Đạo Phật Ngày Nay

Bản Sanh: truyện 351 tới 360 / Jataka Tales: Stories 351–360

Trưởng lão Xá Lợi Phất thuyết giảng Giáo Pháp cho tất cả mọi người ngài gặp, kể cả những người không chấp nhận. Đức Phật kể lại một câu chuyện trong quá khứ về một vị thầy cũng hành xử tương tự, cho đến khi người học trò thông thái của ngài thuyết phục được ngài rằng việc cố gắng thuyết phục những người theo tà giáo cũng vô ích như việc san phẳng mặt đất.

Nguyên bản: Pali

Anh dịch: H.T. Francis, R.A. NeilĀnandajoti Bhikkhu

Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác

J351. Manikundala Jātaka -- Mọi thứ đều thay đổi - niềm vui chuyển thành nỗi buồn, và cuộc sống luôn thay đổi và mất mát.

Tóm tắt: Một cận thần vô tội bị giam nhưng sau đó được nhà vua thả ra và tôn vinh. Đức Phật kể lại câu chuyện về một người đàn ông có liên quan đến cung điện Benares, người bị lưu đày và sau đó thuyết phục một vị vua nước ngoài tấn công đất nước cũ của mình. Thay vì gây ra cái chết của người khác, vua Benares đã chọn đầu hàng một cách tự nguyện. Cảm kích trước đức hạnh của ông, vị vua chiến thắng đã nhượng bộ và trả tự do cho ông.

.

Khi Đức Phật còn ở tại Kỳ Viên, Ngài đã kể câu chuyện về một vị quan cận thần phục vụ vua Kosala.

Người này rất trung thành, thông thái và rất hay giúp đỡ nhà vua. Nhờ sự phục vụ tốt của ông, nhà vua tin tưởng và tôn kính ông. Nhưng một số cận thần ghen ghét đã vu khống ông. Họ nói với nhà vua rằng ông đã hành xử sai trái, và nhà vua, không kiểm tra sự thật, đã tin lời họ. Ngài đã cho xiềng xích vị quan cận thần vô tội và tống giam vào ngục.

Ngay cả trong tù, vị quan cận thần vẫn giữ được sự bình tĩnh và an lạc. Nhờ lòng tốt và chánh niệm, tâm trí ông trở nên sáng suốt và ông đã đạt đến tầng giác ngộ đầu tiên, chứng sơ quả Nhập Lưu.

Sau đó, nhà vua biết được vị quan cận thần vô tội. Ngài thả ông ra, xin lỗi và ban cho ông sự kính trọng hơn trước.

Sau khi được thả, vị quan cận thần đến yết kiến ​​Đức Phật. Ông mang theo hoa và hương liệu, đảnh lễ và ngồi yên lặng trước mặt Ngài. Đức Phật nói chuyện với ông một cách từ ái và nói: "Ta nghe nói rằng ngươi gặp xui xẻo."

Người đàn ông đáp: “Vâng, thưa Đức Thế Tôn, nhưng con đã biến bất hạnh thành điều tốt lành. Trong thời gian ở tù, con đã đạt đến quả vị giác ngộ đầu tiên.”

Đức Phật kể một câu chuyện từ rất lâu về trước.

Trong kiếp quá khứ đó, Bồ Tát là vua xứ Benares. Một viên quan tham mưu độc ác đã phản bội ngài bằng cách thuyết phục vua Kosala xâm lược và chiếm lấy đất đai của ngài. Bồ Tát bị bắt và bị tống giam.

Trong thời gian ở tù, Bồ Tát đã thiền định sâu sắc cho đến khi đạt đến trạng thái định cao. Nhờ thần thông, ngài bay lên không trung và ngồi tĩnh lặng trên mặt đất. Vua xâm lược đột nhiên cảm thấy một luồng nhiệt nóng bỏng trong cơ thể và nhận ra rằng điều này là do thần lực của Bồ Tát.

Ông đến trước Bồ Tát và hỏi làm thế nào ngài có thể giữ được sự bình tĩnh và an lạc như vậy sau khi mất tất cả. Bồ Tát giải thích rằng mọi lạc thú và vật chất trần tục đều nhanh chóng qua đi. Mọi thứ đều thay đổi - niềm vui chuyển thành nỗi buồn, và bản thân cuộc sống luôn hướng đến sự thay đổi và mất mát. Bởi vì ngài đã hiểu được chân lý này, ngài không cảm thấy đau đớn hay buồn bã.

Bấy giờ, Bồ Tát dạy vua xâm lược về chánh đạo và công lý. Ngài nói rằng những kẻ lười biếng và ích kỷ không đáng được tôn trọng, rằng những bậc thánh giả dối là những kẻ lừa đảo, và một vị vua xấu xa phán xét mà không lắng nghe cả hai bên là bất công. Tuy nhiên, một vị vua sáng suốt sẽ lắng nghe cẩn thận và phán xét công bằng, và danh tiếng của ông sẽ trường tồn mãi mãi.

Nghe lời dạy này, vua Kosala cảm thấy xấu hổ. Ngài cầu xin sự tha thứ, thả Bồ Tát ra và trả lại vương quốc Benares cho ngài. Sau đó, nhà vua trở về quê hương.

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện này, Ngài nói: “Lúc bấy giờ, Ananda là vua Kosala, và chính ta là vua Benares.”

.... o ....

J351. Manikundala Jātaka -- Everything changes—joy turns to sorrow, and life itself is always moving toward change and loss.

Summary: An innocent courtier is imprisoned but later released and honored by the king. The Buddha recounts a story about a man involved in the palace of Benares who was exiled and subsequently persuaded a foreign king to attack his former country. Instead of causing the deaths of others, the king of Benares chose to surrender willingly. Impressed by his virtue, the conqueror relented and set him free.

.

While the Buddha was staying at Jetavana, he told this story about a royal councillor who served the king of Kosala.

This man was loyal, wise, and very helpful to the king. Because of his good service, the king trusted and honored him. But some jealous courtiers spread lies about him. They told the king that he had behaved wrongly, and the king, without checking the truth, believed them. He had the innocent councillor chained and thrown into prison.

Even in prison, the councillor remained calm and peaceful. Because of his goodness and mindfulness, his mind became clear, and he reached the first stage of spiritual enlightenment.

Later, the king learned that the councillor was not guilty. He released him, apologized, and gave him even greater honor than before.

After his release, the councillor went to visit the Buddha. He brought flowers and perfume, paid his respects, and sat quietly before him. The Buddha spoke kindly to him and said, “I heard that misfortune came to you.”

The man replied, “Yes, Lord, but I turned my misfortune into good. While I was in prison, I reached the first stage of enlightenment.”

Then the Buddha told a story from long ago.

In that past life, the Bodhisatta was the king of Benares. A wicked councillor betrayed him by convincing the king of Kosala to invade and take over his land. The Bodhisatta was captured and thrown into prison.

While in prison, the Bodhisatta meditated deeply until he entered a high state of concentration. Through his spiritual power, he rose into the air and sat calmly above the ground. The invading king suddenly felt a burning heat in his body and realized that this was caused by the power of the Bodhisatta.

He came before the Bodhisatta and asked how he could remain so calm and peaceful after losing everything. The Bodhisatta explained that all pleasures and worldly things quickly pass away. Everything changes—joy turns to sorrow, and life itself is always moving toward change and loss. Because he understood this truth, he felt no pain or sadness.

Then the Bodhisatta taught the invading king about right behavior and justice. He said that lazy and selfish people are not worthy of respect, that false holy men are deceivers, and that a bad king who judges without hearing both sides is unjust. A wise ruler, however, listens carefully and judges fairly, and his good name will live forever.

Hearing this teaching, the king of Kosala felt ashamed. He asked for forgiveness, released the Bodhisatta, and returned the kingdom of Benares to him. Then he went back to his own country.

When the Buddha finished telling this story, he said: “At that time, Ananda was the king of Kosala, and I myself was the king of Benares.”

.... o ....

J352. Sujata Jātaka -- Người chết không thể sống lại, và mọi thứ đều là tạm bợ.

Tóm tắt: Khi một người chủ đất mất cha, ông trở nên vô cùng đau buồn. Đức Phật kể cho ông nghe một câu chuyện tương tự trong quá khứ, trong đó con trai của một người chủ đất cố gắng thuyết phục cha mình hiểu sự thật rằng người chết không thể trở về và mọi thứ đều là tạm thời.

.

Khi Đức Phật còn ở tại Kỳ Viên, Ngài kể câu chuyện về một điền chủ đang đau buồn vì cha mình qua đời. Người đàn ông không ngừng khóc và nghĩ về sự mất mát của mình.

Đức Phật thấy rằng người đàn ông này có tiềm năng đạt được giác ngộ. Một buổi sáng nọ, khi đang đi khất thực ở Savatthi với một vị tỳ kheo khác, Đức Phật đến nhà của người đàn ông. Người đàn ông mời Ngài ngồi xuống, và Đức Phật hỏi: "Này cư sĩ, ông vẫn còn đau buồn sao?"

"Vâng, thưa ngài," người đàn ông đáp.

Đức Phật nói: "Xưa kia, những bậc trí tuệ mất cha không để nỗi đau buồn xâm chiếm tâm hồn. Họ lắng nghe trí tuệ và hiểu được chân lý của cuộc sống." Theo lời yêu cầu của người đàn ông, Đức Phật kể câu chuyện từ quá khứ này.

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình điền chủ và được đặt tên là Sujata. Khi Sujata lớn lên, ông nội của ngài qua đời. Cha ngài vô cùng đau buồn và không thể ngừng than khóc.

Thân phụ của Sujata thu gom tro cốt của cha và đắp một gò đất nhỏ trong vườn. Ngày nào ông cũng đến đó, trang trí gò đất bằng hoa, khóc lóc, và bỏ bê mọi việc khác. Ông bỏ ăn, bỏ tắm, bỏ việc.

Sujata thấy cha buồn rầu, nghĩ: "Không ai có thể giúp cha ngoài ta. Ta phải tìm cách xoa dịu nỗi đau của cha."

Một hôm, chàng thấy một con bò chết nằm ngoài thành. Chàng mang cỏ và nước đến đặt trước mặt con bò và nói: "Ăn uống đi, con bò ngoan."

Những người qua đường ngạc nhiên. "Sujata, ngươi điên rồi sao?" họ hỏi. "Sao ngươi lại cho một con bò chết ăn và uống nước?" Sujata im lặng.

Mọi người chạy đến báo cho cha của chàng: "Con trai của ông mất trí rồi! Nó đang cho một con bò chết ăn!"

Người cha quên cả nỗi buồn của mình và vội vã chạy đến tìm Sujata. Ông kêu lên: "Con trai ơi, con đang làm gì vậy? Không thức ăn hay nước uống nào có thể làm cho một con bò chết sống lại được!"

Sujata bình tĩnh nói: “Thưa cha, con bò này vẫn còn đầu, chân và đuôi. Biết đâu nó có thể sống lại. Nhưng thi thể của thân phụ của cha đã mất rồi, chẳng còn gì cả. Sao cha còn khóc thương ông nội nữa?”

Nghe vậy, người cha chợt hiểu ra. Ông nhận ra con trai mình không điên mà là người sáng suốt. Sujata đã làm điều kỳ lạ này để giúp cha thấy được chân lý – rằng người chết không thể trở lại, và mọi thứ đều là tạm bợ.

Người cha nói: “Con trai ta thật sáng suốt. Nó đã dạy ta chân lý về sự sống và cái chết. Ta sẽ không còn đau buồn nữa.” Nỗi buồn của ông tan biến, và tâm ông trở nên bình an.

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài giải thích rằng người chủ đất, sau khi nghe lời dạy này, đã đạt đến tầng giác ngộ đầu tiên, chứng sơ quả Nhập . Đức Phật nói: “Lúc đó, chính ta là Sujata.”

.... o ....

J352. Sujata Jātaka -- The dead cannot return, and all things are temporary.

Summary: When a landholder loses his father, he becomes inconsolable. The Buddha tells him a story of a similar event in the past, in which a landowner’s son tries to make his father understand the truth that the dead cannot return and that all things are temporary.

.

While the Buddha was staying at Jetavana, he told a story about a landowner who was grieving for his father who had died. The man could not stop crying and thinking about his loss.

The Buddha saw that this man had the potential to reach enlightenment. One morning, while going for alms in Savatthi with another monk, the Buddha came to the man’s house. The man invited him to sit down, and the Buddha asked, “Layman, are you still grieving?”

“Yes, sir,” the man replied.

Then the Buddha said, “Long ago, wise people who lost their fathers did not let grief take over their hearts. They listened to wisdom and understood the truth of life.” At the man’s request, the Buddha told this story from the past.

Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born into a landowner’s family and was named Sujata. When Sujata grew up, his grandfather died. His father was deeply sad and could not stop mourning.

He collected his father’s ashes and built a small mound for them in his garden. Every day he went there, decorated the mound with flowers, cried, and neglected everything else. He stopped eating properly, bathing, or taking care of his work.

Sujata saw his father’s sorrow and thought, “No one can help my father but me. I must find a way to ease his grief.”

One day, he saw a dead ox lying outside the city. He brought grass and water, placed them before the ox, and said, “Eat and drink, good ox.”

People passing by were surprised. “Sujata, are you mad?” they asked. “Why are you offering food and water to a dead ox?” Sujata said nothing.

The people ran to tell his father, “Your son has lost his mind! He is feeding a dead ox!”

The father forgot his own sorrow and hurried to find Sujata. He cried, “My son, what are you doing? No food or water can bring a dead ox back to life!”

Sujata calmly said, “Father, this ox still has its head, legs, and tail. Maybe it can live again. But your father’s body is gone—there is nothing left. Why do you still cry for him?”

Hearing this, the father suddenly understood. He realized that his son was not mad but wise. Sujata had done this strange act to help him see the truth—that the dead cannot return, and all things are temporary.

The father said, “My son is truly wise. He has taught me the truth about life and death. I will not grieve anymore.” His sadness disappeared, and his heart became peaceful.

When the Buddha finished the story, he explained that the landowner, after hearing this teaching, reached the first stage of enlightenment. Then the Buddha said, “At that time, I myself was Sujata.”

.... o .....

J353. Dhonasakha Jātaka -- Mỗi người phải đối mặt với hậu quả của hành động của chính mình.

Tóm tắt: Một vị vua cho xây cung điện rồi sau đó làm mù mắt kiến ​​trúc sư. Đức Phật kể câu chuyện về một bậc hiền triết đã cảnh báo hoàng tử về hành vi bạo lực của mình. Tuy nhiên, vì tham vọng, khi lên ngôi, hoàng tử đã làm mù mắt nhiều vị vua khác và cuối cùng chính ông cũng phải chịu quả báo.

.

Khi Đức Phật ngự tại Rừng Bhesakala gần Núi Cá Sấu, xứ Bhaggas, Ngài đã kể một câu chuyện về Hoàng tử Bodhi trẻ tuổi.

Hoàng tử Bodhi, con trai của Vua Udena, sống tại thành phố Sumsumaragiri. Ngài đã nhờ một người thợ xây rất lành nghề thiết kế cho mình một cung điện đặc biệt gọi là Kokanada. Người thợ xây đã làm cho nó trở nên độc đáo và đẹp đẽ, khác biệt với bất kỳ cung điện nào khác trên thế gian.

Sau khi hoàn thành, hoàng tử nghĩ: "Người này có thể xây một cung điện khác giống như cung điện của ta cho một vị vua khác." Vì đố kỵ và tự ái, ngài đã ra lệnh móc mắt người thợ xây.

Khi các nhà sư nghe về hành động tàn ác này, họ bàn tán với nhau trong Chánh Pháp Đường. "Hoàng tử Bodhi thật tàn nhẫn và vô tình," họ nói. "Hắn ta đã cho người phá hủy đôi mắt của một người vô tội."

Khi Đức Phật bước vào và hỏi họ đang bàn luận điều gì, họ kể lại cho Ngài nghe chuyện đã xảy ra. Đức Phật nói: “Đây không phải lần đầu tiên Hoàng tử Bodhi hành xử tàn ác. Trước đây, hắn đã làm một việc còn tệ hơn thế nữa: hắn đã móc mắt hàng ngàn người và hiến tế thịt của họ.” Rồi Đức Phật kể cho họ nghe một câu chuyện từ quá khứ.

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ-tát là một bậc thầy nổi tiếng ở thành Takkasila. Ngài nổi tiếng khắp Ấn Độ vì trí tuệ của mình, và nhiều thanh niên xuất thân từ các gia đình quý tộc đã đến học với ngài.

Trong số các đệ tử của Bồ tát có một hoàng tử, cũng tên là Brahmadatta, con trai của vua Benares. Vị hoàng tử này bản tính tàn ác và hung bạo. Bồ-tát, người có thể nhìn rõ tính cách của con người, đã cảnh báo: “Thưa hoàng tử, tâm của ngài tàn ác và đầy giận dữ. Quyền lực có được bằng bạo lực không bao giờ bền vững. Khi quyền lực đó mất đi, nó sẽ mang lại đau khổ lớn lao, giống như một người đắm tàu ​​lạc lõng trên biển. Hãy tử tế và sống công bằng.”

Hoàng tử lắng nghe nhưng không thực sự thay đổi. Sau khi học xong, y trở về quê hương, lên ngôi vua sau khi vua cha băng hà và cai trị Benares.

Vị tư tế riêng của nhà vua, tên là Pingiya, cũng là một người đàn ông khắc nghiệt và tham vọng. Ông ta khao khát danh vọng và quyền lực, nên đã nói với nhà vua: "Chúng ta hãy chinh phục tất cả các vị vua của Ấn Độ. Khi đó, ngài sẽ là vị vua duy nhất, và thần sẽ là tư tế tối cao của ngài."

Nhà vua đồng ý và ra trận. Lần lượt, ông đánh bại nhiều vị vua và bắt họ làm tù binh. Dần dần, ông thống trị toàn bộ Ấn Độ và giam giữ hàng ngàn vị vua bị bắt.

Sau đó, ông tiến quân đến Takkasila, nơi Bồ Tát cư ngụ. Nhưng Bồ Tát đã sửa chữa tường thành và củng cố chúng, nên nhà vua không thể chiếm được.

Nhà vua dựng trại dưới một cây đa cổ thụ bên bờ sông Hằng. Thất vọng vì thất bại, ông hỏi tư tế: "Chúng ta đã đánh bại tất cả các vị vua ở Ấn Độ, nhưng chúng ta không thể chiếm được thành phố này. Bây giờ chúng ta nên làm gì?"

Vị tư tế Pingiya đáp: “Đại vương, hãy tế thần cây đa này. Hãy móc mắt của hàng ngàn vị vua mà ngài đã bắt được, mổ bụng họ ra, rồi dâng thịt trộn với đồ ngọt và máu của họ quanh cây. Như vậy ngài sẽ chiến thắng.”

Vị vua tàn bạo đồng ý. Ông sai những đô vật lực lưỡng bắt từng vị vua bị bắt, nghiền nát họ cho đến khi bất tỉnh, sau đó làm họ bị mù và giết chết. Xác họ bị ném xuống sông Hằng, và thịt của họ được dùng cho lễ tế đẫm máu quanh cây đa.

Sau hành động kinh hoàng này, nhà vua chuẩn bị chiến đấu tiếp. Nhưng một vị thần Dạ Xoa mạnh mẽ (một Yakkha) từ trên cây lao xuống, đánh ngài và móc mắt phải của ngài. Nhà vua vô cùng đau đớn. Khi ngài nằm đau đớn dưới gốc cây đa, một con kền kền thả một khúc xương sắc nhọn từ trên cao xuống, và nó rơi thẳng vào mắt kia của ngài, làm ngài bị mù hoàn toàn.

Trong cơn đau đớn, nhà vua nhớ lại lời cảnh báo của Bồ Tát: “Mỗi người phải gánh chịu hậu quả của hành động của mình, giống như trái cây đến từ hạt giống đã được gieo trồng.” Ngài nhận ra rằng sự tàn ác của mình đã tự chuốc lấy hình phạt này.

Không lâu sau, ngài qua đời và tái sinh vào địa ngục. Vị tư tế Pingiya của ngài không thể cứu ngài, và quân đội của ngài chạy tán loạn trong sợ hãi.

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nói với các nhà sư: “Vào thời điểm đó, vị vua tàn ác chính là người mà bây giờ là Thái tử Bodhi. Vị tư tế độc ác đó chính là Đề Bà Đạt Đa. Và chính ta là bậc thầy thông thái.”

.... o ....

J353. Dhonasakha Jātaka -- Each person must face the result of their own deeds.

Summary: A king had a palace built and then blinded the architect afterward. The Buddha tells a story about a wise man who warned a prince about his violent behavior. However, driven by ambition, when the prince became king, he blinded many other kings and eventually suffered blindness himself as retribution.

.

While the Buddha was living in the Bhesakala Grove near Mount Crocodile, in the land of the Bhaggas, he told a story about young Prince Bodhi.

Prince Bodhi, the son of King Udena, lived in the city of Sumsumaragiri. He asked a very skilled builder to design a special palace for him called Kokanada. The builder made it unique and beautiful, different from any other palace in the world.

After it was finished, the prince thought, “This man might build another palace like mine for some other king.” Out of envy and pride, he ordered the man’s eyes to be put out.

When the monks heard about this cruel act, they talked about it among themselves in the Hall of Truth. “Prince Bodhi is so harsh and heartless,” they said. “He had the eyes of an innocent man destroyed.”

When the Buddha came in and asked what they were discussing, they told him what had happened. The Buddha said, “This is not the first time Prince Bodhi has been cruel. In the past, he did something even worse—he put out the eyes of a thousand men and offered their flesh as a sacrifice.” Then the Buddha told them a story from the past.

Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was a famous teacher in the city of Takkasila. He was known throughout India for his wisdom, and many young men from noble families came to study with him.

Among his students was a prince, also named Brahmadatta, the son of the king of Benares. This prince was cruel and violent by nature. The Bodhisatta, who could see people’s character clearly, warned him, “My prince, your heart is cruel and full of anger. Power gained through violence never lasts. When such power is lost, it brings great suffering, like a shipwrecked man lost at sea. Be kind, and live justly.”

The prince listened but did not truly change. When his studies were finished, he returned home, became king after his father’s death, and ruled Benares.

The king’s personal priest, named Pingiya, was also a harsh and ambitious man. He wanted fame and power, so he said to the king, “Let us conquer all the rulers of India. Then you will be the only king, and I will be your chief priest.”

The king agreed and went to war. One by one, he defeated many kings and made them prisoners. In time, he ruled over all India and held a thousand captured kings.

Then he marched against Takkasila, where the Bodhisatta lived. But the Bodhisatta repaired the city walls and made them strong, so the king could not take it.

The king set up his camp under a great banyan tree beside the Ganges River. Frustrated by his failure, he asked his priest, “We have defeated every king in India, but we cannot win this one city. What should we do now?”

Pingiya answered, “Great King, make a sacrifice to the spirit of this banyan tree. Put out the eyes of the thousand kings you have captured, cut their bodies open, and offer their flesh mixed with sweet foods and their blood around the tree. Then you will gain victory.”

The cruel king agreed. He had strong wrestlers seize each captured king, crush them until they were unconscious, then blind them and kill them. Their bodies were thrown into the Ganges, and their flesh was used for the bloody sacrifice around the banyan tree.

After this horrible act, the king prepared to fight again. But a powerful spirit (a Yakkha) came from the tree, struck him, and tore out his right eye. The king was in terrible pain. As he lay suffering beneath the banyan tree, a vulture dropped a sharp bone from above, and it fell directly into his other eye, blinding him completely.

In his pain, the king remembered the Bodhisatta’s warning: “Each person must face the result of their own deeds, just as fruit comes from the seed that was planted.” He realized that his cruelty had brought this punishment upon himself.

Soon after, he died and was reborn in hell. His priest Pingiya could not save him, and his army scattered in fear.

When the Buddha finished the story, he said to the monks, “At that time, the cruel king was the same being who is now Prince Bodhi. The wicked priest was Devadatta. And I myself was the wise teacher.”

.... o ....

J354. Uraga Jātaka -- Hãy bố thí từ thiện, giữ giới luật đạo đức và nhớ rằng cái chết sẽ đến với tất cả mọi người.

Tóm tắt: Khi một người chủ đất mất con, ông ta trở nên vô cùng đau buồn. Đức Phật kể câu chuyện về một gia đình lớn tuổi mất con trai nhưng vì hiểu được bản chất của thế gian nên họ không hề đau buồn. Sau đó, họ được Vua trời Sakka (Đế Thích) tới hỏi và ban thưởng.

.

Khi Đức Phật còn ở tại Kỳ Viên, có một người chủ đất có con trai vừa mất. Đức Phật đến thăm và nhẹ nhàng hỏi: "Thưa hiền hữu, Ngài có đau buồn không?"

Người đàn ông đáp: "Vâng, thưa Ngài. Từ khi con trai tôi mất, tôi vô cùng đau buồn."

Đức Phật nói: "Thưa ngài, vạn vật sinh ra rồi cũng sẽ phải hoại diệt. Chân lý này không chỉ đúng với một người hay một ngôi làng, mà đúng với mọi nơi trên thế gian. Không có chúng sinh nào thoát khỏi cái chết. Các bậc hiền triết thời xưa đã biết điều này và không hề đau buồn khi cái chết đến. Để tôi kể cho Ngài nghe một câu chuyện từ thời xa xưa."

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Benares, Bồ Tát sinh ra trong một gia đình Bà La Môn sống tại một ngôi làng gần thành phố. Ngài lớn lên, lập gia đình và có hai người con - một trai và một gái. Khi con trai trưởng thành, người cha đã tìm cho con một người vợ. Gia đình lúc đó có sáu người: Bồ Tát và vợ, con trai và con gái, vợ của con trai và một người hầu gái.

Họ sống hạnh phúc bên nhau. Bồ Tát thường nhắc nhở họ: “Hãy bố thí, giữ gìn giới luật, giữ ngày lễ, và nhớ rằng cái chết sẽ đến với tất cả mọi người. Cuộc sống là vô thường, nhưng cái chết là điều chắc chắn. Mọi thứ trên đời này đều thay đổi và qua đi. Vậy nên hãy luôn sống cẩn thận và sáng suốt.”

Gia đình ngài nghe theo lời khuyên của ngài và thường suy ngẫm về cái chết và sự vô thường.

Một ngày nọ, Bồ Tát cùng con trai đi cày ruộng. Người con đốt một ít cỏ khô để làm sạch đất. Gần đó, có một con rắn sống trong một tổ kiến. Khói làm đau mắt con rắn, và trong cơn giận dữ, nó bò ra cắn chàng trai trẻ, giết chết anh ta ngay lập tức.

Bồ Tát thấy con trai mình ngã, liền dừng công việc lại và đến bên con. Thấy con trai đã chết, ngài lặng lẽ mang thi thể đến dưới gốc cây, phủ một tấm áo choàng lên và bình tĩnh nói: “Cái gì phải chết đã chết. Mọi thứ do thân và tâm tạo thành đều phải tan rã.” Rồi ngài lại tiếp tục cày ruộng.

Sau đó, ngài thấy một người hàng xóm đi ngang qua và hỏi: "Bạn ơi, bạn về nhà chưa?"

"Vâng," người đàn ông đáp.

"Xin hãy nói với vợ tôi," Bồ Tát nói, "rằng hôm nay bà ấy không nên mang thức ăn cho hai người, mà chỉ nên mang cho một người. Cũng xin hãy nói với bà ấy rằng hôm nay, cả bốn người - bà ấy, con gái chúng tôi, con dâu chúng tôi và người hầu - hãy mặc quần áo sạch sẽ, mang theo nước hoa và hoa, rồi cùng nhau đến."

Người hàng xóm trở về nhà và lặp lại lời dặn. Người vợ hiểu ngay rằng con trai mình đã chết. Nhưng bà không khóc lóc hay run rẩy. Bà bình tĩnh mặc đồ trắng, hái nước hoa và hoa, rồi cùng mọi người ra đồng.

Khi họ đến nơi, Bồ Tát đang ngồi dưới gốc cây. Tất cả đều ăn uống trong im lặng. Khi ăn xong, họ gom củi, đặt thi hài con trai lên đống lửa, dâng hoa và hương, rồi châm lửa đốt. Không ai rơi một giọt nước mắt. Tâm trí họ tĩnh lặng và bình yên, chỉ nghĩ đến sự thật của cái chết.

Đức hạnh của họ lớn đến nỗi ngai vàng của Sakka, vua của cõi trời, trở nên nóng bỏng. Sakka tự hỏi ai trên đời này có quyền năng như vậy. Khi nhìn xuống, ông thấy gia đình Bà-la-môn và trái tim bình thản của họ. Ông vui mừng, đi xuống chỗ họ và đứng bên giàn hỏa táng.

“Các ngươi đang làm gì vậy?” ông hỏi.

“Chúng tôi đang thiêu xác một người, thưa ngài,” Bồ Tát nói.

Sakka nói: “Đây không thể là xác người được – có lẽ là xác của một loài vật nào đó chăng?”

“Không, thưa bệ hạ,” Bồ Tát nói: “Đây thực sự là xác người.”

“Vậy thì chắc hẳn đó là một kẻ thù?” Sakka hỏi.

“Không,” Bồ Tát nói. “Nó là con trai của chúng tôi.”

“Vậy chắc chắn ngươi yêu thương nó chứ?”

“Phải, rất yêu thương.”

“Vậy tại sao ngươi không khóc?” Sakka hỏi.

Bồ Tát đáp: “Khóc lóc không thể mang nó trở về. Cái chết là con đường ai cũng phải trải qua. Đau buồn cũng vô ích.”

Sakka quay sang người mẹ và hỏi: “Thưa bà, nó là gì của bà?”

Bà nói: “Nó là con trai của tôi. Ta đã mang thai nó mười tháng, nuôi dưỡng nó, dạy nó đi và nói.”

“Vậy tại sao bà không khóc?” Đế Thích hỏi.

Người mẹ đáp: “Con tôi đến thế gian này không mời mà đến và ra đi cũng không từ biệt mà đi. Con tôi đến rồi đi theo quy luật tự nhiên. Tại sao tôi phải đau buồn?”

Vua trời hỏi người em gái: “Người ấy là gì đối với nàng?”

“Người ấy là anh trai của tôi, thưa ngài.”

“Vậy tại sao nàng không khóc?”

Nàng đáp: “Kể cả tôi có khóc lóc và nhịn ăn, điều đó cũng chẳng giúp ích gì cho anh tôi. Như thế chỉ khiến gia đình thêm bất hạnh.”

Rồi vua trời quay sang người vợ và hỏi: “Người ấy là gì đối với nàng?”

“Người chết là chồng của tôi, thưa ngài.”

“Vậy tại sao nàng không khóc?”

Nàng đáp: “Khóc cho người chết cũng vô ích như cố gắng chụp bắt mặt trăng bằng tay vậy. Ai cũng phải chết.”

Cuối cùng, vua trời hỏi người hầu: “Người ấy là gì đối với nàng?”

“Người ấy là chủ của tôi,” nàng nói.

“Có lẽ ông ấy đã đối xử tàn nhẫn với con, nên con mới không khóc?”

“Không, thưa ngài,” nàng đáp. “Ông ấy tốt bụng và hiền lành, như con trai của tôi vậy. Nhưng thương tiếc ông ấy cũng giống như cố gắng hàn gắn một chiếc bình đất sét bị vỡ – bất khả thi và vô ích.”

Vua trời Sakka vô cùng ấn tượng. Ngài nói: “Tất cả các ngươi đều đã hiểu chân lý về sinh tử. Các ngươi đã thực hành tốt tư tưởng vô thường. Từ nay trở đi, các ngươi không cần phải dùng tay làm việc nữa. Ta, Sakka, vua của cõi trời, sẽ làm đầy nhà các ngươi bằng của cải và bảy báu vật. Hãy tiếp tục bố thí, giữ gìn giới luật, và luôn nhớ đến cái chết.”

Sau đó, Sakka làm đầy nhà họ bằng của cải vô tận và biến mất.

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài giải thích rằng người chủ đất giờ đã hiểu chân lý và đạt được quả vị giác ngộ đầu tiên, sơ quả Nhập Lưu.

Đức Phật cũng xác định các nhân vật trong câu chuyện: người hầu nữ là Khujjuttara, người con gái là Uppalavanna, người con trai là Rahula, người mẹ là Khema, và Bồ tát (người cha thông thái) chính là Đức Phật.

.... o ....

J354. Uraga Jātaka -- Give charity, keep the moral rules, and remember that death will come to all.

Summary: When a landholder loses his son, he becomes inconsolable. The Buddha tells the story of an elderly family who lost their son but, understanding the nature of the world, did not grieve. Later, they were questioned and rewarded by Sakka.

.

While the Buddha was staying at Jetavana, there was a landowner whose son had died. The Buddha went to visit him and said gently, “Are you grieving, sir?”

The man said, “Yes, Reverend Sir. Since my son died, I have been full of sorrow.”

The Buddha said, “Sir, all things that are born must one day pass away. This truth applies not only to one person or one village, but to every place in the world. There is no living being that can escape death. The wise of old knew this and did not grieve when death came. Let me tell you a story from the past.”

Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born in a Brahmin family living in a village near the city. He grew up, married, and had two children — a son and a daughter. When the son became an adult, the father found him a wife. The household then had six people: the Bodhisatta and his wife, their son and daughter, the son’s wife, and one female servant.

They lived together happily. The Bodhisatta often reminded them, “Give charity, keep the moral rules, observe holy days, and remember that death will come to all. Life is uncertain, but death is certain. Everything in this world changes and passes away. So always live carefully and wisely.”

His family accepted his advice and often thought about death and impermanence.

One day, the Bodhisatta went with his son to plough the field. The son burned some dry grass to clean the ground. Nearby, a snake lived in an anthill. The smoke hurt the snake’s eyes, and in anger it came out and bit the young man, killing him instantly.

The Bodhisatta saw his son fall, stopped his work, and went to him. Seeing that the boy was dead, he quietly carried the body under a tree, covered it with a cloak, and said calmly, “What is subject to death has died. All things made of body and mind must break apart.” Then he went back to ploughing.

Later, he saw a neighbor walking by and said, “Friend, are you going home?”

“Yes,” said the man.

“Please tell my wife,” said the Bodhisatta, “that she should not bring food for two today, only for one. Also, tell her that today, all four of them — she, our daughter, our daughter-in-law, and the servant — should put on clean clothes, bring perfume and flowers, and come together.”

The neighbor went home and repeated the message. The wife understood at once that her son had died. But she did not cry or tremble. She calmly dressed in white, gathered perfumes and flowers, and went to the field with the others.

When they arrived, the Bodhisatta was sitting under the tree. They all ate their meal quietly. When finished, they gathered wood, placed the son’s body on the funeral pile, offered flowers and perfume, and set it on fire. None of them shed a single tear. Their minds were steady and peaceful, thinking only about the truth of death.

Their strong virtue was so great that the throne of Sakka, the king of heaven, became hot. Sakka wondered who on earth had such power. When he looked down, he saw the Brahmin family and their calm hearts. Delighted, he came down to them and stood by the funeral pyre.

“What are you doing?” he asked.

“We are burning a man’s body, my lord,” said the Bodhisatta.

Sakka said, “This cannot be a man’s body — perhaps it is some animal?”

“No, my lord,” said the Bodhisatta, “it is truly a man’s body.”

“Then it must be an enemy?” asked Sakka.

“No,” said the Bodhisatta. “He was our own son.”

“Then surely you loved him?”

“Yes, very dearly.”

“Then why do you not weep?” asked Sakka.

The Bodhisatta replied, “Crying cannot bring him back. Death is a path everyone must take. To grieve is useless.”

Sakka then turned to the mother and asked, “Lady, what was he to you?”

She said, “He was my son. I carried him for ten months, nursed him, taught him to walk and speak.”

“Then why do you not weep?” asked Sakka.

She said, “He came into this world uninvited and left it unbidden. He came and went by nature’s law. Why should I grieve?”

Sakka then asked the sister, “What was he to you?”

“He was my brother, my lord.”

“And why do you not weep?”

She said, “Even if I cry and starve, it will not help him. It will only make our family more unhappy.”

Then Sakka turned to the wife and asked, “What was he to you?”

“He was my husband, my lord.”

“And why do you not weep?”

She said, “Crying for the dead is as useless as trying to catch the moon with your hands. Everyone must die.”

Lastly, Sakka asked the servant woman, “What was he to you?”

“He was my master,” she said.

“Perhaps he was cruel to you, and that is why you do not cry?”

“No, my lord,” she said. “He was kind and gentle, like a son to me. But mourning him would be like trying to repair a broken pot of clay — impossible and pointless.”

Sakka was deeply impressed. He said, “You all understand the truth of life and death. You have practiced well the thought of impermanence. From now on, you will not need to work with your hands. I, Sakka, king of heaven, will fill your house with wealth and the seven treasures. Continue to give charity, keep the moral law, and remember death always.”

Then Sakka filled their home with endless riches and disappeared.

When the Buddha finished the story, he explained that the landowner had now understood the truth and attained the first stage of enlightenment.

The Buddha also identified the characters in the story: the female servant was Khujjuttara, the daughter was Uppalavanna, the son was Rahula, the mother was Khema, and the Bodhisatta (the wise father) was the Buddha himself.

.... o ....

J355. Ghata Jātaka -- Một người tâm tĩnh lặng và chánh niệm sẽ không bị bất hạnh làm hại.

Tóm tắt: Một quan cận thần vô tội bị tống giam nhưng sau đó được thả ra và được nhà vua tôn vinh. Đức Phật kể câu chuyện về một người đàn ông, vì bị hấp dẫn bởi cung điện ở Benares, đã bị lưu đày và sau đó dụ dỗ một vị vua nước ngoài tấn công đất nước cũ của mình. Vua Benares, thay vì gây ra cái chết của những người khác, đã để mình bị bắt. Nhà vua, nhận ra đức hạnh của ông, đã nhượng bộ và trả tự do cho ông. Trong phiên bản này, lý do nhà vua không đau buồn được giải thích.

.

Khi Đức Phật còn ở tại Kỳ Viên, Ngài đã kể một câu chuyện về một vị quan của vua xứ Kosala (Câu Tát La).

Câu chuyện bắt đầu giống như một câu chuyện khác mà Ngài đã kể: một vị vua rất trân trọng một vị quan đã phục vụ Ngài rất tốt, nhưng một số kẻ đố kỵ đã gây rối. Nhà vua tin lời họ và ra lệnh bắt giữ vị quan và tống giam. Trong thời gian ở tù, vị quan đã thực hành thiền định và đạt đến tầng giác ngộ đầu tiên. sơ quả Nhập Lưu.

Khi nhà vua biết được công đức to lớn của vị quan, ngài đã thả ông ra. Vị quan cầm một vòng hoa thơm đến gặp Đức Phật, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống. Đức Phật hỏi: "Có phải ngươi vừa gặp phải điều bất hạnh không?"

"Vâng, thưa Đức Thế Tôn," vị quan đáp, "nhưng qua điều bất hạnh này, điều tốt lành đã đến với con. Con đã đạt được sơ quả Nhập Lưu."

Đức Phật đáp: "Không chỉ riêng ông, mà các bậc hiền triết thời xưa cũng đã biến bất hạnh thành điều tốt đẹp." Theo lời thỉnh cầu của vị quan, Đức Phật kể một câu chuyện từ quá khứ.

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Benares, Bồ Tát đã sinh ra là con trai của hoàng hậu và được gọi là Hoàng tử Ghata. Ngài học nghệ thuật tại Takkasila và sau này cai trị vương quốc một cách khôn ngoan và công bằng.

Lúc bấy giờ, có một vị quan làm điều bất chính trong hậu cung. Nhà vua thấy vậy liền trục xuất viên quan khỏi vương quốc. Vị quan đến gặp vua Vanka ở Savatthi và được vua tin tưởng. Nhờ ảnh hưởng này, ông ta thuyết phục Vanka chiếm lấy vương quốc Benares.

Khi vua Savatthi chinh phục Benares, ông ta bắt hoàng tử Ghata, xiềng xích và tống giam. Trong tù, Ghata nhập định sâu sắc và bay lên ngồi trên không trung, hoàn toàn nhập định.

Một luồng nhiệt nóng rực dâng lên trong cơ thể vua Vanka. Vua đến gặp Ghata, khuôn mặt sáng ngời như hoa sen nở rộ, rạng rỡ và bình thản. Ngạc nhiên, nhà vua hỏi tại sao ông không đau buồn, khi nhận thấy Ghata đang mỉm cười trong khi những người khác lại khóc.

Ghata giải thích rằng nỗi buồn không thể thay đổi quá khứ, và đau buồn cũng chẳng ích gì. Một người tâm tĩnh lặng và chánh niệm sẽ không bị bất hạnh làm hại. Ngài nói rằng những ai bám víu vào dục vọng hay vật chất thế gian sẽ không bao giờ thỏa mãn, dù họ có giàu sang đến đâu, nhưng một tâm trí đã đạt đến sự viên mãn về mặt tinh thần thì không sợ hãi điều gì.

Sau khi nghe điều này, vua Vanka đã cầu xin sự tha thứ của Ghata, trả lại vương quốc cho ông và trở về quê hương. Tuy nhiên, Ghata đã trao lại vương quốc cho các quan đại thần, lui về dãy Himalaya và sống cuộc đời khổ hạnh. Ông tiếp tục thiền định sâu sắc và được định sẵn sẽ tái sinh vào cõi Phạm Thiên.

Đức Phật kết thúc câu chuyện bằng cách xác định các nhân vật: "Lúc bấy giờ, Ananda là vua Vanka, còn ta là vua Ghata."

.... o ....

J355. Ghata Jātaka -- A person who is calm and mindful is not harmed by misfortune.

Summary: An innocent courtier is thrown into prison but is later released and honored by the king. The Buddha tells a story about a man who, intrigued by the palace in Benares, was exiled and subsequently enticed a foreign king to attack his former country. The king of Benares, rather than causing the deaths of others, allowed himself to be captured. The conqueror, recognizing his virtue, relented and set him free. In this version, the king’s lack of grief is explained.

.

While the Buddha was staying at Jetavana, he told a story about a minister of the king of Kosala.

The story begins the same way as another story he had told: a king honored a minister who served him well, but some jealous people made trouble. The king believed them and had the minister arrested and thrown into prison. While in prison, the minister practiced meditation and reached the first stage of spiritual awakening.

When the king learned of the minister’s great merit, he released him. The minister took a scented garland and went to the Buddha, saluted him, and sat down. The Buddha asked, “Did some misfortune happen to you?”

“Yes, Reverend Sir,” the minister said, “but through this misfortune, good has come to me. I have reached the First Path.”

The Buddha replied, “Not only you, but sages of old also turned misfortune into good.” At the minister’s request, the Buddha told a story from the past.

Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born as the son of the queen and was called Prince Ghata. He studied the arts at Takkasila and later ruled his kingdom wisely and justly.

At that time, a certain minister misbehaved in the royal harem. The king saw this and banished him from the kingdom. The minister went to King Vanka in Savatthi and gained his trust. Using this influence, he persuaded Vanka to seize the kingdom of Benares.

When the king of Savatthi conquered Benares, he captured Prince Ghata, chained him, and threw him into prison. While in prison, Ghata entered deep meditation and sat in the air, completely absorbed.

A burning heat arose in King Vanka’s body. He came to see Ghata, whose face shone like a full-blown lotus, radiant and calm. Surprised, the king asked why he did not grieve, noticing that Ghata was smiling while others would cry.

Ghata explained that sorrow cannot change the past, and grief does no good. A person who is calm and mindful is not harmed by misfortune. He said that those who are attached to desires or worldly things are never satisfied, no matter how much wealth they have, but a mind that has reached spiritual completion fears nothing.

After hearing this, King Vanka asked forgiveness of Ghata, restored him to his kingdom, and returned to his own land. Ghata, however, gave the kingdom to his ministers, retired to the Himalayas, and lived as an ascetic. He continued his deep meditation and was destined to be reborn in the world of Brahma.

The Buddha concluded the story by identifying the characters: “At that time, Ananda was King Vanka, and I myself was King Ghata.”

.... o ....

J356. Karandiya Jātaka -- Câu chuyện về Trưởng lão Sariputta (Xá Lợi Phất) và việc thuyết pháp cho những người không hỏi

Tóm tắt: Trưởng lão Xá Lợi Phất thuyết giảng Giáo Pháp cho tất cả mọi người ngài gặp, kể cả những người không chấp nhận. Đức Phật kể lại một câu chuyện trong quá khứ về một vị thầy cũng hành xử tương tự, cho đến khi người học trò thông thái của ngài thuyết phục được ngài rằng việc cố gắng thuyết phục những người theo tà giáo cũng vô ích như việc san phẳng mặt đất.

.

Khi Đức Phật ngự tại Jetavana, Ngài đã kể câu chuyện này về Trưởng lão Sariputta.

Sariputta nổi tiếng là người giảng dạy giới luật đạo đức cho tất cả mọi người Ngài gặp — ngay cả những người như thợ săn, ngư dân, và những người khác không theo đời sống tôn giáo. Vì tôn kính Ngài, họ chấp nhận lời Ngài dạy, nhưng thực ra họ không giữ giới luật.

Sariputta lo lắng và nói chuyện với các vị sư khác. Ngài nói: “Các bạn ơi, những người này lấy giới luật của tôi nhưng lại không tuân theo.”

Các vị sư trả lời: “Bạch Thế Tôn, Ngài truyền giới luật cho họ mặc dù họ không muốn. Họ chấp nhận chỉ vì họ sợ từ chối Ngài. Ngài không nên thuyết pháp cho những người không muốn nghe.”

Sariputta không hài lòng với lời khuyên này. Khi Đức Phật nghe chuyện, Ngài nói: “Đây không phải lần đầu tiên Xá Lợi Phất thuyết pháp cho những người không cầu xin. Trước kia, Ngài cũng từng làm như vậy.”

Đức Phật liền kể một câu chuyện từ quá khứ.

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn và theo học với một vị thầy nổi tiếng ở thành Takkasila.

Vị thầy này thường thuyết pháp cho tất cả mọi người Ngài gặp – ngay cả những người như ngư dân hay thợ săn – dù họ có muốn nghe hay không. Họ lễ phép tiếp nhận lời dạy của Ngài, nhưng không bao giờ thực hành.

Một hôm, các học trò của vị thầy nói với Ngài: “Thưa Thầy, những người này không muốn tuân theo pháp. Thầy áp đặt giáo lý của Thầy lên họ, và đó là lý do tại sao họ không tôn trọng hay giữ gìn giáo lý. Xin Thầy chỉ dạy cho những ai thực sự muốn học.”

Vị thầy nghe vậy cảm thấy buồn nhưng vẫn tiếp tục thói quen thuyết pháp cho tất cả mọi người Ngài gặp.

Một ngày nọ, dân làng gần đó mời thầy đến nhận thức ăn cúng dường. Thầy nói với học trò tên là Karandiya: “Con ơi, ta sẽ không đi một mình. Con hãy mang năm trăm học trò này đi, nhận thức ăn và mang phần của ta về.”

Karandiya làm theo lời thầy. Trên đường về, anh nhìn thấy một hang động bên đường. Anh nghĩ: “Sư phụ của ta luôn thuyết pháp cho mọi người, ngay cả khi họ không hỏi. Ta sẽ tìm cách cho ngài hiểu rằng không phải ai cũng muốn nghe.”

Rồi anh nhặt một hòn đá lớn ném vào hang liên tục. Các học trò khác ngạc nhiên hỏi: “Thưa thầy, thầy đang làm gì vậy?” Karandiya im lặng. Họ chạy đi báo cho thầy.

Thầy đến hỏi: “Sao các con lại ném đá vào hang như vậy?”

Karandiya trả lời: “Con đang cố gắng làm cho đất bằng phẳng bằng cách lấp đầy tất cả các ngọn đồi và hố.”

Thầy nói: “Không ai có thể làm cho cả trái đất bằng phẳng. Ngay cả con cũng không thể lấp đầy hoàn toàn một hang động.”

Karandiya nói: "Nếu không ai có thể làm cho thế giới phẳng, thì làm sao thầy có thể mong đợi tất cả mọi người cùng suy nghĩ như nhau? Cũng như đất có đồi núi và thung lũng, mỗi người có một tâm trí khác nhau. Thầy không nên cố gắng dạy tất cả mọi người, vì không phải ai cũng muốn học."

Cuối cùng vị thầy cũng hiểu ra. Ngài nói: "Con nói đúng, hỡi học trò tốt của ta. Thế giới không bao giờ có thể được làm cho bằng phẳng, và mọi người không bao giờ có thể đồng ý với nhau. Từ nay trở đi, ta sẽ chỉ dạy cho những ai muốn nghe."

Rồi Karandiya dẫn thầy mình và các học trò khác trở về nhà.

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nói: "Vào thời đó, Sariputta là vị thầy Bà-la-môn, và ta là người học trò Karandiya."

.... o ....

J356. Karandiya Jātaka -- The Story of Elder Sariputta and Preaching to Those Who Did Not Ask

Summary: Elder Sāriputta teaches the Dhamma to everyone he meets, including those who do not accept it. The Buddha recounts a story from the past about a teacher who behaved similarly, until his wise pupil convinced him that trying to persuade the sectarians was as futile as leveling the earth.

.

While the Buddha was staying at Jetavana, he told this story about Elder Sariputta.

Sariputta was known for teaching the moral law to everyone he met — even people like hunters, fishermen, and others who did not follow a religious life. Out of respect for him, they accepted his words, but they did not actually keep the moral rules.

Sariputta became concerned and spoke with other monks. He said, “My friends, these people take the moral rules from me but do not follow them.”

The monks replied, “Venerable sir, you give the law to them even though they do not want it. They accept it only because they are afraid to refuse you. You should not preach to people who are unwilling to listen.”

Sariputta was not pleased with this advice. When the Buddha heard what had happened, he said, “This is not the first time Sariputta has taught people who did not ask for teaching. In the past, too, he acted in the same way.”

Then the Buddha told a story from the past.

Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born in a brahmin family and studied under a famous teacher in the city of Takkasila.

This teacher used to preach the moral law to everyone he met — even to people like fishermen or hunters — whether they wanted to listen or not. They accepted his words politely, but they never practiced them.

One day the teacher’s students said to him, “Master, these people do not wish to follow the law. You force your teaching on them, and that is why they do not respect or keep it. Please teach only those who truly wish to learn.”

The teacher felt sad to hear this but still continued his habit of preaching to everyone he met.

One day, people from a nearby village invited the teacher to receive offerings of food. The teacher told his student named Karandiya, “My son, I will not go myself. You take these five hundred students, accept the food, and bring back my share.”

Karandiya did as told. On the way back, he saw a cave by the road. He thought, “Our master always preaches to everyone, even if they do not ask. I will find a way to make him understand that not everyone wishes to hear him.”

Then he picked up a big stone and threw it into the cave again and again. The other students were surprised and asked, “Sir, what are you doing?” Karandiya said nothing. They ran to tell the teacher.

The teacher came and asked, “Why are you throwing stones into the cave like that?”

Karandiya replied, “I am trying to make the land flat by filling up all the hills and holes.”

The teacher said, “No man can make the whole earth flat. Even you cannot fill one cave completely.”

Then Karandiya said, “If no one can make the world flat, how can you expect all people to think the same way? Just as the land has hills and hollows, people have different minds. You should not try to teach everyone, because not all wish to learn.”

The teacher finally understood. He said, “You are right, my good student. The world can never be made even, and people can never all agree. From now on, I will teach only those who wish to listen.”

Then Karandiya led his teacher and the other students back home.

When the Buddha finished the story, he said, “In that time, Sariputta was the brahmin teacher, and I was the student Karandiya.”

.... o ....

J357. Latukika Jātaka -- Đừng bao giờ gây thù hận: Chuyện Đề Bà Đạt Đa và Con Voi Hung Dữ

Tóm tắt: Đề Bà Đạt Đa được miêu tả là một người tàn bạo và hung bạo. Đức Phật kể lại câu chuyện về một con voi đã giết chết một đàn chim cút con, và sự trả thù mà chim mẹ đã thực hiện với sự giúp đỡ của đồng minh.

.

Khi Đức Phật còn ở Trúc Lâm, các vị tỳ kheo một lần tụ họp tại Chánh Điện và bàn luận về Đề Bà Đạt Đa.

Họ nói: “Đề Bà Đạt Đa hung dữ, tàn nhẫn và hung bạo. Hắn ta không thương xót ai cả.”

Khi Đức Phật đến và hỏi họ đang bàn luận điều gì, họ trả lời. Đức Phật nói: “Đề Bà Đạt Đa không chỉ tàn nhẫn bây giờ, mà trước kia hắn ta cũng vậy.”

Rồi Đức Phật kể cho họ nghe một câu chuyện từ rất lâu rồi.

Ngày xửa ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Benares, Bồ Tát sinh ra là một chú voi con. Ngài lớn lên khỏe mạnh và xinh đẹp, trở thành thủ lĩnh của một đàn voi đông đảo gồm tám mươi ngàn con sống trên dãy núi Himalaya.

Một ngày nọ, một con chim cút làm tổ ở nơi voi thường đến kiếm ăn. Trứng của nó nở ra, và những chú chim non còn quá nhỏ để bay.

Hôm đó, cả đàn voi đông đảo đến đó để kiếm ăn. Chim cút mẹ nhìn thấy voi đầu đàn đến và nghĩ: "Nó có thể giẫm chết đàn con của ta! Ta sẽ cầu xin nó bảo vệ chúng."

Nó đứng trước voi đầu đàn, cúi chào và xin voi tha cho đàn con của nó.

Voi đầu đàn nói: "Đừng lo, chim cút nhỏ. Ta sẽ bảo vệ đàn con của ngươi."

Nó đứng bên đàn voi con cho đến khi cả tám mươi ngàn con voi đã đi qua an toàn. Sau đó, nó nói với chim cút: "Phía sau chúng ta có một con voi hoang dã không nghe lời ai cả. Ngươi cũng nên cầu xin nó, để đàn con của ngươi được an toàn." Rồi nó bỏ đi.

Khi con voi đầu đàn đến, chim cút lịch sự chào đón nó và cầu xin nó đừng làm hại đàn con của mình.

Nhưng con voi độc ác cười và nói: "Ta sẽ giết đàn con của ngươi. Ngươi có thể làm gì để ngăn ta? Ta có thể nghiền nát hàng ngàn con chim nhỏ chỉ bằng một chân."

Sau đó, nó giẫm nát đàn con và thậm chí còn vẩy nước lên chúng, rửa sạch xác chúng. Sau đó, nó bỏ đi, rống lên những tiếng the thé.

Chim cút đau khổ, nhưng tự nhủ: "Thôi được, cứ tiếp tục thổi kèn đi. Sớm muộn gì mày cũng thấy chuyện gì xảy ra. Mày nghĩ mình mạnh mẽ lắm, nhưng tao sẽ cho mày thấy rằng tâm trí có thể mạnh hơn sức mạnh của thú vật."

Chim cút quyết định tìm kiếm sự giúp đỡ.

Đầu tiên, nó giúp một con quạ. Sau đó, khi con quạ hỏi nó có thể trả ơn nó bằng cách nào, chim cút nói: "Có một điều tao muốn mày làm. Hãy dùng mỏ của mày mổ vào mắt con voi độc ác đó." Con quạ đồng ý.

Tiếp theo, chim cút giúp một con ruồi xanh. Khi con ruồi hỏi làm thế nào để trả ơn, chim cút nói: "Sau khi con quạ làm mù mắt con voi, hãy thả trứng của mày vào mắt nó để giòi mọc ở đó và làm nó đau khổ." Con ruồi cũng đồng ý.

Cuối cùng, chim cút giúp một con ếch. Khi con ếch hỏi lại phải làm gì, chim cút nói: "Khi con voi mù và đau đớn tột cùng, nó sẽ tìm nước. Ngồi trên đỉnh núi và kêu ồm ồm, để nó nghĩ rằng có nước ở đó. Khi nó leo lên, hãy xuống và kêu ồm ồm lại từ bên dưới. Nó sẽ theo tiếng kêu của ngươi và rơi xuống vách đá." Con ếch cũng đồng ý.

Sau đó, mọi việc diễn ra đúng như dự định.

Con quạ bay xuống và mổ thủng cả hai mắt của con voi. Rồi con ruồi xanh đẻ trứng lên vết thương, và chẳng mấy chốc, giòi bọ khiến con voi đau đớn không thể chịu đựng được.

Mù lòa và đau đớn, con voi lang thang khắp nơi, tìm kiếm nước. Rồi con ếch kêu ồm ồm từ đỉnh núi. Con voi nghĩ: "Chắc chắn phải có hồ ở đó!" và trèo lên. Khi lên đến đỉnh, con ếch lại xuống và kêu ồm ồm từ dưới vách đá.

Con voi quay lại và di chuyển về phía tiếng kêu - nhưng phía trước không có đất. Nó rơi xuống mép vực và chết dưới đó.

Chim cút đến và thấy kẻ thù của mình nằm chết. Nó kiêu hãnh bước qua xác nó và nói: "Giờ đây ta đã thấy được kết cục của kẻ thù."

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nói: "Hỡi các đệ tử, đừng bao giờ tạo thù. Ngay cả những sinh vật nhỏ bé và yếu đuối cũng có thể hủy diệt những kẻ mạnh mẽ khi họ hợp sức lại."

Rồi Đức Phật giải thích rằng trong kiếp trước: Đề Bà Đạt Đa là con voi hung dữ, và chính Đức Phật là thủ lĩnh của đàn voi đã bảo vệ đàn chim cút.

.... o ....

J357. Latukika Jātaka -- One should never make enemies: The Story of Devadatta and the Cruel Elephant

Summary: Devadatta is portrayed as cruel and violent. The Buddha recounts a story about an elephant that killed some hatchling quails, and the revenge their mother exacted upon him with the help of her allies.

.

While the Buddha was staying at the Bamboo Grove, the monks once gathered in the Hall of Truth and talked about Devadatta.

They said, “Devadatta is harsh, cruel, and violent. He has no pity for anyone.”

When the Buddha came and asked what they were discussing, they told him. The Buddha said, “Devadatta is cruel not only now, but he was the same in the past.”

Then the Buddha told them a story from long ago.

A long time ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born as a young elephant. He grew up strong and beautiful and became the leader of a great herd of eighty thousand elephants living in the Himalaya mountains.

One day, a quail made her nest in the place where the elephants usually went to eat. Soon her eggs hatched, and the baby birds were too small to fly.

That day, the great herd of elephants came that way to feed. The mother quail saw the leader elephant coming and thought, “He might step on my babies and kill them! I will beg him to protect them.”

She stood before the elephant, bowed, and asked him kindly to spare her young ones.

The leader said, “Do not worry, little quail. I will protect your babies.”

He stood over the chicks until all eighty thousand elephants had passed safely. Then he told the quail, “Behind us comes a wild elephant who does not obey anyone. You should ask him too, so that your chicks will be safe.” Then he walked away.

When the rogue elephant came, the quail greeted him politely and begged him not to harm her babies.

But the cruel elephant laughed and said, “I will kill your chicks. What can you do to stop me? I can crush thousands of little birds with one foot.”

Then he trampled on the chicks and even splashed water over them, washing away their remains. After that, he went off loudly trumpeting.

The quail was heartbroken, but she said to herself, “Very well, go ahead and trumpet now. Soon you will see what happens. You think you are powerful, but I will show you that the mind can be stronger than brute strength.”

The quail decided to get help.

First, she helped a crow. Later, when the crow asked how it could repay her, the quail said, “There is one thing I want you to do. Please use your beak to peck out the eyes of that cruel elephant.” The crow agreed.

Next, the quail helped a blue fly. When the fly asked how to return the favor, the quail said, “After the crow blinds the elephant, drop your eggs on his eyes so that the maggots will grow there and make him suffer.” The fly agreed too.

Finally, the quail helped a frog. When the frog asked what to do in return, the quail said, “When the elephant is blind and in great pain, he will look for water. Sit on top of a mountain and croak, so he thinks there is water there. When he climbs up, go down and croak again from below. He will follow your sound and fall from the cliff.” The frog agreed as well.

Later, everything happened just as planned.

The crow flew down and pecked out both of the elephant’s eyes. Then the blue fly laid its eggs on the wounds, and soon maggots made the elephant’s pain unbearable.

Blinded and suffering, the elephant wandered around, searching for water. Then the frog croaked from the top of a mountain. The elephant thought, “There must be a lake there!” and climbed up. When he reached the top, the frog went down and croaked from the bottom of the cliff.

The elephant turned and moved toward the sound — but there was no ground ahead. He fell over the edge and died at the bottom.

The quail came and saw her enemy lying dead. She proudly walked over his body and said, “Now I have seen the end of my enemy.”

When the Buddha finished the story, he said, “My disciples, one should never make enemies. Even small and weak beings can destroy the strong when they join together.”

Then the Buddha explained that in that past life: Devadatta was the cruel rogue elephant, and The Buddha himself was the leader of the herd who had protected the quail.

.... o ....

J358. Culladhammapala Jātaka -- Câu chuyện về Devadatta và Hoàng tử Dhammapala: Một người mẹ đã hy sinh mạng sống của mình để cứu con.

Tóm tắt: Devadatta (Đề Bà Đạt Đa) tìm cách giết Đức Phật. Đức Phật bèn kể lại câu chuyện tiền kiếp về một hoàng tử được mẹ yêu thương, bị một vị vua ghen ghét tra tấn và hành quyết dã man. Sau đó, nhà vua bị đọa vào địa ngục.

.

Khi Đức Phật đang ở tại Trúc Lâm, các vị tỳ kheo tụ họp tại Chánh Pháp Đường và bắt đầu bàn luận về Đề Bà Đạt Đa.

Họ nói: “Đề Bà Đạt Đa luôn tìm cách hãm hại Đức Phật. Hắn ta đã thuê người bắn tên vào Đức Phật, ném đá xuống Ngài, và thậm chí còn sai voi rừng Nalagiri đến giết Ngài.”

Khi Đức Phật đến và hỏi họ đang bàn luận điều gì, họ trả lời. Đức Phật nói: “Đề Bà Đạt Đa luôn tìm cách giết ta — không chỉ bây giờ, mà ngay cả trong những kiếp trước. Trong nhiều kiếp đó, hắn ta đã làm ta đau đớn hết lần này đến lần khác, nhưng hắn ta chưa bao giờ làm ta sợ hãi. Nhưng trong một kiếp, khi ta còn là một đứa bé bảy tháng tuổi, hắn ta đã thành công trong việc giết ta. Đó là khi ta là Hoàng tử Dhammapala.”

Rồi Đức Phật kể câu chuyện về kiếp trước đó.

Ngày xưa, khi vua Mahapatapa trị vì ở Benares, Bồ Tát đã được sinh ra làm con trai của vua. Mẹ của ngài là Hoàng hậu Canda, và họ đặt tên cho cậu bé là Dhammapala.

Khi đứa bé được bảy tháng tuổi, hoàng hậu tắm cho con bằng nước thơm, mặc quần áo đẹp đẽ và âu yếm chơi đùa với con.

Một ngày nọ, nhà vua đến thăm. Hoàng hậu mải mê chơi đùa với con mà quên đứng dậy chào con.

Nhà vua nổi giận. Ngài nghĩ: “Nàng không còn tôn trọng ta nữa vì đứa con này. Khi đứa bé lớn lên, nàng sẽ coi ta như không có gì. Ta sẽ giết chết nó ngay bây giờ.”

Vì vậy, nhà vua trở về ngai vàng và gọi đao phủ.

Đao phủ, mặc áo choàng vàng và đội vòng hoa đỏ, đến trước mặt nhà vua với rìu, khúc gỗ và bát, và hỏi: “Thưa bệ hạ, ngài có lệnh gì?”

Nhà vua nói: “Hãy đến phòng của hoàng hậu và mang cậu bé Dhammapala đến cho ta.”

Hoàng hậu, biết tính khí của nhà vua, lo sợ điều tồi tệ nhất sẽ xảy ra. Bà ôm chặt đứa bé và bắt đầu khóc.

Đao phủ đến, đánh vào lưng bà và giật đứa bé khỏi tay bà. Ông bế đứa bé đến trước mặt nhà vua và nói: "Đây là đứa bé. Thần phải làm gì đây?"

Nhà vua ra lệnh mang một tấm ván và nói: "Đặt nó lên đó."

Hoàng hậu Canda vừa chạy theo vừa khóc.

Nhà vua ra lệnh: "Chặt tay đứa bé."

Hoàng hậu kêu lên: "Thưa bệ hạ, con tôi vô tội! Nếu có lỗi gì, thì đó là lỗi của tôi. Hãy trừng phạt tôi, chứ không phải nó."

Nhưng nhà vua ra hiệu. Đao phủ lấy một chiếc rìu sắc bén và chặt đứt tay đứa bé.

Hoàng tử bé không khóc cũng không kêu ca. Cậu vẫn bình tĩnh và kiên nhẫn, tràn đầy lòng trắc ẩn, ngay cả khi đau đớn.

Hoàng hậu nhấc hai bàn tay nhỏ xíu lên, đặt lên đùi và khóc nức nở.

Nhà vua ra lệnh: "Chặt chân nó."

Hoàng hậu lại cầu xin hắn dừng lại và trừng phạt bà thay. Nhưng nhà vua chỉ gật đầu, và đao phủ chặt đứt chân đứa bé.

Hoàng hậu ôm chân con vào lòng và nói: "Thưa bệ hạ, tay chân nó đã mất rồi. Xin bệ hạ hãy giao nó cho thần. Thần sẽ làm việc để kiếm tiền và chăm sóc nó."

Nhưng nhà vua nói: "Chưa được."

Đao phủ hỏi: "Vậy bệ hạ muốn gì?"

Nhà vua đáp: "Chặt đầu nó."

Hoàng hậu lại xin dâng mạng sống của mình thay cho con, nhưng nhà vua không nghe. Đao phủ chém đứt đầu đứa trẻ.

Sau đó, nhà vua ra lệnh: "Hãy dùng kiếm chém quanh thi thể, như thể đang làm một vòng hoa."

Đao phủ ném thi thể lên không trung và chém thành nhiều mảnh, rải rác trên mặt đất.

Hoàng hậu ôm thi thể con trai vào lòng và khóc trong đau khổ tột cùng.

Trong lúc than khóc, trái tim bà tan nát vì đau buồn, và bà chết ngay tại chỗ.

Ngay lúc đó, nhà vua ngã xuống khỏi ngai vàng. Mặt đất nứt ra dưới chân ông, và ngọn lửa bốc lên từ địa ngục A Tỳ. Ngọn lửa quấn quanh ngài như một tấm vải và kéo ngài xuống địa ngục thấp nhất.

Các quan đại thần của nhà vua sau đó đã cử hành tang lễ cho Hoàng hậu Canda và hoàng tử Dhammapala.

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nói với các vị tỳ kheo: “Lúc bấy giờ, Đề Bà Đạt Đa là vua Mahapatapa hung ác, Mahapajapati Gotami là hoàng hậu Canda, và chính ta là hoàng tử Dhammapala.”

.... o ....

J358. Culladhammapala Jātaka -- Story of Devadatta and Prince Dhammapala: A mother offered her own life to save her child.

Summary: Devadatta attempts to have the Buddha killed. The Buddha then recounts a story from a previous life about a prince, beloved by his mother, who was cruelly tortured and executed by a jealous king. The king later descended into hell.

.

While the Buddha was staying at the Bamboo Grove, the monks gathered in the Hall of Truth and began talking about Devadatta.

They said, “Devadatta is always trying to harm the Buddha. He has hired men to shoot arrows at him, thrown a rock down upon him, and even sent the wild elephant Nalagiri to kill him.”

When the Buddha came and asked what they were discussing, they told him. The Buddha said, “Devadatta has always tried to kill me — not just now, but even in past lives. In many of those lives he hurt me again and again, yet he never frightened me. But in one life, when I was a baby only seven months old, he succeeded in killing me. That was when I was Prince Dhammapala.”

Then the Buddha told the story of that past life.

Long ago, when King Mahapatapa ruled in Benares, the Bodhisatta was born as his son. His mother was Queen Canda, and they named the boy Dhammapala.

When the baby was seven months old, the queen bathed him in fragrant water, dressed him beautifully, and played with him lovingly.

One day, the king came to visit. The queen, lost in joy while playing with her baby, forgot to stand up and greet him.

The king became angry. He thought, “She no longer respects me because of this child. When the boy grows up, she will treat me as nothing. I will have him killed now.”

So the king returned to his throne and called for his executioner.

The executioner, dressed in yellow robes and wearing a red wreath, came before the king with his axe, block, and bowl, and asked, “What is your command, my lord?”

The king said, “Go to the queen’s room and bring me the boy Dhammapala.”

The queen, knowing the king’s temper, feared the worst. She held her baby close and began to cry.

The executioner came, struck her on the back, and tore the child from her arms. He carried the baby to the king and said, “Here is the child. What shall I do?”

The king ordered a board to be brought and said, “Lay him on it.”

Queen Canda ran after them, weeping.

Then the king said, “Cut off the child’s hands.”

The queen cried, “My lord, my child is innocent! If there is any fault, it is mine. Punish me, not him.”

But the king gave the signal. The executioner took a sharp axe and cut off the baby’s hands.

The little prince did not cry or complain. He stayed calm and patient, filled with compassion, even in pain.

The queen picked up the tiny hands, placed them in her lap, and wept bitterly.

The king then ordered, “Cut off his feet.”

Again the queen begged him to stop and punish her instead. But the king only nodded, and the executioner cut off the baby’s feet.

The queen gathered his feet in her lap and said, “My lord, his hands and feet are gone. Please give him to me. I will work for wages and care for him.”

But the king said, “Not yet.”

The executioner asked, “Then what is your will, my lord?”

The king replied, “Cut off his head.”

Again the queen offered her own life in place of her child’s, but the king refused to listen. The executioner struck off the boy’s head.

Then the king ordered, “Now circle the body with sword cuts, as if making a garland.”

The executioner tossed the body into the air and slashed it into pieces, scattering them on the ground.

The queen gathered her son’s remains in her lap and cried in deep sorrow.

As she mourned, her heart broke from grief, and she died on the spot.

At that same moment, the king fell from his throne. The ground split open beneath him, and flames rose from the Avici hell. The fire wrapped around him like a cloth and dragged him down into the lowest hell.

The king’s ministers later performed the funeral rites for Queen Canda and for the baby Dhammapala.

When the Buddha finished telling the story, he said to the monks: “At that time, Devadatta was the cruel King Mahapatapa, Mahapajapati Gotami was Queen Canda, and I myself was the baby Prince Dhammapala.”

.... o ....

J359. Suvannamiga Jātaka -- Hôn nhân giữa những người có tín ngưỡng khác nhau.

Tóm tắt: Một thiếu nữ sùng kính Tam Bảo đã thành công trong việc chuyển hóa gia đình mới của mình theo giáo lý của Đức Phật và sau đó, cùng với chồng, từ bỏ cuộc sống thế tục để trở thành một tu sĩ. Đức Phật kể lại câu chuyện về một con nai cái đã cứu chủ mình khi ông bị một thợ săn gài bẫy.

.

Đức Phật từng kể câu chuyện này khi Ngài đang ở tại Tu viện Kỳ Viên. Câu chuyện kể về một thiếu nữ ở thành Savatthi. Cô là con gái của một người hầu trong gia đình của hai vị đại đệ tử của Đức Phật. Cô gái có niềm tin sâu sắc vào Đức Phật, Giáo lý của Ngài và Tăng đoàn. Cô đã làm nhiều việc thiện, bố thí rộng rãi và sống một cuộc đời đức hạnh.

Một ngày nọ, một gia đình theo tà giáo đã ngỏ lời cầu hôn cô. Cha mẹ cô nói: “Con gái chúng tôi là một tín đồ trung thành của Đức Phật, chuyên tâm bố thí và giữ gìn giới luật. Quý vị không cùng tín ngưỡng với con bé. Nếu quý vị định ngăn cản con bé làm việc thiện hay nghe Pháp, chúng tôi không thể gả con bé cho con trai quý vị. Xin hãy chọn một người cùng tín ngưỡng với quý vị.”

Tuy nhiên, gia đình kia lại nói: “Cứ để con bé làm mọi điều tốt đẹp mà con bé muốn. Chúng tôi sẽ không ngăn cản. Xin hãy cho phép cuộc hôn nhân này.” Cha mẹ đồng ý, và đám cưới được tổ chức vào một thời điểm tốt lành. Cô gái trẻ về sống tại nhà chồng. Cô là một người vợ yêu thương chồng và hết lòng kính trọng, hết lòng phục vụ chồng và cha mẹ chồng.

Một ngày nọ, người vợ bày tỏ với chồng mong muốn được cung cấp thức ăn cho các vị sư gia đình, và người chồng đã đồng ý. Cô kính cẩn mời các vị sư, chuẩn bị một bữa ăn thịnh soạn và cung thỉnh họ nên đến thăm thường xuyên, vì gia đình cô chưa hiểu hết ý nghĩa của Đức Phật, Pháp và Tăng. Các vị sư chấp nhận lời mời và bắt đầu đến thăm hàng ngày. Cuối cùng, người vợ khuyến khích chồng mình gặp các vị sư, dẫn dắt ông đến chào hỏi và trò chuyện sau mỗi bữa ăn.

Một vị sư sau đó đã dạy người chồng Phật Pháp. Người chồng vô cùng xúc động trước lời nói và hành vi của họ. Từ hôm đó trở đi, anh chuẩn bị chiếu và nước sạch cho họ và chăm chú lắng nghe lời dạy của họ.

Chẳng bao lâu, những tà kiến ​​của người chồng biến mất. Sau đó, vị sư giải thích Tứ Diệu Đế cho hai vợ chồng, và cả hai đều đạt đến quả vị giác ngộ đầu tiên, sơ quả Nhập Lưu. Sau đó, cả gia đình người chồng - bao gồm cả cha mẹ và người hầu - đã từ bỏ tà kiến ​​và trở thành tín đồ của Đức Phật.

Một thời gian sau, người phụ nữ trẻ thưa với chồng: “Thưa chàng, em muốn xuất gia làm ni cô.”

Người chồng đáp: “Vâng, anh cũng sẽ xuất gia.”

Người chồng rất trang trọng đưa cô đến cộng đồng ni cô và cho cô được xuất gia làm sa di. Sau đó, chính người chồng đến gặp Đức Phật, xuất gia làm tỳ kheo, và sau đó là một vị tỳ kheo thọ Cụ túc giới. Cả hai đều tinh tấn tu tập, đạt được trí tuệ sáng suốt và đắc quả thánh A la hán.

Sau đó, các vị tỳ kheo bàn luận trong Chánh Pháp Đường: “Có một người phụ nữ nọ, nhờ đức tin của mình, đã dẫn dắt chồng mình xuất gia, và cả hai đều đạt được giác ngộ.”

Nghe vậy, Đức Phật nói: “Này các tỳ kheo, đây không phải lần đầu tiên cô ấy giải thoát chồng khỏi những ràng buộc của đời sống thế gian. Trong quá khứ, cô ấy cũng đã cứu cả những bậc hiền trí khỏi cái chết.”

Rồi Đức Phật kể câu chuyện quá khứ này.

Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ-tát đã giáng sinh làm một chú nai con. Chú nai lớn lên khỏe mạnh và xinh đẹp, lông vàng óng, sừng óng ánh và đôi mắt sáng ngời. Bạn đời của chú cũng rất duyên dáng và tình cảm. Họ cùng nhau chăn dắt một đàn nai tám mươi ngàn con và sống hạnh phúc trong rừng.

Một ngày nọ, một người thợ săn đặt bẫy dọc theo con đường mà đàn nai thường đi qua. Bồ Tát bước vào bẫy, và chân chú bị mắc kẹt. Chú kéo mạnh để thoát ra, nhưng sợi dây chỉ cứa sâu hơn vào da, vào thịt, và cuối cùng là vào tận xương. Không thể thoát ra, chú kêu lên sợ hãi.

Bầy nai hoảng loạn bỏ chạy, nhưng bạn đời của chú nhận ra chủ nhân của mình đã mất tích. Cô quay lại, thấy chú bị mắc bẫy, liền chạy đến bên chú và khóc.

"Thưa chủ nhân," cô nói, "ngài rất mạnh mẽ - hãy thử lại lần nữa để thoát ra xem!"

Chú nai nói, "Tôi đã cố gắng hết sức, nhưng tôi càng vùng vẫy, bẫy càng siết chặt hơn."

Chú nai nói, "Đừng sợ. Tôi sẽ đích thân đi nói chuyện với người thợ săn. Tôi sẽ hy sinh mạng sống của mình để cứu ngài."

Chẳng bao lâu sau, người thợ săn đến, tay cầm kiếm và giáo. Con nai cái cúi chào từ xa và nói: "Thưa ngài, chồng tôi là nai vàng, chúa tể của đàn này. Xin hãy lấy mạng tôi thay cho anh ấy."

Người thợ săn kinh ngạc. "Ngay cả con người cũng hiếm khi hy sinh mạng sống của mình vì người khác," anh ta nghĩ. "Vậy mà con vật này lại nói năng tử tế và sẵn sàng chết vì bạn tình của mình."

Cảm động trước lời nói của con nai, anh ta nói: "Đừng sợ. Ta sẽ tha cho cả hai ngươi."

Con nai cái vui mừng cảm ơn anh ta: "Hôm nay tôi rất vui khi thấy chồng tôi an toàn, cầu mong ngài và gia đình cũng được hạnh phúc."

Bồ Tát nói với người thợ săn: "Ngài đã ban sự sống cho tôi, cho bạn tình của tôi, và cho cả đàn của chúng tôi. Để đáp lại, tôi tặng ngài viên ngọc kỳ diệu mà tôi đã tìm thấy. Hãy dùng nó để sống một cuộc đời tốt đẹp - kết hôn, chăm sóc gia đình, bố thí cho người nghèo và không làm hại bất kỳ sinh vật nào."

Rồi nai vàng và bạn tình biến mất vào rừng.

Đức Phật kể xong câu chuyện và nói: “Lúc bấy giờ, người thợ săn là Channa. Con nai cái chính là người phụ nữ sau này trở thành ni cô. Còn ta chính là con nai vàng.”

.... o ....

J359. Suvannamiga Jātaka -- Marriage between individuals of different faiths.

Summary: One devoted young woman successfully converts her new family to the Buddha’s teachings and later, together with her husband, renounces worldly life to become a monastic. The Buddha recounts a story about how a doe saved her lord when he was trapped by a hunter.

.

The Buddha once told this story while he was staying at Jetavana Monastery. It was about a young woman in the city of Savatthi. She was the daughter of a servant in the household of the two chief disciples of the Buddha. The girl had deep faith in the Buddha, his Teaching, and the Order of Monks. She did many good deeds, gave generously, and lived a virtuous life.

One day, a family of a different, heretical belief asked for her hand in marriage. Her parents said, “Our daughter is a faithful follower of the Buddha, devoted to giving alms and upholding the moral precepts. You do not share her beliefs. If you intend to prevent her from performing good deeds or hearing the Dhamma, we cannot give her to you. Please choose someone who shares your own beliefs.”

However, the other family said, “Let her do all the good things she wishes. We will not stop her. Please allow this marriage.” The parents agreed, and the wedding was held at an auspicious time. The young woman went to live in her husband’s house. She was a loving wife and served her husband and his parents with respect.

One day, the woman expressed to her husband her desire to provide food for the family priests, to which he consented. She respectfully invited the priests, prepared a fine meal, and urged them to visit regularly, as her family did not fully comprehend the significance of the Buddha, the Law, and the Order. The priests accepted her invitation and began to come daily. Eventually, the woman encouraged her husband to meet the priests, leading him to greet them and engage in conversation after one of their meals.

One of the elders then taught him the Dhamma. The husband was deeply impressed by their words and behavior. From that day on, he prepared mats and clean water for them and listened carefully to their teaching.

Soon his wrong beliefs disappeared. The elder later explained the Four Noble Truths to the couple, and both reached the first stage of enlightenment. Later, the husband’s whole family—including his parents and servants—abandoned their false beliefs and became followers of the Buddha.

After some time, the young woman said to her husband, “My lord, I wish to leave home and become a nun.”

Her husband replied, “Very well. I too will become a monk.”

He took her to the nuns’ community with great honor and had her ordained as a novice. Then he himself went to the Buddha, became a monk, and later a fully ordained priest. Both practiced diligently, gained clear understanding, and attained sainthood.

Later, the monks discussed in the Hall of Truth: “A certain woman, through her own faith, led her husband to become a monk, and both of them attained enlightenment.”

When the Buddha heard this, he said, “Monks, this is not the first time she has freed her husband from the bonds of worldly life. In the past too, she saved even wise beings from death.”

Then the Buddha told this story of the past.

Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born as a young deer. He grew up strong and beautiful, golden in color, with shining horns and bright eyes. His mate was also graceful and loving. Together they led a herd of eighty thousand deer and lived happily in the forest.

One day a hunter set a snare along the paths the deer used. The Bodhisatta stepped into the trap, and his foot was caught. He pulled hard to get free, but the rope only cut deeper into his skin, then into the flesh, and finally down to the bone. Unable to escape, he cried out loudly in fear.

The herd ran away in panic, but his mate noticed that her lord was missing. She turned back, saw him trapped, and ran to him, weeping.

“My lord,” she said, “you are strong—try again to break free!”

He said, “I have tried with all my strength, but the more I struggle, the tighter the snare becomes.”

The doe said, “Do not be afraid. I will go and speak to the hunter myself. I will offer my own life to save yours.”

Soon the hunter came, holding a sword and spear. The doe bowed to him from a distance and said, “Good sir, my husband is the golden deer, king of this herd. Please take my life instead and let him go.”

The hunter was amazed. “Even humans rarely give their lives for another,” he thought. “Yet this animal speaks kindly and is willing to die for her mate.”

Touched by her words, he said, “Do not be afraid. I will spare you both.”

The doe thanked him with joy, saying, “As I am happy to see my husband safe today, may you and your family also be happy.”

The Bodhisatta then said to the hunter, “You have given life to me, to my mate, and to all our herd. In return, I give you this magic jewel I once found. Use it to live a good life—marry, care for your family, give to the poor, and harm no living being.”

Then the golden deer and his mate disappeared into the forest.

The Buddha finished the story and said, “At that time, the hunter was Channa. The doe was the same woman who later became the nun. And I myself was the golden deer.”

.... o ....

J360. Sussondi Jātaka -- Rất khó để tự bảo vệ mình khỏi ham muốn phụ nữ.

Tóm tắt: Một vị sư đang đứng trước nguy cơ từ bỏ cuộc sống tu hành vì say đắm. Đức Phật kể câu chuyện về một con chim thần Garuḷa đã mang một hoàng hậu về cõi trời của Garuda. Khi nhà vua sai sứ giả đi tìm nàng, nàng lại dan díu với sứ giả. Cảm thấy ghê tởm, chim ưng thần Garuḷa đã trả nàng về cho nhà vua.

.

Khi Đức Phật còn tại Tu viện Kỳ Viên, có một số vị tăng kể về một vị tăng bắt đầu hối hận vì đã xuất gia. Đức Phật hỏi: "Có thật là ông nhớ đời thường không? Điều gì khiến ông cảm thấy như vậy?"

Vị tăng trả lời: "Đó là vì nhan sắc của một phụ nữ."

Đức Phật nói: "Này anh, thật khó để giữ mình khỏi ham muốn phụ nữ. Ngay cả những bậc hiền triết thời xưa, dù sống ở cõi cao hơn thế gian giữa loài chim Garuda, cũng không thể tự giữ mình khỏi ham muốn đó."

Sau đó, Đức Phật kể câu chuyện về quá khứ này.

Ngày xưa, khi vua Tamba trị vì Benares, hoàng hậu Sussondi của ngài rất xinh đẹp.

Lúc bấy giờ, Bồ Tát được sinh ra là một Garuda (một loài chim mạnh mẽ, giống như chim). Ngài sống trên đảo Seruma, nơi cư trú của Garuda. Một ngày nọ, ngài đến Benares cải trang thành một chàng trai trẻ và chơi xúc xắc với vua Tamba.

Những người nhìn thấy chàng nói với hoàng hậu: "Có một chàng trai trẻ đẹp trai đang chơi xúc xắc với nhà vua."

Hoàng hậu tò mò và muốn gặp chàng. Nàng ăn mặc chỉnh tề và đi đến phòng chơi xúc xắc. Khi nhìn thấy chàng trai, nàng không thể ngừng nhìn chàng. Chàng cũng nhìn nàng, và họ yêu nhau.

Sử dụng sức mạnh ma thuật của mình, Garuda gây ra một cơn bão lớn trong thành phố. Mọi người chạy ra khỏi cung điện trong sợ hãi. Sau đó, chàng làm cho nơi này tối sầm lại, nhấc bổng hoàng hậu lên không trung và mang nàng về nhà mình trên đảo Seruma. Không ai biết hoàng hậu đã đi đâu.

Garuda sống hạnh phúc bên nàng nhưng vẫn đến Benares để chơi xúc xắc với nhà vua.

Nhà vua đau buồn trước sự ra đi của hoàng hậu. Ngài có một nhạc công cung đình tên là Sagga, và ông dặn dò: "Hãy đi khắp nơi - cả trên bộ lẫn dưới biển - và tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra với hoàng hậu."

Sagga lấy những gì cần thiết cho chuyến đi và bắt đầu tìm kiếm. Cuối cùng, chàng đến thành phố cảng Bharukaccha. Tại đây, chàng gặp một số thương gia đang chuẩn bị lên đường đến Vùng đất Vàng. Sagga nói với họ: "Tôi là một nhạc sĩ. Nếu các ông cho tôi đi cùng miễn phí, tôi sẽ chơi nhạc cho các ông trên tàu." Họ đồng ý và lên đường.

Ra khơi, các thương gia yêu cầu chàng chơi nhạc. Sagga nói: "Nếu tôi chơi, cá dưới biển sẽ phấn khích, và tàu của ông có thể bị sóng làm cho chìm đắm."

Các thương gia cười và nói: "Làm sao âm nhạc của một người đàn ông có thể làm phiền cá được? Hãy chơi cho chúng tôi nghe!"

Sagga cảnh báo họ đừng tức giận, rồi bắt đầu chơi đàn luýt thật hay. Nhưng đúng như chàng đã nói, đàn cá nổi điên, bắn tung tóe khắp nơi. Một con quái vật biển khổng lồ nhảy lên và đập vỡ con tàu làm đôi.

Sagga bám vào một tấm ván và trôi theo gió cho đến khi đến bờ đảo Seruma, gần một cây đa cổ thụ - nơi ở của Garuda.

Hoàng hậu Sussondi, người sống ở đó với Garuda, thường xuống bờ biển khi Garuda đi chơi xúc xắc. Một ngày nọ, nàng nhìn thấy Sagga nằm đó và nhận ra chàng nhạc sĩ. Nàng hỏi chàng đến đảo bằng cách nào, và chàng kể lại toàn bộ câu chuyện.

Nàng an ủi chàng nhạc sĩ và nói: "Đừng sợ." Nàng bế chàng về nhà, đặt chàng lên giường, cho chàng ăn uống trên thiên đường, mặc cho chàng những bộ quần áo đẹp đẽ và chăm sóc chàng hết mực. Khi vua loài chim thần Garuda về nhà, nàng giấu Sagga; khi Garuda đi vắng, nàng dành thời gian cho người yêu mới.

Khoảng sáu tuần sau, một số thương nhân từ Benares đã cập bến đảo để lấy nước và củi. Sagga bí mật gia nhập cùng họ và trở về Benares.

Khi thấy nhà vua lại chơi xúc xắc, Sagga lấy đàn luýt ra và hát một bài hát bày tỏ tình yêu của mình dành cho Hoàng hậu Sussondi và nỗi nhớ nàng.

Chim Garuda, nghe bài hát này, hiểu ra chuyện gì đã xảy ra và hỏi Sagga đã vượt biển đến đảo Seruma bằng cách nào. Sagga kể lại toàn bộ câu chuyện - con tàu bị đắm như thế nào, hoàng hậu đã cứu chàng ra sao, và nàng đã chăm sóc chàng nhạc sĩ như người tình của mình ra sao.

Chim Garuda cảm thấy vô cùng xấu hổ và đau buồn. "Mặc dù ta sống trong cõi an toàn của chim Garuda," chàng nghĩ, "nhưng ta không thể bảo vệ nàng. Ta cần gì ở một người phụ nữ như vậy?"

Vì vậy, Chim Garuda đưa hoàng hậu về gặp vua Tamba, trao nàng cho nhà vua, rồi trở về hòn đảo của mình. Chàng không bao giờ trở lại nữa.

Khi Đức Phật kể xong câu chuyện này, Ngài giải thích ý nghĩa: "Vào thời đó, vua xứ Benares là Ananda, và chính ta là vua chim Garuda."

Sau đó, Ngài dạy cho nhà sư Tứ Diệu Đế. Khi bài giảng kết thúc, nhà sư đạt đến tầng giác ngộ đầu tiên, sơ quả Nhập Lưu.

.... o ....

J360. Sussondi Jātaka -- It is very difficult to guard oneself against desire for women.

Summary: One monk is in danger of falling away from the monastic life due to lust. The Buddha tells a story about how a Garuḷa carried off a queen to his heavenly home. When the king sent a messenger to find her, she was unfaithful with him. Disgusted, the Garuḷa returned her to the king.

.

While the Buddha was living at Jetavana Monastery, some monks spoke about a monk who had begun to regret becoming a monk. The Buddha asked him, “Is it true that you miss worldly life? What made you feel this way?”

The monk replied, “It is because of the beauty of a woman.”

The Buddha said, “Brother, it is very difficult to guard oneself against desire for women. Even wise beings in the past, though they lived high above the world among the Garudas, could not guard themselves against it.”

Then the Buddha told this story of the past.

Long ago, when King Tamba ruled in Benares, his queen, Sussondi, was very beautiful.

At that time, the Bodhisatta was born as a young Garuda (a powerful, bird-like being). He lived on Seruma Island, home of the Garudas. One day, he went to Benares disguised as a young man and played dice with King Tamba.

The people who saw him said to the queen, “There is a handsome young man playing dice with the king.”

The queen became curious and wanted to see him. She dressed herself carefully and went to the dice hall. When she saw the young man, she could not stop looking at him. He looked at her too, and they fell in love.

Using his magical powers, the Garuda caused a great storm in the city. Everyone ran out of the palace in fear. Then he made the place dark, lifted the queen into the air, and carried her away to his home on Seruma Island. No one knew where the queen had gone.

The Garuda lived happily with her but still visited Benares to play dice with the king.

The king was heartbroken over the loss of his queen. He had a court minstrel named Sagga, and he told him, “Go everywhere—over land and sea—and find out what has happened to the queen.”

Sagga took what he needed for the journey and began to search. At last, he came to the port city of Bharukaccha. There he met some merchants who were preparing to sail to the Golden Land. Sagga said to them, “I am a minstrel. If you let me join you for free, I will make music for you on the ship.” They agreed and set sail.

Once at sea, the merchants asked him to play music. Sagga said, “If I play, the fish in the ocean will be excited, and your ship might be wrecked.”

The merchants laughed and said, “How can a man’s music disturb the fish? Play for us!”

Sagga warned them not to be angry, then began to play his lute beautifully. But just as he had said, the fish went wild, splashing everywhere. A huge sea monster leaped up and smashed the ship in two.

Sagga managed to cling to a plank and floated with the wind until he reached the shore of Seruma Island, near a great banyan tree—the home of the Garuda.

Queen Sussondi, who lived there with the Garuda, often came down to the shore when the Garuda went away to play dice. One day, she saw Sagga lying there and recognized him. She asked how he had come to the island, and he told her the whole story.

She comforted him and said, “Do not be afraid.” She carried him to her home, laid him on a couch, gave him heavenly food and water, dressed him in fine garments, and cared for him lovingly. When the Garuda king was home, she hid Sagga; when the Garuda went away, she spent time with her lover.

After about six weeks, some merchants from Benares landed at the island to get water and firewood. Sagga secretly joined them and returned to Benares.

When he saw the king playing dice again, Sagga took out his lute and sang a song expressing his love for Queen Sussondi and how much he missed her.

The Garuda, hearing this song, realized what had happened and asked how Sagga had crossed the sea and reached Seruma Island. Sagga told him the full story—how the ship had wrecked, how the queen had saved him, and how she had cared for him as her lover.

The Garuda felt great shame and sorrow. “Even though I lived in the secure realm of the Garudas,” he thought, “I could not guard her. What do I want with such a woman?”

So he took the queen back to King Tamba, gave her to the king, and returned to his own island. He never came again.

When the Buddha finished telling this story, he explained the meaning: “At that time, the king of Benares was Ananda, and I myself was the Garuda king.”

Then he taught the monk the Four Noble Truths. When the teaching was finished, the monk reached the first stage of enlightenment.

.... o ....

.

Bình luận