Chương 2: Thiền làm phát sinh sự kết hợp thần kinh tốt đẹp vùng trung não
CHƯƠNG 2:
THIỀN LÀM PHÁT SINH SỰ KẾT HỢP THẦN KINH TỐT ĐẸP VÙNG TRUNG NÃO
Khi chúng ta hành thiền (chỉ và quán) thì làm phát sinh sự kết hợp thần kinh ở các vùng khác nhau trong bộ não. Chúng ta đã biết kết hợp thần kinh là sự phối hợp hoạt động của các mạch thần kinh ở những vùng khác nhau trong bộ não để làm bộ não gia tăng hoạt động cùng tạo sự quân bình tốt đẹp. Sự kết hợp thần kinh có thể làm cho hoạt động của các vùng liên kết với nhau trong bộ não trở nên tối ưu.
Phối hợp theo giáo sư Siegel[1] là theo dõi và kiểm nhận (monitor) và làm cho sự hoạt động của nhiều vùng rất khác nhau trong bộ não liên kết với nhau và trở thành một vùng hoạt động tốt đẹp toàn diện. Còn quân bình nói trên có nghĩa là điều chỉnh lại cho tốt hơn như làm cho một vùng não tăng, giảm hay ngưng hoạt động khi cần thiết. Như một người đang sợ hãi nếu thở đan điền thì hệ thần kinh đối giao cảm làm cho tim đập chậm lại (giảm) hay khi đối diện với sự nguy hiểm thì hệ giao cảm kích thích cho tim đập mau hơn (tăng) làm máu chuyển nhiều đến các bắp thịt để sẵn sàng hành động.
THIỀN KẾT HỢP CÁC HOẠT ĐỘNG VÙNG TRUNG NÃO
Giáo sư Siegel[2] nhấn mạnh đến sự quan trọng của vùng trung não trước trán vì vùng này kết hợp thân thể, ba phần não là cuống não, hệ bán tính và tân vỏ não cùng với tương quan xã hội thành một hệ thống hoạt động toàn diện.
Mỗi chức năng, là những hoạt động có mục đích, liên hệ đến những thành phần khác nhau trong bộ não và trong thân thể chúng ta. Theo giáo sư Siegel[3] thì qua sự thực hành thiền chánh niệm chúng ta tạo ra sự kết hợp hoạt động của nhiều thành phần trong bộ não và cơ thể làm phát sinh chín loại chức năng làm cho đời sống chúng ta tốt đẹp hơn. Chín chức năng này cũng liên hệ đến sự kết hợp hoạt động các thành phần thuộc vùng trung não trước trán (middle prefrontal regions) mà chúng ta có thể thêm vào phần thực dụng như sau:
1. Điều hành thân thể (body regulation) là điều hành thân thể tốt đẹp): Như là chức năng của cái thắng (làm giảm bớt) hay bàn đạp ga (làm tăng lên) xe hơi được phối hợp và làm cho các hoạt động trong cơ thể quân bình. Ví dụ: Trong hệ thần kinh tự động có hai phần: Hệ giao cảm và hệ đối giao cảm mà vỏ não vùng giữa trước trán có thể làm cho thay đổi cách hoạt động như làm cho nó tăng lên như tim đập mạnh thêm để đưa nhiều máu đến bắp thịt (hệ giao cảm) hay làm cho nó dịu bớt đi như làm cho nhịp tim hạ xuống (hệ đối giao cảm).
Thực dụng của sự điều hành thân thể: Giúp cho cơ thể duy trì sự khỏe mạnh. Như khi thực hành chánh niệm thành thói quen thì giúp cho hệ thần kinh lắng dịu làm giảm căng thẳng rất nhiều.
2. Hòa hợp truyền thông (attuned communication) là phối hợp tốt đẹp sự trao đổi giữa hai bên gồm sự phối hợp nhận biết tâm của một người khác với các hoạt động của chính tâm mình, đó là một tiến trình của sự cộng hưởng liên lệ đến các vùng thuộc trung não trước trán.
Thực dụng của hòa hợp truyền thông: Gia tăng khả năng cảm thông với người khác vốn rất cần thiết trong đời sống hàng ngày trong gia đình hay ngoài xã hội. Qua đó mà niềm vui trong đời sống hàng ngày gia tăng.
3. Quân bình cảm xúc (emotional balance) là làm cho cảm xúc được quân bình qua cách làm cho các vùng thuộc hệ bán tính (nơi phát sinh cảm xúc) chỉ có thể hoạt động vừa phải để chúng ta cảm nhận được đời sống có ý nghĩa và sống động nhưng không hoạt động quá mãnh liệt tạo ra sự chao động. Vùng trung não trước trán có khả năng theo dõi và kiểm nhận cùng ức chế hoạt động hệ bán tính, khi vùng này làm phát sinh các cảm xúc tiêu cực, qua các đường thần kinh mang các xung lực mạnh mẽ hai chiều, từ vùng hệ bán tính lên và từ các vùng thuộc trung não trước trán xuống vùng hệ bán tính.
Thực dụng của quân bình cảm xúc: Giúp cho tính khí chúng ta trở nên quân bình và tâm chúng ta duy trì trạng thái thăng bằng trong đời sống hàng ngày.
4. Phản ứng mềm dẽo (response flexibility) là khả năng duy trì phản ứng mền dẽo như ngưng lại được trước khi có hành động gây tổn thương người khác. Tiến trình này giúp biết rõ mức độ các kích động đang diễn ra, làm chậm lại phản ứng của chính mình, lựa chọn nhiều giải pháp hay cách phản ứng có thể sử dụng khác nhau cùng sự bắt đầu phản ứng. Vùng trung não trước trán cùng hoạt động với các vùng hai bên não để thực hành chức năng này.
Thực dụng của phản ứng mềm dẽo: Vốn rất cần thiết cho sự tương quan trong gia đình, sự điều hành các cơ sở thương mại, hành chánh và chính trị vì dánh giá đúng mức các sự kiện và chọn lựa giải pháp tốt nhất cho vần đề cần giải quyết.
5. Sự cảm thông (empathy) là có sự cảm thông với tha nhân. Hệ bán tính (cảm xúc) và sự thay đổi nơi thân thể chúng ta bắt đầu khởi động khi thấy nét mặt hay thái độ người khác biểu lộ niềm vui hay nổi buồn. Những tin tức này được hoạt động não giải thích và đánh giá làm cho chúng ta cảm thông rồi chuyển đến họ sự cảm thông về một điều họ đang có như nỗi buồn.
Thực dụng của sự cảm thông: Chính nhờ sự cảm thông này mà chúng ta có tình người hơn, cảm nhận được vui buồn của người khác, bớt đi sự chấp ngã nơi mình, tạo được sự quan hệ tốt đẹp với những người chung quanh và làm những điều tốt đẹp cần thiết cho những người chung quanh.
6. Tự nhận biết về đời mình (insight) là tự nhận biết về đời mình từ quá khứ đến hiện tại tới tương lai. Những tin tức (những ký ức) về những gì xảy ra qua thời gian cùng tánh chất các cảm xúc hiện đang có, những gì xảy ra trong quá khứ và hình dung được những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Nói khác đi, đó là sự cảm nhận câu chuyện về cuộc đời chúng ta được chính mình cảm nhận trong dòng thời gian từ quá khứ qua hiện tại và đến tương lai.
Thực dụng của trực thức: Sự trực thức này giúp chúng ta cảm nhận được ý nghĩa về đời sống chính mình và định hướng cho đời mình.
7. Giảm sợ hãi (fear modulation) là sự làm giảm bớt sức mạnh của mức độ sợ hãi. Sợ hãi giảm đi xảy ra khi các tế bào thần kinh tiết ra chất hóa học ngăn chặn không cho xuất hiện sự sợ hãi, đó là chất thần kinh dẫn truyền GABA (gamma amino butyric acid) chuyển đến vùng làm phát sinh ra sợ hãi như hạch Hạnh Nhân. Trên thực tế, cách thực hành vốn giản dị: Chú ý nhận biết cảm giác sợ hãi (thay vì để sợ hãi áp đảo) cùng lúc với thở đan điền, gọi tên (nói thầm: Sợ hãi, sợ hãi) thì cơn sợ hãi sẽ dịu xuống.
Thực dụng của giảm sợ hãi: Phát triển khả năng không sợ hãi hay vô uý.
8. Trực giác nội tạng (intuition) là có khả năng biết được tình trạng các cơ quan bên trong cơ thể. Hệ thống thần kinh bao quanh các bộ phận như tim, gan, ruột chúng ta là thần kinh lang thang (vagus nerve) thông báo tin tức mau lẹ tình trạng của các cơ quan này cho hệ thần kinh trung ương. Trực giác về thân thể là một hệ thống tinh vi qua đó chúng ta nhận biết các tin tức từ các bộ phận trong người. Như khi ăn no thì nhận biết mình đã no. Nhiều người không thực hành chánh niệm nên dù họ đã ăn no mà không biết nên tiếp tục ăn nữa. Các tin tức đó được ghi nhận ở vỏ não vùng giữa trước trán và từ đó ảnh hưởng đến cách suy luận và phản ứng của cơ thể của chúng ta. Vì dụ khi sợ hãi thì tim đập mạnh và thấy cái gì cũng làm cho mình sợ. Nếu thở đan điền thì tim dập chậm lại và sợ hãi sẽ bớt đi và trở lại trạng thái bình an.
Thực dụng của trực giác: Giúp chúng ta trở nên bén nhạy hơn và biết rõ hơn tình trạng hoạt động của các cơ quan nội tạng như tim, bao tử, ruột để có thể làm chúng dịu lại qua sự thực hành thiền hay chữa trị khi có bệnh.
9. Đạo đức (morality) là sống có đạo đức. Các cuộc nghiên cứu cho thấy vùng trung não trước trán tham dự vào việc làm phát sinh đạo đức. Như con người nghĩ đến quyền lợi số đông hay mọi người trong gia đình hơn là quyền lợi cá nhân mình, dù khi đó không có ai. Ví dụ: Một người lính canh cố gắng thức trong khi canh gác thay vì ngồi ngủ vì nhớ đến bổn phận bảo vệ an ninh cho đồng bạn dù lúc đó không có ai trông chừng anh ta. Nơi những người lành mạnh, đạo đức có khả năng bó buộc, bắt con người làm theo. Tuy nhiên, nơi những người bệnh hoạn, khi bị hư vỏ não vùng mắt trước trán (thuộc trung não trước trán) thì người bệnh mất khả năng suy nghĩ đạo đức và có những hành động ngược với đạo đức. Điều này không phải do người đó muốn mà vì do khu vực làm phát sanh các suy tư đạo đức bị hư hại.
Thực dụng của đạo đức: Khi tu tập thì chúng ta làm cho vỏ não vùng mắt trước trán gia tăng hoạt động thì đời sống đạo đức chúng ta sẽ gia tăng một cách tự nhiên, nhờ đó sự thực hành những hành vi lành mạnh và tốt đẹp cho gia đình, cộng đồng và xã hội sẽ thành dễ dàng và đem lại nhiều lợi ích và hạnh phúc cho bản thân cũng như những người chung quanh.
Thực hành thiền làm cho chín chức năng tốt đẹp nói trên phát triển. Do đó, trong một nước mà nhiều người thực hành thiền thì nước đó ổn định và phát triển về mọi mặt.
MỤC ĐÍCH TU TẬP
Như vậy, thực hành chánh niệm hay thiền trong đời sống hàng ngày giúp cho kết hợp nhiều vùng não khác nhau trong một phạm vi rộng trong bộ não và trong cơ thể. Khi chúng ta thực hành chánh niệm, chú tâm và nhận biết những gì thấy nghe thì chúng ta cảm nhận nhận trực tiếp những điều chúng ta thấy biết qua các giác quan. Đó là tâm thấy hay tuệ tri. Sự thấy biết trực tiếp và rõ ràng này làm gia tăng khả năng hoạt động của các vùng quan trọng như vỏ não trước trán, hệ bán tính và thân não và tạo ra sự kết hợp thần kinh giữa các vùng này. Sự kết hợp thần kinh này vốn rất cần thiết cho bộ não tạo sự quân bình cũng như điều hành các hoạt động tốt đẹp.
Tu tập là thực hành chương trình tự huấn luyện để gia tăng hạnh phúc, sức khỏe và thành công trong 8 tuần lễ như sau:
1. Làm gia tăng hạnh phúc nơi não, thân và tâm:
- Gia tăng hạnh phúc nơi não: Khi tập thế chánh định, Khí Công Thiếu Lâm cảm nhận cảm giác hạnh phúc nơi vỏ não trước trán bên trái và chuyển tín hiệu hạnh phúc đến nhiều vùng khác trong bộ não (qua sự cảm nhận hạnh phúc ở các vùng): Vỏ não vùng mắt trước trán, vỏ não vùng bên trái trước trán và các vùng thấp hơn.
- Gia tăng thoải mái và khỏe mạnh nơi thân: Cùng lúc cảm nhận an lạc nơi não, cảm nhận năng lượng nơi vùng chân và tay khi tập Thế Chánh Định sinh hỷ lạc, Vận Nội Lực gia tăng chân khí và nhất là khi tập Dưỡng Sinh Tâm Pháp. Lúc tập các động tác Khí Công Thiếu Lâm cảm nhận cảm giác căng (mạnh mẽ) của lục phủ và lục tạng.
- Gia tăng hạnh phúc nơi tâm: Lúc tu tập thấy rõ tâm là vô ngã. Tâm chỉ là dòng trôi chảy của những niềm vui và sự lành mạnh và cùng lúc cảm nhận những thứ trên nên tâm tràn đầy an vui và lành mạnh trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc, nói chuyện, ăn cơm, lái xe hay các sinh hoạt khác.
Khi duy trì sự cảm nhận nhẹ nhàng vùng trung não trước trán (vùng đan điền thượng, từ vùng ấn đường đến giữa não trước trán) thì cảm giác an vui thường xuyên tự động xuất hiện. Rồi từ cảm giác an vui nơi vỏ não trước trán, chúng ta có thể chuyển năng lượng hạnh phúc này đến các vùng sâu hơn trong não (liên hệ đến các chức năng khác của bộ não).
2. Làm tăng gia bình an: Cảm nhận ý nghĩa tốt đẹp và sự toàn diện của thân và tâm trong không gian rộng lớn và thời gian là hiện tại tràn đầy mầu nhiệm. Qua sự thực hành chánh niệm và tập luyện làm gia tăng cảm nhận sự bình an một cách tự nhiên khi thực hành cảm nhận vùng trung não trước trán.
3. Làm gia tăng năng lượng tích cực: Qua sự làm gia tăng hoạt động vỏ não trước trán trái qua thiền và tập các thế Khí Công Tâm Pháp.
4. Làm gia tăng tình thương yêu: Hòa tình thương vào mạch sống của chính mình và trong tương giao với người khác qua sự thực hành Từ Bi Quán. Từ đó, tình thương yêu khởi lên nơi đan điền trung, vùng quả tim, cảm nhận sự ấm áp của tình thương nơi đây rồi hướng năng lượng thương yêu đến chính mình (làm tràn ngập thân và tâm mình) và những người khác
5. Làm gia tăng nguồn năng lượng của chân khí: (theo Đông Y, đó là nguồn năng lượng chạy qua các đường kinh đến phủ và tạng hoặc qua các đường mạch ở dưới da. Còn theo thần kinh học là sự gia tăng số lượng hoạt động các khớp (synapse) nơi tế bào thần kinh và sự tiết ra các chất hóa học thần kinh dẫn truyền tốt, do sự thực hành chánh niệm và tập luyện, làm gia tăng các cảm nhận an vui lành mạnh trong bộ não và nơi thân thể. Nguồn năng lượng tốt đẹp của đời sống này làm phát sinh sự kết hợp thần kinh, sức khỏe thể chất và sự mạnh mẽ và hạnh phúc của tâm. Khi tập thế Quân Bình Chân Khí, thế Vượng Não và nhất là thế Vận Nội Lực Gia Tăng Chân Khí thì cảm nhận chân khí gia tăng mạnh mẽ nơi bộ não và nơi thân.
Trong sự tự huấn luyện, hay tu tập, nói trên, điều quan trọng là chúng ta từ từ phát triển khả năng sinh hoạt trong trạng thái vô ngã, không có một cái tôi cứng nhắc mà chỉ có một trạng thái rỗng lặng, sáng suốt, thấy biết rõ ràng các ý tưởng, cảm xúc vui buồn hay các phản ứng nơi tâm và nơi thân. Vô ngã là trạng thái lành mạnh nhất của tâm khi sống trong chánh niệm, thấy biết rõ ràng chân thật mọi thứ mà không bị dính mắc nên đạt được niềm hạnh phúc và tự do cao vút đời người. Theo giáo sư Siegel,[4] qua cái nhìn của nhà phân tâm học, thì vô ngã là cái chân ngã, là cái tâm cốt lõi, là tánh thấy biết như thị không thể suy nghĩ hay tưởng tượng mà biết được:
“Tôi tin rằng, bên dưới của tất cả trạng thái của tâm, là cái tôi cốt lõi của trung tâm mọi thứ thấy biết. Vài nhà nghiên cứu gọi nó là cái tánh riêng biệt như vậy đó (ipseity). Ipseity, là tiếng La Tinh, từ chữ ipse là “tự nó”. Ipseity là “như vậy đó”, là sự có mặt làm nền tảng nơi hoạt động của các trạng thái của cái tôi. Nhiều người trong chúng ta khó mà tưởng tượng ra cái tôi thấy biết này chứ đừng nói đến cảm nhận được cái tôi đó”.
Như vậy đó là như thị (suchness), một danh từ đặc biệt trong đạo Phật chỉ trạng thái chân thật của mọi hiện tượng hay thật tướng của vạn pháp. Trạng thái chân thật này không thể suy nghĩ hay tưởng tượng mà biết được. Khi chúng ta nhìn đóa hoa hồng với tâm trong trạng thái buông xả, rỗng lặng, trong sáng, tỉnh thức, linh hoạt và thấy biết rõ ràng thì không có cái “tôi nhìn” thấy “đóa hoa hồng”, không có một chủ thể thấy và một đối tượng có tên, hình dáng hay màu sắc với giá trị và ý nghĩa được gán cho nó. Lúc ấy, trong trạng thái rỗng lặng, rộng lớn, đóa hoa hồng có mặt chân thật và tràn đầy. Đó là như thị, là sự có mặt kỳ diệu của đóa hoa trong tâm rỗng lặng uyên nguyên, là trạng thái chân không diệu hữu.
Giáo sư Seigel[5] cố gắng đi sâu hơn vào tâm chân thật khó nhận biết vì vượt lên mọi sự suy nghĩ hay tưởng tượng:
“Nhưng đây là bản chất thực sự của chúng ta bên dưới những ý tưởng kể chuyện và ký ức, những phản ứng cảm xúc và các thói quen. Chính từ nơi đó mà chúng ta có thể làm cho ngưng lại những ảnh hưởng từ trên xuống nơi não và đến gần cái gọi là sơ tâm”.
Sơ tâm được giảng rất rõ ràng trong tác phẩm nổi tiếng Thiền Tâm, Sơ Tâm[6] của Thiền sư Shunryu Suzuki trong các khóa tu tập ở thiền viện Tassajara miền nam bang California, Hoa Kỳ.
Phần thực hành. Xin bạn thực hành phát triển hạnh phúc: 1. Ngồi thiền 10 phút, 2. đi bộ trong chánh niệm hay thiền hành 10 phút và 3. là tập Thế Chánh Định.
Phần thực hành 1 và 2. Như trong chương 1.
Phần thực hành 3. Tập Thế Chánh Định (xin xem dĩa DVD kèm theo sách)
Chúng ta tập Thế Chánh Định trong trạng thái thân tâm thư dãn để phòng ngừa bệnh tật và phát triển sức khỏe qua sự giải trừ căng thẳng. Đây là thiền hoạt động. Các động tác Thế Chánh Định gồm có 4 bước hay động tác. Khi tập, chúng ta phải để tay cho đúng khi bắt đầu tập, các động tác phối hợp với hơi thở nhẹ nhàng khi thở vào (mũi) và khi thở ra (mũi), thở đan điền hay thở thường đều được. Xin chú tâm thoải mái và thực hành các động tác nhẹ nhàng với sự chú tâm như trong các hình sau đây. Nếu muốn thấy rõ hơn, xin xem dĩa DVD kèm theo sách.
|
Chuẩn bị tập |
Bước một: Hít vào bằng mũi và đưa hai tay lên (Khi đã tập quen thì nhắm mắt lại khi hít vào và đưa hai tay lên) |
|
Bước hai: Thở ra bằng mũi và hạ hai tay xuống. (Khi đã tập quen thì mở mắt ra khi hạ tay tay xuống) |
Thuộc bước hai: Đồng thời đưa hai bàn tay lên sau lưng cùng lúc với hai gót chân đưa lên. |
|
Bước ba: (hình trên, số 1) Hít vào bằng mũi khi đưa hai bàn tay ra phía ngoài để gần hai bên hông. (Khi đã tập quen thì nhắm mắt lại khi hít vào và đưa hai tay ra hai bên) |
Bước bốn: (hình trên, số 2) Thở ra khi đưa hai bàn tay vào trong thành ấn Định Tâm như lúc bắt đầu. (Khi đã tập quen thì mở mắt ra khi hai tay đưa vào phía trong.) |
Xin lưu ý: Thế Chánh Định có mục đích làm phát sinh trạng thái thư dãn khi hoạt động và làm phát sinh dấu ấn thân an lạc. Khi tập thế này, chúng ta không cần phải thở đan điền mà chỉ cần thở tự nhiên với sự chú ý và nhận biết hơi thở vào, hơi thở ra, hai tay và hai chân cử động với tâm buông xả. Khi tập thế Chánh Định thuần thục thì theo cách hít vào nhắm mắt, thở ra mở mắt, để gia tăng sự cảm nhận trạng thái buông thư giúp chữa trị bệnh tật.
Tại sao cần tập Thế Chánh Định? Tập Thế Chánh Định với sự chú tâm thoải mái từ 10 đến 15 phút làm phát sinh trạng thái thư dãn và giải trừ căng thẳng nhanh chóng. Sau khi quen với động tác, bạn có thể tập bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu để làm giảm căng thẳng (stress, bức xúc). Trạng thái thư dãn là viên thần dược chữa trị và phòng ngừa rất nhiều thứ bệnh tật như đã được bác sĩ Fricchione thuộc Viện Y Khoa Thân/Tâm, Mind Body Medical Institute xác nhận. Viện Y Khoa Thân/Tâm này do bác sĩ Hertbert Benson, giáo sư y khoa trường đại học Harvard sáng lập.
Thế Chánh Định rất dễ tập để làm phát sinh trạng thái thư dãn thân và tâm là trạng thái buông thư rất quan trọng mà chúng ta cần nhớ lại tờ nguyệt san về sức khỏe tâm thần Mind, Mood and Memory, trong số tháng 9 năm 2008, đã ghi lại lời phát biểu của bác sĩ Fricchione, giám đốc trung tâm Y Khoa về Thân/Tâm: “Cuộc nghiên cứu cho thấy sự thay đổi sinh lý trong cơ thể liên hệ đến sự thực hành thiền thư dãn - như là làm cho huyết áp hạ xuống, giảm nhịp thở và nhịp tim đập - liên hệ đến sự thay đổi hoạt động của một số gen chuyên biệt. Khi thực hành thiền thư dãn thì những gen này hoạt động ngược lại chiều hướng khi bị căng thẳng”.
Điều đặc biệt hơn nữa là bác sĩ Fricchione nhấn mạnh: “Những người thực hành thiền thư dãn chỉ trong vòng 8 tuần lễ thì những hoạt động của gen cũng tương đồng với những người đã thực hành nhiều năm. Trước khi thực hành thiền thư dãn, cơ thể các người thực hành thiền thư dãn trong thời gian 8 tuần lễ nói trên không được bảo vệ chống lại hậu quả của căng thẳng như là bị viêm, tế bào bị quy định cho chết cùng với sự phản ứng (yếu kém) của cơ thể đối với các thứ gốc tự do (làm cho ốc xít hóa) làm hư hại các tế bào trong cơ thể. Sau khi họ thực hành Thiền buông thư trong 8 tuần lễ thì cơ thể họ được bảo vệ chống lại những điều tiêu cực này”.
***
[1]. Siegel, D., J. (2009). Mindsight: The New Science of Personal Transformation. Random House Publishing Group. Kindle Edition, tr. 85.
[2]. Siegel, D., J. (2007). The Mindful Brain: Reflection and Attunement in the Cultivation of Well-Being. New York: WW Norton & Company, tr. 38.
[3]. Như trên, Ibid., tr. 42-44.
[4]. Siegel, D., J. (2009). Đã đã viện dẫn, Op. Cit., tr. 208.
[5]. Như trên, Ibid.
[6]. Suzuki, S. (2011) Zen Mind, Beginner’s Mind. Massachussetts: Sambala Publication, Inc.