Đạo Phật Ngày Nay

Tuần lễ 1 - Xác định sống đời hạnh phúc, khỏe mạnh và thành công: Lời kính thưa quý độc giả

*** 

 LỜI KÍNH THƯA QUÝ VỊ ĐỘC GIẢ

Chúng ta hầu như nghe nói hàng ngày về sự thực hành thiền đem đến nhiều lợi ích cho sức khỏe, hạnh phúc và thành công trong đời sống. Nhiều người ở các nước Âu châu và Hoa Kỳ đã thực hành thiền Phật giáo hay các loại thiền khác trong các tu viện Nam tông, Tây Tạng, Lâm Tế hay Tào Động Nhật Bản, Thiền Chánh Niệm Làng Mai, Thiền niệm Phật hay các trung tâm thiền khác.

NHU CẦU THỰC HÀNH THIỀN TẠI HOA KỲ

Riêng tại Hoa Kỳ, thiền hầu như đi vào trong tất cả mọi ngành sinh hoạt nên có các chương trình thiền cho học sinh mẫu giáo, học sinh tiểu học, học sinh trung học và sinh viên đại học. Các thầy dạy các lớp tiểu học, trung học, đại học cũng đi học thiền và hướng dẫn thiền cho học trò mình. Các chương trình thiền hướng dẫn cho doanh nhân, những người điều hành công ty, xí nghiệp hay các cơ sở thương mại trở thành những chương trình thường xuyên, có định kỳ trên tầm mức quốc gia. Thiền có mặt trong các chương trình chữa trị bệnh tật về thể chất và tâm thần. Thiền cũng được hướng dẫn cho một số các binh sĩ và sĩ quan thuộc các binh chủng hải, lục, không quân và tình báo quân đội thực hành trước khi họ xuất quân và sau khi họ hoàn thành nhiệm vụ trở về.

Để cung ứng cho nhu cầu lớn lao về thực hành thiền này, các tổ chức dạy thiền xuất hiện khắp nơi và quan trọng hơn hết là các đại học nổi tiếng tại Hoa Kỳ nhận được hàng trăm triệu trong nhiều thập niên qua để thực hành các cuộc nghiên cứu về thiền, ứng dụng thiền trong các lãnh vực tâm lý học, thần kinh học và cả giảng dạy về lý thuyết cùng hướng dẫn thiền tập.

Chúng ta có thể lấy ví dụ chương trình dạy thiền trong đại học ở bang California thuộc Los Angeles UCLA. Trường có một trung tâm nghiên cứu về thiền chánh niệm Mindful Awareness Research Center với mục đích hướng dẫn mọi người thực hành thiền suốt đời để phát triển hạnh phúc và sức khỏe cùng xây dựng một xã hội có tình thương.[1]

Nhận thấy xã hội Hoa Kỳ có rất nhiều tiến bộ về khoa học và kỹ thuật nhưng chính những sự phát triển này lại làm phát sinh vô số sự phức tạp trong đời sống và số lượng thông tin quá tải làm cho đời sống người dân bị quá căng thẳng, mà hậu quả là sự phát sinh nhiều thứ bệnh thể chất và tinh thần, nên trung tâm nghiên cứu và thực hành thiền chánh niệm Mindful Awareness Research Center đã có những chương trình:

- Các lớp dạy thiền chánh niệm và những buổi hội thảo học tập về thiền để hướng dẫn cho quần chúng phương pháp thực hành thiền chánh niệm thuộc các lứa tuổi khác nhau.

- Thực hành nhiều cuộc nghiên cứu khoa học về thiền chánh niệm và quảng bá kết quả nghiên cứu rộng rãi để mọi người biết và ủng hộ chương trình hướng dẫn và thực hành thiền.

- Đem thiền chánh niệm đến cho những nhà chuyên môn qua chương trình dạy thiền chánh niệm ở viện đại học y khoa UCLA bao gồm các bác sĩ, sinh viên y khoa, những giáo sư, những người trong ban giảng huấn và các nhân viên khác của trường.

- Cung cấp các lớp hướng dẫn thiền chánh niệm và các phương pháp khoa học để hỗ trợ cho các chuyên viên chữa trị các bệnh tâm thần.

- Mang chánh niệm đến các lớp mẫu giáo, tiểu học đến trung học từ lớp 1 đến lớp 12 qua sự đào tạo các thầy và cô giáo thực hành thiền chánh niệm.

TÂM VÀ BỘ NÃO

Bác sĩ Daniel Siegel, vị đồng giám đốc sáng lập trung tâm thiền chánh niệm tại viện đại học UCLA, là giáo sư môn lâm sàng phân tâm học, giám đốc điều hành trung tâm phát triển con người, Center for Human Development, và cũng là chủ biên của tập san chuyên nghiệp về thần kinh sinh vật của trung tâm văn hóa, não bộ và phát triển Center for Culture, Brain & Development  của viện đại học UCLA. Những điều nói trên cho chúng ta thấy ngành đại học Hoa Kỳ đã đánh giá rất cao về khả năng thiền chánh niệm giúp con người giải quyết được rất nhiều vấn đề do căng thẳng làm phát sinh.

Khi nói đến thiền chánh niệm, chúng ta thường nghĩ đến đạo Phật hay các nền văn hóa phương đông. Một trăm năm trước đây, khi xã hội Tây phương chưa nghe nói nhiều về thiền thì vị khai sinh khoa tâm lý học Tây phương đã nói đến.

Giáo sư Siegel[2] đã trình bày như sau về điều này:

William James, người tạo dựng ngành tâm lý học tân tiến, 100 năm trước đây đã đề nghị thực hành chú ý đi, chú ý lại nhiều lần khi tâm bị xao lãng thì đó là một đường lối “giáo dục ưu việt” cho tâm con người. Ông ta cũng nói dù người ta không biết cách thực hành điều ấy ra sao nhưng chúng ta đã biết hàng ngàn năm qua có những truyền thống ở phương Tây và phương Đông thực hành chánh niệm”.

Đó là chuyện một trăm năm về trước trong ngành tâm lý trị liệu. Giáo sư nói thêm về những khám phá thần kinh học liên quan đến thiền hiện nay:

Giờ đây, chúng ta cũng biết bộ não thay đổi qua những kinh nghiệm xảy ra suốt đời người và chúng ta có thể nói rằng sự thực hành huấn luyện tâm để tạo nên khả năng thấy biết về cái tâm nhận biết, và chú ý vào ý định muốn làm, sẽ làm cho mạch thần kinh có chức năng điều hành trong bộ não gia tăng sức mạnh. Những chức năng này gồm có thực hành chú ý, tránh bị lơ đãng, thay đổi đối tượng chú ý theo ý mình rồi chú ý vào đối tượng mình hướng đến và phân phối năng lượng để thực hành điều đó”.

Trường đại học UCLA gọi thiền chánh niệm là thực hành chú tâm nhận biết, mindful awareness practices hay MAPS, áp dụng vào không những chương trình ngồi thiền mà còn cả trong các buổi huấn luyện duy trì chánh niệm khi thực hành khí công, thái cực quyền, yoga và cầu nguyện. Vậy cốt tủy của thiền chánh niệm nơi đây là  sự thấy biết rõ ràng từ giây phút này qua giây phút khác với tâm tỉnh thức trong mọi sinh hoạt thường ngày.[3]

Trong các chương trình huấn luyện, các thiền sinh nhận biết về ý định mình muốn làm điều gì khi nó khởi dậy, trong đạo Phật có một danh từ cụ thể và ngắn gọn là tác ý. Và qua sự huấn luyện này mà thiền sinh nhận biết được cái tâm nhận biết về sự thấy biết, mà trong đạo Phật gọi là tâm ban đầu hay chân tâm.

HUẤN LUYỆN TÂM ĐỒNG THỜI LÀ HUẤN LUYỆN BỘ NÃO

Giáo sư phân tâm học kiêm thiền giả Siegel[4] gọi thiền chánh niệm là thực hành chú tâm nhận biết:

Chú tâm nhận biết là biết về sự trải nghiệm trong hiện tại, cùng với tác ý và mục đích, mà không dính vào các ý tưởng phê phán. Những nét để nhận ra có sự chú tâm nhận biết là có thái độ cởi mở với chính mình và người khác, lòng buông xả cùng với khả năng diễn bày về thế giới bên trong của tâm mình”. 

Về điều quan trọng thực hành thiền chánh niệm thì giáo sư Siegel trình bày tiếp như sau:

Thực hành chú tâm nhận biết là một sự huấn luyện xây dựng khả năng chú ý vào tác ý và sự nuôi dưỡng thấy biết về chính tánh thấy biết. Thực hành nhiều lần và thường xuyên điều này đã cho thấy làm cho khả năng điều hành cảm xúc và chú ý mạnh lên, làm cho gia tăng sự cảm thông và tự biết về thân thể mình, làm gia tăng chức năng hệ miễn nhiễm, chuyển các hoạt động điện trong bộ não qua hướng trái làm cho phát sinh tính năng nổ hướng đến giải quyết những khó khăn, gia tăng hoạt động cùng phát triển sự điều hành và kết hợp của các vùng trong bộ não. Ví dụ như thực hành chú tâm nhận biết trong thiền chánh niệm, cầu nguyện, yoga và thái cực quyền”.

Thực hành thiền chánh niệm là thực hành sự thấy biết mà tâm không dính mắc hay phê phán. Trong tâm lý học Phật giáo thì tâm vừa là chủ thể thấy biết và cùng lúc đối tượng thấy biết như khi vui mừng thì mình vừa là người biết về vui mừng đang có mặt và chính mình cũng là trạng thái vui mừng. Giáo sư Siegel[5] trình bày điều này theo tâm lý học hiện đại như sau:

Tâm gồm có ít nhất ba khía cạnh chính: Kinh nghiệm riêng của người nhận biết, ý thức về nhận biết cùng với điều mình (đối tượng) nhận biết và chức năng điều hành là một tiến trình hoạt động nổi bật của hệ thống thần kinh và những tương quan với người khác”.

Như vậy, khi chúng ta ăn một múi sầu riêng, tâm chúng ta trải nghiệm chuyện ăn, biết mình đang ăn và biết múi sầu riêng cùng lúc với các vùng trong bộ não hoạt động. Tất cả màu sắc, âm thanh, mùi, vị và xúc chạm qua mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm và thân thể xúc chạm được chuyển thành những luồng điện chuyển vào các vùng trong bộ não. Yếu tố hoạt động trong bộ não là một thành phần của tâm mà giáo sư Siegel thêm vào rất quan trọng vì khi nghiên cứu về thiền, các nhà thần kinh học đã căn cứ vào các hoạt động của các tế bào thần kinh trong những vùng khác nhau trong bộ não để biết được những lợi ích cụ thể thiền mang lại. Nói khác đi, nếu không có thực nghiệm và chứng minh được kết quả một cách cụ thể và khoa học thì sự thực hành thiền sẽ bị phủ lên tấm màn lý thuyết và mạnh ai thì đưa ra lý thuyết đó. Còn khi thiền có được tính cách thực nghiệm của khoa học, và nhất là có thể được kiểm chứng rõ ràng qua các cuộc nghiên cứu về tâm lý và thần kinh học, thì sẽ nhanh chóng trở thành điều thực dụng tốt đẹp giúp giải quyết nhiều vấn đề cho nhân loại. Do đó mà ngài Đạt Lai Lạt Ma có nói là nếu khoa học chứng mình được điều gì không đúng nơi Phật giáo thì chúng tôi sẽ không thực hành điều ấy.

Giáo sư Siegel[6] đã khám phá ra, qua sự  thực hành thiền chánh niệm, chúng ta tạo ra sự hòa hợp của nhiều thành phần trong bộ não và cơ thể làm phát sinh chín loại chức năng liên hệ đến sự kết hợp thần kinh các vùng trung não trước trán (middle prefrontal regions) như điều hành thân thể tốt đẹp, sự trao đổi hoà hợp giữa con người, làm cho cảm xúc quân bình, duy trì phản ứng mềm dẽo, có sự cảm thông với tha nhân, tự nhận biết về đời mình từ quá khứ đến hiện tại và trong tương lai, làm giảm đi sự sợ hãi, có khả năng biết được tình trạng các cơ quan bên trong cơ thể và sống có đạo đức. Khi ông ta giảng dạy về các điều này ở nhiều nơi trên thế giới thì có những người thuộc các nền văn hóa khác nhau  như bộ lạc Inuit ở Alaska, Hoa Kỳ, bộ lạc Lakota ở trung Mỹ, các thổ dân vùng Thái Bình Dương hay người Ấn Độ cho biết trong nền văn hóa của họ có nói đến các điều trên trong ngàn năm qua, như trí tuệ và lòng tử bi là thành phần tự nhiên của vùng trung não.[7]

Như vậy là có sự giống nhau trong việc thực hành làm phát sinh trí tuệ và lòng nhân từ giữa các nền văn hóa. Một cách cụ thể, chúng ta thấy người Ấn thường chấm một chấm đỏ nơi vùng ấn đường, giữa hai chân mày. Trên nhiều tượng đức Phật có gắng một hạt thủy tinh lấp lánh nơi vùng ấn đường này và trong khí công vùng trung não trước trán, từ ấn đường đi lên, được gọi là đan điền thượng, một vùng chứa năng lượng trên đầu.

THIỀN PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN THÂN TÂM

Ngoài việc làm cho khởi động chín loại chức năng do hoạt động của vùng trung não nói trên gồm có mỏ trước bó khuy, vỏ não vùng giữa trước trán, vỏ não vùng mắt trước trán và vỏ não vùng bụng trước trán, thiền còn làm cho vỏ não vùng lưng bên (dorsolateral prefrontal cortex) và các nhân liền kế nhau (nucleus accumbens) kết nối để làm gia tăng hạnh phúc và làm cho những cảm xúc tiêu cực lắng dịu mà chúng ta sẽ đi vào chi tiết sau này.

Cũng trong chiều hướng đó mà ngài Đạt Lai Lạt Ma, trong buổi nói chuyện tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ, vào  ngày 12 tháng 11 năm 2005 với trên mười lăm ngàn nhà thần kinh học và quan khách, đã nhấn mạnh đến sự giống nhau giữa khoa học và Phật giáo là cả hai bên đều thực hiện sự tìm hiểu về tánh chất thật sự của các hiện tượng mà qua đó, trên hai ngàn năm qua, Phật giáo đã đề ra những phương pháp thực hành để con người được khỏe mạnh, hạnh phúc và phát triển:

…Phật giáo đã tạo ra sự xếp loại phong phú các trạng thái tâm thức cũng như phương pháp thiền quán để thanh lọc các loại tâm sở. Như vậy, một sự trao đổi chân thành giữa đạo Phật và khoa học hiện đại trong lãnh vực rộng lớn liên hệ đến tâm con người, từ nhận thức đến cảm xúc, để hiểu khả năng làm cho thay đổi hiện đã có sẵn trong bộ não con người, vốn rất đáng quan tâm và nhiều lợi ích”.

Sự gặp gỡ giữa khoa thần kinh học hiện đại và phương pháp thiền quán đạo Phật có thể dẫn đến sự khảo cứu về những tác động của các hoạt động có chủ ý nơi các mạch thần kinh trong bộ não, những nơi được xem là rất quan yếu cho những diễn tiến tâm ý liên hệ đến các tâm sở… Về cách huấn luyện tâm liên hệ đến điều hành sự chú ý và cảm xúc, chúng ta cần nêu lên câu hỏi: ‘Mỗi phương pháp thực hành  thường thích hợp với một giai đoạn nào đó thì mới đưa đến kết quả. Vậy chúng ta nên tạo ra các phương pháp thực hành mới để đáp ứng cho những người thuộc những lứa tuổi khác nhau, tình trạng sức khỏe khác nhau cũng như nhiều yếu tố khác.”

Ngài Đạt Lai Lạt Ma nói như trên là nói về khả năng có thể làm cho bộ não con người thay đổi tốt đẹp hơn và sự thay đổi này có thể thực hiện được qua sự huấn luyện hay tu tập của các tông phái Phật giáo mà khoa học có thể kiểm chứng được. Ngài cũng nhấn mạnh đến tính cách khác biệt của mỗi thời đại con người sinh sống và khuyến khích người Phật tử và các nhà khoa học sáng tạo ra những phương pháp thực hành thích hợp với thời đại đang sống.

Đức Phật dạy tính cách vô thường của đời người. Mỗi con người có mạng sống đó là thân thể có sinh ra và cuối cùng có chết đi. Tuy nhiên, mỗi chúng ta khi sinh ra đều có Phật tánh là tánh không sanh bất diệt. Phật tánh, là tánh chân thật của mỗi chúng ta (Chơn Như Thật Tánh), luôn có mặt, không thay đổi và thường thấy biết rõ ràng mà trong Niết Bàn Kinh, quyển thứ 25, đức Phật nói rõ Phật tánh có bảy yếu tố như sau:

- Thường là luôn luôn hiện diện hay có mặt,

- Tịnh là trong sạch,

- Thành thật là biểu lộ sự chân thật,

- Thiện là lành tốt,

- Thường thấy biết rõ ràng những gì đang có mặt,

- Chơn là cái thật, ngược lại với cái giả hay sai lầm, và

- Khả chứng là mọi người đều có thể kinh nghiệm được một cách rõ ràng. (Theo cách nói thông thường là ai cũng thành Phật được cả).

Trên nền tảng vững chãi của khoa học hiện đại và những lời dạy của đức Phật cùng những phương pháp thực hành cụ thể và hiệu quả của các tông phái Thiền, Tịnh và Mật tông trên ngàn năm qua, chúng tôi soạn ra chương trình Thiền, Xây Dựng Nền Tảng Vững Chắc cho Hạnh Phúc, Sức Khỏe và Thành Công Trong 8 Tuần Lễ thành một loại cẩm nang thực hành gồm 8 tập và mỗi tập có nhiều chương ngắn. Cuối mỗi chương có phần đề nghị Quý Vị thực hành để có kết quả và kinh nghiệm thật sự về các điều được trình bày.

Nói khác đi, đây là cẩm nang có tính cách thực dụng, đúc kết lại và cập nhật hóa phương pháp thực hành Thiền, Khí Công Tâm Pháp (Mind Energy Training) và ứng dụng cụ thể vào đời sống hàng ngày. Chúng tôi đã chia sẻ thiền tập với quý vị Phật tử gần 30 năm và huấn luyện Thiền và Khí Công Tâm Pháp trên 15 năm qua tại nhiều bang ở Hoa Kỳ cùng các nước Pháp, Đức, Thụy Sĩ và Việt Nam. Vì đặt trên nền tảng khoa học thực nghiệm và tâm linh nên khi chúng ta thực hành đúng là có kết quả chắc thật trên căn bản nhân lành là quả tốt theo phương pháp thực hành của đạo Phật phối hợp với các cuộc nghiên cứu cụ thể của khoa tâm lý và thần kinh học.

CHƯƠNG TRÌNH HUẤN LUYỆN CỤ THỂ

Chương trình huấn luyện thực hành Thiền, Khí Công Tâm Pháp và cách ứng dụng cụ thể vào đời sống hàng ngày trong tập sách nhỏ này là thực hành thiền chánh niệm theo truyền thống đạo Phật đặt trên cơ sở vững chắc của khoa học thực nghiệm với mục đích:

1. Thực hành thoải mái thiền chánh niệm, cảm nhận dấu ấn an lạc nơi thân theo phương pháp khoa học, phát triển sự hòa hợp hoạt động nơi vùng trung não và vùng não hạnh phúc qua những khám phá về thần kinh học, vốn rất phù hợp với những lời dạy của đức Phật về phương pháp thực hành để phát triển chánh niệm và hạnh phúc, và qua đó phát triển tự nhiên chín chức năng của tâm như giáo sư Siegel đã nói:

-  Điều hành thân thể tốt đẹp,

- Gia tăng khả năng tương quan hòa hợp tốt đẹp với những người trong gia đình, sở làm và cộng đồng,

- Làm cho cảm xúc nơi mình được quân bình và gia tăng hạnh phúc,

- Có được cùng duy trì phản ứng mềm dẽo để sống thoải mái và có mối tương quan tốt với người chung quanh,

- Có sự cảm thông với tha nhân,

- Tự nhận biết về đời mình từ quá khứ đến hiện tại và dự định trong tương lai để định hướng rõ cho đời sống và thực hành những điều tốt đẹp cho bản thân.

- Làm giảm đi sự sợ hãi hầu gia tăng niềm tự tin, sự vững chãi và an vui.

- Thực hành cảm nhận tình trạng các cơ quan bên trong cơ thể để duy trì sức khỏe và qua sự tập luyện thiền và khí công làm cho lục phủ ngũ tạng gia tăng sự khỏe mạnh.

2. Thực hành sống đời đạo hạnh tự nhiên qua sự phát triển niềm vui ưa thích cấp 2 trong tâm và bộ não để ổn định đời sống cá nhân, tăng hạnh phúc gia đình và đóng góp vào an lạc xã hội. Niềm vui ưa thích cấp 2 có loại do thực hành thiền làm phát sinh và được đức Phật gọi là hỷ lạc không thuộc vật chất. Phối hợp thiền hoạt động và thiền tĩnh lặng qua sự thực hành thiền chỉ và thiền quán để duy trì và phát triển chánh niệm khi làm việc, ăn cơm, nói chuyện, tập thể dục, chơi thể thao, buôn bán, sinh hoạt trong gia đình và ngoài xã hội qua sự cảm nhận tự nhiên vùng trung não trước trán và vùng làm phát sinh niềm vui.

3. Sự huấn luyện thiền trên nền tảng thực dụng mà giáo sư phân tâm và thần kinh học Siegel đã chứng minh và người thực hành cảm nhận cụ thể nói trên, ngoài sự làm phát triển sự phối hợp hoạt động bốn phần chính nơi vùng trung não trước trán - là vỏ não giữa trước trán, vỏ não vùng mắt, vỏ não bụng giữa và mỏ trước bó khuy qua sự thực hành thiền chánh niệm – đưa đến sự phát triển chín loại chức năng của tâm nói trên, còn có phần thực hành theo các kết quả tốt đẹp của những cuộc nghiên cứu khoa học để nối kết vỏ não lưng bên trước trán và các nhân liền kế nhau (nucleus accumbens) để làm cho niềm hạnh phúc gia tăng và kéo dài cũng như làm cho những lo lắng, sợ hãi và vọng tưởng lắng dịu.

Trong cuộc nghiên cứu  mà kết quả được công bố qua tài liệu “Làm Cho Cuộc Đời Đáng Sống: Tế Bào Thần Kinh Liên Hệ Với Hạnh Phúc” các giáo sư thần kinh học Urry, Davidson và các đồng nghiệp[8] đề nghị chúng ta nên gia tăng hoạt động trong đời sống và làm cho năng lượng vui thích thúc đẩy hoạt động thì đời sống chúng ta sẽ có nhiều hạnh phúc hơn. Cuộc nghiên cứu này, tiếp nối những cuộc nghiên cứu trước đây, cũng cho thấy vỏ não giữa trước trán bên trái rất quan trọng cho hạnh phúc và người có hạnh phúc thì có được niềm vui ưa thích hay sung sướng từ các giác quan cũng như những an vui từ những hoạt động có ý nghĩa đem lại. Những người có hạnh phúc cũng có thái độ hướng đến giải quyết những khó khăn thay vì tránh né xa lánh vấn đề cần giải quyết. Như vậy, họ khác xa với người co cụm, thường không dám nhìn thấy vấn đề và tránh né không giải quyết các khó khăn khi mình gặp phải. Điều này cũng mang đến hạnh phúc tốt đẹp hơn là những sự thỏa mãn của các giác quan. Những người có thái độ tích cực như trên cũng chứng tỏ họ có hạnh phúc. Và điều đặc biệt nữa là các cuộc nghiên cứu cho thấy những người có hạnh phúc thì có vỏ não trước trán bên trái hoạt động nhiều. Điều này cũng rất phù hợp với các cuộc nghiên cứu khác cho thấy những người có vỏ não trước trán bên trái hoạt động nhiều thì có mức độ cortisol (một loại hormone cơ thể tiết ra khi bị căng thẳng) trong cơ thể thấp và cảm xúc tích cực gia tăng.

Do đó, song song với việc ngồi thiền riêng của mỗi người ở nhà, chúng ta cần vận động thể lực qua các buổi sinh hoạt tu tập, tập luyện các thế khí công và yoga cũng như tham dự các hoạt động từ thiện và xã hội khác để cho cuộc sống thêm phong phú.

Về phương diện thực hành cụ thể, tài liệu hướng dẫn Thiền và tập luyện Khí Công Tâm Pháp gồm có 8 tập cho tám tuần lễ. Mỗi chương có phần trình bày về các cuộc nghiên cứu khoa học cùng phương pháp thực hành liên hệ cụ thể gồm có các phần như sau:

1. Thiền tĩnh lặng hay thiền ngồi,

2. Thiền hoạt động qua sự thực hành chánh niệm khi:

      - Ăn uống

      - Tập Các Thế Khí Công và Yoga,

      - Lạy Phật theo khí công,

      - Vận động thể lực,

      - Sinh hoạt trong gia đình,

      - Sinh hoạt ngoài xã hội, và

      - Làm việc với chú tâm và an lạc.

Như vậy, đây là sự thực hành toàn diện về tâm chú ý và thấy biết rõ ràng, hay chánh niệm, trong sinh hoạt bình thường hàng ngày cùng thực hành cảm nhận niềm hạnh phúc, phát triển hạnh phúc và sống trong niềm hạnh phúc lâu dài qua tâm cảm nhận niềm vui từ những vùng làm phát sinh niềm vui trong bộ não mà các cuộc nghiên cứu khoa học về bộ não đã cho thấy rất kỳ diệu và cụ thể.

Sự thực hành này theo đúng với lời đức Phật dạy người cư sĩ rất rõ ràng làm thế nào để sống thật an vui và ngăn chận buồn rầu đừng cho phát sinh cũng như tạo điều kiện cho niềm vui xuất hiện qua cách sống:

…buồn khổ chưa sinh, người ấy có thể ngăn khiến không sinh. Buồn khổ đã sanh, người ấy có thể khiến cho cởi mở, tỉnh sáng. An vui chưa sinh, người ấy có thể khiến cho chóng sinh, an vui đã sinh, người ấy có thể khiến cho không mất. Đó gọi là thiện nam tử đầy đủ Thiện Tri Thức”.[9]

An vui do thực hành chánh niệm là một kinh nghiệm kỳ diệu mà đức Phật cảm nhận thường xuyên suốt đời Ngài như trong Kinh Niệm Xứ, thuộc Kinh Trung Bộ, đức Phật cho biết kết quả sự thực hành đó mang lại nhiều lợi ích về sức khỏe cũng như niềm hạnh phúc như sau:

Này quý thầy, Như Lai thường thực hành phương pháp quán niệm hơi thở hầu hết trong mọi thì giờ. Nhờ sống thực hành phương pháp này mà thân thể và đôi mắt của Như Lai không hề mệt nhọc, nhờ kết quả ấy mà tâm ta được an vui kỳ diệu”.

Những điều nói trên rất phù hợp với các cuộc nghiên cứu khoa học tân tiến. Các nhà tâm lý học chuyên về hạnh phúc nổi tiếng hiện nay, như giáo sư giảng dạy về hạnh phúc Seligman[10] hay giáo sư Fredrickson,[11] chuyên gia cảm xúc tích cực, thường nhắc nhở con người thời đại mới phải làm cho đời mình nở rộ hạnh phúc như đóa hoa tươi đẹp. Điều này đã được đức Phật khích lệ mọi người thực hành trên 2.500 qua để cho đời mình không những chỉ là đóa hoa tươi đẹp nở rộ mà còn cả đóng góp vào việc xây dựng đời sống cho tốt đẹp hơn:

                  “Như bông hoa tươi đẹp

                  Có sắc lại thêm hương

                  Lời nói đã gấm hoa

                  Có làm có kết quả.

                  Như từ một đống hoa

                  Làm được nhiều tràng hoa

                  Từ thân người cũng vậy

                  Làm được nhiều thiện sự”.[12]

Thực hành điều trên là chúng ta bắt đầu bước một bước chân đầu tiên trong cuộc hành trình vào thế giới rộng lớn và an vui kỳ diệu của tâm, bộ não và sự tương quan nồng ấm với cuộc đời để hướng đến hạnh phúc, sức khỏe và thành công trong đời sống. Và trên nền tảng của luật nhân quả từ khoa học và từ đạo Phật thì có thực hành đúng là chắc chắn có thành công tốt đẹp.

Chúng tôi xin thành tâm kính cảm tạ TT. Thích Nhật Từ đã giúp cho in cuốn sách nhỏ này cùng viết cho lời giới thiệu.  TT. Nhật Từ là một trong các vị tăng sĩ Phật giáo trẻ rất nổi tiếng hiện nay ở Việt Nam và các nước, có công đóng góp rất nhiều cho nền văn hóa và giáo dục Phật giáo qua các lãnh vực biên soạn tài liệu, sáng tác, tổ chức và tham dự các hội nghị Phật giáo Thế giới, giảng dạy quý vị tăng ni và Phật tử, tổ chức các khóa tu học cũng như thực hành thường xuyên các chương trình xã hội giúp đỡ trẻ em mồ côi, những người nghèo khổ ở những địa phương xa xôi, giúp đỡ các bệnh nhân ung bướu và các nạn nhân thiên tai.

Và chúng tôi cũng xin kính tri ơn đạo hữu Xuân Chi đã dọc lại bản thảo, sửa dùm các lỗi chính tả và đề nghị viết lại những đoạn văn cho rõ nghĩa hơn.

Trong mối tương quan trao đổi ý kiến và phương pháp huấn luyện, trong các trang tới, chúng tôi xin được mạn phép gọi Quý Vị là Bạn để cho sự trao đổi được giản dị và thân tình.

Chúng tôi ước mong được Quý Vị chấp nhận cho lời đề nghị này và thành tâm kính chúc Quý Vị đạt được kết quả tốt đẹp khi thực hành chương trình tự huấn luyện để Xây Dựng Nền Tảng Vững Chắc cho Hạnh Phúc, Sức Khỏe và Thành Công Trong 8 Tuần Lễ.                                           

                                                                    Thân kính,

                                                                   Phụng Sơn


[1]. UCLA Mindful Awareness Research Center.

    http://www.marc.ucla.edu. Posted on 12/15/2013.           

[2]. Siegel, Daniel J. (2012). Pocket Guide to Interpersonal Neurobiology: An Integrative Handbook of the Mind (Norton Series on Interpersonal Neurobiology). W. W. Norton & Company. Kindle Edition, tr. 186.

[3]. Như trên, Ibid., trang 185-186.               

[4]. Như trên, Ibid., trang 475-476.               

[5]. Như trên, Ibid., trang 475.       

[6]. Siegel, D. (2007). The Mindful Brain: Reflection and Attunement in the Cultivation of Well-Being. New York: WW Norton & Company, tr. 53-67.          

[7]. Siegel, Daniel J. (2012). Sách đã viện dẫn, Op. Cit., trang 204-205.               

[8]. Fredrickson, B. L., Cohn, M. A., Coffey, K. A., Pek, J., & Finkel, S. M. (2008). Open hearts build lives: Positive emotions, induced through loving-kindness meditation, build consequential personal resources. Journal of Personality and Social Psychology, 95:1045-1062.     

[9]. Kinh Tạp A Hàm, Uất Xà Ca, kinh 91, TT. Thích Đức Thắng dịch.                

[10]. Seligman, M.E.P. (2011). Flourish: A visionary new understanding of happiness and well-being. New York: Free Press, tr. 13-26.         

[11]. Urry, H.L., Nitschke, J.B., Dolski, I., Jackson, D.C., Dalton, K.M., Mueller, C.J., Rosenkranz, M.A., Ryff, C.D., Singer, B.H., Davidson, R.J. (2004) Making a life worth living: neural correlates of well-being. Psychological Science, 15(6):367-72.           

[12]. Kinh Pháp Cú, Phẩm Bông Hoa, HT. Thích Minh Châu dịch.      

Bình luận