Đạo Phật Ngày Nay

Tuần lễ 2: Huấn luyện bộ não hoạt động tốt hơn - Chương 1: Tu tập làm cho tâm điều hành năng lượng và tin tức trong bộ não tốt hơn

 

 

CHƯƠNG 1:

TU TẬP LÀM CHO

 TÂM ĐIỀU HÀNH NĂNG LƯỢNG

VÀ TIN TỨC TRONG BỘ NÃO TỐT HƠN

T

hông thường khi nói đến tâm, chúng ta nghĩ đến chủ thể thấy biết về một đối tượng như màu sắc xanh đỏ, tiếng nhạc hay lời nói, không khí ấm lạnh bên ngoài hay niềm vui hoặc nỗi buồn bên trong lòng  mình. Trong đạo Phật, không có sự tách lìa chủ thể và đối tượng thấy biết như trên. Khi hai thứ nương vào nhau mà phát sinh cái thấy, như người nhìn và đóa hoa, thì trạng thái thấy đóa hoa xuất hiện như lời ngài Tam Tổ Tăng Sáng dạy trong Tín Tâm Minh:

                  “Tâm là tâm của cảnh

                  Cảnh là cảnh của tâm…”.

BA PHẦN CHÍNH CỦA TÂM

Theo giáo sư Siegel[1], qua cái nhìn của khoa thần kinh học, tâm là sự hợp nhất của ba thứ như ba đỉnh trong một hình tam giác với đỉnh ở dưới là sự tương quan với những người khác và hai đỉnh ở trên là tâm và não.

Giáo sư Siegel[2] cho rằng đó là tam giác của tâm lành mạnh của chúng ta bao gồm sự tương quan với người khác, tâm và bộ não ảnh hưởng qua lại lẫn nhau:

Tương quan với người khác xảy ra khi có sự trao đổi năng lượng và tin tức với người khác. Bộ não là những hoạt động thể chất mà năng lượng và tin tức trôi chảy trong đó. Tâm là các hoạt động nối tiếp điều hành các năng lượng và tin tức đó. Thay vì phân chia đời sống chúng ta thành ba phần riêng biệt, tam giác này thực sự tượng trưng cho ba chiều của một hệ thống năng lượng và tin tức trôi chảy”.

Như vậy, theo giáo sư Siegel:

1. Tâm là nơi cảm nhận ý nghĩa của những điều nghe thấy, ý tưởng hay cảm xúc dưới dạng những tin tức và năng lượng luân chuyển trong bộ não. Tâm điều hành cho tốt hơn qua cách làm cho tăng hay giảm sức mạnh dòng trôi chảy của các tin tức và năng lượng này trong não qua sự chú ý nhiều hay ít. Ông ta đưa ví dụ cụ thể như sau:[3]

Như trong hành động lái xe. Lái xe là “điều hành” cái xe hơi, khi lái xe bạn phải cùng lúc nhận biết sự chuyển động và vị trí của nó trong không gian và cùng lúc có thể làm cho xe chạy nhanh hay chậm. Nếu bạn để tay trên tay lái nhưng mắt thì nhắm lại (hay chú ý vào việc bấm chữ nơi máy điện thoại) thì bạn cũng đang làm cho xe chạy nhưng bạn không lái xe – vì lái xe là điều hành tốc độ xe chạy. Nếu bạn mở mắt nhưng bạn ngồi nơi ghế sau thì bạn cũng theo dõi xe chuyển động (và nói những lời phê bình) thì bạn cũng không thể thực sự làm cho sự chuyển động xe thay đổi”.

Những điều trên giống như trường hợp chúng ta không thực hành chú ý. Khi có sự chú ý thì tâm thấy biết, theo dõi dòng trôi chảy của các tin tức và năng lượng trong tâm và trong thân từ lúc này đến lúc khác và cùng lúc làm cho dòng trôi chảy này thay đổi theo ý muốn như buồn rầu, lo lắng, ham muốn, sợ hãi hay rối loạn thành thoải mái an vui. 

Điều này không khác gì lời đức Phật dạy trong phẩm Tâm, kinh Pháp Cú:

                  “Tâm hoảng hốt dao động,

                  Khó hộ trì, khó nhiếp,

                  Người trí làm tâm thẳng,

                  Như thợ tên, làm tên…

                  Tâm khó thấy, tế nhị,

                  Theo các dục quay cuồng.

                  Người trí phòng hộ tâm,

                  Tâm hộ, an lạc đến”.[4]

2. Não và hệ thần kinh là nơi năng lượng và các tin tức truyền đi khắp nơi trong người chúng ta khi có sự thấy biết: Những giác quan (căn, như mắt) nhận biết bên ngoài (trần, như đóa hoa) rồi chuyển các tin tức đó vào bộ não dưới dạng những dòng điện trong các tế bào thần kinh và bộ não nhận biết như thấy màu sắc hay nghe tiếng nhạc (thức). Bộ não phản ứng lại qua các tế bào thần kinh bằng cách tiết ra những chất hóa học truyền tin tức (nên được gọi là chất thần kinh dẫn truyền, neurotransmitter) để điều hành cơ thể, kích thích các hoạt động hay ảnh hưởng đến cảm xúc vui buồn. Ví dụ khi một thanh niên nghe nhạc giật gân thì anh ta thích thú, lúc lắc tay chân và thấy hứng khởi.

Như vậy, năng lượng trong bộ não là các luồng điện và các chất hóa học trong bộ não. Những hoạt động nối tiếp của năng lượng này mang theo những tin tức là những thứ khác với tánh chất của dòng điện và chất hóa học.[5] Như khi hai người yêu gặp nhau thì trong bộ não của họ có những dòng điện chuyển đến các sợi nhánh của tế bào thần kinh, gọi là xung lực, làm cho các khớp thần kinh nối kết hai sợi nhánh tế bào thần kinh tiết ra chất Oxytocin làm cho họ cảm thấy sung sướng và ưa thích gần nhau.

Tiến sĩ Paul J. Zak, giám đốc sáng lập Trung Tâm Nghiên Cứu Thần Kinh - Kinh Tế ở đại học Claremont Graduate University, Hoa Kỳ là chuyên viên nghiên cứu lâu dài về chất hóa học Oxytocin. Trong cuốn Phân Tử Đạo Đức, Nguồn Của Tình Thương Yêu Và Sự Thịnh Vượng[6] tiến sĩ Zak đã viện dẫn các cuộc nghiên cứu về chất hóa học Oxycotin tiết ra từ trong bộ não con người làm phát sinh lòng từ. Ông gọi chất thần kinh dẫn truyền Oxytocin nơi con người làm phát sinh sự cảm thông hay HOME: Human Oxytocin Mediate Empathy.

Khi chất Oxytocin xuất hiện thì hai chất hóa học thần kinh khác cũng xuất hiện kèm theo là chất Dopamine và chất Serotonin.

• Dopamine thúc đẩy hành động và làm phát sinh cảm giác sung sướng. 

• Serotonin làm giảm đi sự sợ hãi khi gặp người lạ và làm niềm vui gia tăng.

Hình: Tác động của chất Oxytocin làm phát sinh cảm xúc tích cực.

Tiến sĩ Zak trong một tài liêu nghiên cứu về Oxytocin[7] đã trình bày chất thần kinh dẫn truyền Oxytocin như sau:

- Chất này được tuyến yên trong não, nhỏ bằng hạt óc chó (walnut), tiết ra.

- Oxytocin xuất hiện khi mẹ sinh con hay khi mẹ săn sóc con.

- Oxytocin làm cho sự sinh con được dễ dàng hơn và giúp cơ thể người mẹ sản xuất sữa cho con bú.

Tiến sĩ Zak, trong cuốn Phân Tử Đạo Đức nói trên cùng căn cứ vào các tài liệu do chính ông thực hành nhiều năm nghiên cứu Oxytocin, đã kết luận như sau:

1. Cảm thông và tình thương đều liên hệ đến chất Oxytocin.

2. Trong gia đình, mọi người đều cần làm cho Oxytocin gia tăng để gia tăng tình thương yêu và hạnh phúc.

3. Trong cộng đồng, mọi người đều cần gia tăng Oxytocin để cùng nhau hợp tác phát triển cộng đồng cùng chung sức làm cho gia tăng phúc lợi xã hội.

Như vậy, tin tức bao gồm cả hai phần là chất hóa học và niềm hạnh phúc, nỗi buồn hay những ý tưởng do hoạt động của những chất hóa học này làm chúng ta cảm nhận.

Bất cứ một hệ thống nào đều có những bộ phận này tác động vào bộ phận kia để cho hệ thống hoạt động qua năng lượng và tin tức. Năng lượng và tin tức vốn rất quan trong cho con người. Giáo sư Siegel[8] cho rằng nơi con người cũng như thế:

Về hệ thống con người chúng ta, những tác động này thường gồm có sự trôi chảy năng lượng và tin tức. Năng lượng là thứ giúp cho chúng ta có khả năng làm được điều gì đó còn tin tức là một thứ tượng trưng cho cái gì khác với nó. Ví dụ các chữ và ý tưởng là những đơn vị tin tức chúng ta dùng để nói chuyện với nhau. Mối  tương quan của chúng ta gồm có sự kết nối vợ chồng, gia đình, nhóm, trường học, cộng đồng và xã hội”.

Ông ta nói rõ “hệ thống thần kinh hoạt động nhờ sự trôi chảy của năng lượng điện và các chất hóa học” trong bộ não con người.

Vậy, theo ông, năng lượng và tin tức “trôi chảy” nghĩa là gì? Trôi chảy nơi đây theo giáo sư Siegel[9] là trôi chảy từ giây phút này đến giây phút kế tiếp qua dòng thời gian mà chúng ta có thể cảm nhận được. Chúng ta có thể hình dung một chiếc đèn bấm tiếp tục chiếu sáng do điện từ các cục pin tiếp tục chuyển năng lượng điện đến bóng đèn cho đến khi điện yếu dần và chúng ta có thể sạt lại các cục pin cho đầy điện lại. Đó là năng lượng trôi chảy và thay đổi qua dòng thời gian.

Khác với cục pin thụ động, chúng ta không những quan sát thấy sự trôi chảy dòng thời gian này mà còn có thể bước vào trong đó để thay đổi sự chuyển biến của nó qua sự điều hành tâm. Chính sự điều hành tâm này tạo ra những nề nếp mới, con đường mới cho dòng năng lượng và tin tức trôi chảy. Nói ngắn gọn lại, đây là tánh chất thực sự của những cảm nhận riêng tư về kinh nghiệm đời sống riêng biệt của mỗi chúng ta do dòng năng lượng và tin tức trôi chảy nơi mỗi người khác nhau.  

Chúng ta có thể lấy ví dụ một người bị bệnh trầm cảm do hoạt động vỏ não trước trán bên trái yếu kém. Khi thực hành thiền và tập luyện khí công thì hoạt động vùng này gia tăng và họ giảm bớt chứng trầm cảm. Qua sự tập luyện hàng ngày, họ đã tạo ra một nề nếp mới - như một con đường mòn càng ngày càng rộng lớn ra - cho sự trôi chảy dòng năng lượng đến vùng não này. Đó là sự điều hành tâm và bộ não.

Hình từ internet

Tế bào thần kinh có đầu những sợi nhánh và sợi trục để truyền tin tức cho nhau

Các tế bào thần kinh chuyển tin tức từ đầu cuối sợi trục đến đầu cuối sợi nhánh. Hai đầu sợi này hợp lại thành khớp thần kinh (synapse).

Hình từ internet. Xin cám ơn các tác giả.

Một xung lực (dòng điện, như trong hình trên) từ đầu cuối sợi trục (của tế bào thần kinh 1) làm các bọc chứa nhả ra chất hóa học thần kinh nơi khớp thần kinh và tác động vào đầu cuối sợi nhánh (tế bào thần kinh 2) để chuyển tin tức đi.

Như vậy, điều rất quan trọng chúng ta cần nhớ: Năng lượng nơi bộ não là các dòng điện và các chất hóa học làm cho bộ não hoạt động. Nơi xe hơi, năng lượng làm cho máy chạy là dầu xăng và điện còn tin tức là cách mở máy để điện chuyển động cơ, đạp ga để máy bơm xăng, quay bánh lái để định hướng di chuyển hay đạp thắng để giảm tốc độ khi cần. Nơi con người, tin tức trong bộ não là sự cảm nhận niềm vui, nỗi buồn hay các ý tưởng của chúng ta từ nơi các chất hóa học tác động qua lại nơi các khớp tế bào thần kinh trong bộ não do các xung lực điện làm cho phát sinh. Chúng ta thường nghe nhiều người nói họ có khả năng thu hút năng lượng vũ trụ làm gia tăng sức mạnh. Cho đến nay, qua các máy móc tân tiến, các nhà khoa học chỉ đo được năng lượng trong bộ não là dòng diện và các chất hóa học được gọi là thần kinh dẫn truyền.

3. Đỉnh tam giác thứ ba là mối tương quan với những người chung quanh chúng ta là một thành phần của tam giác liên hệ đến sức khỏe và hạnh phúc. Tương quan với người là sự chỉa sẻ tin tức và năng lượng với họ. Đây là một thành phần của tâm toàn diện và là sự trao đổi qua lại của dòng sông tin tức và năng lượng giữa những con người dưới dạng  những lời nói, chữ viết hay thái độ. Khi gặp gỡ nhau, những tin tức và năng lượng này có thể biểu lộ qua nụ cười, cái nhìn, cái háy, cái liếc, nét mặt, dáng điệu, cử chỉ hay cả sự im lặng làm phát sinh ra sự nhận biết giữa hai người hay nhiều người.

Ông đã trình bày về điều này trong tác phẩm về tâm thấy biết là khoa học của sự thay đổi nhân cách[10] như sau:

Tâm chúng ta được tạo ra qua những tương quan – trong đó kể cả tương quan với chính chúng ta nữa… Mỗi chúng ta có một cái tâm duy nhất: những ý tưởng, cảm xúc, nhận biết, ký ức, niềm tin và thái độ duy nhất (không giống ai cả) và những nề nếp điều hành duy nhất của tâm mình. Những nề nếp này tạo nên cách thức riêng biệt về sự trôi chảy của dòng năng lượng và tin tức trong mỗi chúng ta và khi chúng ta chỉa sẻ với những người khác”.

Nói khác đi, mỗi người có một cá tánh riêng biệt và qua đó mà tâm mỗi người quan sát và theo dõi những điều mình nghe, thấy, biết, cảm xúc hay suy nghĩ rồi biểu lộ thành sự thấy biết từ dòng trôi chảy của những năng lượng và tin tức trong bộ não riêng tư. Như hai người cùng nghe bản nhạc “Trở Về Mái Nhà Xưa” mà một người thấy lòng hân hoan còn người kia thì sầu thảm.

Qua kinh nghiệm của những thấy, nghe biết, vui buồn, ý tưởng hay ưa ghét lập đi lập lại nhiều lần mà các tế bào thần kinh kết nối với nhau ở trong một vùng hay các vùng khác nhau. Không khác gì một con đường mòn nhỏ và khó nhận ra khi được nhiều người đi lại nhiều lần tạo thành một con đường rõ ràng và lớn hơn, khi các hoạt động trong bộ não được lập đi lập lại nhiều lần thì chúng tạo thành những nề nếp, những sự kết hợp hoạt động của các tế bào thần kinh tạo thành những thói quen, hay nề nếp, làm cho niềm vui hay nổi buồn dễ dàng xuất hiện. Như trường hợp người cha khi đi làm về là gắt gỏng với con cái làm cho chúng sợ hãi thì sau đó chỉ cần thấy bóng dáng người cha bước vào nhà là các con đã sợ hãi. Sau này, khi lớn lên có gia đình, các người con mang theo cái nề nếp đối xử tiêu cực này và biểu lộ lại trong sự tương quan với con cái của mình. Đó là sự luân hồi ngay trong cuộc sống này.

Như vậy, các vùng trong bộ não kết hợp lại và hoạt động thành nề nếp làm phát sinh phản ứng cảm xúc vui hay buồn hay các thái độ trong đời sống. Trường hợp hai vùng trong bộ não xa nhau, các tế bào thần kinh có thể liên kết qua cách làm cho các sợi nhánh của tế bào thần kinh mọc dài ra như một người vươn một cánh tay ra thật dài để bắt tay với một người ở xa. Qua những hoạt động trong não nói trên mà các vùng não thay đổi và dày lên. Đó là sự thay đổi bộ não mềm dẽo (neuroplasticity).

Thay vì để cho sự phối hợp thần kinh (neural integration) là sự phối hợp của các mạch thần kinh khác nhau ở những vùng khác nhau trong bộ não, làm cho bộ não thay đổi theo cách tốt nhờ xấu chịu, giáo sư Siegel[11] nhấn mạnh đến sự phối hợp thần kinh có chủ ý đưa đến kết quả tốt cho người thực hành thiền vì thiền có khả năng tạo ra sự kết hợp thần kinh để làm gia tăng hoạt động tốt đẹp trong bộ não. Nói khác đi, thực hành thiền đưa đến sự phối hợp giữa các vùng rộng lớn trong bộ não làm phát sinh những điều tốt rất hữu hiệu. 

Khoa thần kinh học cho thấy khi sự phối hợp thần kinh không định hướng, hay sự kết hợp hoạt động thần kinh giữa các vùng khác nhau trong bộ não không có chủ đích, làm phát sinh ra những kết quả tốt hay xấu. Đó là con đường hai chiều tùy theo nhân duyên. Khi những hành vi xấu như hút thuốc lá, ăn uống nhiều đường mỡ hay cờ bạc, rượu chè được lập đi lập lại thành thói quen thì bộ não thay đổi theo những phối hợp các vùng não và phát triển tiêu cực. Khi những hoạt động tốt như vận động thể lực, ăn uống lành mạnh, thực hành chánh niệm hay cảm nhận nhiều niềm an vui được lập đi lập lại thành thói quen thì bộ não thay đổi và phát triển theo đường hướng tích cực qua sự kết hợp các vùng trong bộ não. Sự kết hợp này làm cho các vùng ở hai bên bán cầu não, với những chức năng khác biệt nhau, phối hợp các hoạt động làm cho não trở nên dễ thích nghi hơn và nhờ đó mà sự sáng tạo phát sinh.

SỰ QUAN TRỌNG CỦA CÁC VÙNG THUỘC TRUNG NÃO TRƯỚC TRÁN

Ngày hôm nay các nhà khoa học chú ý nhiều đến sự phối hợp hoạt động của nhiều khu vực khác nhau của hai bên bán cầu não để làm phát sinh các trạng thái an vui, hạnh phúc, cảm thông, thông minh hoặc sáng tạo. Trên thực tế, bất cứ vào thời điểm nào, có nhiều khu vực trong bộ não của chúng ta đang phối hợp hoạt động để đưa đến nhiều trạng thái thấy biết và trải nghiệm cảm xúc khác nhau. Sự thực hành tâm thấy biết hay chánh niệm, chú ý vào toàn diện các kinh nghiệm của thân và tâm chúng ta, cần có sự kết hợp giữa hai bán cầu não nơi vùng trước trán.

Giáo sư  Siegel[12] nghiên cứu về thiền chánh niệm và thấy thiền  kết hợp các cấu trúc khác nhau trong bộ não cùng với các chức năng khác nhau trong bộ não thành một một vùng hoạt động lớn hơn. Vùng lớn hơn này liên kết hoạt động của nhiều thành phần cách xa nhau trong bộ não cùng trong thân thể chúng ta và tạo ra sự phối hợp và quân bình chức năng, như làm cho cảm xúc thành êm dịu hay có sự cảm thông với người khác khi giao tiếp.

Các vùng vỏ não trước trán ở cả hai bên bán cầu não

1. Vỏ não vùng mắt trước trán

2. Vỏ não lưng bên trước trán

3. Vỏ não bụng giữa trước trán

4. Hệ bán tính (Cảm xúc)

5. Bó khuy (Mỏ trước bó khuy ở phía trước)

6. (nơi đầu mũi tên) Vỏ não giữa trước trán (middle prefrontal cortex)

Vùng Trung Não Trước Trán (từ ấn đường lên đến giữa trán, (middle prefrontal regions):Bao gồm bốn vùng não khác nhau phối hợp hoạt động mà giáo sư Siegel[13] nói đến. Đây là tên mà giáo sư Siegel dùng để chỉ cho khu vực vùng não quan trọng gồm có các thành phần như sau:

1. Vỏ não vùng mắt trước trán (orbitofrontral cortex),

2. Vỏ não giữa trước trán (medial prefrontal cortex),

3. Vỏ não bụng giữa trước trán (ventromedial prefrontal cortex), và

4. Mỏ trước bó khuy (anterior cingulated cortices).

Những vùng này thường phối hợp hoạt động với vỏ não vùng thùy đảo (insula cortex) mà một trong các chức năng là chuyển những thứ cảm nhận vô thức (như cảm giác tim hồi hộp chưa biết) thành ý thức (biết tim đang hồi hộp). Khi chúng ta thực hành thiền tĩnh lặng và thiền hoạt động thì những vùng não nói trên phát triển và hòa hợp tốt đẹp.

Hình thùy đảo (insula)

 

Vùng trung não trước trán nơi đan điền thượng, từ giữa trán đến vùng ấn đường

CÁC PHẦN TRONG BỘ NÃO KHÔNG HOẠT ĐỘNG TÁCH RỜI

Mỏ trước bó khuy (phía trước cong xuống như mỏ con chim)

Theo giáo sư  Siegel[14], trong các cuộc nghiên cứu thần kinh, các chuyên gia thần kinh học thường phân chia bộ não thành các vùng hoạt động với những chức năng riêng biệt như mỏ trước bó khuy, hệ bán tính hay vỏ não vùng lưng bên trước trán. Mỏ trước bó khuy, dù nó nằm ngay dưới vỏ não trước trán, thường được chính thức xem là thuộc cấu trúc của hệ bán tính hay hệ cảm xúc (limbic structure, cái nôi của cảm xúc) mà không phải là một phần của não trước trán có chức năng cao cấp như suy nghĩ hay hoạch định chương trình. Trên thực tế, bó khuy có thể được xem là “phần cảm xúc của não suy nghĩ”. Tuy nhiên, vì bó khuy là phần trên cùng của hệ bán tính nên cũng có thể được xem như thuộc thành phần hệ cảm xúc và là phần tận cùng của hệ bán tính nơi vùng não trước trán. Như vậy đó là “sự kết nối lý trí và tình cảm” trong bộ não. Nếu chỉ dùng danh từ hệ bán tính (cảm xúc) hay vỏ não trước trán (suy nghĩ), chúng ta sẽ bị giới hạn trong ý nghĩa của danh từ này vì chỉ nói đến một cấu trúc riêng biệt của não, trong khi những cấu trúc này có nhiều liên hệ mật thiết với nhau cũng như có những hoạt động phối hợp nhịp nhàng với những vùng khác trong não để làm phát sanh ra những kết quả khác nhau như suy nghĩ lạnh lùng hay suy nghĩ với lòng cảm mến.

Giáo sư Siegel[15] chứng minh bằng các kết quả của nhiều cuộc nghiên cứu thần kinh học cho thấy sự phối hợp các vùng vỏ não trước trán nói trên làm phát sinh chín chức năng liên hệ đến sự cùng chung hoạt động của các vùng thuộc trung não trước trán (middle prefrontal regions). Những chức năng phức tạp này tùy thuộc vào các vùng thần kinh khác nhau, bao gồm cả một số các mạch thần kinh ở nhiều vùng não khác nhau,  kể cả ở bên ngoài các mạch thần kinh thuộc vùng trước trán, và có nhiệm vụ làm cho hệ thống thần kinh rộng lớn này kết hợp hoạt động với nhau làm phát sinh chín chức năng riêng biệt. 

Khi nghiên cứu, các nhà thần kinh học nhận thấy mỗi vùng (vỏ não vùng mắt trước trán, vỏ não giữa trước trán, vỏ não vùng bụng trước trán và mỏ trước bó khuy) có sự đóng góp riêng biệt  cho sự phối hợp các vùng thần kinh trong bộ não làm phát sinh chín chức năng làm cho sự điều hành thân thể tốt đẹp, sự trao đổi hòa hợp giữa con người, làm cho cảm xúc quân bình, duy trì phản ứng mền dẽo, có sự cảm thông với tha nhân, tự nhận biết về đời mình từ quá khứ đến hiện tại và trong tương lai, làm giảm đi sự sợ hãi, có khả năng biết được tình trạng các cơ quan bên trong cơ thể và sống có đạo đức.

Như vậy, điều quan trọng chúng ta cần nhớ là vùng trung não trước trán, do những sự kết hợp các khu vực khác nhau trong não, liên hệ đến một vùng hoạt động thần kinh rộng lớn ở ngoài vùng các khu vực trung não này. 

Giáo sư Siegel cho rằng vùng trung não trước trán có chức năng là tạo nên sự phối hợp và làm cho quân bình các hoạt động của nhiều vùng khác trong bộ não. Chính sự phối hợp hoạt động của các mạch thần kinh vùng trung não giúp cho người thực hành thiền hay sống trong chánh niệm mà không cần có một nỗ lực có ý thức hay cố gắng làm mới có được.

Nói giản dị hơn theo tâm lý học thì chánh niệm có mặt một cách tự nhiên. Còn nói theo đạo Phật thì “Tu như vô tu, chứng như vô chứng”.

NHẬN BIẾT VÙNG TRUNG NÃO TRƯỚC TRÁN

Sau khi chính phủ Hoa Kỳ cấm dùng thuốc giảm đau codeine vì thuốc làm phát sinh những biến chứng tiêu cực vào tháng 2 năm 2013, bác sĩ Ochi[16] thực hành cách làm giảm đau không dùng thuốc. Trong cuộc nghiên cứu làm giảm đau sau khi giải phẩu hạch a-mi-đan nơi cổ của 31 bệnh nhân từ 2 tuổi đến 17 tuổi, bác sĩ Ochi đã dùng kim kim châm cứu châm vào vùng ấn đường và các huyệt khác thay vì cho uống thuốc giảm đau codeine sau khi giải phẫu. Trước khi được châm kim, các bệnh nhân hay cha mẹ báo cáo mức đau trung bình là 5.52 trên mức thang độ đau từ 1 đến 10. 

Hình từ: FACES Pain Score-Revised Scale.

Hình mức độ đau từ 1 đến 10 được dùng trong cuộc nghiên cứu.

Hình từ cuộc nghiên cứu nói trên

Tên các huyệt được bác sĩ Ochi châm giúp giảm đau:

LI 4  Hợp cốc, LI 11 Khúc trì, LI 10 Thủ tam lý, GV 20  Bách hội, GV 24.5 Ấn đường, LI 20 Nghinh hương, CV 23 Liêm tuyền. đối chiếu các huyệt ở các phần thân thể như sau:

1. Các huyệt trên bàn tay và cánh tay: LI 4   Hợp cốc, LI 10 Thủ tam lý, LI 11 Khúc trì.

2. Huyệt trên đỉnh đầu: GV 20  Bách hội.

3. Các huyệt trên mặt: GV 24.5 Ấn đường, LI 20 Nghinh hương.

4. Huyệt nơi dưới cổ: CV 23 Liêm tuyền.

Trong cuộc thí nghiệm này, bác sĩ Ochi nhận thấy tất cả các bệnh nhân được châm vào huyệt Hợp Cốc (L14) đều giúp giảm đau phù hợp với kinh nghiệm trước đây của ông.

Hợp Cốc là huyệt thứ 4 thuộc kinh Đại Trường, cũng là nguyên huyệt của đường kinh liên quan đến đường kinh thuộc màng lưới tam tiêu để điều hòa khí, có công dụng sơ tán phong tà, giảm nhiệt, thông phổi, thông giáng trường vị, thông lạc, giảm đau răng và đau bụng.

Ngoài ra, các bệnh nhên còn được châm vào các huyệt Ấn đường (GV 24.5), Nghinh hương (LI 20) và Liêm tuyền (CV 23) giúp thêm cho phần giảm đau.

Huyệt Hợp Cốc 

Sau khi được châm kim nơi các huyệt 15 phút thì mức độ đau giảm xuống còn 1. 92. Ngoài ra, các vị phụ huynh có con chữa trị cho biết sự giảm đau này kéo dài đến 2 ngày 1/2 mà không phải uống thuốc giảm đau.

Huyệt Ấn Đường: Theo tiến sĩ Micheal Reech Gach,[17] giám đốc học viện bấm huyệt ở Berkley, California, đã dạy trên 100,000 học viên và tác giả nhiều sách về bấm huyệt (như Acupressure’s Potent Points, Acu-Yoga, và Acupressure for Emotional Healing) thì huyệt Ấn Đường là một huyệt rất quan trọng có chức năng làm cho gia tăng hạnh phúc, trí óc trong sáng và giảm căng thẳng hữu hiệu. Chỉ cần ấn nhẹ vào huyệt Ấn Đừng từ 2 đến 3 phút với hai mắt nhắm lại trong khi thở thoải mái và sâu thì có kết quả tốt đẹp. Có thể dùng cách này vào những lúc khác nhau trong ngày khi cần hay nằm trên giường trước khi ngủ.

Huyệt Ấn Đường nằm trong vùng rộng hơn là Đan Điền Thượng, thuộc vùng trung não trước trán. Thực hành ấn nhẹ vào huyệt Ấn Đường trước khi ngồi thiền làm phát sinh cảm giác êm dịu, thoải mái và thích thú.

Phần thực hành: Ấn nhẹ vào huyệt Ấn Đường để cảm nhận niềm vui ưa thích rồi ngồi thiền và thiền hành.

Phần 1. Ấn nhẹ vào huyệt Ấn Đường

Dùng đầu ngón tay giữa phía dưới nhấn nhẹ vào vùng ấn đường cảm nhận cảm giác vui ưa thích và để yên như vậy trong 2 phút trước khi ngồi thiền.

Để cho sự cảm nhận niềm vui được dễ dàng, xin quý vị thực hành như sau: Dùng đầu ngón tay giữa xoa nhẹ ba lần vùng ấn đường rồi nhấn vào nơi đây 2 phút. Cách nhấn:

1. Để đầu ngón tay giữa phía dưới chạm vào vùng ấn đường, ngay nơi vùng xương hơi hỏm xuống ở giữa hai chân mày, xoa nhẹ ba lần và cảm nhận vùng hõm xuống này. 

2. Ấn đầu ngón tay giữa xuống vùng ấn đường ở mức vừa phải. Để nguyên như vậy trong 2 phút. Hít vào, thở ra thoải mái cùng lúc niệm thần A Di Đà Phật 20 lần là 2 phút.

3. Bạn có thể cảm nhận cảm giác thích thú, nếu không có cũng không sao. Sau 20 lần niệm Phật thì xoa hai tay cho ấm rồi xoa lên mặt cho tỉnh táo và bắt đầu thực hành thiền 10 phút.

Phần 2. Ngồi thiền 10 phút

Để đi vào thế giới rộng lớn của hạnh phúc, chúng ta bước một bước thứ nhì là ngồi thoải mái trên ghế hay trên gối thiền và thở trong tỉnh thức. Hít vào biết mình đang thở vào, thở ra biết mình đang thở ra. Sau đó đứng dậy đi bộ trong chánh niệm 10 phút. Xin thực hành với sự chú ý và thấy biết rõ ràng khi ngồi thiền hay đi bộ trong chánh niệm, và cảm nhận niềm vui đã sẵn có nơi mình. Một cách tự nhiên, hơi thở ra thường dài hơn hơi thở vào. Khi hơi thở vào tự nhiên và hơi thở ra dài và êm dịu thì trạng thái thư dãn xuất hiện.

Xin bạn ngồi thoải mái và chú ý vào hơi thở trong 10 phút để thân tâm được thư dãn. Để khỏi suy nghĩ, xin bạn hít vào rồi thở ra và niệm thầm: “A Di Đà Phật” với tâm buông xả. (Trong trường hợp bạn đã thực hành thiền, xin bạn theo phương pháp và thời khóa hàng ngày của mình.).

Phần 3. Đi bộ 10 phút

Cơ thể chúng ta cần vận động. Do đó, những vị nào làm việc hay học hành ngồi lâu cần vận động thể lực bằng cách đi bộ trong chánh niệm hay thiền hành. Để sự chú ý vào bước đi được dễ dàng, khi hít vào bằng mũi, chúng ta đếm 1, 2, 3 theo mỗi bước chân bước tới và lúc thở ra bằng mũi chúng ta đếm 1, 2, 3, 4 (hay 5 tùy theo hơi thở mỗi người) bước chân. Như vậy, khi hít hơi vào bước ba bước, khi thở ra bước 4 hay 5 bước. Đi bộ trong chánh niệm làm phát sinh hạnh phúc và sức khỏe.

***



[1]. Siegel, Daniel J. (2009). Mindsight: The New Science of Personal Transformation. Random House Publishing Group. Kindle Edition, tr. 3-10.  

[2]. Như trên, Ibid., nơi phần Appendix.      

[3]. Như trên, Ibid., tr. 54.               

[4]. Kinh Pháp Cú, Phẩm Tâm, HT. Thích Minh Châu dịch. 

[5]. Siegel, D. J. (2012). Pocket Guide to Interpersonal Neurobiology: An Integrative Handbook of the Mind. (Norton Series on Interpersonal Neurobiology). W. W. Norton & Company. Kindle Edition, tr. 462.

[6]. Zak, P. J. (2012). The Moral Molecule, The Source of Love and Prosperty, London: The Penguin Books, tr. 64-64.          

[7]. Zak, P. J. and Barraza, Jorge A., Empathy and Collective Action (April 8, 2009). Context and the Evolution of Mechanisms for Solving Collective Action Problems Paper. Available at SSRN: http://ssrn.com/abstract=1375059. htm. Retrieved on 7/3/2012.               

[8]. Siegel, D., J. (2009). Sách đã  viện dẫn, Op. Cit., tr. 3-10. 

[9]. Siegel, D. J. (2009). Sách đã  viện dẫn, Op. Cit., nơi phần Appendix.             

[10]. Như trên. Ibid., tr.54.               

[11]. Siegel, D., J.  (2007). The Mindful Brain: Reflection and Attunement in the Cultivation of Well-Being. New York: WW Norton & Company, tr. 46.            

[12]. Như trên, Ibid., tr. 11.              

[13]. Như trên, Ibid., tr. 34.              

[14]. Như trên, Ibid., tr. 337-339.   

[15]. Như trên, Ibid., tr. 40-41).      

[16]. Ochi JW. (2013) Acupuncture instead of codeine for tonsillectomy pain in children. Int J Pediatr Otorhinolaryngol. Dec, 77(12):2058-62. 

[17]. Gach, M. R.. Self-Care Expert on Acupressure Therapy. http://www.acupressure.com/Author/bio.htm. Retrieved on Jan. 10, 2014.     

Bình luận