hoạt động chuyên về chú ý.
Bộ não chúng ta có một vùng liên hệ mật thiết đến sự chú ý đó là mỏ trước bó khuy (anterior cingulate cortex), nằm phía trong khe ở giữa của vách hai bán cầu não, chạy từ phía trước ra phía sau bộ não. Vùng này thực hành sự chú tâm vào những điều gì đang xảy ra, những tin tức phát xuất từ bên trong cơ thể hay từ bên ngoài và định danh hay đặt tên cho các sự kiện được nhận biết từ sự chú ý này. Vùng này hoạt động mạnh mẽ khi chúng ta bị đau hay có những cảm xúc. Do đó, chúng ta hay dùng chung các danh từ khi nói về cảm xúc và cảm giác như tôi bị đau lưng (cảm giác) hay con tôi bỏ nhà ra đi làm cho tôi thật là đau đớn (cảm xúc). Vùng mỏ trước bó khuy gia tăng hoạt động khi các bệnh nhân được uống thuốc và làm cho giảm chứng trầm cảm.[7]
Một thời đức Phật an cư kiết hạ ở nước Xá Vệ, rừng cây Kỳ Đà trong vườn Cấp Cô Độc. Sau ba tháng an cư, Ngài bắt đầu du hành trong thành phố và xóm làng để giảng dạy cho Phật tử. Trưởng giả Lợi Sư Đạt La thỉnh đức Phật giảng dạy. Sau ba tháng an cư tu tập, đức Phật còn cảm nhận niềm an vui thâm sâu kỳ diệu của sự tu hành trong chốn núi rừng vắng vẻ, xa cách thành phố có nhiều sinh hoạt náo nhiệt, nên đức Phật nói về đời sống thanh tịnh của người xuất gia và nói người tại gia khó có thể sống như người xuất gia, thường là trong sạch, thuần nhất và thanh tịnh. Vị trưởng giả là một Phật tử tại gia thuần thành và có tu tập nên hiểu thấu đáo lời đức Phật dạy. Ông ca ngợi lời Phật nói nhưng cũng rất mạnh dạn nói về sự thực hành của chính mình, một cư sĩ tại gia giàu có và có nhiều quyền hành như sau:
“Con là đại thần của vua Ba Tư Nặc, nhà vua muốn dạo chơi trong viên quán, vua sai con cỡi voi lớn chở các cung nữ được vua yêu quý nhất. Một nàng ngồi trước, một nàng ngồi sau, con ngồi giữa. Lúc voi đi xuống đồi, nàng cung nữ ngồi sau ôm lưng con. Lúc con voi lên đồi, nàng cung nữ phía sau bám sát gáy con, nàng phía trước nắm lấy áo con.
Để làm đẹp lòng nhà vua, các cung nữ đều ăn mặc lộng lẫy, trang điểm diễm lệ bằng chuỗi ngọc, hương hoa. Con trong lúc dạo chơi với các mỹ nữ, luôn luôn phải giữ gìn cẩn thận ba điều: Điều thứ nhất là điều khiển voi, coi chừng lạc đường; điều thứ hai là điều khiển tâm, sợ sinh nhiễm trước; điều thứ ba là tự giữ mình, sợ bị té ngã. Bạch Thế Tôn! Trong lúc ấy con đối với các cung nữ không một sát na nào là chẳng chánh tư duy”.
Phật bảo trưởng giả:
“Lành thay, lành thay! Trưởng giả khéo giữ gìn tâm mình!”
Trưởng giả bạch Phật:
“Con ở trong nhà có tiền của, đồ vật đều cúng dường Thế Tôn và các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ, cùng chung thọ dụng, không kể là sở hữu của con”.
Phật Khen trưởng giả:
“Lành thay! Trưởng giả là người giàu sang tột bực ở nước Câu Tát La, tiền của không ai sánh bằng mà có thể đối với tài sản này không kể là của mình”.[8]
Như vậy, khả năng duy trì chánh niệm của trưởng giả Lợi Sư Đạt La rất mạnh do ông thực hành tự huấn luyện hàng ngày. Ngày hôm nay các nhà thần kinh học có thể chụp hình bộ não của vị đại thần này để thấy rõ nhờ thực hành chánh niệm mà vùng chú ý và điều hành cảm xúc trong bộ não của ông hoạt động rất tốt để có thể yên ổn giữa những hình ảnh, hương thơm, sự đụng chạm và tiền tài.
THỰC HÀNH THIỀN LÀM CHO BỘ NÃO TỐT HƠN
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta thường gặp nhiều người có tính tình khác nhau. Có nhiều người tánh tình vui vẻ, có nhiều người thì hay giận hờn, tiêu cực hoặc buồn rầu. Tiến sĩ Davidson và các đồng nghiệp[9] đã làm nhiều cuộc nghiên cứu và khám phá ra chính hoạt động của những mạch thần kinh, mà một mạch thần kinh là do một số các tế bào thần kinh kết hợp lại như một đường dây điện thoại có nhiều sợi nhỏ kết lại, là nguyên do sự khác biệt giữa những nhóm người tích cực và tiêu cực này. Tiến sĩ Davidson là giáo sư tâm lý học và phân tâm học nổi tiếng thế giới tại viện đại học University of Wisconsin, nơi đó ông điều hành viện nghiên cứu về hoạ hình bộ não, Brain Imaging Laboratory. Tiến sĩ Davidson đã nghiên cứu hai loại người rất khác biệt: Loại người tích cực và loại người tiêu cực. Những người tích cực và có khả năng chịu đựng mạnh mẽ và những người tiêu cực và dễ dàng bị tổn thương. Nhóm người thứ nhất là những người có khả năng hồi phục nhanh chóng dù họ phải trải qua nhiều biến cố khó khăn trong đời sống. Những người thuộc nhóm tiêu cực và dễ bị tổn thương thường khó khăn khi phải đối diện với những gì tiêu cực xảy ra. Họ là những người khó mà làm cho cảm xúc tiêu cực xấu bớt đi hay lắng dịu khi cảm xúc này xuất hiện.
Tiến sĩ Davidson và các đồng nghiệp[10] đã dùng máy chụp và hoạ hình (máy PET hay MRI) các bộ não của những người này khi cho họ xem những hình ảnh làm phát sinh những cảm xúc vui hay buồn như hình ảnh một người mẹ ôm hôn con hay một hình ảnh của một em bé bị cháy phỏng trên người nhiều chỗ, hoặc hình ảnh một em bé bị một mụt lớn ở nơi mắt. Sau khi chụp hình thì tiến sĩ Davidson thấy phản ứng nơi người có tánh tình vui nhiều hay tích cực và tánh tình người buồn nhiều hay tiêu cực khác xa nhau.
VỎ NÃO TRƯỚC TRÁN BÊN TRÁI VÀ BÊN PHẢI
Vỏ não trước trán bên trái (A) Vỏ não trước trán bên phải (B)
gia tăng: Hạnh phúc gia tăng: Khổ đau
Một cách rõ rệt, ông ta thấy những người tích cực thì phần vỏ não phía trước trán bên trái có nhiều họat động hơn, còn những người tiêu cực thì có những hoạt động phía vỏ não trước trán bên phải nhiều hoạt động hơn. Ngoài ra, còn có một phần của bộ não gọi là hạch Hạnh Nhân (vì nó nhỏ như quả hạnh nhân) rất quan trọng nơi người cũng như thú vật liên hệ đến các cảm xúc tiêu cực như giận dữ, sợ hãi, lo âu, những loại cảm xúc đưa đến căng thẳng. Ông ta thấy hạch Hạnh Nhân của nhóm người tiêu cực thì hoạt động nhiều và khó làm cho êm dịu được, và đặc biệt những người này có các hoạt động bên phải của vỏ não trước trán nhiều hơn những người tích cực, đó là dấu hiệu sự có mặt của các cảm xúc tiêu cực như buồn rầu, giận hờn hay khổ đau.
Hình hai hạch hạnh nhân (amygdalas) nằm sâu trong bộ não thuộc hệ bán tính (limbic system)
Những cuộc nghiên cứu của giáo sư Davidson nói trên cũng được viện nghiên cứu tại đại học Harvard tìm hiểu khi một em bé sinh ra, những em tích cực và tiêu cực có những điều gì khác nhau nơi bộ não. Đó là những yếu tố định trước sau này em bé sẽ là người vui nhiều hay buồn nhiều. Chương trình nghiên cứu này do giáo sư Jerome Kagan thực hiện. Những em bé được đem đến đây có nhiều tính tình khác nhau, có em thì thoải mái ông gọi là trẻ tính dễ dàng, có em hay khóc, phản ứng, ông gọi là trẻ tính khó chịu, hay phản kháng. Các em này có thể sinh ra với những bộ não có các thành phần hoá học khác nhau. Như vậy, bên cạnh môi trường sinh sống, cấu trúc não và các loại hóa học thần kinh trong não có vai trò rất quan trọng trong đời sống hạnh phúc hay khổ đau của con người.
Vào năm 2010, giáo sư Kegan tham gia cuộc nghiên cứu với các đồng nghiệp[11] tìm hiểu những trẻ em tính tình khó chịu, hay phản kháng là những em quá hiếu động và bị lo âu, bực bội khi thấy, nghe hay ngữi những thứ gì khác lạ. những em này về sau bị chứng e thẹn, ngại ngùng và sợ hãi rất nhiều khi đối diện với những hoàn cảnh không quen thuộc. Con những em tánh tình dễ chịu, ít phản kháng, thì ngược lại, dễ hòa đồng, thích nghi với hoàn cảnh mới và tánh tình mạnh mẽ, không có sợ hãi.
Các chuyên gia nghiên cứu theo dõi lâu dài các em bé này và dùng máy chụp hình não để tìm hiểu hai vùng não là vỏ não bụng giữa trước trán và vỏ não vùng mắt trước trán liên hệ đến tính tình khi các em trở thành người lớn 18 tuổi. Kết quả cho thấy những em lớn tuổi này - mà lúc còn nhỏ được liệt vào loại tính tình dễ chịu, ít phản kháng – thì vỏ não vùng mắt bên trái trước trán dày hơn khi so sánh với nhóm thuộc loại có tính tình khó chịu. Những em lớn tuổi, mà lúc còn bé được xếp vào nhóm khó tính, thì võ não bụng giữa bên phải trước trán dày hơn nhóm tính tình dễ chịu.
CẢM XÚC CÓ VAI TRÒ RẤT QUAN TRỌNG NƠI CON NGƯỜI
Hình bộ não con người có ba phần (triun brain): Vỏ não (neocortex), hệ bán tính (limbic) và cuống não hay não loài bò sát (reptilian).
Thiền là phương pháp tốt đẹp để tiếp xúc và làm thay đổi các cảm xúc cho tốt đẹp hơn. Theo giáo sư MacLean[12] trong quá trình tiến hóa loài người và loài vật thì cảm xúc xuất hiện trước khi có khả năng suy nghĩ. Bộ não con người có ba phần: Cuống não, hệ bán tính và vỏ não bọc bên ngoài là tân vỏ não (néo-cortex) trùm lên trên. Trong quá trình tiến hóa từ loài vật đến loài người, thoạt tiên bộ não loài thú vật chỉ có phần cuống não hay thân não, như bộ não loài bò sát, có hoạt động duy trì đời sống và phản xạ tự động. Sau đó hệ bán tính là hệ cảm xúc xuất hiện. Hệ này bao phủ thân não. Hàng triệu năm tiếp theo vùng tân vỏ não xuất hiện bao trùm lên trên. Chính vùng vỏ não mới này, hay tân vỏ não, đóng vai trò rất quan trọng trong sự suy nghĩ, nói năng, tính toán, quyết định, sáng tạo, mơ ước hay nên được xem là phần não cao cấp. Tuy vậy, hệ bán tính, phần não cảm xúc chứa đựng nguồn năng lượng rất lớn bắt buộc chúng ta phải chú ý ngay tức khắc và kích động một loạt phản ứng trong thân thể chúng ta đưa đến hoạt động cấp kỳ. Như khi nghe tiếng nổ “ầm” lập tức chúng ta nằm xuống tránh nguy hiểm, dù chưa biết điều gì xảy ra. Nhờ đó mà chúng ta bớt bị nhiều tai nạn. Phần hệ bán tính này qua hàng triệu năm vẫn tiếp tục tổ chức và phản ứng như trước đây.
Vào những thập niên từ 1970 đến 2.000 các nhà nghiên cứu chú ý nhiều đến các cảm xúc tiêu cực và không chú ý đến những cảm xúc tích cực như niềm vui, sự ưa thích hay sự hài lòng làm cho con người hạnh phúc. Ban đầu, họ nghiên cứu nhiều về khả năng thấy biết của con người hay nhận thức. Tiếp đến, họ bắt đầu nghiên cứu về cảm xúc và hầu hết là cảm xúc tiêu cực. Dần dần khám phá ra cảm xúc tích cực là then chốt của thành công và hạnh phúc của con người nên từ đó nhiều viện đại học cùng các cơ quan nghiên cứu đã đổ xô vào việc nghiên cứu này.
Nhà thần kinh học Antonio Damasio, trưởng phân khoa thần kinh thuộc đại học y khoa University of Iowa College of Medicine và ông cũng là một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu về cảm xúc và bộ não, trong cuộc hội luận ông ta trình bày rằng thường chúng ta nghĩ mình điều hành cảm xúc. Trên thực tế, mọi cảm xúc phát khởi và hoạt động ngoài ý muốn của chúng ta. Nói cách khác, không phải do ý thức mà chúng ta vui hay buồn. Như không phải vì muốn buồn hay vui mà chúng ta buồn vui. Như trong bài thơ Chiều của thi sĩ Xuân Diệu có những câu diễn tả điều ấy:
“Hôm nay trời nhẹ lên cao,
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn...
Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn”.
Buồn vui tự chúng xuất hiện theo những nhân duyên mà chúng ta hoàn toàn không kiểm soát sự hình thành và xuất hiện cùng bày tỏ của chúng. Những điều này ông trình bày trong tác phẩm Sự Sai Lầm Của Descartes,[13] nói đến sự liên hệ giữa suy tư, cảm nhận và cảm xúc. Sách này rất nổi tiếng và được giải thưởng khoa học và đời sống Science et Vie và được dịch ra 30 thứ tiếng.
Trong cuốn sách về sự sai lầm của Descartes, giáo sư Damasio nhấn mạnh đến sự quan trọng của cảm xúc trong đời sống con người. Khi nói đến triết gia Descartes chúng ta đều biết câu nói nổi tiếng của ông là “Tôi suy tư nên tôi hiện hữu”. Theo tiếng Pháp là Je pense donc je suis hay tiếng La-Tinh là Cogito, ergo sum đã được các sinh viên thích triết lý thời trước lập đi lập lại rất nhiều trong các quán cà phê ở nhiều nước.
Giáo sư Damasio[14] không loại trừ tính cách quan trọng của khả năng suy tư nơi con người mà triết gia Descartes chủ trương:
“Một cách vắn tắt, trong bộ não con người có một hệ thống tập hợp bền vững dành cho tiến trình suy nghĩ hướng đến mục đích mà chúng ta gọi là suy luận cũng như các đáp ứng lựa chọn mà chúng ta gọi là làm những quyết định, với sự nhấn mạnh đặc biệt đến phạm vi cá tánh con người và hoàn cảnh xã hội. Chính cùng trong hệ thống tập hợp nơi bộ não này mà có những liên hệ đến cảm xúc và cảm giác cùng một phần với sự xử lý các tín hiệu từ thân thể con người”.
Như vậy, giáo sư Damasio[15] nói đến ba điều quan trọng nơi bộ não con người:
1. Đây là một hệ thống kết hợp nhiều thành phần làm cho con người có khả năng suy tư, trong đó có sự soạn thảo chương trình và quyết định chọn lựa hành động.
2. Bộ não cũng có vai trò rất quan trọng trong việc làm phát sinh và điều hành các cảm xúc.
3. Bộ não cũng có nhiệm vụ duy trì các ký ức vốn rất quan trọng để sử dụng sau này.
Điều rất quan trọng về sự nhận biết và cảm xúc mà giáo sư Damasio[16] nói đến là sự kết nối giữa những vùng não ở phía trên là vỏ não, suy nghĩ hợp lý, và vùng não ở phía dưới là hệ bán tính, cảm xúc làm phát sinh những ý tưởng và hành động không hợp lý. Ông nêu ra sự phân biệt hai loại cảm xúc:
1. Loại cảm xúc nguyên thủy, có sớm nhất nơi con người do bẩm sinh mà có. Chúng ta có thể gọi đây là loại cảm xúc loại 1, loại đã trở thành một thành phần vững chắc trong bộ não như phần cứng trong máy vi tính (hardware). Loại cảm xúc này phổ biến, mọi người đều có như nhau như vui, buồn, sợ hay giận. Loại cảm xúc này có thể hiện ra mau chóng và biến đi mau chóng trong vài giây.
2. Loại cảm xúc thứ nhì là loại cảm xúc trưởng thành hơn, là loại “cảm xúc có lý trí” phát sinh từ các sự trải nghiệm và hiểu biết nên chúng có tính cách riêng tư và khác nhau nơi mỗi người. Chúng ta có thể gọi đây là loại cảm xúc loại 2. Chúng ta có thể lấy ví dụ: Một người vợ mong có con khi biết mình có thai thì vui mừng. Đây là niềm vui loại 2 nên kéo dài được vài ngày. Tuy nhiên, sau đó, khi nghĩ đến hoàn cảnh gia đình nghèo nên không biết tương lai con mình sẽ ra sao người vợ lại buồn rầu và điều này làm cho niềm vui tan biến. Với người có hoàn cảnh khá hơn thì họ vui mà không buồn.
Giáo sư Damasio[17] nói rõ cảm xúc loại 1 thuộc hệ bán tính trong bộ não và cảm xúc loại 2 thì do sự phối hợp một vùng não rộng lớn hơn:
“Cơ chế của các cảm xúc sơ khai không diễn tả được tất cả các sự biểu lộ cảm xúc. Chắc chắn chúng là cơ chế căn bản. Tuy nhiên, tôi tin rằng trong sự phát triển những cảm xúc sơ khai này nơi một con người được tiếp nối bởi những cảm xúc cấp 2… Những cấu trúc trong hệ bán tính không đủ khả năng để xử lý các hoạt động của cảm xúc cấp 2. Do đó, cần có một mạng hệ thống nới rộng và bao gồm các vùng vỏ não trước trán và não vận động”.
Những điều nói trên rất quan trọng vì liên quan đến sự tu tập của chúng ta làm cho phát triển, làm cho dày lên và làm cho gia tăng phối hợp hoạt động toàn diện bộ não. Một điều rất quan trọng mà giáo sư Damasio[18] nói đến, liên hệ với sự tu tập mà chúng ta cần nhớ, là sự cảm nhận các cảm xúc an lạc. Chính sự cảm nhận này giúp cho chúng ta biết về trạng thái các cảm xúc đang xảy ra trong thân thể của chính mình mà tác giả bài thơ Chiều nói trên không biết:
“Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn”.
Lòng đây bao gồm cả cái tâm thấy biết nỗi buồn và trạng thái cơ thể khi đang buồn. Thực hành tuệ tri là chiếu ánh sáng của sự thấy biết rõ ràng vào hiện tại.
THÂN TÂM NHẤT NHƯ
Trong khi triết gia Descartes nhấn mạnh đến sự quan trọng của ý tưởng và suy tư duy lý thì giáo sư Damasio nói đến ảnh hưởng của cảm xúc vốn rất quan trọng và có những trường hợp làm cho sự suy nghĩ hợp lý biến mất. Và điều đặc biệt là những cảm xúc này lại do những hoạt động của các vùng não làm phát sinh nên khi vùng não liên hệ cảm xúc bị hư hại thì suy luận cũng bị tổn hại.
Phật giáo nói đến nhận biết các thứ bên ngoài là do năm giác quan tai, mắt, mũi, lưỡi và thân và bên trong là do ý thức. Điều này rất phù hợp với sự trình bày của giáo sư Damasio là màu sắc, âm thanh, mùi hương, vị và xúc chạm được năm cơ quan chuyển các tin tức đến bộ não qua những tế bào thần kinh để biết màu sắc hay ấm lạnh. Các cảm xúc là do những hoạt động thần kinh bên trong não và thân thể con người làm cho phát sinh. Như khi chúng ta cảm thấy sợ hãi khi đối diện với sự nguy hiễm thì bộ não ghi nhớ lại trạng thái lúc thân thể cảm nhận sợ hãi để sau này nhận biết lại kinh nghiệm để bảo vệ mạng sống của mình, đó là sự thích nghi với hoàn cảnh sống.
Ví dụ khi chúng ta đang đi ngoài đường, có con chó hung hăng nhe răng chạy đến cắn vào chân làm cho hệ thần kinh giao cảm chúng ta khởi động, giúp chúng ta sẵn sàng hành động: Hoặc là đánh con chó cho nó chạy đi hoặc là chính mình bỏ chạy. Sự khởi động hệ giao cảm làm cho mắt chúng ta nhìn thấy rõ hơn, tai nghe thính hơn, tim đập mạnh hơn, phổi thở nhanh hơn và máu chạy nhiều đến các bắp thịt để sẵn sàng chiến đấu hay bỏ chạy cho thoát nguy hiểm. Sự thay đổi trạng thái thân thể này cũng liên hệ với cảm xúc sợ hãi và sự ghi dấu vào cơ thể (body marker) về toàn thể thân và cùng sự cảm nhận trạng thái trong thời gian mà biến cố xảy ra làm cho vui hay buồn, sướng hay khổ, hứng khởi hay sợ hãi. Từ sự ghi dấu vào cơ thể đó – chúng ta có thể dùng chữ dấu ấn nơi thân - mà bộ não có sự ghi nhớ về cơ thể căng thẳng khi bị chó cắn cùng cảm giác sợ hãi mà sau này chỉ cần nhớ tới hình ảnh con chó là chúng ta rùng mình khiếp sợ như lúc bị chó cắn. đó là chúng ta cảm nhận lại dấu ấn nơi thân và dấu ấn nơi thân lại liên hệ với một vùng não đó là vỏ não bụng giữa trước trán (ventro-medial pre-frontal cortex).
Hình vỏ não bụng giữa trước trán (ventromedial prefrontal cortex) nhìn từ phía trước và nhìn ngang.
Một ví dụ nổi tiếng là trường hợp nghiên cứu một bệnh nhân của ông bị hư vỏ não bụng giữa trước trán của giáo sư Damasio.[19] Giáo sư Damasio là bác sĩ thần kinh và có chữa trị cho một luật sư hành nghề rất giỏi. Mấy năm trước đây vị luật sư này bị một bướu ung thư nhỏ nơi não thuộc vùng não trước trán. Bác sĩ giải phẫu cắt cục bướu này thành công, nhưng không may lại cắt đứt các sợi thần kinh nối liền từ não trước trán đến vùng hạch hạnh nhân (amygdala) nằm phía trong bộ não. Hậu quả là tuy vẫn có đầy đủ sức khỏe, nhưng ông ta không đủ khả năng làm việc, nên bị mất việc làm, rồi bị vợ bỏ và bị mất nhà. Bác sĩ Damasio đọc kết quả của những thử nghiệm về thần kinh tâm lý thì thấy tất cả đều bình thường nên không biết bệnh ông ta phát xuất từ đâu.
Một hôm tình cờ bác sĩ khám phá được lý do khi hỏi bệnh nhân một câu rất giản dị là ông ta muốn lấy hẹn lần khám bệnh kế tiếp vào lúc nào. Người luật sư này đưa ra một danh sách về giờ hẹn kỳ tới trong vòng hai tuần lễ, những cái thuận tiện và không thuận tiện của mỗi giờ hẹn. Tuy nhiên, ông ấy không biết được giờ hẹn nào là tốt nhất nên không thể quyết định được nên chọn ngày giờ nào! Bác sĩ Damasio hiểu ra được là người bệnh không có cảm giác gì về các ý tưởng anh trình bày nên anh không có khả năng lựa chọn. Bác sĩ Damasio cũng có những bệnh nhân khác giống như trường hợp này. Họ là những người bị chứng khiếm khuyết vùng trán trước (prefontal deficit), mặt dù họ phân biệt được rất rõ ràng cái đúng và sai giữa hai sự lựa chọn nhưng họ lại không có khả năng chọn cái đúng, do đó, họ có những quyết định sai lầm tai hại về nghề nghiệp, tài chánh, gia đình, tình cảm, tiêu pha cũng như những công việc khác, làm cho những người chung quanh tức giận. Lý do giản dị là những người này, như luật sư bị bệnh nói trên, không có khả năng cảm nhận những ý tưởng của mình.
Sự kiện nói trên cho thấy ý tưởng không phải chỉ xuất hiện đơn thuần mà luôn luôn kèm theo một dòng cảm xúc phát xuất từ những kinh nghiệm chúng ta có trước đây về những điều đúng hay sai, từ đó can dự hay đưa đến việc chọn lựa một quyết định nào đó giữa nhiều sự lựa chọn khác nhau. Chính cái cảm nhận đúng hay sai đó đưa đến một quyết định chọn cái này hay cái kia. Nếu cảm nhận này không có thì chúng ta sẽ không còn khả năng quyết định, hoặc là nếu phải quyết định thì lại chọn lựa sai lầm, đưa đến nhiều kết quả tai hại. Nói khác đi, ý tưởng và cảm xúc luôn luôn có mặt cùng lúc, không bao giờ có một cái gọi là ý tưởng thuần túy không có cảm xúc.
Như vậy, so sánh với người bình thường bị con chó hung dữ làm cho sợ hãi thì khi nghĩ đến con chó họ thấy sợ hãi, thì người bị hư hại vỏ não bụng giữa không thấy sợ hãi khi nghĩ đến con chó hung dữ mà họ cũng không sợ hãi khi thấy con chó hay một con vật hung dữ nào khác muốn tấn công họ. Bộ não của họ mất đi khả năng làm khởi động cảm xúc sợ hãi do đó mất khả năng quyết định hành động khi gặp phải trường hợp nguy hiểm này. Điều này có thể làm cho họ bị nhiều tai nạn hay mất mát tài sản.
CẢM NHẬN DẤU ẤN NƠI THÂN
Giáo sư Damasio cho rằng các cảm xúc xuất hiện là do sự thay đổi trạng thái nơi thân thể và bộ não của chúng ta khi đối diện với một hoàn cảnh. Ví dụ khi chúng ta nhìn thấy một cảnh đẹp thì thấy vui hay một con thú dữ thì sợ hãi. Vào ngay lúc ấy:
- Nơi thân thể: Như độ mạnh hay yếu của các bắp thịt, nhịp tim đập nhanh hay chậm, các chất hóa học tiết ra từ các hạch nội tiết, thân thể đang đứng, đi hay ngồi, nét mặt đang biểu lộ, v.v… khi thấy cảnh đẹp hay con thú dữ. Đó là dấu ghi nhận nơi thân (somatic marker) hay thân ấn.
- Nơi bộ não: Những điều trên được bộ não cảm nhận và chuyển thành cảm xúc như thích thú hay sợ hãi để báo hiệu cho chúng ta biết hoàn cảnh chúng ta đối diện như khi thấy cảnh đẹp hay con thú dữ.
Lâu dần những cảm xúc thích thú hay sợ hãi này cùng với trạng thái thân thể thay đổi vào lúc đó kết hợp với sự thấy biết trong những hoàn cảnh khác nhau nói trên. Sau này, khi dấu ghi nhận nơi thân hay thân ấn xuất hiện thì cũng làm cho những cảm xúc vui hay sợ nói trên xuất hiện.
Điều quan trọng là dấu ấn nơi thân này ảnh hưởng rất nhiều đến những quyết định chọn lựa của chúng ta mà chúng ta không biết như khi mua một căn nhà, chọn trường học, mua sắm xe hơi hay lập gia đình.
Khi thân ấn liên kết với một cảm giác vui thích thì chúng ta cảm thấy hạnh phúc và tự mình thúc đẩy hướng đến làm việc đó. Ngược lại khi thân ấn liên kết với cảm giác khó chịu thì chúng ta thấy không thích và bên trong tâm chiếc còi báo động thổi lên để chúng ta tránh làm điều đó. Như khi chọn trường học, trước đây chúng ta có niềm vui lúc nghĩ hè vùng nắng ấm thì trường học vùng ấm áp hấp dẫn sự chọn lựa của chúng ta. Trường hợp một người đi làm về ban đêm bị cướp thì mỗi lần đi ban đêm trên đường phố mà nghe tiếng gót giày vang lên phía sau là cảm thấy sợ hãi. Điều này làm anh quyết định chọn một việc làm khác ban ngày dù lương thấp hơn.
Hai thứ, là những thân ấn riêng biệt xuất hiện từ những hoàn cảnh khác nhau kết hợp lại, được làm gia tăng sức mạnh bởi những kinh nghiệm xảy ra trong quá khứ ảnh hưởng mạnh mẽ vào những quyết định lựa chọn của chúng ta.
Giáo sư Damasio[20] nêu ra một điều rất quan trọng từ lý thuyết thân ấn nói trên. Thân ấn khởi động, xuất hiện và hoạt động, qua hai lối khác biệt:
- Lối 1: Cảm xúc phát sinh khi có sự thay đổi thân ấn và não cảm nhận. Như khi thấy một con rắn thì thân thể phản ứng qua chiến đấu hay bỏ chạy. Đây là phản ứng từ nơi thân.
- Lối 2: Sau này, chỉ cần nghĩ tới hình ảnh con rắn hay thấy hình ảnh con rắn thì phản ứng chiến đấu hay bỏ chạy cũng xuất hiện.
Phản ứng theo lối 2 này là bộ não biết trước sự thay đổi nơi thân thể để giúp cho chúng ta phản ứng nhanh chóng hơn khi gặp một hoàn cảnh tương tự.
Cảm nhận trạng thái thân thể của mình, hay dấu ấn nơi thân, là điều rất quan trọng vì qua đó mà chúng ta biết được các loại cảm xúc khác nhau như khi sợ hãi thì căng thẳng, khi vui thì buông xả, khi ăn ngon thì thích thú, khi buồn thì nặng và khó chịu hay khi thương yêu thì thấy ấm áp, lâng lâng và sung sướng. Do đó, khi chúng ta tập luyện và cảm nhận các cảm xúc tích cực như vui vẻ, phấn chấn, thoải mái, sung sướng và bình an trong thân và tâm thì những tế bào trong não ghi và nhớ lại những thứ này và sau đó thúc đẩy chúng ta trở lại với niềm hạnh phúc nơi thân và tâm. Khi thực hành tu tập, nhiều vùng não khác nhau được khởi động và nối kết với nhau theo nguyên tắc phát triển não là những tế bào thần kinh cùng hoạt động thì cùng quấn vào nhau nên lâu ngày chúng tạo thành những phần cứng (như hardware trong máy tính) nên trở thành bền chắc lâu dài. Nếu không tu tập thì các vùng khác trong bộ não hoạt động và quấn lại với nhau làm phát sinh ta những cảm xúc tiêu cực. Chúng ta có thể lấy ví dụ trong bản dịch Chinh Phụ Ngâm Khúc của bà Đoàn thị Điểm (mà có người cho là của ông Phan Huy Ích?) có những câu diễn tả nổi buồn người vợ xa cách chồng:
“Ðâu xiết kể trăm sầu nghìn não
Từ nữ công phụ xảo đều nguôi
Biếng cầm kim biếng đưa thoi
Oanh đôi thẹn dệt bướm đôi ngại thùa.
Mặt biếng tô miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều dòi dõi nương song
Nương song luống ngẩn ngơ lòng
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai”.
Những cảm xúc buồn rầu nói trên do nhiều phần trong bộ não kết hợp hoạt động làm phát sinh. Và như chúng ta đã biết, giáo sư Damasio[21] nói đến sự kết nối giữa những vùng vỏ não ở phía trên, suy nghĩ hợp lý, và vùng não ở phía dưới, là vùng cảm xúc làm phát sinh những ý tưởng và hành động không hợp lý của hai loại cảm xúc:
1. Loại cảm xúc nguyên thủy hay loại cảm xúc 1 có thể xuất hiện nhanh chóng và biến đi nhanh chóng trong vài giây như khi hai người chia tay nhau.
2. Loại cảm xúc thứ nhì là loại “cảm xúc có lý trí”, là cảm xúc loại 2 phát sinh từ các sự trải nghiệm và suy nghĩ có tính cách riêng tư và khác nhau nơi mỗi người. Như sau khi chia tay, người vợ nghĩ đến niềm cô quạnh làm phát sinh sự sầu tủi.
Chúng ta có thể lấy ví dụ cụ thể khác: Một người vợ mong có con khi biết mình có thai thì vui mừng. Đây là niềm vui loại 1 nên kéo dài được một lúc. Tuy nhiên, sau đó, khi nghĩ đến hoàn cảnh gia đình nghèo nên không biết tương lai con mình sẽ ra sao người vợ lại buồn rầu và điều này làm cho niềm vui tan biến. Với người có hoàn cảnh khá hơn thì họ vui mà không buồn.
PHÁT TRIỂN HẠNH PHÚC TRONG BỘ NÃO
Những khám phá khoa học nói trên cho thấy bộ não có vai trò rất quan trọng làm phát sinh niềm vui hay nỗi buồn nơi con người. Giáo sư Richard J. Davidson đặt các câu hỏi về hạnh phúc trong bộ não như sau:
1. Chúng ta có thể làm gia tăng hạnh phúc trong bộ não không? Hay là chúng ta bị kẹt nơi vùng gốc hay vùng vui buồn cố định nơi vùng vỏ não trước trán?
2. Những thành phần căn bản nào của hạnh phúc có thể được huấn luyện để phát triển lớn hơn.
Giáo sư Davidson,[22] trong buổi lễ nhận giải thưởng The Mani Bhaumik Award vào tháng 11 năm 2006 nơi thính đường của phân khoa thần kinh học thuộc viện đại học UCLA, làm sáng tỏ vấn đề chúng ta có khả năng huấn luyện cho bộ não tốt đẹp hơn như sau:
1. Những yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng rất giới hạn (nhỏ bé) đối với tình thương và niềm hạnh phúc của chúng ta.
2. Loài người khác nhau rất nhiều về tánh khí (nóng nảy hay dịu dàng, ấm áp hay lạnh lùng) hay cảm xúc bẩm sinh. Dù cho những loại tánh khí này thường có tính cách vững bền, chúng ta vẫn có thể làm cho tánh khí chúngta thay đổi tốt hơn.
3. Dù các yếu tố di truyền đóng vai trò trong việc quyết định các mức độ của những hoạt động khác nhau của vùng vỏ não trước trán, các yếu tố di truyền này chỉ có ảnh hưởng dưới 25% vào các hoạt động của vùng vỏ não trước trán thôi. Như vậy di truyền chỉ có ảnh hưởng dưới 1/4 đối với hạnh phúc.
4. Sự điều hành cảm xúc có chủ ý đóng vai trò chính trong việc thay đổi mức độ cảm xúc nơi những người hay bị xúc cảm (thường thấy có mức độ rất cao nơi các người bị chứng trầm cảm). Nói khác đi, thực hành chánh niệm làm gia tăng hạnh phúc.
5. Thiền đã chứng tỏ có hiệu quả rõ ràng trên bộ não và thiền có thể xem là một trong rất ít các phương pháp thuần tuý huấn luyện tâm mà thôi có khả năng tác dụng rất mạnh mẽ trên chức năng của bộ não. Những khám phá này hỗ trợ cho quan niệm là những trạng thái cảm xúc của chúng ta có thể thay đổi được qua sự huấn luyện về tâm. Nói khác đi, qua sự thực hành thiền chúng ta có thể huấn luyện tâm của chính mình để gia tăng hạnh phúc.
6. Thiền làm cho bộ não thay đổi lớn lao như chất xám dày thêm, trí nhớ phát triển, các khu vực não liên lạc với nhau tốt hơn.
Đức Phật nhắc nhở một trong các đệ tử tại gia của Ngài là ứng dụng thực hành Phật pháp vào trong sinh hoạt hàng ngày để phát triển hạnh phúc như sau:
“Này Mahànàma, vị Thánh Đệ Tử, với tâm chánh trực, có được nghĩa tín thọ, có được pháp tín thọ, có được hân hoan liên hệ đến pháp. Khi có hân hoan, hỷ sanh; khi có hỷ, thân được khinh an; khi thân được khinh an, cảm giác lạc thọ; khi có lạc thọ, tâm định tỉnh… Ông cần phải tu tập khi đi, ông cần phải tu tập khi đứng, ông cần phải tu tập khi ngồi, ông cần phải tu tập khi nằm, ông cần phải tu tập khi chú tâm vào các công việc, ông cầ phải tu tập khi ông trú tại trú xứ đầy những con nít”.[23]
Lời đức Phật dạy nói trên phù hợp với diều giáo sư Damasio nói về dấu ấn nơi thân, sự ghi nhận một trạng thái thân thể (body marker) do nhiều yếu tố kết hợp làm phát sinh niềm an vui hay sự buồn rầu, niềm hạnh phúc hay sự sợ hãi mà tâm cảm nhận được. Đức Phật nhắc nhở cần thực hành một phương pháp mà mình tin tưởng là tốt đẹp và khi thực hành làm cho mình phát sinh niềm hân hoan để tạo một dấu ấn an vui nơi thân:
“Khi có hân hoan, hỷ sanh; khi có hỷ, thân được khinh an; khi thân được khinh an, cảm giác lạc thọ; khi có lạc thọ, tâm định tỉnh…”.
Toàn thể những sự cảm nhận về niềm vui, hạnh phúc, sự bình an và vững chãi nói trên kết hợp lại làm phát sinh dấu ấn tốt đẹp nơi thân, hay sự ghi nhận nơi thân thể. Nhiều vùng khác nhau trong bộ não, các vùng trong cơ thể và các chất hóa trong người chúng ta kết hợp làm phát sinh dấn ấn an lạc nơi thân nên càng tu tập, càng tự huấn luyện, thì sự kết hợp này càng tốt đẹp và càng trở nên vững bền. Khi thành công, chúng ta có thể cảm nhận dấu ấn hạnh phúc nơi thân bất cứ lúc nào.
“Khi có hân hoan, hỷ sanh; khi có hỷ, thân được khinh an; khi thân được khinh an, cảm giác lạc thọ; khi có lạc thọ, tâm định tỉnh”.
BA ĐAN ĐIỀN
Khi thực hành thiền chúng ta thở vào và thở ra thật thoải mái. Lúc thở, không cần kéo dài thêm hay làm ngắn lại. Hơi thở vào của chúng ta thường ngắn hơn hơi thở ra một tí, khi chú tâm thoải mái vào hơi thở chúng ta chỉ biết hơi thở vào và hơi thở ra, có cái dài và có cái ngắn, biết hay cảm nhận một cách trực tiếp về mỗi hơi thở vào hay hơi thở ra và độ dài của chúng mà không nói (thầm) như hơi thở vào ngắn, hơi thở ra dài. Lúc thiền tâm vắng lặng được bao nhiêu là tốt bấy nhiêu.khi các ý tưởng khởi dậy, nhận biết chúng và trở về với sự chú ý vào hơi thở vào và hơi thở ra.
Thực hành một thời gian thì hơi thở trở nên nhẹ nhàng và sâu hơn một cách tự nhiên như trong lời dạy đặc biệt của các bậc Thầy tại chùa Thiếu Lâm về bí mật của cách thở cùng duy trì sự thấy biết trong sáng, tỉnh thức và linh động như một ngọn đèn lồng tỏa ánh sáng liên tục như sau:
“Một ngọn đèn lồng thắp sáng trong thiền đường và tiếp tục tỏa ánh sáng trong suốt bốn mùa. Người tu thiền giúp ngọn đèn lồng này cháy qua hơi thở… Khi luyện thở khí công, người tập được hướng dẫn bởi ba nguyên tắc: Thứ nhất là duy trì sự vắng lặng của Tâm, thứ hai là sự mềm mại của Thân và thứ ba là sự êm dịu và trọn vẹn của hơi thở. Sự vắng lặng là do nơi Tâm Không (hay tâm như thị) tâm chỉ thấy biết tánh chân thật, vạn pháp (mọi hiện tượng) rơi vào chốn không như đá chìm đáy biển. Trong trạng thái mềm mại, các bắp thịt nhuyễn như cát lún, trong đó máu chảy theo hơi thở khí công một cách trơn tru. Hơi thở vào và hơi thở ra phải sâu, dài, trọn vẹn và đều đặn, để cho hơi thở vào và hơi thở ra không sai biệt chút nào cả”.
Như vậy, khi tập thở theo thiền hay khí công cần nhớ bốn yếu tố:
1. Chánh niệm là sự thực hành chú tâm nhẹ nhàng nơi hơi thở và thấy biết rõ ràng, đó chính là ngọn đèn thắp sáng tâm cùng làm cho bộ não êm dịu.
2. Tâm vắng lặng, đừng chạy theo các ý tưởng hay cảm xúc.
3. Thân thể buông xả thật thoải mái.
4. Hơi thở êm dịu, tập thở sâu và dài hơn một tí (cùng lúc để 10% sự chú tâm vào hơi thở) để gia tăng sự tỉnh thức, nhưng đừng chú tâm quá nhiều sẽ làm chóng mệt. Sau khi quen dần thì hơi thở trở nên sâu, dài và đều đặn một cách tự nhiên.
Tập Thở Đan Điền
Thở đan điền hay thở bụng, còn gọi là thở hoành cách mô, là khi thở vào bụng phình ra, khi thở ra bụng xẹp xuống. Thở đan điền làm cho bộ não thư dãn nhanh chóng và Tâm buông xả dễ dàng. Hiện nay nhiều nhà thương và nhiều bác sĩ nhắc nhở bệnh nhân tập thở đan điền mà họ gọi là thở hoành cách mô để làm dịu bớt các loại đau nhức cũng như làm giảm căng thẳng.
Khi thở vào bụng phình ra. Nhớ đẩy nhẹ thành bụng ra phía trước để cho bụng phình ra và xin nhớ đừng có đẩy hơi (dồn hơi) xuống phía dưới (vùng hậu môn) vì làm như vậy là ép hơi như rặn, có thể đưa đến bệnh trĩ.
Khi thở ra thì đẩy nhẹ thành bụng vào. Thở vào và thở ra thật nhẹ nhàng như cánh cửa hai chiều mở ra và mở vào trơn tru, không nín hơi, không tưởng tượng hơi chạy xuống đan điền vì làm như vậy sẽ chóng mệt. Ban đầu tập năm phút, rồi tăng lên mười phút. Khi thấy thở quen dần thì tăng lên mười lăm phút rồi tăng lên hai mươi phút. Khi đi bộ ngoài trời hay đi thiền hành tập thở đan điền rất tốt. Sau một thời gian bụng sẽ quen dần cách thở và tự động thở đan điền mà không cần sự cố ý, như một người tập lái xe, sau khi đã thuần thục thì lái rất tự nhiên.
Ba Đan Điền
Theo Đông y, đan điền là vùng chứa năng lượng trong cơ thể. Chúng ta đã biết giáo sư Siegel[24] nói rõ về vùng trung não trước trán kết hợp hoạt động của bốn vùng não khác nhau làm phát sinh chín chức năng tốt đẹp của con người. Đối chiếu với khí công, đây là thuộc vùng đan điền thượng, vùng ấn đường mở rộng.
Khi thở đan điền, chúng ta làm cho năng lượng trong vùng đan điền hạ chuyển đi các vùng trong cơ thể.
Ngoài đan điền hạ nơi vùng bụng và đan điền thượng vùng ấn đường, trong thân thể chúng ta còn có đan điền trung nơi vùng quả tim.
Đan điền trung liên hệ đến năng lượng của tình thương và hệ miễn nhiễm. Đan điền thượng liên hệ đến vùng trung não trước trán và có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì sự chú tâm thoải mái và cảm nhận niềm an vui nơi tâm và nơi thân. Như vậy, đan điền không phải là một điểm mà là một vùng có chức năng quan trọng trong việc cảm nhận các nguồn năng lượng tốt đẹp và từ đó tác động vào những vùng khác trong cơ thể mà chúng ta sẽ tìm hiểu thêm sau này.
Phần thực hành. Thở đan điền hay thở bụng và tập Thế Chánh Định sau khi tay trái bóp quả banh cao su 20 lần.
Phần 1. Thở đan điền hay thở bụng
Chúng ta đã thực hành cách thở với thân thể thư dãn trong 10 phút nhiều lần trước đây. Khi chúng ta thực hành thấy biết hơi thở vào và hơi thở ra trong 10 phút thì chúng ta đã thực hành thiền chánh niệm trong 10 phút đó.
Chúng ta đã thực hành cách thở với thân thể thư dãn trong 10 phút nhiều lần trước đây. Để gia tăng khả năng chú ý và nhận biết, hay chánh niệm, và cảm nhận niềm vui, chúng ta thực hành thở đan điền 10 phút, lúc nào thấy thoải mái và có thì giờ vào buổi sáng hay tối trước khi ăn cơm hay sau khi ăn độ hai giờ.
Chúng ta có thể bắt đầu thực hành thở đan điền (thở bụng) như sau:
Chúng ta có thể ngồi trên ghế, trên gối tròn hay nếu không ngồi được thì nằm thẳng lưng, thư dãn thân tâm thoải mái rồi bắt đầu thực hành thở đan điền.
Hít vào, bụng phồng (không đếm hay niệm Phật)
Thở ra, bụng xẹp (đếm 1 hay niệm A Di Đà Phật)
Hít vào (bằng mũi) cùng lúc bụng phồng ra, thở ra (bằng mũi) cùng lúc bụng xẹp xuống. Lúc đầu, để cho sự thực hành thở đan điền được dễ dàng, chúng ta để bàn tay phải phủ trên rốn. Khi hít hơi vào, bàn tay đưa ra phía trước đồng thời bụng phình theo, thở ra, bàn tay ép vào trong đồng thời bụng xẹp xuống. Thực hành như vậy khi ngồi trên ghế hay nằm trên giường giúp chúng ta quen dần với cách thở đan điền nhanh chóng.
Sau 10 phút chúng ta xả thiền.
Phần 2. Tập Thế Chánh Định sau khi tay phải bóp quả banh cao su 20 lần để làm cho vùng não trước trán trái khởi động làm phát sinh cảm xúc tích cực.
Xin bạn cầm quả banh cao su loại vừa trong lòng bàn tay phải.
Hít vào, thở ra và bàn tay phải bóp trái banh cao su cùng lúc niệm thầm “A Di Đà Phật” 20 lần.
Sau đó tập Thế Chánh Định đã được trình bày trong tập Tuần Lễ 2.
***
[1]. Sharon Begley (2007). Train Your Mind, Change Your Brain. New York: Ballantine Book, tr.132.
[2]. Kinh Pháp Cú, Phẩm Song Yếu, HT. Minh Châu dịch
[3]. Như trên, Ibid. tr. 156-158.
[4]. Như trên, Ibid.
[5]. Merzenich MM. and deCharms RC,(1996). Neural representation, experience and change, ing The Mind-Brain Continuum, ed.Llinas and Churchland P.S.. Boston: MIT Press, tr. 61-81.
[6]. Davidson RJ, Jackson DC, Kalin NH., (2000). Plasticity, Context, and Regulation:Perspectives From Affective Neuroscience, Psychological Bulletin, Vol. 126, No. 6, 890-909.
[7]. A Pizzagalli D, Pascual-Marqui RD, Nitschke JB, Oakes TR, Larson CL, Abercrombie HC, Schaefer SM, Koger JV, Benca RM, Davidson RJ. (2001). Anterior Cingulate Activity as a Predictor of Degree of Treatment Response in Major Depression: Evidence From Brain Electrical Tomography Analysis. American Journal of Psychiatry; 158:405–415.
[8]. Kinh Tạp A Hàm, số 860.
[9]. Heller AS, Johnstone T, Shackman AJ, Light SN, Peterson MJ, Kolden GG, Kalin NH, Davidson RJ.Reduced capacity to sustain positive emotion in major depression reflects diminished maintenance of fronto-striatal brain activation. Proc Natl Acad Sci U S A. 2009 Dec 29;106(52):22445-50.
[10]. Jackson, D.C., Mueller, C., Dolski, I., Dalton, K., Nitschke, J.B., Urry, H.L., Rosenkranz, M.A., Ryff, C., Singer, B., & Davidson, R.J. (2003). Now you feel it, now you don’t: Frontal EEG asymmetry and individual differences in emotion regulation. Psychological Science 14: 612-617.
[11]. Schwartz, C. E.; Kunwar, P. S.; Greve, D. N.; Moran, L. R.; Viner, J. C.; Covino, J. M.; Kagan, J.; S. Stewart, S. E.; Snidman, N. C.; Vangel, M. G.; Wallace, S. R. (2010). “Structural Differences in Adult Orbital and Ventromedial Prefrontal Cortex Predicted by Infant Temperament at 4 Months of Age”. Archives of General Psychiatry 67 (1): 78–8.
[12]. Paul D. MacLean, The Triune Brain in Evolution: Role in Paleocerebral Functions. New York: Springer, 1990.
[13]. Descartes’ Error: Emotion, Reason, and the Human Brain (1994). New York: Penguin Books.
[14]. Như trên, Ibid.,tr. 70.
[15]. Như trên, Ibid.,tr. 78-79.
[16]. Như trên, Ibid., tr. 128.
[17]. Như trên, Ibid.,tr.139.
[18]. Như trên, Ibid.,tr. 145.
[19]. Như trên, Ibid., chapter 3.
[20]. Damasio, A. (1991). Somatic Markers and the Guidance of Behavior. New York: Oxford University Press. pp. 217–299.
[21]. Descartes’ Error (1994). Sách đã viện dẫn. Opcit., tr. 128.
[22]. Richard Davidson Awarded the first Mani Bhaumik Award by UCLA for advancing the understanding of the brain and conscious mind in healing, 2006; Named “Person of the Year” by Madison Magazine, 2007.
[23]. Tăng Chi Bộ Kinh, Phẩm Tùy Niệm, Mahànàma 2, HT. Thích Minh Châu dịch.
[24]. Siegel, D., J. (2007). The Mindful Brain: Reflection and Attunement in the Cultivation of Well-Being. New York: WW Norton & Company, tr. 42-44.