Nhìn Phật đản qua con mắt thiền quán

Đã đọc: 4717           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font

Theo cái nhìn thiền quán của đạo Phật, con người này không chấp một duyên duy nhứt, một chủ thể tuyệt đối, một linh hồn bất biến, và một đấng sáng tạo vĩnh cửu. Con người bình thường, năm uẩn, duyên sinh, hay vô ngã đều được gọi là con người vô thường, phàm phu, hoặc thánh nhân. Con người này sinh ra trong đời, lớn lên trong đời, và thành tựu trong cuộc đời đều phải trải qua các giai đoạn già, bệnh, chết, nghiệp lực, chuyển biến…

4.       Nhìn Phật đản qua khía cạnh con người tối thắng[1]

http://www.youtube.com/watch?v=R5tB3YsDYmg&feature=youtu.be

Lúc sinh ra, một tay phải chỉ lên trời, một tay trái chỉ xuống đất, đức Phật sơ sinh dõng dạc nói rằng: “Trên trời dưới đất, chỉ có con người là tôn quý. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.[2]

4.       Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the supreme person

At the time of being born, his right hand pointed up to sky, his left hand pointed down to earth, the newborn baby Buddha bravely stated: “All over the world, there is only the venerably precious person. All human beings have Buddha nature.[3]

Con người (Mānusa) ở đây chỉ chung cho con người tỉnh thức, cụ thể là đức Phật (Buddha) – Bậc tỉnh thức và giác ngộ vẹn toàn. Theo tư tưởng của đạo Phật, con người là tối thắng; ngoài con người ra, không có một đấng thần linh có thể thay thế.

Person (Mānusa) here indicates generally a person of awakening, namely the Buddha – the perfectly awakened and enlightened One. According to Buddhist thought, Person is supreme; apart from the person, no one or no god can replace him or her.

Theo tư tưởng của Bà La môn giáo (Brahmanism) hay các tôn giáo khác, Phạm thiên (Brahma) hay đấng sáng tạo là tối cao. Con người được xem là con người tôn giáo ở vị trí thấp lắm. Vì con người ở vị trí thấp, nên đôi lúc họ chỉ biết phục tùng, vâng lệnh, và tin theo bề trên. Ví dụ, nếu bề trên nói rằng người nào làm thiện thì được lên thiên đàng mãi mãi, và người nào làm điều bất thiện thì đọa địa ngục mãi mãi; những lời nói này đầy hăm dọa thiếu chánh kiến, chánh tuy duy, chánh ngữ…

According to thoughts of Brahmanism or other religions, Brahma or Creator is supreme. People are considered as people of religion in a very low position. Because people are in the very low position, sometimes they only know to comply, to obey, and to believe in superior beings. For example, if the superior being says that those who do good will go to heaven forever, and that those who do non-good will fall down to hell forever; these words, which are full of threats, show a lack of right view, right thought, right speech, etc.

Là người tu học Phật pháp ngon lành, chúng ta phải quán chiếu những lời nói đó đúng hay sai. Nếu những lời nói đó không đúng chúng ta loại bỏ ngay, hoặc nếu những lời nói đó đúng chúng ta mạnh dạn duy trì, phát triển, áp dụng, và thực hành nó vào trong đời sống hằng ngày của chúng ta để đem lại an lạc và hạnh phúc cho số đông.

As people cultivating and learning the Buddhadharma well, we must contemplate those speeches which are correct or incorrect. If those speeches are incorrect, we remove them immediately, or if they are correct, we strongly maintain, develop, apply, and practice them in our daily lives to bring peacefulness and happiness to the many.  

Theo quan điểm của đạo Phật, dù bạn làm thiện được phước sinh lên cõi trời, nhưng nếu bạn không nỗ lực tu tập để tích lũy thêm điều phước thiện, bạn sẽ gặp khổ đau như thường; hoặc dù bạn làm điều bất thiện đọa xuống địa ngục, nhưng nếu bạn cố gắng tu tập để chuyển hóa thân tâm, phước đức của bạn tăng dần, bạn sẽ sinh lên cõi trời và cõi người.

According to standpoints of Buddhism, although you do good in order to obtain blessings to be reborn in a realm of heaven, if you do not make an effort to cultivate to accumulate many additional blessings, you will get suffering as usual; or although you do non-good and fall in hell, if you try to cultivate to transform your body and mind, your happiness and virtue increase gradually, and you will be reborn in a realm of heaven and that of human beings.

Khi phúc đức của bạn tăng trưởng, bạn phải biết cách nuôi dưỡng, vun trồng, và phát triển phúc đức của bạn bằng cách làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch, chánh niệm, và tỉnh giác. Nếu bạn hiểu và làm được như vậy, Phật tánh trong bạn dần dần trở nên bừng sáng.

When your happiness and virtue increase, you have to know how to nurture, to cultivate, and to develop them by doing good things, keeping your mind purified, mindful, and awakened. If you understand and practice like this, Buddha nature in you gradually becomes illuminated.

Dĩ nhiên, trong quá trình tu tập và chuyển hóa thân tâm, bạn phải tinh tấn dõng mãnh trong một thời gian dài, thì bạn mới đạt được an vui và giải thoát. Nhưng bạn nên nhớ rằng thực tập Phật pháp càng vững chãi, thì bạn sẽ càng đạt được nhiều an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay trong cuộc sống hiện tại.

Of course, in the process of cultivation and transformation of your body and mind, you have to make a strong effort for a long time, you are able to obtain peacefulness and liberation. But you should remember that the more steadily you practice the Buddhadharma, the more you will obtain peacefulness and happiness for yourself and for others right in the present life. 

Thực vậy, theo cái nhìn của đạo Phật, con người đối với Phật giáo là con người chuyển hóa chuyển nghiệp ở vị trí rất quan trọng và tối thắng; Phạm thiên hay đấng sáng tạo chỉ ở vị trí bình thường mà thôi bởi vì con người có đầy đủ Phật tánh, Phạm thiên tánh, và Thượng đế tánh nếu con người biết tu tập, chuyển hóa phiền não thành Bồ đề, khổ đau thành an vui, hạnh phúc, và hướng đến giác ngộ và giải thoát; lúc bấy giờ, Phật tánh của con người và của vị giác ngộ đều bình đẳng như nhau.     

Indeed, according to Buddhist vision, person toward Buddhism is the person of transformation and Karma changing in a very important and supreme position. Brahma or Creator is only in a normal position because the person has enough Buddha nature, Brahma nature, God nature if the person knows to cultivate, to transform defilement into Bodhi, suffering into peacefulness and happiness, and leads to enlightenment and freedom; at that time, Buddha nature of the person and that of the enlightened One is equal alike.

Phật giáo xem con người giác ngộ là tối thắng; con người giác ngộ có nghĩa là con người hướng thượng và hướng thiện, hướng tới an vui và giải thoát đích thực, cụ thể là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thực vậy, đạo Phật luôn đề cao và nhấn mạnh rằng chỉ có con người mới có khả năng tu tập và chuyển nghiệp – chuyển phàm phu thành thánh quả; chỉ có con người tỉnh thức, giác ngộ và giải thoát mới có khả năng đem lại an lạc, hạnh phúc, tình thương, và hòa bình cho tự thân và cho tha nhân ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Ngoài con người này ra, không có một Phạm thiên hay đấng thần linh nào có đảm trách và thay thế.

Buddhism considers an enlightened person as the uppermost; the enlightened person means the person leads to upper and good, to authentic peacefulness, and liberation, namely the Sakyamuni Buddha. Indeed, Buddhism always dignifies and emphasizes that merely the person has the ability to cultivate and to transform Karma – transform human being into Arahantship; only the person of awakening, enlightenment, and freedom has the ability to bring peacefulness, happiness, love, and peace to oneself and to others right here and right now in the present life. Apart from the person, no Brahma or no god can undertake and replace.

Để nhấn mạnh và diễn tả con người tối thắng, chúng ta biết lúc thành đạo dưới cội cây Bồ đề, đức Phật an trú vững chãi trong thiền định và quán chiếu rằng chưa đúng lúc để cho Ngài đi thuyết pháp. Lúc đó, sau 3 lần Phạm thiên Sahampati[4] thưa thỉnh đức Phật để đi thuyết pháp cho chúng sanh, đức Phật đồng ý lên đường vận chuyển bánh xe chánh pháp.

To emphasize and to describe the topmost person, we know when attaining enlightenment under the Bodhi tree, the Buddha dwelled steadily in concentration meditation, and contemplated that it was not a suitable time for Him to preach the Dharma yet. At that time, after three times Brahma Sahampati[5] has invited the Buddha to go to preach the Dharma to human beings, the Latter agreed to travel on the path to set the Wheel of the Dharma in motion.

Theo tư tưởng của Bà-la-môn (Brahmanism) và Ấn Độ giáo (Hinduism), Phạm thiên được xem là đấng tối cao của tôn giáo của họ, là vị vua trời cao nhất của các chư thiên, được tin tưởng một cách triệt để mặc dù Phạm thiên chỉ do con người suy nghĩ và tưởng tượng mà ra, và không có ai thấy đấng Phạm thiên nào cả.

According to Brahmanism and Hinduism, the Brahma that is considered as a Supreme Being of their religion is the highest king of gods, is absolutely believed in although the Brahma is only thought and imagined, no one sees any Brahma.

Tuy nhiên, Kinh điển Phật giáo, đặc biệt là Tương Ưng Bộ, Kinh Tôn Kính, Chương VI, phần II,[6] (Samyutta Nikaya VI.2- Garava Sutta- Reverence) có đề cập rằng Vị Phạm thiên này đích thân tới gặp đức Phật và thỉnh Phật trụ thế ở đời lâu dài để đem đạo và ánh sáng tuệ giác, từ bi, và trí tuệ đến cho pháp giới chúng sinh muôn loài.

Ở điểm này, chúng ta thấy có các điểm đặc thù được nhấn mạnh dưới đây như sau:

However, Sutras of Buddhism, especially Samyutta Nikaya VI.2- Garava Sutta- Reverence mentions that this Brahma himself goes to meet the Buddha and invites the Latter to live long in the world to bring the path and light of insight, loving-kindness, compassion, and wisdom to living things and living beings.  

At this point, we see that there are specific characteristics emphasized below:

a. Phật pháp vi diệu, thiết thực hiện tại, vượt thoát thời gian, đến để thấy, đến để nghe, đến để hiểu ...

b. Phật pháp có giá trị rất nhiều khi đức Phật được vị Phạm thiên này cung thỉnh.    

c. Đề cao và tôn kính Phật pháp, con Người tối thắng – đức Phật Thế Tôn – Người nói pháp

d. Thời gian thích hợp cho đức Phật để đi hoằng Pháp

f.   Thỉnh và giảng pháp đúng thời, đúng nơi, và đúng đối tượng, pháp trở nên có giá trị, người nói

pháp có thêm uy lực, và người nghe pháp có thêm tín tâm.

g. Có tinh thần tự độ và độ tha.

a.  The Buddha Dharma is wonderful, practical in the present, beyond time, you come and see,

      come and listen, come and understand, etc. 

b. His Dharma has very much value when the Buddha is invited by the Brahma.

c. Dignifying and respecting His Dharma, the supreme Person – the World-Honored Buddha – the

Dharma preacher

d. Time is suitable for Him to go to propagate the Dharma

f.   Inviting and teaching the Dharma at right time, at right place, and with right object, the Dharma

     becomes valuable, the Dharma preacher has the additional energy, the Dharma listener has

deeper confidence.

g. With the spirit of helping oneself and others.  

Thực vậy, pháp thoại được người thành tâm thưa thỉnh, được khéo thuyết giảng đúng lúc, đúng nơi, và đúng đối tượng, thì pháp thoại và người nói pháp đều có thêm uy lực, sức mạnh, và giá trị tâm linh rất nhiều; ngược lại, pháp thoại không do người thưa thỉnh, nói không đúng lúc, không đúng chỗ, và không đứng đối tượng, thì đôi lúc pháp thoại và người nói pháp trở nên có ý nghĩa và giá trị một chút hoặc không có ý nghĩa và giá trị.

Indeed, Dharma talk is whole-heartedly invited, well preached at right time, at right place, and at right object, Dharma preacher and his Dharma talk have additional power, strength, and very much spiritual value. In contrast, the Dharma talk is not invited, is preached not at right time, not at right place, and not at right object, sometimes the Dharma preacher and his Dharma talk become a little bit meaningful and valuable, or meaningless and valueless.

Trên đây, nhìn Phật đản qua khía cạnh con người tối thắng vừa được trình bày xong. Tiếp đến, chúng ta nhìn Phật đản qua khía cạnh con người bình thường.

Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the topmost person has been above presented, next we look at the Buddha’s Birthday through aspects of normal person.       

5.       Nhìn Phật đản qua khía cạnh con người bình thường

Con người bình thường, trước hết, phải là con người 5 uẩn gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, và thức được chia làm 2 phần: đó là Danh sắc (Nāma and rūpa = name and form, or mind and body).[7] Danh (Nāma) thuộc về tâm gồm có thọ, tưởng, hành và thức; và sắc (Rūpa) thuộc về thân gồm có yếu tố đất – chất cứng, yếu tố nước – chất lỏng, yếu tố  lửa – chất nóng, và yếu tố gió – sự chuyển động. Danh và sắc, hay thân và tâm tạm được chia ra như vậy là để cho người học dễ hiểu, chứ thật ra, cả hai chỉ là một mà thôi, đó là con người năm uẩn.

5.       Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the normal person

The normal person, first of all, must be the person of aggregates that consists of form, feelings, perception, mental formations, and consciousness is divided into two parts: that is nāma and rūpa = name and form, or mind and body.[8] Nāma referring to the mind is comprised of feelings, perception, mental formations, and consciousness; and rūpa referring to the body is comprised of earth elements (pruhavī-dhātu) – solidity, water elements (āpa-dhātu) – liquid, fire elements (teja-dhātu) – warmth, wind elements (vāyu-dhātu) – movement. Nāma and rūpa = name and form, or mind and body that are temporarily divided like this are for a learner to easily understand, but factually, both of which are only one, namely the person of aggregates.        

Yếu tố đất – chất cứng gồm có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, nội tạng, ruột…

yếu tố nước – chất lỏng gồm có mật, đờm, máu, mủ, mồi hôi, chất béo, nước mắt, mũi nhầy, nước tiểu…

yếu tố  lửa – chất nóng gồm có cơ cấu thân thể tạo ra hơi ấm vật lý, lão hóa, tiêu hóa…

yếu tố gió – sự chuyển động gồm có không khí liên quan với hệ thống phổi, hơi thở, gió trong bụng và đường ruột…

Danh sắc, hay tâm và thân tương thuộc với nhau, và không thể tách rời nhau.

Earth elements (pruhavī-dhātu) – solidity include head hair, body hair, nails, teeth, skin, flesh, sinews, bone, organs, intestines, etc.

Water elements (āpa-dhātu) – liquid include bile, phlegm, blood, pus, sweat, fat, tears, nasal mucus, urine, etc.

Fire elements (teja-dhātu) – warmth include those bodily mechanisms that produce physical warmth, ageing, digestion, etc.

Wind elements (vāyu-dhātu) – movement include air associated with pulmonary system, breathing, winds in the belly and bowels, etc.

Name and form, or mind and body (Nāma and rūpa) are interdependent with each other, and inseparable.

Thật vậy, con người bình thường được gọi là con người duyên sinh (Pali: paticcasamuppāda)(ta), con người tương thuộc (không ta), hay con người vô ngã; vô ngã (Pali: anattā) có nghĩa là các yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, và thức không tồn tại độc lập và riêng biệt; ta và không ta là một, con người duyên sinh và con người tương thuộc là một, và một là tất cả.

Indeed, the normal person is called as the person of dependent arising (Pali: paticcasamuppāda) (self), that of interdependence, or that of no self; no self (Pali: anattā) means the elements of form, feelings, perception, mental formations, and consciousness do not exist independently and separately; self and no self become one, the person of dependent arising and that of interdependence are one, and one is all.

Theo cái nhìn thiền quán của đạo Phật, con người này không chấp một duyên duy nhứt, một chủ thể tuyệt đối, một linh hồn bất biến, và một đấng sáng tạo vĩnh cửu. Con người bình thường, năm uẩn, duyên sinh, hay vô ngã đều được gọi là con người vô thường, phàm phu, hoặc thánh nhân. Con người này sinh ra trong đời, lớn lên trong đời, và thành tựu trong cuộc đời đều phải trải qua các giai đoạn già, bệnh, chết, nghiệp lực, chuyển biến…

According to contemplative vision of Buddhism, this person does not accept a unique condition, an absolute subject, an unchanging soul, an eternal Creator. The person of normality, five aggregates, dependent arising, or no self is called as the person of impermanence, secularity, or saint. This person, who was born in the world, grows up in the world, and succeeds in the world, must undergo stages of birth, old age, sickness, and death, Karma power, changing, etc.      

Học sử Phật giáo, chúng ta biết khi tham quan bên ngoài 4 cửa thành, thái tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha) và người hầu cận tên là Sa Nặc (Channa) thấy rõ các cảnh tượng thật, đó là người già, người bệnh, người chết, và vị Khất sĩ. Khi nhìn thấy các cảnh tượng đó, thái tử liền có những dòng suy tư và quán chiếu đời sống của mình và của con người như thế này; là con người, ai cũng phải trải qua các giai đoạn sinh, già, bệnh, và chết; là con người, ai cũng phải tạo ra các nghiệp thiện và nghiệp bất thiện; là con người, ai cũng phải có Phật tính, etc.

Learning the history of Buddhism, we know that when going sightseeing outside the four gates of the royal palace, the prince Siddhārtha and his charioteer named Channa clearly saw real scenes, that is, an old person, a sick person, a dead person, and a mendicant. When having seen those scenes already, the prince immediately had streams of thoughts, and contemplated his life and human beings’ lives like this; as human beings, everyone must also undergo the stages of birth, old age, sickness, death; as human beings, everyone must also create good Karmas (actions) and non good Karmas; as human beings, everyone must also have Buddha nature, etc.     

Thật vậy, để đem lại an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân trên thế gian này, để đem lại tình thương và hòa bình đích thực cho muôn loài chúng sanh, nương vào con người duyên sinh và vô thường này, Bồ tát Tất Đạt Đa (Bodhisattva Siddhārtha) quyết định chọn con đường xuất gia, con đường tu tập, con đường hướng thượng và hướng thiện, hướng tới giác ngộ, an vui, giải thoát, và Bồ tát quán chiếu rằng:    

Actually, to bring peacefulness and happiness to himself and to others in this world, to bring authentic love and peace to living things and living beings, depending on this person of dependent arising and impermanence, Bodhisattva Siddhārtha decided to choose the path of leaving his royal home for a monastic life, the path of cultivation, the path leading to upper and to good, leading to enlightenment, peaceful joy, freedom, and Bodhisattva contemplated:

Thế nào tôi cũng phải già nua, tôi không thể nào tránh thoát khỏi già nua;

Thế nào tôi cũng phải bệnh, tôi không thể nào tránh thoát khỏi bệnh;

Thế nào tôi cũng phải chết, tôi không thể nào tránh thoát khỏi cái chết;

Tất cả những gì do nghiệp thân, nghiệp khẩu, và nghiệp ý của tôi tạo tác và gây ra, tôi không thể nào xa

lìa và tránh khỏi dù đó là nghiệp thiện hay nghiệp bất thiện;

Tất cả những nghiệp thiện và bất thiện do tôi tạo tác; ý thức rằng nghiệp thiện tôi tiếp tục phát huy, duy

trì, và phát triển; nghiệp bất thiện tôi cố gắng buông bỏ, loại trừ, và chuyển hóa;

Tất cả những người thân, người thương, và những gì tôi trân quý hôm nay, một mai này chắc chắn tôi sẽ

xa lìa và buông bỏ, tôi không thể nào tránh khỏi sự xa lìa và buông bỏ ấy.”[9]

I am certain to also have to get old, I cannot get rid of aging;

I am certain to also have to get sick, I cannot get rid of sickness;

I am certain to also have to die, I cannot get rid of death;

All what is created and caused by my bodily karma, verbal karma, and mental karma, I cannot renounce

and escape from whether it is good karma or non-good karma;

All good karmas and non-good karmas are created by me; aware that my good karmas I keep on

promoting, upholding, and developing; my non-good karmas I try to let go of, to eliminate, and to

transform;

All relatives, loved ones, and what I cherish today, one day I will certainly renounce and let go of them,

I cannot escape from renouncing and letting go of them.[10]

Quán chiếu con người bình thường như vậy bằng cách học hạnh xả ly và buông bỏ chấp thủ, Bồ tát quyết chí xuất gia, nỗ lực tu tập, và an trú vững chãi vào thiền định. Cuối cùng, Ngài giác ngộ viên mãn, và thành Phật – Bậc tỉnh thức vẹn toàn, đem tình thương và ánh sáng hòa bình đích thực cho nhân thế.

Contemplating the normal person like this by learning conduct of renouncing and letting go of clinging, the Bodhisattva decided to leave royal home for a monastic life, to make an effort, and to dwell steadily in concentrated meditation. Finally, he obtained perfect enlightenment and became the Buddha – the fully awakened One, brought love and the light of authentic peace to humanity.

Thực vậy, những điều quán chiếu trên đây rất thiết thực hiện tại mang nhiều ý nghĩa chuyển hóa và tu tập, an vui và hạnh phúc. Là con người bình thường, là đệ tử của đức Thế Tôn, khi chúng ta khéo biết tu tập và chuyển hóa nghiệp bằng cách quán chiếu, áp dụng, và thực hành giáo pháp của đức Thế Tôn vào trong cuộc sống hằng ngày của mình, thì hiện tại ta sống rất an lạc, và tương lai ta sống rất an vui; chúng ta hiểu và thực hành Phật pháp được như vậy, thì an lạc và hạnh phúc có khả năng thấm nhuần và làm mát dịu thân tâm. 

Indeed, the above discussed contemplation things that are very practical in the present bring many meanings of transformation and cultivation, peacefulness and happiness. As the normal people, as the World-Honored One’s disciples, when we skillfully know to cultivate and to transform our karma by contemplating, applying, and practicing His teachings in our daily lives, in the present we live very tranquilly and peacefully, and in the future we will live very tranquilly and joyfully; we understand and practice His Dharma like this, peacefulness and happiness have the ability to permeate and make our bodies and minds cool.

6.       Nhìn Phật đản qua khía cạnh kham nhẫn, trí tuệ, hướng thượng, hướng thiện, an vui, và giải thoát

Trải qua 6 năm tu khổ hạnh với 5 anh em Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như, nhà tu Tất Đạt Đa chỉ ăn lá và trái cây rừng để nuôi thân. Cuối cùng, xét thấy lối tu khổ hạnh ép xác này không đem lại an lạc và lợi ích cho thân tâm, Ngài quyết định rời 5 người bạn đồng tu và bỏ lối tu ấy bằng cách thọ nhận bát cháo sữa của nàng Su-dà-ta (Sujata) và chọn con đường Trung Đạo (majjhimāpaipadā):không tu khổ hạnh ép xác và không tham đắm dục lạc.

6.       Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of endurance, wisdom, leading to upper, to good, peacefulness, and liberation

Spending the six years practicing asceticism with his five brothers of the Elder Añña Kondañña, the monk Siddhārtha only ate leaves and fruits in the forest to feed his body. Finally, examining the way of this self-asceticism did not lead peacefulness and happiness to his body and mind, he decided to leave the five fellow monks and to give up that way by receiving a bowl of a milky porridge from a young lady named Sujata and choosing the Middle Path (majjhimāpaipadā): “Non- self-indulgence and non-self-mortification.”

Ở điểm này, các vị cổ Đức thường nói: “Có thực mới vực được đạo.” Nhờ thọ dụng bát cháo sữa của nàng cúng, nên sức khỏe của Ngài dần dần trở nên bình phục. Sau khi thọ dụng xong, Ngài đem bát không quăng xuống sông Ni Liên Thiền (Neranjara), phát nguyện, và nói rằng: “Nếu cái bát này trôi ngược dòng nước, thì việc tu tập của Ta chắc chắn sẽ đạt thành đạo quả.” Quả thật, chọn con đường Trung đạo để tu tập và hướng tới giác ngộ, cuối cùng, Ngài thành tựu được đạo quả tốt đẹp.  

At this point, the Elder usually say: “The way to one’s heart is through one’s stomach.” Thanks to eating the bowl of milky porridge offered by her, his health gradually became recovered. After having eaten it, he took that bowl to throw it down to Neranjara river, opened his vows, and said: “If this bowl drifts upstream against water, my cultivation will certainly obtain Arahantship.” Actually, choosing the Middle Path (majjhimāpaipadā) to cultivate and to lead him to enlightenment, finally, he achieved the well fruitful path.    

Như quý vị biết cái bát này là một ví dụ cụ thể minh họa cho “đời sống chánh niệm, giác ngộ, và tỉnh thức” của hành giả Tất Đạt Đa (Siddhārtha). Trôi ngược dòng có ý nghĩa ngược lại với trôi xuôi dòng; trôi xuôi dòng có nghĩa là mọi người sống ở đời đều phải bị vướng bận gia đình và con cháu; trôi ngược dòng có nghĩa là hành giả sống ở đời, nhưng không bị vướng bận gia đình và con cháu. Nước dụ cho tham ái, ràng buộc, bận bịu, bám víu … Ta ở đây là đại từ ngôi thứ nhất được hiểu là “hành giả.”

As you know this bowl is a specific example exemplified life of mindfulness, enlightenment, and awakening of practitioner Siddhārtha. Drifting upstream means has the opposite meaning to drifting downstream; drifting downstream means everyone living in the world has to be busy with family and descendants; Drifting upstream means the practitioner living in the world, but not busy with his royal family and descendants. Water is the symbol for lust, tie, busyness, clinging, etc. I here is the first person singular pronoun understood as the “practitioner.”       

Vậy, trôi ngược dòng sông có ý nghĩa tổng quát là mọi người ở đời sống đời sống có gia đình, hành giả sống đời sống không có gia đình, không bị ràng buộc bởi các ràng buộc gia đình, vợ chồng, và con cái, sống đời sống có nhiều tự do, thong dong và tự tại, có nhiều thời gian để tu tập và để hướng dẫn người khác, đi trên con đường hướng thượng và hướng thiện, hướng tới an vui và hạnh phúc cho số đông.

Thus, drifting upstream against the river generally means everyone in the world lives a life with the family, the practitioner who lives a life without the family is not tied by ties of his royal family, spouse, and children, lives his life with much freedom, relaxation, and carefreeness, with much time to cultivate and to teach other people, travels on the path leading to upper and to good, to peacefulness and happiness for the many. 

Câu trên vừa đề cập có thể viết lại là: “Nếu hành giả an trú vững chãi trong niệm, trong định, và trong tuệ, thì hành giả chắc chắn sẽ gặt hái được nhiều hoa trái an vui và hạnh phúc đích thực cho số đông trên khắp hành tinh này.” Đây là mệnh đề điều kiện thứ nhứt, nếu áp dụng và thực tập Phật pháp ngon lành vào trong đời sống hằng ngày của mình, thì hành giả chắc chắn có thể gặt hái những hoa trái an vui và hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Thật vậy, vun trồng, nuôi dưỡng, và phát triển việc làm thiện, ý nghĩ thiện, và lời nói thiện, thì chắc chắn hành giả sẽ đạt được an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này.

The above mentioned sentence can be rewritten: “If the practitioner dwells steadily in mindfulness, in concentration, and in wisdom, he will certainly obtain many flowers and fruits of authentically peaceful joy and happiness for the many all over this planet.” It is the first condition clause, if applying and practicing the Buddha Dharma well in our daily lives, the practitioner can certainly reap flowers and fruits of peacefulness and happiness right here and right now in the present life. Indeed, cultivating, nourishing, and developing good doings, good thoughts, and good speeches, the practitioner will certainly achieve peacefulness and happiness for himself and for others right in this life. 

Từ đó, Bồ tát Tất-đạt-đa nhận bó cỏ Kiết tường (Kusa) của người nông phu cúng dường để làm bồ đoàn, đi tới Bồ đề đạo tràng, ngồi thiền dưới gốc cây Bồ đề, và thệ nguyện rằng: “Dù xương tan thịt nát, nếu chưa thành chánh giác, Ta quyết không rời chỗ này.” Nhờ lời nguyện dõng mãnh ấy, cuối cùng, Ngài đạt thành đạo quả giác ngộ và trở thành Phật.

Afterward, Bodhisattva Siddhārtha, who received a bundle of auspicious grass (Kusa) offered by a farmer to make a cushion, walked to Bodhgaya, sat in meditation under a Bodhi tree, and vowed: “Though my bone and flesh get crushed, if I have not attained enlightenment yet, I decide not to leave this place.” Thanks to the courageous vows, finally, He attained enlightenment and became the Buddha.

Vậy, trên lộ trình tu tập, hướng thượng và hướng thiện, trước khi thành Phật, Bồ tát Tất Đạt Đa (Siddhartha) luôn thực tập hạnh kham nhẫn trí tuệ; kham nhẫn là lối tu tập vững chãi; trí tuệ là lối tu tập sáng suốt. Nhờ chọn lọc lối tu đúng đắn, Bồ tát khéo vận dụng chánh kham nhẫn, chánh trí tuệ, và chánh tri kiến vào đời sống tu tập hằng ngày của mình để không rơi vào các lối tu cực đoan như đứng một chân như cò, bò vòng quanh đóng lửa, phơi thân suốt ngày đêm ngoài nắng và trong sương, để râu, tóc, lông, móng thật dài…

Thus, on the route of cultivation, leading to upper and to good, before becoming the Buddha, Bodhisattva Siddhartha had always practiced patience and wisdom; the patience is the way of steady cultivation; the wisdom is the way of lucid cultivation. Thanks to choosing the way of correct cultivation, the Bodhisattva skillfully made use of right patience, right wisdom, right understanding in his daily cultivation life in order not to fall into the extreme cultivation ways, such as standing a leg like a stork, crawling around a heap of fire, exposing himself throughout the day and night in the sun and in the mist, letting beards, head hair, body hair, nails be so long, etc.

Cuối cùng, Bồ tát đoạn tận phiền não, vô minh, lậu hoặc, và đích thực trở thành con người tỉnh thức và giác ngộ viên mãn dưới cội cây Bồ đề ở Bồ Đề Đạo tràng, Ấn Độ ngày nay.

Từ thời gian đó cho tới bây giờ, đạo Phật không những được truyền bá trong nước Ấn Độ, mà còn truyền bá trong nhiều nước trên thế giới cổ đại và hiện đại.

Finally, the Bodhisattva eliminated defilements, ignorance, lapses, and authentically became the person of awakening and enlightenment under the tree of Bodhi – Enlightenment, India today.

From that time until now, Buddhism – the path of peace, has been not only spread in India, but also in many countries in the ancient and modern world. 

7.       Nhìn Phật đản qua khía cạnh tưới tẩm, khơi dậy, và đánh thức Phật tánh trong tất cả chúng sanh

          Khi đản sinh, đức Phật sơ sinh nói một câu bất hữu trong lịch sử nhân loại: “Trên trời dưới đất, chỉ có con Người (Ta) là tôn quý, tất cả chúng sinh đều có Phật tính.” (Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn, nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh.[11] Con người được nhấn mạnh ở đây là một đại từ vừa chỉ cho đức Phật, vừa chỉ cho con người bình thường, không phải là một đấng thần linh. Như vậy, câu nói lịch sử này chỉ được tìm thấy trong đạo Phật – đạo tỉnh thức, ngoài đạo tỉnh thức ra, không được tìm thấy trong các tôn giáo khác.

7.       Looking at the Buddha’s birthday via aspects of watering, arousing, and awakening Buddha nature in all living beings

When being born, the newborn baby Buddha said an immortal sentence in history of humankind: “In heaven and on earth, only human is respected and esteemed, all living beings have Buddha nature.[12] The human stressed here is a pronoun, both pointed to the Buddha and pointed to the normal person, no god. Thus, this historical statement is only found in Buddhism, apart from Buddhism, it has not been found in other religions.       

Theo tư tưởng của đạo Phật, Phật tính trong con người và trong chúng sinh đều bình đẳng như nhau. Ở thánh Phật tánh không tăng, và ở phàm Phật tánh không giản. Quá trình tu tập là quá trình để tự mình làm Phật tánh của mình sáng dần ra, là quá trình nhận diện và chuyển hóa vô minh, phiền não, và khổ đau thành minh, an vui và hạnh phúc bằng cách thực hành và áp dụng những lời nói thiện, ý nghĩ thiện, và việc làm thiện vào trong đời sống hằng ngày của mình để đem lại an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này.

According to Buddhist thought, Buddha nature in human and in living beings is the same equality. In a sainted person, Buddha nature does not increase, and in a normal person, Buddha nature does not decrease. The process of cultivation which is the process of oneself can make one’s Buddha nature brighter is the process of recognizing and transforming ignorance, defilements, and suffering into lucidity, peacefulness, and happiness by practicing and applying good speeches, good thoughts, and good actions into one’s daily life to bring peaceful joy and happiness to oneself and to other people right in the present life.

Bằng phương pháp khơi dậy, đánh thức và tưới tẩm Phật tánh của tất cả chúng sanh, đức Phật quán chiếu và đưa ra những ví dụ sinh động và cụ thể như sau: “Có các chúng sanh có nhiều bụi phiền não trong tâm, có ít bụi phiền não trong tâm, và không có bụi phiền não trong tâm. Cũng vậy, có các loại sen hồng, sen đỏ, và sen trắng đang mọc trong nước, lớn lên trong nước, vươn ngang mặt nước, và vượt ra khỏi mặt nước, song qua quá trình mọc và sống trong ao nước, tất cả các loại hoa sen đều lần lượt nở hoa tươi tốt.[13]

By the methods of arousing, awakening, and watering all living beings’ Buddha nature, the Buddha contemplated and brought out vivid and specific examples as follows: “There are living beings with much dust of defilement in mind, with less defilement dust in mind, and without defilement dust in mind. Likewise, there are kinds of the pink lotuses, red lotuses, and white lotuses, growing in water, growing up in water, reaching across the surface of water, and reaching beyond the surface of water, but through the process of growing and living in a pond, all kinds of lotuses gradually bloom freshly.[14]  

Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Thảo dụ thứ V,[15] đức Phật đưa ra các hình ảnh ẩn dụ của một trận mưa, cây lớn hút nước mưa nhiều, cây vừa vừa hút nước mưa vừa vừa, cây nhỏ hút nước mưa ít; song, qua quá trình hút nước, tất cả các loại cây lớn, cây vừa, và cây nhỏ đều trở nên xanh tốt. Cũng vậy, có các chúng sanh có nhiều trí tuệ, có các chúng sanh có trí tuệ vừa vừa, và có các chúng sanh có ít trí tuệ;

In the Lotus Sutra, the Parable of the Herbs, Chapter V,[16] the Buddha brought out the metaphoric images of a rain, big trees absorb much rainwater, moderate trees absorb moderate rainwater, small trees absorb a little rainwater; however, through the processes of absorbing water, all kinds of big, moderate, and small trees get fresh and verdant. Likewise, there are living beings with much wisdom, there are living beings with moderate wisdom, there are living beings with a little wisdom;

song qua quá trình đủ duyên tiếp thu, học hỏi, áp dụng, và hành trì Phật pháp vào đời sống hằng ngày, tất cả các loại chúng sanh đó đều thấm nhuần Phật pháp và dần dần đem lại an lạc và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay tại thế gian này.

however, through the processes of having good opportunity to acquire, to learn, to apply, and to practice the Buddhadharma in their daily lives, all kinds of living beings are imbued with the Buddhadharma and gradually bring peacefulness and happiness to themselves and to other people right in the present life.

8.       Nhìn Phật đản qua khía cạnh bình đẳng  

Bình đẳng là một âm tiếng Hán Việt; bình có nghĩa là an bình, hòa bình, bằng phẳng, đồng đều, bao dung, rộng lượng, đón nhận, tiếp nhận, chấp nhận …; đẳng có nghĩa là sai khác, sai biệt, khác biệt, không giống nhau, không kỳ thị…

8.       Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of equality

Bình đẳng is a Sino-Vietnamese word; bình means tranquility, peace, flatness, alikeness, tolerance, generosity, welcome, reception, acceptance, etc.; đẳng means difference, variety, discrepancy, dissimilarity, non-discrimination, etc.

Vậy, bình đẳng có nghĩa là chấp nhận sự khác nhau với tâm bao dung, rộng lượng, không kỳ thị, và không chống trái. Nó không những bao hàm những ý nghĩa tình thương, tình huynh đệ, tình đồng loại, hòa hợp, đoàn kết, che chở, bảo hộ, tha thứ…, mà còn bao hàm những ý nghĩa không kỳ thị, không phân biệt, và chấp nhận sự khác biệt. Ngược với Bình đẳngbất bình đẳng; bất bình đẳng có nghĩa là kỳ thị, phân biệt, phân chia, không chấp nhận sự khác biệt…

Thus, bình đẳng means acceptance of difference with the heart of tolerance, generosity, non-discrimination, and non-contrariness. It not only implies the meanings of love, brother/sisterhood, fellow-creature, harmony, solidarity, defense, protection, forgiveness, etc., but also those of non-discrimination, non-distinction, and acceptance of differentiation. Contrariness to equality is inequality; inequality means discrimination, differentiation, division, non-acceptance of difference, etc.   

Chúng ta biết đạo Phật có mặt trên thế gian này gần ba nghìn năm; thời gian trước đạo Phật, sau đạo Phật, và cho tới bây giờ, trong xã hội Ấn Độ, hầu hết người dân Ấn theo Ấn giáo (Hinduism) hay Bà La Môn giáo (Brahmanism), được chia thành 4 giai cấp khác nhau rõ rệt; sự phân giai cấp của người Ấn ngày xưa có thể thấm vào máu thịt của họ không dễ mà thay đổi; tuy nhiên, sự phân chia giai cấp của người Ấn ngày nay có phần thay đổi tư tưởng và cái nhìn của họ, nhưng không nhiều kể từ khi người Ấn có cơ hội mở cửa và tiếp xúc với thế giới bên ngoài. 

As we know Buddhism has been present in the world for nearly three thousand years; time before Buddhism, time after Buddhism, and until now, in Indian society, most of Indian people follow Hinduism or Brahmanism, divided into four obviously different castes; division of ancient Indian castes which can be absorbed into their flesh and blood is not easy to change; however, the division of Indian castes today has a part of changing their ideas and views, but not many since when Indian people have had the opportunity to open the door and to contact with the world outside.

Theo luật Mã Nỗ (Mānu) của Bà La Mô giáo (Brahmanism), Ấn giáo được chia làm 4 giai cấp[17] khác nhau do đấng Phạm thiên (Brahma) tạo ra:

a.       Giai cấp tu sĩ tế lễ Bà La Môn (Brahman)

b.       Giai cấp dũng sĩ Sát Đế Lợi (Ksatriya)

c.       Giai cấp buôn bán Phệ Xá (Vaisya), và

d.       Giai cấp lao động thấp kém Thủ Đà La (Sudra)

According to Mānu rules of Brahmanism, Hinduism is divided into the four different castes[18] created by a Brahma:

a.       Brahman sacrificial priest caste

b.       Ksatriya warrior caste

c.       Vaisya merchant caste

d.       Sudra low labor caste

Bà La Môn (Brahman) có nghĩa là thanh tịnh và tịnh hạnh. Những người theo giai cấp này là những vị đạo Sĩ, được sanh ra từ miệng Phạm thiên, đứng vị trí thứ nhứt trong xã hội, chăm lo nghi lễ, tế tự, cúng tế, giao tiếp thần linh, và nắm giữ quyền lực thần quyền.

Brahman means purity and virtue. Those who follow this caste are priests or hermits, were born from the Brahma’s mouth, are in the first position in society, take care of rituals, sacrifice, prayers, communicate deities, and hold divine power.

Sát Đế Lợi (Ksatriya) có nghĩa là mạnh mẽ và hùng mạnh. Những người theo giai cấp này là những dũng sĩ, quan quyền và vua chúa, được sanh ra từ vai Phạm thiên, đứng vị trí thứ hai trong xã hội, chăm lo việc nắm giữ quyền lực chính trị để giữ gìn đất nước, dòng dõi vua chúa, và chống giặc nội ngoại xâm.

Ksatriya means strength and power. Those who follow this caste are warriors, mandarins, and kings, were born from the Brahma’s shoulder, are in the second position in society, take care of holding the political power to guard the country, lineage of kings, and to resist the enemies of the internal and foreign invasion.  

Phệ Xá (Vaisya) có nghĩa là buôn bán, trồng trọt, chăn nuôi... Những người theo giai cấp này là những người buôn bán, nông dân, công dân… được sanh ra từ hông Phạm thiên, đứng vị trí thứ ba trong xã hội, chuyên lo việc mua bán, đổi chác, làm rẫy, làm ruộng, làm vườn… tạo ra tài sản, và phục dịch cho hai giai cấp trên.

Vaisya means trading, cultivation, breeding, etc. Those who follow this caste are merchants, farmers, workers, etc., were born from the Brahma’s hip, are in the third position in society, take care of buying, selling, exchanging, making mountain field, growing rice paddy, doing the garden, etc., create properties, and serve the two above castes.  

Thủ Đà La (Sudra) có nghĩa là bần cùng, thấp kém, và hạ tiện. Những người theo giai cấp này là những đầy tớ, tôi tớ, nô lệ… được sanh ra từ bàn chân Phạm thiên, đứng vị trí thứ tư trong xã hội, luôn rụt rè, sợ sệt, cúi đầu, khép nép…, và phục dịch cho 3 giai cấp trên.

Sudra means poverty, low, and vileness. Those who follow this caste are servants, subordinates, slaves, were born from the Brahma’s feet, are in the fourth position in society, are always timid, fearful, bowing down, subservient, and serve the three above castes.  

Bốn giai cấp này được luật Mã Nỗ (Mānu) phân chia rõ ràng. Tuy nhiên, ngoài bốn giai cấp ấy ra, xưa cũng như nay xã hội Ấn Độ vẫn còn có hạng người cùng đinh không liệt kê vào bốn giai cấp trên; họ là hạng người bần cùng trong xã hội, họ không có nhà để ở, họ ngủ ở vỉa hè, trên lòng lề đường, họ không có quần áo để che thân, không có cơm để ăn, không có nước sạch để uống, v. v. và v. v. Ai cho gì thì họ ăn cái nấy. Họ dễ bị chết cóng vào mùa đông, chết nóng vào mùa hè, chết đói vào mùa xuân, mùa hạ, mùa thu và mùa đông. Hạng người cùng đinh (Dalits)[19] này không được liệt kê trong bốn giai cấp được thảo luận ở trên.

These four castes are clearly divided by Mānu rules. However, in addition to the four castes, anciently as well as presently, Indian society has still had a kind of Dalits, are not listed in the four above castes; they are kinds of untouchables or impoverished people in society, they do not have any house to live, they sleep on the sidewalk, on the roadsides, they do not have clothes to cover their bodies, they do not have cooked rice to eat, do not have clean water to drink, etc. They can eat some food and drink which are given to them. They easily freeze to death in the winter, die of heat in the summer, starve to death in the spring, in the fall, and in the winter. Kinds of these Dalits[20] are not listed in the four above discussed castes.   

Thật vậy, theo Luật Mã Nỗ (Manu), người theo giai cấp nào thì sinh hoạt theo giai cấp nấy. Ví dụ, người theo giai cấp Bà La Môn (Brahman), thì họ chỉ sinh hoạt và giao tiếp với những người cùng giai cấp của họ mà thôi. Người theo giai cấp dũng sĩ (Sát Đế Lợi/ Ksatriya), thì họ chỉ sinh hoạt và giao tiếp với những người cùng giai cấp của họ mà thôi. Người theo giai cấp buôn bán (Phệ Xá/ Vaisya), thì họ chỉ sinh hoạt và giao tiếp với những người cùng giai cấp của họ mà thôi. Người theo giai cấp lao động thấp kém (Thủ Đà La/ Sudra), thì họ chỉ sinh hoạt và giao tiếp với những người cùng giai cấp của họ mà thôi. Họ rất hạn chế trong việc làm ăn, giao tiếp, đặc biệt trong việc cưới hỏi và hôn nhân ngoài giai cấp.

Indeed, according to the Manu rules, people only work with their caste they follow. For example, people who follow Brahman caste only work and communicate with people of their same caste. People who follow warrior caste only work and communicate with people of their same caste. People who follow trading caste only work and communicate with people of their same caste. People who follow low labor caste only work and communicate with people of their same caste. They are very limited in business, communication, especially in wedding and marriage outside caste. 

Khi gặp những người theo hai giai cấp Bà La Môn (Brahman) và Sát Đế Lợi (Ksatriya), thì những người theo hai giai cấp Phệ Xá (Vaisya) và Thủ Đà La (Sudra) phải khiêm nhường, khúm núm, và tránh né. Những ai không tuân thủ vào Luật Mã-nỗ này thì họ sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Do vậy, những người theo hai giai cấp dưới không hoặc hiếm có cơ hội học tập, phấn đấu, tiến thân, thành tài như hai giai cấp trên. Những lý do đó đưa tới bất bình đẳng trong xã hội tạo ra các cá nhân bất ổn, gia đình bất an, và xã hội xáo trộn không ít vì sự phân chia giai cấp, kỳ thị giàu nghèo, màu gia, chủng tộc, tôn giáo, vân vân…

When meeting people follow the two castes of Brahman and Ksatriya, people following the two castes of Vaisya and Sudra have to be humble, subservient, and avoidable. Those who do not comply with the Manu rules will be severely punished. Thus, people who follow the two low castes do not or rarely have an opportunity to learn, to strive, to succeed in their lives, to become the talented ones like the two above castes. The reasons that lead to inequality in society cause instable individuals, insecure families, and disturbed society not little because of caste division, discrimination of rich and poor people, skin color, race, religion, etc.      

Hơn nữa, theo quan điểm Bà La Môn giáo (Brahmanism), Bà La Môn cho rằng những ai theo giai cấp Bà La Môn (Brahman), thì họ là người giai cấp Bà La Môn suốt đời; những ai theo giai cấp dũng sĩ (Sát Đế Lợi/ Ksatriya), thì họ là người giai cấp dũng sĩ suốt đời; những ai theo giai cấp buôn bán (Phệ Xá/ Vaisya), thì họ là người giai cấp buôn bán suốt đời; những ai theo giai cấp lao động thấp kém (Thủ Đà La/ Sudra), thì họ là người giai cấp lao động thấp kém suốt đời.

Moreover, according to viewpoints of Brahmanism, Brahman has believed that those who follow Brahman caste are people of the Brahman caste forever; those who follow warrior caste are people of the warrior caste (Ksatriya) forever; those who follow trading caste (Vaisya) are people of the trading caste forever; those who follow low labor caste (Sudra) are people of the low labor caste forever.     

Theo quan điểm Phật giáo, đạo Phật đề cao và tôn trọng mọi người đều có Phật tính, bình đẳng không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ và trong giọt nước mắt cùng mặn. Đạo Phật không chấp nhận các quan điểm của Bà La Môn giáo (Brahmanism), chỉ chấp nhận các nghiệp thân, nghiệp khẩu, và nghiệp ý do họ tạo tác ra ở đời trước, đời này, hoặc ở đời sau mà thôi.

According to its viewpoints, Buddhism dignifies and respects everyone with Buddha nature and equality without caste in the same blood and in the same saltiness. Buddhism does not accept the viewpoints of Brahmanism, it only accepts their bodily actions (Karma), verbal actions, and mental actions created by them in the previous life, the present life, or in the future life.  

Nếu bạn là con người có dòng máu cùng đỏ, giọt nước mắt cùng mặn, bạn có phúc sinh ra trong một gia đình giàu có của Bà La Môn hay của Sát Đế Lợi. Nếu bạn sống trong gia đình ấy, bạn không biết làm những điều phúc thiện, sát sinh hại vật, khinh chê, và khinh thường người khác, thì hiện tại phúc đức của bạn giảm dần, bạn sẽ bị nhiều người oán trách, và tương lai, chắc chắn bạn sẽ bị tái sinh vào trong gia đình nghèo khổ.

If you are people with the same red bloodstream, the same salty teardrop, you are blessed to be born in a rich family of Brahman or in that of Ksatriya. If you live in that family, you do not know to do the virtuous and wholesome things, kill living beings, despise, and disdain other people, in the present your virtuous blessings decreases, you will be reprimanded, and in the future, you will certainly be reborn in a needy family.   

Ngược lại, nếu bạn là người thiếu phúc đức và thiếu may mắn, bạn sinh ra trong một gia đình Phệ Sá (Vaisya) hay Thủ Đà La (Sudra) nghèo khổ, nhưng bạn có duyên lành tiếp xúc với ánh sáng giáo lý Phật đà, bạn nỗ lực tu học Phật pháp thật giỏi, bạn có thể trở thành người đạo đức và gương mẫu trong gia đình và trong xã hội.

In contrast, if you are people lacking virtuous blessings and luckiness, you were born in a needy Sudra or Vaisya family, but you have a good opportunity to contact with the light of the Buddha’s teachings, you make an effort to cultivate and to learn the Buddhadharma so well, you can become people of virtue and exemplariness in your family and society.

Mặc dầu bạn sinh trong một gia đình nghèo khổ, phương tiện vật chất và tinh thần đối với bạn không dễ dàng thành tựu và vươn lên trong cuộc sống, nhưng nhờ thân tâm nỗ lực, hướng thượng và hướng thiện, bạn có thể vun trồng và tích lũy công đức bằng cách giúp người nghèo khổ, bố thí, và phóng sinh. Khi bạn hiểu và thực hành được như vậy, trong hiện tại, phúc đức của bạn tăng trưởng, gia đình của bạn hạnh phúc, trong tương lai, bạn và gia đình của bạn được nhiều người tôn trọng và quý kính. Nếu tái sinh làm người, bạn sẽ sinh trong gia đình giàu có, an vui, và hạnh phúc trong Phật pháp.   

Although you were in the needy family, means of materials and spirit to you is not easy to achieve and to rise up in your life, thanks to your bodily and mental effort, leading to supper and to good, you can cultivate and accumulate merit by helping the needy, giving alms, and releasing animals. When you understand and practice like this, in the present, your blessings and virtue increase, your family gets happy, in the future, you and your family are respected and esteemed. If being reborn to make human being, you will be born in a rich, peaceful, and happy family of the Buddhadharma.

Trong thời đức Phật, cách đây hơn 2600, có những vị đệ của Phật như Tôn giả luật sư Ưu Ba Li (Upali),[21] người thợ hớt tóc, giai cấp hạ tiện; Tôn giả Sunita (Ni-đề),[22] người gánh phân, không được liệt kê vào bốn giai cấp trên. Hoặc khoảng cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, có một vị Phật tử rất nổi tiếng tên là tiến sĩ Ambedka,[23] người giai thuộc cấp hạ tiện; cả ba người đều là người Ấn Độ sống cách nhau hơn nghìn năm. Song cả ba người có đủ duyên lành học, hiểu, áp dụng, và thực hành giáo pháp của đức Thế Tôn vào đời sống hằng ngày, đều trở thành những người Phật tử thuần thành, có khả năng giúp cho đạo Pháp và dân tộc, cho tự thân và tha nhân sống an vui và hạnh phúc ngay tại thế gian này. 

In the Buddha’s time, for over 2600, there were the Buddha’s disciples such as the Honored Elder Upali Attorney,[24] a barber, an untouchable caste; the Honored Elder Sunita,[25] a dung–collector, was not listed in the above four castes. Or about the end of the 18th century, at the beginning of the 19th century, there was a very famous Buddhist named Dr. Ambedka,[26] a person of an untouchable caste; all these three people that were Indian lived over thousand years ago. However, all the three people that had good conditions to learn, to understand, to apply, and to practice the Dharma of the World-Honored One in their daily lives, became the devout Buddhists, had the ability to help the Dharma path and the people, themselves and other people live peacefully and happily right in this world.           

Thực vậy, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Người sáng lập ra đạo Phật, có khả năng đem lại bình đẳng, an vui, hạnh phúc, ánh sáng giác ngộ, từ bi, và trí huệ không những cho xã hội Ấn Độ, mà còn cho cả thế giới nhân loại ngày nay.

Indeed, the Sakyamuni Buddha, who founded Buddhism, had the ability to bring equality, peacefulness, happiness, the light of enlightenment, loving-kindness, compassion, and wisdom not only to Indian society, but also to the whole world of humankind today.

Theo cái nhìn bình đẳng của đạo tỉnh thức, đạo Phật không bao giờ phân chia giai cấp và không chấp nhận những người theo giai cấp Bà La Môn là hoàn toàn thông minh và thanh tịnh; những người theo giai cấp Thủ Đà La (Sudra) hoàn toàn là ngu dốt và ô uế. Thông minh hay không thông minh, thanh tịnh hay không thanh tịnh, giai cấp hay không giai cấp đều do các hành động thiện và bất thiện của mình tạo tác mà hình thành. 

According to the equal vision of the awakening path, Buddhism has never discriminated any caste and has not accepted people who followed the Brahman caste were wholly intelligent and purified; who followed the Sudra caste were fully ignorant and dirty. Intelligence or unintelligence, purity or impurity, caste or non-caste, were created by their good actions and non-good actions to form.   

Tự mình điều ác làm,

Tự mình làm nhiễm ô,

Tự mình ác không làm,

Tự mình làm nhiễm ô,

Thanh tịnh không thanh tịnh

Điều do tự chính mình

Không ai thanh tịnh ai.

(Pháp Cú, kệ 165)

By oneself is evil done;

By oneself is one defiled.

By oneself is evil left undone;

By oneself is one made pure.

Purity and impurity depend on oneself;

No one can purify another.

(Dhammapada, Verse 165).

Sở dĩ các giai cấp được phân chia như vậy là vì Bà La Môn giáo muốn thống trị thiên hạ, muốn thiên hạ coi mình là trên hết, và bắt buộc mọi người phải tuân thủ làm theo. Nếu ai không làm theo luật Mã-nỗ (Manu) thì họ sẽ bị khiển trách và trừng phạt; ngược lại, đạo Phật hoàn toàn không đồng ý các quan điểm trên.

The reasons why castes have been divided thus are because Brahmanism wants to dominate people, wants the latter to consider the former as the uppermost, and forces everyone to obey and to follow. If those who do not follow the Manu rules would be reprimanded and punished; conversely, Buddhism has entirely not agreed the above viewpoints.  

Để chứng minh tinh thần bình đẳng trong đạo Phật, Kinh Phật Tự Thuyết (Udàna), chương V, phẩm Trưởng Lão Sona thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikàya) ghi rõ: “…Ví như khi các con sông Hằng, sông Yamunà, sông Aciracati, sông Sarabhù, và sông Mahi chảy đến biển, chúng liền bỏ tên họ trước, và sau này trở thành biển lớn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo! Có những hạng người trong bốn giai cấp Sát Đế Lợi (Ksatriya), Bà La Môn (Brahman), Phệ Xá (Vaisya), và Thủ Đà La (Sudra); Sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong Pháp và Luật được Thế Tôn tuyên bố sau này, chúng từ bỏ tên và họ của chúng trước, và sau trở thành những đệ tử của đức Thế Tôn.[27]

To prove the equal spirit of Buddhism, the Udàna Sutta, spoken by the Buddha himself, V, the chapter of the Elder Sona belonging to Khuddhaka Nikàya, states clearly: “For example, when Ganga river, Yamunà river, Aciracati river, Sarabhù river, and Mahi river, flow to the ocean, they immediately give up their names first, and later become the open sea. Likewise, O Bhikkhus! There are kinds of people in the four castes of Ksatriya, Brahman, Vaisya, and Sudra; After renouncing your family, living beyond ties of your family, leaving home for your monastic lives in his Dharma and moral rules (Vinaya) exclaimed by the World-Honored One later on, you all abandon your names first, and later become the World-Honored One’s disciples.

Qua đoạn trích dẫn trên đây, chúng ta thấy rằng trong giáo pháp của đức Thế Tôn và trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của Tăng đoàn không có giai cấp; ở điểm này, tinh thần bình đẳng trong đạo Phật đã hiện ra rõ ràng. Thật vậy, dù các bạn đã mang hàng trăm tộc họ khác nhau, dù các bạn là những người da trắng, da đen, da vàng, và da đỏ, dù các bạn là những người không có cùng giai cấp và tôn giáo, nhưng một khi có đủ duyên tu học và thực hành giáo pháp của đức Thế Tôn, các bạn đều trở thành các đệ tử của Ngài, lần lượt nếm được pháp lạc, và tiến đến an lạc và giải thoát như nhau.

Through the above quotations, we have found that in the Dharma of the World-Honored One and in the Sangha’s daily activities lives there is not any caste; at this point, the equal spirit of Buddhism has been manifested clearly. Indeed, though you have brought hundreds of different clans and surnames, though you are white, black, brown, and red people, though you do not have the same caste and religion, once having sufficiently good opportunities to cultivate, to learn, and to practice the Dharma of the World-Honored One, you become his disciples, gradually enjoy the joyful Dharma, and reach to peacefulness and freedom alike.   

Chúng ta đều biết ngược dòng thời gian cách đây hơn 26 thế kỷ qua, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Người sáng lập ra đạo Phật, đạo tỉnh thức và giác ngộ, đem an lạc, hạnh phúc, và bình đẳng cho mọi người và mọi giai cấp. Giáo pháp của đức Phật là giáo pháp bình đẳng; đức Phật là bậc Thầy bình đẳng, vị Vua bình đẳng; sự phân biệt và kỳ thị giai cấp và chủng tộc không bao giờ tìm thấy trong lời dạy của Thầy. Thầy nhấn mạnh rằng:

We know that going back in time more than 26 centuries ago, the Sakyamuni Buddha, who founded Buddhism, the path of awakening and enlightenment, brought peacefulness, happiness, and equality to everyone and every caste. His Dharma is the equal Dharma; He is the equal Teacher, the equal King; distinction and discrimination between caste and race have never been found in His teachings. He emphasized that: 

Không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ, trong giọt nước mắt cùng mặn. Những ai có đủ duyên lành thực hành và áp dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày một cách chánh niệm và tỉnh giác, vững chãi và thảnh thơi, thì họ đều thưởng thức và nếm được pháp lạc như nhau ngay trong giờ phút hiện tại. Thực vậy, mọi người sinh ra trên hành tinh này, ai cũng có giọt nước mắt cùng mặn, giọt máu cùng đỏ, ai cũng sợ gươm đao, ham sống và sợ chết, và ai cũng muốn có đời sống an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay tại thế gian này.[28]

There is not any caste in the same red blood drops, in the same salty teardrops. Those who have sufficiently good opportunity to practice and to apply the Buddhadharma in their daily lives mindfully and attentively, steadily and carefreely enjoy and taste the joyful Dharma alike right in the present hours and minutes. In fact, everyone is born on earth, they also have the same salty teardrops, the same red blood drops, they are also afraid of sword, desire to live, and fear to die, and they also want to lead their peaceful and happy lives to themselves and to other people right in the present life.[29]

Với những ý nghĩa thiết thực nêu trên, chúng ta biết trong Tăng đoàn của đạo Phật, và trong giáo pháp của đức Phật không có giai cấp. Trong tinh thần bình đẳng của đạo Phật không bao giờ có sự kỳ thị chủng tộc và phân chia giai cấp; hễ những ai có đủ duyên tu tập, thực hành lời dạy của đức Phật, không làm các điều ác, làm các việc lành, giữ thân tâm thanh tịnh và an lạc, sống đời sống chánh niệm và tỉnh giác trong đời sống hằng ngày của mình, thì họ là những người có khả năng đem lại những hoa trái an vui và hạnh phúc đích thực cho số đông trên khắp hành tinh này.

With the aforementioned practical meanings, we know that in the Sangha of Buddhism, and in the Dharma of the Buddha there is not any caste. In the equal spirit of Buddhism there are never discrimination of race and division of caste; those who have enough good conditions to cultivate, to practice the Buddha’s teachings, not to do evil things, to do good things, to keep their minds purified and peaceful, to lead their lives of right mindfulness and awareness in their daily lives, are people having the ability to bring flowers and fruits of authentic joy and happiness to the many all over this planet.    

Để hiểu rõ và xác nhận những điều thảo luận ở trên, học lịch sử Phật giáo, chúng ta biết trong đạo Phật có rất nhiều hạng người ở nhiều giai cấp và tôn giáo khác nhau; trước khi là một người cư sĩ, Tôn giả Ni Đề (Sunita) là người hốt phân không thuộc bốn giai cấp trên; Tôn giả Ưu ba li (Upali) là người thợ hớt tóc ở giai cấp thấp thứ tư (Sudra);  Tôn giả Thuần Đà (Chunda) là người thợ rèn ở giai cấp thứ ba (Vaisya); Tôn giả A Nan Đa (Ananda) là người giai cấp dũng sĩ (Ksatriya); Tôn giả Xá lợi Phất (Sariputta) và Tôn giả Mục Kiền Liên (Mahà Moggallàna) là những người giai cấp Bà-la-môn (Brahman); Tôn giả Vô Não (Angulimala) là vị tướng cướp khét tiếng; Am Ba Ba Li (Ambapàli) là một kỉ nữ hạng sang, v. v….. Song qua quá trình tiếp xúc, học hỏi, áp dụng, và hành trì Phật pháp, chư vị đều trở thành những người đệ tử an vui và hạnh phúc đích thực của đức Thế Tôn.

To clearly understand and to confirm the above discussed things, learning the history of Buddhism, we know that in Buddhism there are very many kinds of people in many different castes and religions; before being a lay person, the Elder Sunita was a dung-collector, not belonging to the four above castes; the Elder Upali was a hair-cutter of the fourth caste (Sudra); the Elder Chunda was a smith of the third caste (Vaisya); the Elder Ananda was a person of warrior caste; the Elder Sariputta and the Maha Moggallàna Elder were people of Brahman caste; the Elder Angulimala was a notorious chief bandit; Ms. Ambapàli was a courtesan, etc. However, through the process of contacting, learning, applying, and practicing the Buddhadharma, they became authentically peaceful and happy disciples of the World-Honored One.

Cũng vậy, các loại nước sạch, nước dơ, nước ngọt, nước lợ … của trăm ngàn con sông, suối, ao, hồ… chảy ra biển cả đều trở thành nước mặn. Tất cả các hạng người ở nhiều giai cấp và chủng tộc khác nhau, song họ có đủ duyên theo Phật, nghe pháp, thực hành lời Phật dạy, họ có khả năng thưởng thức và nếm được pháp lạc ngay trong đời sống hằng ngày, và sống đời sống an vui và giải thoát đích thực cho tự thân và cho tha nhân ngay tại thế gian này.        

Likewise, kinds of clean water, unclean water, fresh water, brackish water, etc., of hundreds and thousands of rivers, springs, ponds, lakes, etc., flowing into the ocean become salty water. All kinds of people come from many different castes and races, however, they have enough good opportunity to follow the Buddha, to listen to his Dharma, to practice his teachings, they have to ability to enjoy and to taste the joyful Dharma right in their daily lives, and lead their lives of authentic peacefulness and freedom for themselves and other people right in this world. 

Thật vậy, tinh thần bình đẳng của đạo Phật, đã được thấm nhuần qua các triều đại vua chúa, dòng dõi, thế hệ, và giai cấp khác nhau, đã được truyền bá không những ở trong nước Ấn Độ, mà còn ở ngoài nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, Lào, Thái, Úc, Pháp, Đức, Mỹ…Tinh thần đó rất thiết thực và giá trị vượt thoát biên cương, thời gian, và không gian.    

Indeed, the equal spirit of Buddhism, which has been penetrated through the reigns of kings, lineages, generations, and various castes, has been spread not only in India, but also in other countries such as Japan, South Korea, Vietnam, Laos, Thailand, Australia, France, Germany, United States of America, etc. That spirit, which is very practical and valuable, is beyond boundary, time, and space.

          Trên đây, tinh thần bình đẳng đã được trình bày xong; tiếp đến, người viết tiếp tục trình bày và tìm hiểu nhìn Phật đản qua khía cạnh hòa bình

          The spirit of equality has been above presented; next, the writer continues to present and to learn about looking at Buddha’s Birthday through peace aspects.   

9.       Nhìn Phật đản qua khía cạnh hòa bình

Tiếp theo phần số 2 vừa thảo luận ở trên, phần số 9 sẽ được trình bày cho chúng ta biết cái nhìn Phật đản qua các khía cạnh ẩn dụ, huyền thoại, nhấn mạnh…, đặc biệt qua khía cạnh hòa bình bằng cách tu tập và thực hành giáo pháp của đức Thế Tôn.

Con số 7 và con số 9 trong đạo Phật được đề cập và nhấn mạnh rất nhiều; trong bài viết này, người viết chỉ thảo luận hai khía cạnh đặc thù có liên quan tới hai con số này mà thôi, đó là khía cạnh thời gian và không gian.

9.       Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of peace

Next to the above discussed second section, the ninth section will be presented us with looking at the Buddha’s Birthday through aspects of metaphor, myth, emphasis, etc., especially through aspects of peace by cultivating and practicing the Dharma of the World-honored One.

The number 7 and number 9 in Buddhism are mentioned and emphasized very much. In this writing, the writer only discusses the two specific aspects related to these two numbers, which are the aspects of time and space

Về khía cạnh thời gian, con số 7 gồm có quá khứ hôm qua (1), hiện tại ngày nay (2), và vị laingày mai (3). Về khía cạnh không gian, con số 7 gồm có phương Đông (4), phương Tây (5), phương Nam (6), phương Bắc (7); con số 9 gồm có hai phương nữa, đó là phương Trên (8) và phương Dưới (9).

About the aspect of time, the figure 7 consists of the past – yesterday (1), the present – today (2), and the future – tomorrow (3). About the aspect of space, the figure 7 consists of the East (4), the West (5), the South (6), the North (7); the figure 9 consists of the two additional directions, which are the Above (8) and the Below (9).

Phương Trên chỉ cho thời gian, phương Dưới chỉ cho không gian; phương Trên có nghĩa là phương hướng thượng, hướng tới việc tu học, chuyển hóa phiền não, giác ngộ, và giải thoát để làm lợi ích cho tự thân; và phương Dưới có nghĩa là phương hướng tới việc hoằng pháp để làm lợi ích cho tha nhân (trên thỉnh cầu Phật pháp để tu học, dưới hóa độ chúng sanh).

The Above indicates time, the Below indicates space; the Above means the upper direction, leading to cultivation, transforming defilements, obtaining enlightenment, and deliverance to benefit oneself; and the Below means direction of leading to preaching the Dharma to benefit other people.   

Về thời gian, trong quá khứ, hiện tại, và vị lai, tức ngày hôm qua, ngày nay và ngày mai; về không gian, ở phương Đông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc, phương Trên, và phương Dưới; hay ở Châu Á, Châu Âu, Châu Úc, Châu Phi, và Châu Mỹ, nơi nào đạo Phật được truyền bá, thì nơi đó dân chúng địa phương sống hiền ra và thiện ra nếu mọi người cùng nhau học, hiểu, áp dụng, và thực hành Phật pháp vào trong đời sống hàng ngày.

About time, in the past, the present, and in the future, that is yesterday, today, and tomorrow; about space, in the East, the South, the North, the Above, and in the Bellow; or in Asia, Europe, Australia, Africa, and in America, wherever Buddhism has been spread, there the local people live more gently and better if they learn, understand, apply, and practice the Buddhadharma together in their daily lives.

Xưa và nay, đạo Phật không bao giờ có chiến tranh tôn giáo bởi vì giáo pháp của đức Thế Tôn là giáo pháp tỉnh thức, giác ngộ, hòa bình, từ bi, và trí tuệ, không bao giờ dung chứa các hạt giống hận thù, tham, sân, si, sầu bi, khổ, ưu não... Giáo pháp không bao giờ khuyên người giết, bảo người giết, và thấy người khác giết để vui mừng theo. Ngược lại, giáo pháp khuyên người làm lành, bảo người làm lành, và thấy người khác làm lành để vui mừng theo trong pháp học, pháp hành, pháp hiểu, pháp thí, và pháp lạc; đây là những điểm đặc thù của Phật giáo mà các tôn giác bạn hiếm thấy hoặc không được tìm thấy.

Anciently as well as presently, Buddhism has never had a religious war because the Dharma of the World-Honored One is the Dharma of awakening, enlightenment, peace, loving-kindness, compassion, and wisdom, having never contained the seeds of hatred, lust, anger, delusion, sorrow, suffering, grief, etc. The Dharma has never advised people to kill, told them to kill, and seen other people rejoice together. In contrast, the Dharma has advised people to do good, told them to do good, and seen other people do good rejoice together in Dharma learning, Dharma practice, Dharma understanding, Dharma giving, and Dharma joy; these are the specific characteristics of Buddhism that other religions has rarely or not found.   

Qua các ý nghĩa được đề cập ở trên, chúng ta biết rằng đạo Phật là con đường hòa bình, là tôn giáo hòa bình, luôn luôn dạy người ta ý thức thực hành những lời nói hòa bình, ý nghĩ hòa bình, và các hành động hòa bình ở khắp nơi và khắp chốn để đem lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho tự thân và cho tha nhân ngay trong cuộc đời này.

Through the above mentioned meanings, we know that Buddhism, which is the path of peace, is religion of peace, always teaches people to be aware of practicing speeches of peace, thoughts of peace, and actions of peace everywhere and every place to bring authentic peacefulness and happiness to themselves and to other people right in the present life.   

Thực vậy, dù bạn là Phật tử hay không phải Phật tử, dù bạn theo đạo Phật hay không theo đạo Phật, nếu bạn khéo ứng dụng và thực hành những lời dạy hòa bình – Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của bạn bằng cách ý thức bảo vệ và tôn trọng sự sống của mọi loài, nuôi dưỡng tâm từ bi đối với chúng sanh, khởi tâm bố thí, và cứu giúp cả vật chất lẫn tinh thần cho số đông, tôn trọng và bảo vệ hạnh phúc cho gia đình mình và gia đình người khác, nói những điều lợi ích cho số đông, bảo vệ thân tâm an lạc và minh mẫn, v. v… và v. v….

Indeed, whether you are Buddhists or not Buddhists, whether you follow Buddhism or do not follow Buddhism, if you skillfully apply and practice the teachings of peace – the Buddhadharma in your daily life by being aware of protecting and respecting lives of living things and living beings, nurturing your heart of loving-kindness and happiness toward them, arousing the mind of alms-giving, and helping both materials and spirit to the many, respecting and protecting happiness for your family and other people’s families, saying the benefits to the many, protecting your peaceful and lucid body, mind, and so on.

Khi hiểu và thực hành được như vậy, bạn là hành giả và sứ giả hòa bình, và có khả năng hiến tặng món quà tu tập và hành trì, an vui và hạnh phúc cho số đông trên khắp hành tinh này.      

When understanding and practicing like this, you are practitioner and messenger of peace, and have the ability to dedicate your gifts of cultivation and practice, peacefulness and happiness to the many all over this planet.   

Hơn nữa, dù bạn theo Phật giáo Nam tông hoặc Bắc tông; dù bạn theo Thiền tông, Tịnh độ tông, hay Mật tông, bạn vẫn sống bình an trong cuộc sống, và hành trì đúng hướng đi và pháp môn tu tập thích hợp mà bạn đã chọn. Tuy nhiên, các vị xuất sĩ và cư sĩ đều tôn trọng, quý kính, và xem đức Phật, giáo Pháp, và Tăng đoàn là những nơi nương tựa tâm linh an bình và vững chãi nhất của đời mình.

Moreover, whether you follow Theravada Buddhism or Mahayana Buddhism; whether you follow Zen Buddhism, Pure Land Buddhism, or Tantric Buddhism, you still live peacefully in life, and practice the path of going rightly and the Dharma door of appropriate cultivation chosen by you. Monastics and lay people respect, esteem, and consider the Buddha, the Dharma, and Sangha as the places of the most peaceful and steady spirit of their lives.  

Xưa cũng như nay, đạo Phật không bao giờ gây ra một chiến tranh tôn giáo, luôn tôn trọng tinh thần bất bạo động, và luôn xây dựng tinh thần từ bi, trí tuệ, tình thương, và hòa bình cho pháp giới chúng sanh muôn loài. Điều tỉnh thức thứ nhất trong đạo Phật luôn đề cao và tôn trọng tình thương và sự sống hòa bình cho tự thân và cho tha nhân, khuyên dạy mọi người chớ giết, chớ bảo người giết, và chớ thấy người giết chúng sinh mà mình vui mừng theo. Những điểm đặc thù này chỉ được tìm thấy trong đạo Phật, hiếm được tìm thấy trong các tôn giáo bạn.

In the past time as well as the present time, Buddhism, which has never caused any war, always respects the non-violent spirit, and always builds the spirit of loving-kindness, compassion, wisdom, love, and peace for living things and living beings. The awakening thing in Buddhism is always promoted and respected love and life of peace for oneself and for other people, it advises everyone not to kill, not to tell them to kill, and not to see them kill living beings we are delighted with their unwholesome actions. These specific characteristics are only found in Buddhism, they are rarely found in other religions.  

Đến đây, con số 7 và con số 9 trong đạo Phật hàm chứa các ý nghĩa vừa được trình bày ở trên; tiếp đến, xin mời quý vị tiếp tục tìm hiểu ý nghĩa rồng; rồng chỉ là con vật tưởng tượng và tượng trưng, không có thật. Tuy nhiên, để nhấn mạnh sự ra đời của đức Phật một cách linh thiêng, mầu nhiệm, và tôn kính, người ta mới đề cập tới rồng; rồng khác với rắn; rắn là loài bò sát không chân, không vẩy, không mồng, không thể bay và phun lửa được.

Coming here, the number 7 and the number 9 in Buddhism imply the above presented meanings; next, you are cordially invited to continue to learn about the meanings of dragon; the dragon is only an imaginary and symbolic animal, it is not real. However, to emphasize the birth of the Buddha sacredly, miraculously, and respectfully, the dragon is mentioned; the dragon is different than snake, the snake is reptile of non-leg, non-scab, cannot fly and spray fire.

Theo những hình ảnh mà chúng ta thấy, rồng là con vật có chân, có vẩy, có mồng, có thể bay được, và phun lửa; trong ngữ cảnh này, lúc đức Phật ra đời, địa cầu chuyển động,[30] trăm hoa đua nở, rồng có trách nhiệm phun nước – nước từ bi, chứ không phun lửa – lửa tham, sân, si… Nước từ bi này được bắt nguồn từ việc tu tập và hành trì giới, định, và tuệ của chúng ta, có khả năng dập tắt các lửa tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…

According to pictures that we usually see, the dragon is the animal with legs, scabs, crests, can fly and spray fire; in this context, when the baby Buddha was born, the earth vibrates,[31] a hundred flowers bloom, the dragon has a responsibility to spray water – water of compassion, it does not spray fire – fire of lust, anger, delusion, etc. This compassionate water, which is started from our cultivation and practice of precepts, concentration, and wisdom, has the ability to extinguish the fires of lust, anger, delusion, arrogance, doubt, wrong view, etc.    

Phun khác với mưa; động từ phun dùng để diễn tả sự tưới tẩm, thấm nhuần, và sự mát dịu thân tâm qua nhiều khía cạnh và gốc độ khác nhau, đặc biệt khía cạnh tu tập, giác ngộ, giải thoát, hoằng pháp, và độ sanh của đạo Phật, đức Phật, và đệ tử của đức Phật đối với vạn vật chúng sanh trên khắp hành tinh này; nước trong cụm từ phun nước là danh từ làm tân ngữ bổ nghĩa cho động từ phun; phun cái gì, phun nước; nước gồm có hydrô (hydrogen) và oxy (oxygen), viết tắt là H2O; ở trong ngữ cảnh này, nước không có nghĩa là nước mưa, nước sông, nước suối, mà là nước từ bi.

Spray is different than raining. The verb spray is used to describe sprinkling, permeation, coolness, and softness of body and mind through many various aspects and angles, especially the aspects of cultivation, enlightenment, deliverance, propagation and help of human beings of Buddhism, the Buddha, and His disciples toward living things and living beings all over this planet. Water in a phrase of spraying water is a noun making object modify the verb spray; spraying what, spraying water; water consists of hydrogen and oxygen, it is abbreviated as H2O. In this context, water does not mean rain water, river water, spring water, it means the compassionate water

Song hành với trí tuệ, nước từ bi chứa đầy các chất liệu thương yêu và hiểu biết, an lạc và hòa bình có khả năng dập tắt các ngọn lửa tham, sân, và si do con người tạo tác. Thế giới ngày nay đang thiêu đốt, bóc cháy, chiến tranh, thiên tai, lũ lụt… là do tâm tham, sân, si, tà kiến… của con người tạo ra; nước từ bi xuất phát từ thân tâm tu tập, an lạc, và mát mẻ qua việc ứng dụng và hành trì Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày. Thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc, xã hội thanh bình, gia đình an vui và hạnh phúc cũng đều bắt đầu từ thân làm thiện, ý nghĩ thiện, và lời nói thiện; nếu chúng ta hiểu và thực tập được như vậy, thì nước từ bi có khả năng tưới tẩm, thấm nhuần, và làm mát dịu thân tâm.

Going together with wisdom, the compassionate water, which is full of the substances of love and understanding, peace and peacefulness, has the ability to extinguish fires of lust, anger, and delusion created by human beings. Today’s world that has gotten burnt, ignited, warred, calamitous, flooded, etc., is created by one’s human minds of lust, anger, delusion, wrong view, etc. The compassionate water is derived from one’s body and mind of cultivation, peacefulness, and fresh coolness through applying and practicing the Buddhadharma in one’s daily life. The world of peace, human beings of peacefulness, society of tranquility, family of joy and happiness, is also originated from bodily good actions, mentally good thinkings, and verbally good speeches. If we understand and practice like this, the compassionate water has the ability to irrigate, to penetrate, and to make our bodies and minds fresh and cool.   

Như vậy, chúng ta thấy 1/ Tư tưởng nuôi dưỡng từ bi và giáo dục hòa bình trong đạo Phật bắt nguồn từ khi thái tử Tất Đạt Đa còn nằm trong thai mẹ,[32] 2/ Từ xưa cho tới nay, đạo Phật là đạo hòa bình dành cho những ai tu tập, hành trì, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình để đem lại an lạc và hạnh phúc cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại.

Thus, we see that 1/ The thought of nurturing loving-kindness, compassion and peace education in Buddhism were originated from when prince Siddhārtha was still in his mother’s fetus,[33] 2/ From past to present, Buddhism has been the path of peace intended for those who cultivate, practice, and apply the Buddhadharma in their daily lives to bring peacefulness and happiness to the many right in the present life.   

Khi đức Phật hài nhi đản sinh, không những phạm thiên, chư thiên, loài người, mà còn các loài động vật, thực vật, và môi trường thiên nhiên, đều hân hoan chào đón sự ra đời kỳ diệu của Ngài như trăm hoa đua nở, chim vui mừng hót, đặc biệt các loài chúng sinh không bị sát hại. Mặc khác, nhìn vào khía cạnh giáng sinh của nhà sáng lập tôn giáo khác, và ngay trong đời sống hàng ngày và hàng năm, mỗi khi tới ngày giáng sinh hay sinh nhật của tôn giáo đó, chúng ta biết có không ít chúng sinh bị sát hại và làm thịt.   

When the baby Buddha was born, not only Brahma gods, gods, human beings, but also animals, plants, and natural environment, are welcome to his marvelous birth as a hundreds flowers blossom, birds are singing joyfully, especially all kinds of living beings are not killed. On the other hand, looking at aspects of the birth of an another religious founder, and right in daily and annual life, each time the birthday of that religion comes, we have known there are not less living beings killed and slaughtered.

Đối với Phật giáo, nhìn toàn cảnh đức Phật đản sinh, kể từ khi đức Phật ra đời, trụ thế trên cõi Ta Bà này suốt 80 năm, ngay cả sau khi đức Phật nhập diệt cho tới ngày hôm nay, hễ tới mùa Phật đản và những mùa lễ hội khác, đức Phật và các hàng đệ tử của Phật không bao giờ giết và khuyên bảo người khác giết hại sinh vật để cúng tế, để làm thịt, và để tế thần.

Toward Buddhism, looking at an overview of his birthday, since the baby Buddha who was born lived in this Saha world throughout 80 years, even after the Buddha’s death until today, whenever a season of his birthday and other festive seasons of Buddhism come, the Buddha and his disciples has never killed and encouraged other people to kill living beings in order to sacrifice, to slaughter, and to offer sacrifices to gods.       

Trong các mùa lễ hội của đạo Phật, các vị đệ tử của đức Phật không sát hại chúng sinh; ngược lại, các vị phát khởi thiện tâm bằng cách ăn chay, niệm Phật, ngồi thiền, phóng sinh, bố thí, và giúp người nghèo khổ. Những việc làm này của các vị mang đậm chất liệu từ bi và trí tuệ theo đúng tinh thần tự tu, tự độ, tự ngộ, và tự giải thoát.

In the festive seasons of Buddhism, the Buddha’s disciples do not kill animals; in contrast, they arouse their wholesome hearts by eating vegetarian food, reciting the names of the Buddhas and Bodhisattas, sitting meditation, releasing animals, giving alms, and helping needy and poor people. These works of theirs bear deep substance of loving-kindness, compassion, and wisdom according to the right spirit of self-cultivation, self-help, self-attainment, and self-deliverance.

Chúng ta hiểu và thực tập được Phật pháp như vậy, thì phúc đức và tuổi thọ của chúng ta càng ngày càng tăng trưởng. Các loài chúng sinh đều được an vui bởi vì chúng ta khéo biết ứng dụng và hành trì giáo lý từ bi và trí tuệ của đạo Phật và trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.

We understand and practice the Buddhadharma like this, our virtuous blessings and longevity develop more and more. Kinds of living things and living beings get peaceful because we skillfully know to apply and to practice the teachings of loving-kindness, compassion, and wisdom of Buddhism in our every day lives.

Qua những gì thảo luận ở trên, hòa bình trong đạo Phật được bắt nguồn từ trong trứng nước, tức thai nhi (giáo dục thai nhi),[34] đặc biệt là trong các ý nghĩ, lời nói, và việc làm thiện của chúng ta trong đời sống hàng ngày. Là người tiếp nối và kế thừa ánh sáng của chánh pháp, chúng ta có trách nhiệm phát huy và nuôi dưỡng tinh thần giáo dục hòa bình và bất bạo động để đem lại an lạc và hạnh phúc cho nhiều người.

Through the above discussed things, peace in Buddhism is originated from the egg, namely the fetus (education of the fetus),[35] especially in our good thinkings, speeches, and actions in our daily lives. As people connecting and inheriting the light of the Dharma, we are responsible for promoting and nourishing the spirit of education of peace and non-violence to bring peacefulness and happiness to many people.

Học và hiểu rõ Phật pháp, chúng biết đức Phật là vị Vua hòa bình, vị Sứ giả hòa bình, vị đạo Sư tâm linh của hòa bình, và là vị hành Giả đích thực của hòa bình. Do vậy, đạo Phật được mệnh danh là đạo tỉnh thức, đạo hòa bình, đạo của tình thương và trí tuệ; các bước chân đi của đức Phật và các vị đệ tử của Ngài là các bước chân hòa bình, tỉnh thức, an lạc, và hạnh phúc cho số đông trên khắp hành tinh này.

Learning and understanding the Buddhadharma clearly, we know that the Buddha is the King of peace, the Messenger of peace, the spiritual Teacher of peace, and is the authentic Practitioner of peace. Therefore, Buddhism is called as the path of awakening, the path of peace, and the path of love and wisdom. The footsteps of the Buddha and his disciples are the footsteps of peace, awakening, peacefulness, and happiness for the many all over this planet.    

Nhìn suốt cuộc đời của Ngài, chúng ta thấy rằng đức Phật sinh ra dưới gốc cây Vô Ưu ở vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạo dưới gốc cây Bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya), nói bài pháp đầu tiên về Tứ Diệu đế cho năm anh em của ông Kiều Trần Như (Anna Kondanna) ở vườn Lộc Uyển (Deer park, Sarnarth), và nhập diệt dưới 2 cây Ta la (Sala) ở Câu Thi La (Kushinagar). Tất cả những nơi đó đều là môi trường thiên nhiên, môi trường hòa bình, môi trường tu tập và hành đạo được đức Phật và các đệ tử của Ngài bảo vệ và chăm sóc chu đáo. Kinh Pháp Cú, kệ số 98 ghi:

Looking at his lifetime, we find that the baby Buddha, who was born under a Sorrowless Tree (Ashoka) in Lumbini garden, obtained enlightenment under the Bodhi tree at Bodhgaya, preached the first Sermon of four Noble Truths to the five Brothers of the Elder Anna Kondanna in the Deer Park, Sarnath, and passed away under the two Sala trees in Kushinagar. All those places are environment of nature, that of peace, that of cultivating and practicing the Dharma taken care of and protected by the Buddha and His disciples thoughtfully. Dhammapada, Verse 98 stated:  

Hoặc trong làng mạc hoặc trong núi rừng,

Hoặc trong thung lũng hoặc trên đồi cao,

Bất cứ nơi nào A La Hán trú,

Nơi đó vô vàn vui sướng biết bao.[36]

Whether in a village or in a mountain forest,

Or in a valley or on a high hill,

Wherever Arhat resides,

What countless delight there is!”[37]

Thật vậy, dựa vào các môi trường thiên nhiên, đức Phật và các đệ tử của Ngài tu tập và giáo hóa chúng sanh để đem lại hòa bình, an lạc, và hạnh phúc đích thực cho số đông. Trong 45 năm hoằng dương chánh Pháp, Ngài hóa độ rất nhiều hạng người giàu, nghèo, giặc cướp, kỉ nữ, vua quan, quần thần khác nhau… Những người nào có đủ duyên học pháp, hiểu pháp, hành pháp, hoằng pháp, hộ pháp, và nếm được pháp lạc thì họ đều trở thành những người an lạc, hạnh phúc, hiền, và thiện ra. 

Indeed, relying on the natural environment, the Buddha and his disciples cultivate and teach human beings to bring peace, peacefulness, and happiness authentically to the many. In the forty five years of spreading the Dharma, he taught so many different kinds of the rich, the poor, robbers, courtesans, kings, mandarins, etc. Those who have a sufficiently good chance to learn the Dharma, to understand it, practice it, protect it, and enjoy it will become more peaceful, happier, gentler, and better people.  

Quý vị biết trong cuộc sống thường ngày, đức Phật không những đề cao và tôn trọng sự sống của con người, mà còn đời sống của con vật, con sâu, con kiến, cỏ, cây, rừng, núi, đất đá, thậm chí con vi trùng ở trong bát nước…

As you know in His daily life, the Buddha not only promotes and respects human life, but also lives of animals, worms, ants, grass, trees, forests, mountains, soils, rocks, even germs in a water bowl, etc.

Với tinh thần thực tập từ bi, trí tuệ, chánh niệm, và tỉnh giác trong từng cử chỉ nói năng, suy nghĩ, và hành động của Ngài, khi uống nước, khi đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, thức…, Ngài và các đệ tử của Ngài luôn giữ thân tâm chánh niệm và tỉnh giác cho tự thân và cho tha nhân. Do vậy, các việc làm tỉnh thức và chánh niệm của quý Ngài đều có khả năng nuôi dưỡng tinh thần hòa bình, tình thương yêu, tình huynh đệ, tình tương thân, tương ái, tương kính… cho nhiều người.

With the spirit of practicing loving-kindness, compassion, wisdom, mindfulness, and awareness in every gesture of His verbal actions, mental actions, and bodily actions, when drinking water, when walking, standing, sitting, sleeping, getting up, etc., He and His disciples always keeps their minds and bodies mindful and awakening for themselves and for other people. Therefore, their awakening and mindful actions have the ability to nurture the spirit of peace, compassion, brother/sisterhood, mutual affection, mutual love, mutual respect, etc., for many people.     

Như vậy, trên đây, hòa bình được đề cập trong ẩn dụ, nhấn mạnh, trong đời sống tu tập, trong giáo pháp, và trong việc hoằng pháp của đức Phật và các đệ tử của Ngài; tiếp đến, hòa bình được trình bày trong lời dạy của Ngài, cụ thể là “Cái thấy hòa bình, suy nghĩ hòa bình, lời nói hòa bình, hành động hòa bình, việc kiếm sống hòa bình, nỗ lực hòa bình, nhớ nghĩ hòa bình, và tập trung hòa bình.” Đây là những lời Phật dạy nhấn mạnh về hòa bình, an vui, và hạnh phúc cho số đông trên khắp hành tinh này. Những ai thực tập và an trú thấm nhuần những lời dạy hòa bình này một cách đều đặn, chánh niệm, và tỉnh giác thì họ là những hành giả đích thực có khả năng đem đạo Phật đi về tương lai một cách vững chãi và tươi sáng.

Thus, above, the peace is mentioned in metaphor, emphasis, in lives of cultivation, in the Dharma, and in the Dharma propagation of the Buddha and His disciples; next, the peace is presented in His teachings, namely “Understanding of peace, thought of peace, speech of peace, action of peace, livelihood of peace, effort of peace, mindfulness of peace, and concentration of peace.” These are the Buddha’s teachings emphasized on peace, peacefulness, and happiness for the many all over this planet. Those who practice and dwell penetratively in the teachings of the peace regularly, mindfully, and attentively are authentic practitioner with the ability to bring Buddhism to the future steadily and brightly.     

Hòa bình trong giáo pháp của Ngài rất thiết thực hiện tại, vượt thoát thời gian, các bạn đến để thấy, đến để nghe, đến để hiểu biết, đến để thực hành Phật pháp trong từng hơi thở, ý nghĩ, và việc làm ý thức và chánh niệm của mình, và đến để góp phần đem lại an lạc và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Với những ý nghĩa thiết thực được trình bày ở trên, chúng ta có thể khẳng định và tự hào rằng ngày nay đạo Phật được thế giới tôn vinh là tôn giáo hòa bình, con đường hòa bình vạch ra nhiều hướng đi an lạc và trong sáng cho thời đại.

Peace in His Dharma is very practical in the present, beyond time, you come and see, come and hear, come and understand, come and practice the Buddhadharma in your mindful and conscious breath, thought, and action, and come and contribute to bringing peacefulness and happiness to oneself and other people right here and right now in the present life. With the above-presented practical meanings, we can affirm and pride that Buddhism today has been honored as a religion of peace, the path of peace outlined many directions leading to peace and brightness for the modern age.  

Tóm lại, qua những gì thảo luận ở trên, từ cái nhìn thứ nhứt đến cái nhìn thứ chín, tác giả viết và chia ra như vậy là để người đọc, người học dễ hiểu, dễ nắm bắt các ý nghĩa thiết thực của chúng, dễ áp dụng, và dễ thực hành Phật pháp vào trong đời sống tu tập hằng ngày của mình.

In brief, through the above discussed things, from the first vision to the ninth vision, the author writes and divides them like this for readers and learners to easily understand, to easily grasp their practical meanings, to easily apply, and to easily practice the Buddhadharma in their daily cultivation lives.

Chín cái nhìn cơ bản này được đề cập ở trên đều có các mối tương quan và tương duyên với nhau rất mật thiết qua nhiều phương diện, khía cạnh, và gốc độ khác nhau để hình thành đức Phật lịch sử, đạo Phật bình đẳng, giáo pháp bình đẳng, tôn giáo bình đẳng; đạo Phật hòa bình, giáo pháp hòa bình, tôn giáo hòa bình, con đường hòa bình, hành giả hòa bình… Chín cái nhìn này đều có khả năng giúp chúng ta có cái nhìn chân chánh, cái thấy chân chánh, cái biết chân chánh, tư duy chân chánh, lời nói chân chánh… về đạo Phật, đức Phật, các đệ tử của đức Phật, pháp Phật, pháp học, pháp tu, pháp hành, pháp lạc, và pháp chứng.

These nine basic visions that above discussed have the interrelated and interdependent things very closely through many different respects, aspects, and angles to form the historical Buddha, Buddhism of equality, the Dharma of equality, religion of equality; Buddhism of peace, the Dharma of peace, religion of peace, the path of peace, practitioner of peace, etc. These nine visions have the ability to help us have right look, right view, right understanding, right thought, right speech, etc., about Buddhism, the Buddha, His disciples, Buddhadharma, Dharma learning, Dharma cultivation, Dharma practice, Dharma joy, and Dharma attainment.        

Hiểu và thực hành được như vậy, thì chúng ta dũng mãnh phát nguyện học pháp, hiểu pháp, hành pháp, nếm pháp, hoằng pháp, và hộ pháp một cách vững chãi và thảnh thơi, an vui và hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Từ đây, chúng ta là những món quà tu tập, hòa bình, an vui và hạnh phúc đích thực cho tự thân và cho tha nhân ngay tại thế gian này.

Kính chúc quý vị an trú vững chãi và thấm nhuần giáo pháp của đức Thế Tôn!

                                                                                                          By Thích Trừng Sỹ

Understanding and practicing like this, we strongly develop our vows to learn the Dharma, to grasp the Dharma, to practice the Dharma, to enjoy the Dharma, to spread the Dharma, and to protect the Dharma steadily and relaxedly, peacefully and happily right here and right now in the present life. Coming to this stage, we are gifts of authentic cultivation, peace, peacefulness, and happiness for ourselves and other people right in this world.

May you instill and dwell stably in the Dharma of the World-Honored One!

                                                                                      By Thích Trừng Sỹ

 


[1]   Xem http://www.youtube.com/watch?v=R5tB3YsDYmg&feature=youtu.be

[2]   Xem http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/Truong_A_ham/Tr_001.htm

    Xem Kinh Trường A Hàm, Phần I – 1. Kinh Đại Bản Duyên 4c  

    Xem http://www.thuvienhoasen.org

    Xem Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I - 29

    Xem D. 14 I. 29

[3]  See D. 14 I. 29

[4]  Xem http://www.phattue.org/node/544

     Xem http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn06/sn06.001.than.html          or Xem Samyutta Nikaya 6

     Xem http://www.indiadivine.org/audarya/hinduism-forum/200930-praise-brahma-sahampati-glory-krishna-s-defeat.html

[5]   See http://www.indiadivine.org/audarya/hinduism-forum/200930-praise-brahma-sahampati-glory-krishna-s-defeat.html

[6]  Xem http://buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-tuongungbo/tu1-06.htm

[7]  Xem https://en.wikipedia.org/wiki/Mah%C4%81bh%C5%ABta#cite_ref-8         

    Xem http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.028.than.html

[8]  See https://en.wikipedia.org/wiki/Mah%C4%81bh%C5%ABta#cite_ref-8

    See http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.028.than.html

[9]  Xem Anguttara Nikaya III. 71     http://www.buddhanet.net/budsas/ebud/budtch/budteach06.htm#_ednref17     → Anattalakkhana Sutta – Kinh Vô Ngã tướng. Or xem Mahāvagga, p. 13; Samyutta Nikāya pt. iii, p. 66. 

[10]  See http://www.buddhanet.net/budsas/ebud/budtch/budteach06.htm#_ednref17       

     Or see Mahāvagga, p. 13; Samyutta Nikāya pt. iii, p. 66            

[11]  Xem Kinh Trường A Hàm, Phần I – 1. Kinh Đại Bản Duyên 4c  

     Xem http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-121_5-50_6-1_17-35_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark

     Xem Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I - 29

     Xem D. 14 I. 29.

[12]  See D. 14 I. 29.

[13]   Xem http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-121_5-50_6-1_17-35_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark   

     Xem Trường Bộ - Kinh Đại Bổn 14, Phẩm III – 22, 23, 24… (Dìgha Nikàya - Mahàpadàna sutta 14, Part 22, 23, 24, etc.).

     Xem http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-707_5-50_6-1_17-35_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark

     Xem Trung Bộ - Kinh Thánh Cầu 26 (Majhima NikàyaAriyapariyesanà Sutta 26)

[14]  See Majhima NikàyaAriyapariyesanà Sutta 26.

[15]  Xem http://www.quangduc.com/kinhdien/240phaphoahn3.html#PH%E1%BA%A8M%20TH%E1%BB%A8%20N%C4%82M

[16]  See http://reluctant-messenger.com/lotus_sutra_05.htm

[17]  Xem Textual Sources for the Studies of Hinduism, Wendy Doniger O’Flaherty dịch, Manchester: Manchester University Press, 1988, tr. 28. Trong Rg-Veda, hệ thống đẳng cấp bốn bậc này chỉ được đề cập một lần duy nhất; và đoạn kinh văn này được cho là được bổ sung về sau. Xem http://www.hoavouu.com/D_1-2_2-86_4-17687_15-2/

[18]  See Textual Sources for the Studies of Hinduism, Wendy Doniger O’Flaherty dịch, Manchester: Manchester University Press, 1988, tr. 28.

[19]  Xem S. Radhakrishnan. Indian Philosophy., Vol. I, Oxford University Press, 2008, trang 111 – 3.

[20]  See  S. Radhakrishnan. Indian Philosophy., Vol. I, Oxford University Press, 2008, pp. 111 – 3.

[21]  Xem http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-83_5-50_6-1_17-60_4-11046_14-1_15-1/ 

http://www.buddhanet.net/e-learning/history/db_06s.htm

[22]  Xem http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/thien-tap/duong-xua-may-trang/chuong-43-mau-ai-cung-do-nuoc-mat-ai-cung-man?set_language=vi                                      http://chandawimala.blogspot.com/2010/09/buddhist-pantings-life-of-buddha.html

[23]  Xem http://www.freewebs.com/kjagtap/buddha.pdf            http://en.wikipedia.org/wiki/B._R._Ambedkar   

[24]  See http://www.buddhanet.net/e-learning/history/db_06s.htm

[25]  See http://chandawimala.blogspot.com/2010/09/buddhist-pantings-life-of-buddha.html

[26]  See http://www.freewebs.com/kjagtap/buddha.pdf            http://en.wikipedia.org/wiki/B._R._Ambedkar

[27]  http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-tieubo1/tb13-ptt2.htm

[28]  Xem http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/duong-xua-may-trang/chuong-43-mau-ai-cung-do-nuoc-mat-ai-cung-man

[29]  See http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/duong-xua-may-trang/chuong-43-mau-ai-cung-do-nuoc-mat-ai-cung-man in

    Vietnamese

[30]   Xem Tăng Nhất A Hàm – Tám Pháp → 42. Phẩm Tám Nạn → Kinh Số 5 

      Xem http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/Tangnhat_A_ham/Tn_00.htm

[31]  Xem http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/Tangnhat_A_ham/Tn_00.htm in Vietnamese

[32]   Xem http://www.daophatngaynay.com/vn/van-hoa/xuan/3976-Nhin-Xuan-Qua-Con-Mat-Thien-Quan.html

[33]    See http://www.buddhismtoday.com/english/culture/lookingthespring.htm

[34]  Xem phần số hai được trình bày ở trên

[35]  See the above presented part of number 2

[36]  Xem http://www.daophatngaynay.com/vn/phat-phap/buoc-dau-hoc-phat/duc-phat-la-ai/4732-Duc-Phat-Hien-Than-cua-Hoa-Binh.html

[37] See http://phapnhandharmawheel.blogspot.com/p/buddha-embodiment-of-peace.html

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

1.00

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập