Chương 2: Huấn luyện để gia tăng nhận thức, hạnh phúc và sức khỏe qua sự hợp nhất tâm và bộ não
CHƯƠNG 2:
HUẤN LUYỆN ĐỂ GIA TĂNG
KHẢ NĂNG NHẬN THỨC, HẠNH PHÚC
VÀ SỨC KHỎE QUA SỰ HỢP NHẤT TÂM VÀ BỘ NÃO
Thấy biết là nền tảng của ý thức nơi tâm của mỗi chúng ta. Muốn thấy biết điều gì thì chúng ta hướng sự chú ý vào thứ đó. Như muốn thấy đóa mai vàng trên cành, chúng ta hướng mắt đến cành mai và chú ý nhìn để thấy đóa hoa mai. Như vậy, chú ý gồm ba yếu tố có mặt cùng lúc: Người chú ý, đối tượng được chú ý và sự cảm nhận, hay thấy biết (trong sách này chúng tôi xin dùng chữ thấy biết đồng nghĩa với cảm nhận (awareness) có tính cách riêng tư nơi người thực hành sự chú ý. Ngày nay, qua sự thực hành thiền chánh niệm - huấn luyện khả năng duy trì sự chú ý và nhận biết lâu dài - trong các khoa tu tập thuộc các tông phái trong đạo Phật, các nhà khoa học đi sâu vào vấn đề chú ý.
THỰC HÀNH THIỀN LÀM CHO BỘ NÃO THAY ĐỔI
Nhiều lần đức Phật dạy về sự thực hành thấy biết trực tiếp và rõ ràng là tuệ tri như trong Kinh Niệm Xứ thuộc Trung Bộ Kinh, đức Phật dạy cách thực hành trực tiếp nhận biết về cảm giác sướng, khổ hay trung tính như sau:
“Này các Tỳ Kheo, ở đây Tỳ Kheo khi cảm giác lạc thọ, tuệ tri ‘tôi cảm giác lạc thọ’; khi cảm giác khổ thọ, tuệ tri ‘tôi cảm giác khổ thọ’; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ,tuệ tri ‘tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ’. Hay khi cảm giác lạc thọ thuộc về vật chất, tuệ tri ‘tôi cảm giác lạc thọ thuộc về vật chất’; hay khi cảm giác về lạc thọ không thuộc về vật chất ,tuệ tri ‘tôi cảm giác lạc thọ không thuộc về vật chất; hay khi cảm giác khổ thọ thuộc về vật chất tuệ trị ‘tôi cảm giác khổ thọ thuộc về vật chất’; hay khi cảm giác khổ thọ không thuộc về vật chất, tuệ tri ‘tôi cảm giác khổ thọ không thuộc về vật chất…”.
Cũng như vậy mà Ngài dạy chúng ta thấy biết rõ ràng về bất khổ bất lạc thọ là cảm giác trung tính, không sướng cũng không khổ.
Tuệ tri là thấy biết các cảm thọ như thị, như tánh chất thật sự của chúng, mà không bị các ý tưởng ưa hay ghét, ham muốn hay chán ngán hoặc các cảm xúc trói buộc thì chúng ta sống tự do và an lạc. Đây là một sự thấy biết trực tiếp không qua ngôn từ hay suy luận. Tất cả những sự thực hành thiền và nghiên cứu thiền tại Tây phương hiện nay đều dùng lời dạy nói trên của đức Phật làm khuôn vàng thước ngọc trong các chương trình thiền phát triển sức khỏe hay thiền gia tăng hạnh phúc.
Giáo sư phân tâm học Daniel Seigel trường y khoa UCLA, cũng là giám đốc trung tâm nghiên cứu về thiền tỉnh giác, Mindfulness Awareness Research Center, đã tạo ra chữ “tâm thấy” (mindsight) để nói về khả năng thấy biết về tâm của chính chúng ta và của người khác theo thiền và thần kinh học. Tâm thấy này là danh từ giản dị để nói về “tuệ tri” như lời đức Phật dạy. Đó là sự thấy biết trực tiếp chân thật mọi hiện tượng không qua suy nghĩ hay phê phán. Thực hành tâm thấy, hay cho đầy đủ hơn, thực hành tâm thấy biết đem lại lợi ích lớn lao:[1]
“Tâm thấy biết là khả năng nhận biết về thế giới bên trong của mình và người khác, nhưng không phải chỉ bằng cách quan sát thái độ bên ngoài mà thôi, mà là nhận biết về thế giới bên trong của tâm. Đây là cách thực hành không những làm cho chúng ta cảm nhận mà còn điều hướng cho năng lượng và những tin tức trôi chảy trong ba thành phần tâm, não và tương quan giữa con người. Từ đó, làm cho thay đổi dòng trôi chảy năng lượng và tin tức này tiến đến sự hợp nhất”.
Như vậy, thực hành sự chú tâm và thấy biết có khả năng điều hướng các hoạt động trong tâm chúng ta đưa đến sự kết hợp tốt đẹp của các hoat động thân và tâm. Giáo sư Siegel[2] trình bày tiếp về sự thực hành tâm thấy biet rất cần thiết và có lợi ích vì:
“Đây là một ống kính loại rất mạnh để chúng ta hiểu được đời sống bên trong của mình rõ ràng hơn, làm kết hợp các vùng trong bộ não và giúp cho mối tương quan với người khác tốt đẹp hơn. Tâm thấy biết là sự chú ý tập trung giúp cho chúng ta thấy rõ những hoạt động trong tâm mình. Nó giúp chúng ta thoát ra khỏi sự phản ứng tự động của thói quen và thái độ thâm căn cố đế. Nó giúp chúng ta ‘gọi tên và làm cho thuần hóa’ các cảm xúc chúng ta đang kinh nghiệm thay vì bị những cảm xúc này phủ ngập mình”.
Những điều nói trên diễn tả cái dụng, hay chức năng, của sự thực hành “tuệ tri” là làm êm dịu những cảm xúc trong lòng. Cảm xúc vui buồn khi khởi dậy thường tràn ngập tâm chúng ta và làm chúng ta không còn tự chủ được nữa, nhất là đối với các cảm xúc tiêu cực như giận hay cảm giác đau đớn. Gọi tên là một phương pháp thực hành trong thiền Minh Sát thuộc Nam tông, như khi ngồi thiền mà một cảm giác đau xuất hiện thì tự nói thầm “đau, đau” cho đến lúc cơn đau biến mất hay đang giận thì nói thầm “giận, giận” cho đến khi cơn giận tan biến hay khi đang thực hành ăn kiêng mà thấy quả chuối chiên bọc đường đầy dầu mà muốn mua ăn thì nói thầm ‘thèm ăn, thèm ăn” thì sự thèm ăn dịu xuống.
Giáo sư Siegel là một nhà nghiên cứu thần kinh học và chữa trị bệnh nhân bằng phân tâm học thực hành thiền siêng năng và tham dự các khóa tu tập về cách thực hành thiền chánh niệm cùng hướng dẫn thiền cho các bệnh nhân. Giáo sư Siegel cũng có duyên lành tham dự khóa tu tập bảy ngày thiền chánh niệm theo truyền thống Nam tông tại trung tâm thiền Insight Meditattion Society ở bang Massachussetts, Hoa Kỳ. Khóa tu đặc biệt này có sự tham dự của 100 nhà khoa học trong đó đa số là các chuyên gia nghiên cứu thần kinh học.[3] Trung tâm thiền này đã được khai giảng từ năm 1976 liên tục cho đến nay gồm các chương trình từ thực hành thiền vào các ngày cuối tuần cho đến thiền ba tháng liên tục cho những người mới học thiền hay đã thiền lâu ngày. Các vị thầy dạy thiền nổi tiếng trên thế giới được mời về để hướng dẫn tu tập thiền chánh niệm và thiền từ bi theo phương pháp thiền mà đức Phật chỉ dạy để giúp duy trì sự thấy biết rõ ràng mà không bị các ý tưởng hay các cảm xúc ưa ghét bóp méo nhận thức con người như trong kinh Hư Không:
“Giống như giữa hư không,
Gió nhiều loại thổi lên,
Từ phương đông, phương tây,
Từ phương bắc, phương nam.
Gió có lạnh, có nóng
Gió có bụi, không bụi,
Có gió lớn, gió nhỏ,
Gió nhiều loại thổi lên.
Cũng vậy trong thân này,
Khởi lên nhiều cảm thọ,
Lạc thọ và khổ thọ,
Bất khổ bất lạc thọ.
Khi Tỳ kheo nhiệt tâm,
Tỉnh giác không sanh y,
Do vậy, bậc hiền giả,
Liễu tri tất cả thọ.
Vị ấy liễu tri thọ,
Ngay hiện tại vô lậu,
Thân hoại, bậc Pháp trú,
Đại trí, vượt ước lường”.[4]
Tâm thấy, hay tâm thấy biết chân thật, là danh từ được giáo sư Siegel dùng để thay cho chữ tuệ tri hay chánh niệm trong đạo Phật để người phương Tây dễ nhận thức hơn theo văn hóa của họ. Theo giáo sư Siegel[5] tâm có ba hoạt động khác nhau như sau:
- Nơi có các cảm xúc và ý tưởng.
- Nhận biết một cách chủ quan (do chính mình) trạng thái mình cảm xúc có ý tưởng. Như biết mình đang vui hay buồn, suy nghĩ hay không suy nghĩ.
- Biết về đối tượng cảm xúc, những điều mình đang cảm xúc, như biết mình đang buồn rầu, biết nước mắt đang chảy và tim mình quặn thắt.
Sự thấy biết như vậy bao gồm chủ thể thấy biết (mà đạo Phật gọi là năng) và đối tượng thấy biết (mà đạo Phật gọi là sở) cùng trạng thái đang có mặt như vui hay buồn.
TÂM LÀ MỘT DÒNG SÔNG ĐANG TRÔI CHẢY
Như vậy, tâm quan sát và theo dõi những điều chúng ta nghe, thấy, biết, cảm xúc hay suy nghĩ biểu lộ thành sự thấy biết từ dòng trôi chảy của những tin tức và năng lượng trong bộ não. Qua kinh nghiệm của những thấy, nghe biết, vui buồn, ý tưởng hay ưa ghét lập đi lập lại nhiều lần mà các tế bào thần kinh gia tăng hoạt động, mọc dài ra rồi kết nối với nhau ở trong một vùng hay các vùng khác nhau. Trường hợp hai vùng não xa nhau, các tế bào thần kinh có thể liên kết qua cách làm cho các sợi nhánh của tế bào thần kinh mọc dài ra như một người vươn một cánh tay ra thật dài để bắt tay với một người ở xa. Qua những hoạt động trong não nói trên mà các vùng não thay đổi và dày lên. Đó là sự thay đổi bộ não mềm dẽo (neuroplasticity). Chúng ta sẽ đi vào chi tiết với các cuộc nghiên cứu của tiến sĩ thần kinh học Sazar[6] đã chứng minh thiền làm cho các khu vực nhận thức và chú ý trong bộ não dày lên trong các chương kế tiếp.
Chúng ta có thể lấy ví dụ thực tế như các vị tăng ni tụng kinh Lăng Nghiêm với các bài chú rất khó nhớ, khó thuộc lòng, suốt gần hai tiếng mà không nhìn vào sách vào lúc gần sáng, nên gọi là công phu khuya, thì dần dần, khu vực chú ý, ký ức và định tâm trong bộ não của họ kết hợp chặt chẽ và hoạt động đồng bộ nên phần liên hệ trong bộ não dày lên. Các vị tổ Tịnh Độ tông đã có sự thấy biết rất khoa học về tác động nhân quả làm phát sinh những kết quả tốt đẹp khi soạn ra chương trình thực hành sáu thời công phu tu tập cho các vị tăng ni. Đó là thiền hoạt động hay thiền ứng dụng vào đời sống. Về điều này, chúng ta nên chắp tay kính lễ với lòng thành kính cảm phục.
Là một người hành thiền, hướng dẫn thiền và cũng là một chuyên gia nghiên cứu thiền và ứng dụng thiền vào việc chữa trị trong phạm vi phân tâm học, giáo sư Siegel hô hào phải phát triển tâm thấy biết bằng thực hành thiền. Khi mỗi người thực hành thiền thì họ làm cho tâm mình lành mạnh, thông minh và tỉnh thức hơn, bộ não mình hoạt động tốt hơn, đời sống mình vui tươi và hạnh phúc hơn trong mối tương quan đầy cảm thông và hiểu biết với người khác. Ông đã kết luận như sau:[7]
“Tóm lại, đây là điều mà những cuộc nghiên cứu thuộc khoa chữa trị tân tiến, 2.500 năm của sự thực hành thiền quán, những cuộc khảo cứu mới nhất và kinh nghiệm cá nhân tôi cho thấy: Chánh niệm là một hoạt động tinh thần nhằm huấn luyện tâm thấy biết về chính cái thấy biết cùng với sự chú ý vào ý định của mình. Như các nhà nghiên cứu đã định nghĩa, chánh niệm đòi hỏi cần có sự chú tâm vào ngay lúc này mà không có sự phê phán hay phản ứng”.
Lý thuyết nghe thì phức tạp nhưng sự thực hành thiền chánh niệm, là chú ý và thấy biết rõ ràng, vốn rất giản dị theo lời Phật dạy trong kinh Quán Niệm Hơi Thở:
“Trong khi thở vào, biết mình đang thở vào. Trong khi thở ra, biết mình đang thở ra”.[8]
Khi thiền, chúng ta có thể ngồi trên gối thiền, trên ghế, hay khi bị bệnh có thể nằm trên giường, và chú ý vào hơi thở và thấy biết hơi thở vào, hơi thở ra trong 5, 10 phút hay nhiều hơn.
Cách ngồi thiền từ dễ đến khó, ngồi cách nào cũng được:
Ngồi trên ghế Ngồi trên đòn
Theo lối Miến Điện Kiết Già hay Hoa Sen Bán Già
Phần thực hành. Ngồi thoải mái trên ghế hay trên gối thiền và chú ý vào hơi thở trong 5 phút để thân tâm được thư dãn sau đó thiền hành.
Phần thực hành 1. Ngồi thoải mái và chú ý vào hơi thở trong 5 phút để thân tâm được thư dãn.
Bất cứ lúc nào trong ngày, khi thấy mệt hay căng thẳng, xin bạn ngồi trên ghế, buông xả các bắp thịt và thực hành hít vào và thở ra thoải mái vài hơi. Sau đó, xin bạn ngồi thiền 5 phút để thư dãn thân tâm.
Để khỏi bị các ý tưởng làm mất khả năng chú ý, xin bạn hít vào rồi thở ra và niệm thầm: “A Di Đà Phật” với tâm buông xả. (Trong trường hợp bạn đã thực hành thiền, xin bạn theo phương pháp và thời khóa hàng ngày của mình.).
Sau 5 phút bạn xả thiền.
Phần thực hành 2. Đi bộ trong tỉnh thức hay thiền hành. 10 phút
Cơ thể chúng ta cần vận động. Do đó, những vị nào làm việc hay học hành ngồi lâu cần vận động thể lực bằng cách đi bộ trong chánh niệm hay thiền hành. Để sự chú ý vào bước đi được dễ dàng, khi hít vào bằng mũi, chúng ta đếm 1, 2, 3 theo mỗi bước chân bước tới và lúc thở ra bằng mũi chúng ta đếm 1, 2, 3, 4 (hay 5 tùy theo hơi thở mỗi người) bước chân. Như vậy, khi hít hơi vào bước ba bước, khi thở ra bước 4 hay 5 bước. Đi bộ trong chánh niệm làm phát sinh hạnh phúc và sức khỏe.
Trong tuần lễ 1, xin bạn thực hành ngồi thiền và thiền hành một lần mỗi ngày trong 5 ngày.
***
[1]. Siegel, D. J. (2012). Pocket Guide to Interpersonal Neurobiology: An Integrative Handbook of the Mind (Norton Series on Interpersonal Neurobiology. W. W. Norton & Company. Kindle Edition.), p. 476.
[2]. Như trên, Ibid.
[3]. Siegel, D. J. (2007). The Mindful Brain: Reflection and Attunement in the Cultivation of Well-Being. New York: WW Norton & Company, trang 53-67.
[4]. Kinh Trung Bộ, kinh Hư Không, HT. Thích Minh Châu dịch.
[5]. Siegel, D. J. (2012). Sách đã viện dẫn, Op. Cit., tr. 217.
[6]. Siegel, D. J. (2009). Mindsight: The New Science of Personal Transformation. Random House Publishing Group. Kindle Edition. tr. 85-86.
[7]. Lazar, S.W., Kerr, C.E., Wasserman R.H., et al. (2005). Meditation experience is associated with increased cortical thickness. NeuroReport.
[8]. Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Thiền sư Nhất Hạnh dịch.