Pháp Vắn Tắt, Tu Cuối Đời
Có một số kinh Phật, kể rằng có một số vị trưởng lão trình với Đức Phật rằng, “Kính bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con, sau khi Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.” Có khoảng vài mươi Kinh Phật, có lẽ khoảng 20 tới 30 Kinh như thế. Điều chúng ta suy nghĩ rằng, có vẻ như có một số pháp vắn tắt giành cho những người muốn lui hẳn vào núi trong những ngày cuối đời vì sẽ không còn cơ hội để nghe pháp trực tiếp từ Đức Phật nữa.
Nói “pháp vắn tắt” là theo cách dịch của Thầy Minh Châu, trong các bản dịch tiếng Anh của các ngài Bhikkhu Bodhi, Bhikkhu Sujato, Thanissaro Bhikkhu, cách gọi đó là “Dhamma in brief,” nghĩa là, pháp ngắn gọn, không dài dòng, pháp cho những người sẽ lui hẳn vào góc rừng, ven núi và không còn có thể thưa hỏi gì nữa. Tức là, pháp tu để giải thoát cho người không còn thì giờ nữa trong đời, hễ cửa thất đã khép lại là không còn muốn mở ra để bước lại vào đời.
Khi chúng ta đọc Kinh Phật, đối chiếu các kinh trong tiếng Anh và tiếng Việt, chúng ta thấy rằng hiện nay phổ biến nhất, quảng bá rộng nhất là pháp Tứ Niệm Xứ, tức là bốn pháp quán niệm – niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp. Cũng có những kinh dạy thuần về niệm thân. Cũng có những kinh dạy thuần về niệm hơi thở (một phần của niệm thân). Cũng có những kinh dạy niệm bất tịnh, niệm giới, niệm thí, niệm sự chết... Chỉ học một pháp thôi, cũng đủ để giải thoát, cũng đủ hạnh phúc, an lạc, và an tâm rằng mình sẽ ngày càng đi đúng hướng. Tuy nhiên, có một số trưởng lão rất thân cận với Đức Phật, tới một lúc lại nói rằng xin Đức Phật dạy pháp vắn tắt để sẽ lui vào góc rừng, ven núi mà ngồi tới khi giải thoát. Như thế, bên cạnh Tứ Niệm Xứ vẫn còn những pháp hành thiền khác.
Trước tiên, nên ghi nhận rằng có hai nhóm kinh được Đức Phật chọn làm Kinh Nhật Tụng thời Đức Phật sinh tiền là hai nhóm kinh, gồm phẩm "Octet Chapter" (Phẩm Tám) và phẩm Pārāyanavagga (Phẩm Qua Bờ Bên Kia) trong Kinh Tập (Sutta Nipāta) của Tạng Pali có uy lực làm 32 vị trí thức dị giáo tức khắc trở thành A La Hán. Hai nhóm kinh này không nói gì về chuyện phải ngồi thiền, không bàn chuyện phải thở làm sao, nhưng, truyện kể y hệt như một số vị trong Thiền sử Trung Hoa và Việt Nam: nghe xong là giải thoát, tâm liền xa lìa lậu hoặc. (1)
Thí dụ như Kinh Sn 4.9 (Magandiya Sutta), Đức Phật nói rằng ngài không hề thuyết pháp nào cho người đời nắm giữ, dù là giáo thuyết, giới luật, nghi lễ mà ngài chỉ yêu cầu đừng nắm giữ gì cả (vô sở trụ). Hay là Kinh Sn 5.15 Mogharaja-manava-puccha, Đức Phật nói rằng hãy luôn luôn tỉnh thức và nhìn thế giới như rỗng rang, với cái nhìn về tự ngã đã bứng gốc. Hay là Kinh Sn 5.14 Posala-manava-puccha, Đức Phật dạy rằng hãy thấy cả trong và ngoài đều là “rỗng rang, không có gì” thì sẽ giải thoát. Tất cả hai phẩm này đều là kinh sơ kỳ, nghĩa là Đức Phật thuyết trước đa số các kinh khác, và là cội gốc cho hệ thống Bát Nhã của Bắc Tông đời sau dựa vào để giải thích.
- hầu hết các căn cơ và trường hợp, pháp thở là tiện dụng nhất. Trên chặng đường Giới-Định-Huệ, pháp thở có thể dùng như diệu dụng trị bá bệnh. Khi bạn thực sự chú tâm thở, bất thiện không khởi lên được, và bất kỳ niệm lang thang nào hiện tới cũng sẽ tan rã như mây trên bầu trời; đó là Giới. Khi bạn chú tâm thở, sẽ tới một lúc tâm ly dục và cảm thọ hỷ lạc, đó là bắt đầu lối vào sơ thiền; đó là Định. Khi bạn chú tâm thở, thấy rõ các pháp ấn vô thường, vô ngã nơi thân ngũ uẩn, với thời gian lậu hoặc sẽ biến mất; đó là lối vào của Tuệ giải thoát.
Có một số trường hợp, các vị trưởng lão thân cận Đức Phật hỏi xin pháp vắn tắt để sẽ lui vào góc rừng vĩnh viễn. Nghĩa là, có vẻ như những pháp ít được Đức Phật nói tới. Khi đọc kỹ các kinh về pháp vắn tắt, chúng ta nhận ra hầu hết nghe y hệt như Thiền Đạt Ma, còn gọi là Thiền Tổ Sư.
Trong đó có Kinh AN 8.53, ghi lời nữ trưởng lão Mahāpajāpatī Gotamī, Thượng thủ của Ni đoàn. Mahāpajāpatī Gotamī là dì ruột, mẹ nuôi và mẹ kế của Đức Phật, là phụ nữ đầu tiên được thụ phong làm ni sư Phật giáo (bhikkhuṇī) và là người thành lập ni đoàn sau khi ngài và các phụ nữ khác tìm đến Đức Phật để xin xuất gia, với sự giúp đỡ của thị giả Ananda. Trong cương vị di mẫu, Mahāpajāpatī Gotamī đã nuôi dưỡng Đức Phật như con ruột của mình sau khi chị gái bà, Hoàng hậu Māyā (mẹ ruột của Đức Phật), qua đời không lâu sau khi Đức Phật chào đời.
Nữ trưởng lão Mahāpajāpatī Gotamī thưa với Đức Phật, “Bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con, sau khi Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.”
Chúng ta có thể tin rằng với cương vị cựu Hoàng hậu, Mahāpajāpatī Gotamī là người học cao nhất trong các nữ tu. Với tình thân là Di mẫu, là Trưởng Ni Đoàn, hiển nhiên bà đã nghe rất nhiều kinh điển từ Đức Phật. Bây giờ, ngài xin Đức Phật dạy pháp vắn tắt.
Đức Phật nói, “...này Gotamì, những pháp nào bà biết: “Những pháp đưa đến ly tham, không đưa đến tham dục; đưa đến ly hệ phước, không đưa đến hệ phước; đưa đến không tích tập, không đưa đến tích tập; đưa đến ít dục, không đưa đến dục lớn; đưa đến biết đủ, không đưa đến không biết đủ; đưa đến nhàn tịnh, không đưa đến tụ hội; đưa đến tinh tấn, không đưa đến biếng nhác; đưa đến dễ nuôi dưỡng, không đưa đến khó nuôi dưỡng”. Này Gotamì, hãy thọ trì nhứt hướng rằng: “Ðó là Pháp, đó là Luật, đó là lời dạy của bậc Ðạo sư”.” (2)
Nghĩa là: tinh tấn, buông xả tham, buông xả dục, dễ nuôi dưỡng (tránh gánh nặng), sống nhàn tịnh, sống không tụ hội.
Đối với các chữ “nhàn tịnh, không đưa đến tụ hội” thì trong tiếng Anh dễ hiểu hơn. Đối chiếu bản Anh dịch của Sujato, chúng ta thấy chữ “seclusion, not crowding” và bản Thanissaro là “to seclusion, not to entanglement” – cùng có nghĩa là, hãy sống nơi vắng người, nơi cô tịch, nơi không đông người.
Chúng ta thắc mắc, nữ trưởng lão Gotamī là Trưởng ni đoàn, hẳn nhiên các chữ đó có nghĩa khác. Thêm nữa, nếu chỉ có nghĩa đơn sơ, thì đó là những gì nữ trưởng lão đã nghe từ lâu, không cần nghe như pháp vắn tắt. Có lẽ, chỗ này nên hiểu như các Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam thường lý giải, rằng nơi vắng người, nơi cô tịch chỉ có nghĩa là không thấy một hình ảnh nào, không thấy một ý niệm nào, không thấy một tâm nào, không thấy một thân ngũ uẩn nào hiện lên trong tâm. Quý ngài khi giảng Phẩm Phổ Môn trong Kinh Pháp Hoa thường nói rằng tâm từ bi là Đức Quan Thế Âm Bồ Tát đã hiện ra 33 hóa thân tùy thuận chúng sinh để ứng cứu. Trong các Kinh Bản Sanh, Vua Trời Sakka đã nhiều lần hiện ra đủ thứ thân chúng sinh khi cần thiết để cứu người, cũng y hệt như khái niệm về Ông Bụt, ông Tiên trong truyện cổ Việt Nam. Thấy như thế là đủ rồi, dù là đang ngồi giữa chợ.
Pháp vắn tắt đó có thể dùng ngôn ngữ mạnh hơn, kiểu chư Tổ ngày xưa, rằng “Phùng Phật sát Phật, phùng tổ sát tổ” (Gặp Phật thì giết Phật, gặp tổ thí giết tổ). Nghĩa là, trong tâm không thấy một hình ảnh, một ý niệm nào gọi là Phật hay tổ nữa.
Kinh SN 22.63 cũng là một Kinh về pháp vắn tắt. Bản dịch của Thầy Minh Châu về lời Đức Phật này về pháp vắn tắt là: “Ai chấp trước, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma.” (3)
Bản dịch của Bhikkhu Bodhi là: “Bhikkhu, in clinging one is bound by Mara; by not clinging one is freed from the Evil One.”
Bản dịch của Bhikkhu Sujato: “When you grasp, mendicant, you’re bound by Māra. Not grasping, you’re free from the Wicked One.”
Để dịch rõ nghĩa, nên là: Các tỳ kheo, khi có tâm trụ vào, tâm dính vào, tâm chấp trước, tâm nắm giữ thì liền rơi vào cửa quỷ, nhà ma. Khi không có tâm nào trụ vào, dính vào, chấp trước, nắm giữ thì là thoát khỏi lưới ma.
Nói theo Kinh Kim Cang là, ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm. Khi tâm không chỗ trụ, thì tâm Niết Bàn hiện ra.
Kinh SN 22.64 cũng là một kinh Đức Phật trả lời câu hỏi về pháp vắn tắt, khi một nhà sư nêu câu hỏi tương tự. Trong Kinh này, Đúc Phật nói rằng hãy vô niệm, hãy vô tâm.
Bản dịch của Thầy Minh Châu ghi lời Đức Phật, “Ai suy tưởng, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma.” (4)
Tương tự, hai bản Anh dịch của Bodhi và Sujato cũng ghi rằng khi suy tưởng (conceive: nghĩ ngợi, tư lường, diễn dịch) thì là rơi vào lưới ma.
Kinh dạy vô niệm dẫn trên tương đương với ba Kinh SN 12.38, SN 12.39, và SN 12.40 trong đó Đức Phật dạy chi tiết rằng, "Này các Tỷ-kheo, nếu chúng ta không có tư niệm, không có tư lường, không có thầm ý, thời không có sở duyên cho thức an trú. Khi nào sở duyên không có mặt thời thức không an trú. Do thức ấy không an trú và không tăng trưởng, nên trong tương lai tái hữu không sanh khởi. Do sanh khởi tái hữu không có mặt trong tương lai, nên sanh, già chết, sầu, bi, ưu, não được đoạn diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này." (5)
Trong khi đó, SN 35.95 cũng kể chuyện Tôn giả Màlukyaputta bạch Thế Tôn, “Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết pháp vắn tắt cho con. Sau khi nghe pháp của Thế Tôn, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.”
Nghĩa là, ngài muốn pháp vắn tắt, không muốn dài dòng. Bấy giờ, Đức Phật trả lời, “...này Màlukyaputta, đối với các pháp được thấy, được nghe, được cảm nhận, được biết đến, Ông sẽ chỉ thấy được với những vật thấy được, chỉ nghe được với những vật nghe được, chỉ cảm nhận được đối với những vật cảm nhận được, chỉ nhận biết được đối với những vật nhận biết được. Cho nên, này Màlukyaputta, Ông không có vì cái ấy. Do vì, này Màlukyaputta, Ông không có vì cái ấy, nên Ông không có: “Ở nơi đây”. Do vì, này Màlukyaputta, Ông không có: “Ở nơi đây”, do vậy, này Màlukyaputta, Ông sẽ không có đời này, đời sau, và giữa hai đời ấy. Ðây là sự chấm dứt khổ đau.” (6)
Kinh vừa dẫn là gần như y hệt Kinh Bahiya Sutta (Kinh Ud 1.10), khi nhà dị giáo Bahiya từ nhiều dặm xa tới tìm và hỏi Đức Phật về pháp giải thoát. Bahiya hỏi ba lần, Đức Phật (đang đi bộ khất thực) mới trả lời, rằng hãy để cái được thấy là cái được thấy, hãy để cái được nghe là cái được nghe, và vân vân, thì đó là pháp giải thoát. Một thời gian ngắn sau, khi Đức Phật quay lại thì biết rằng ngài Bahiya vừa bị một con bò húc chết. Đức Phật mới dạy chư tăng hãy hỏa thiêu cho ngài Bahiya theo nghi thức một vị A la hán. Nghĩa là giải thoát cấp kỳ. Nói theo ngôn phong Thiền Tông, đó là như thị, hãy để các pháp như thế là như thế, hãy để mặc kệ các pháp... (7)
Trong nhà Thiền Việt Nam, đó là bài thơ của ngài Phước Hậu để lại:
Kinh điển lưu truyền tám vạn tư.
Học hành không thiếu cũng không dư.
Năm nay nghĩ lại chừng quên hết.
Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ.
Bây giờ nói về Kinh Pháp Cú. Về chuyện chàng nghệ sĩ xiếc Uggasena trong Kinh Pháp Cú bài Kệ 348, bản chú giải ghi rằng khi chàng Uggasena đang đứng trên chiếc sào làm trò giữa chợ, thì Đức Phật đến. Sau khi Đức Phật nói bài kệ: “Hãy buông bỏ quá khứ, hãy buông bỏ tương lai, hãy buông bỏ hiện tại...” thì chàng Uggasena, người vẫn còn trên đỉnh cây sào, đã chứng đắc quả A-la-hán. Có thể giải thích rằng, chàng nghệ sĩ Uggasena lúc đó thấy ngay cái vắng lặng, cái cô tịch, khi không thấy thân ngũ uẩn nào (dù của mình hay người) trong quá khứ, trong tương lai, và trong cả hiện tại).
Thấy cái cô tịch, thấy cái vắng lặng đó, tức là giải thoát, bất kể chàng nghệ sĩ đang đứng trên cây sào làm xiếc giữa chợ. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, đó chính là thấy Sắc chính là Không, và thấy Không chính là Sắc. Thấy Sắc không khác Không, và thấy Không không khác sắc. Đó chính là pháp vắn tắt mà chúng ta tụng hàng ngày.
GHI CHÚ:
(1) Kinh Nhật Tụng Sơ Thời: https://thuvienhoasen.org/p15a30592/ve-kinh-nhat-tung-so-thoi
(2) Kinh AN 8.53: https://suttacentral.net/an8.53/vi/minh_chau
(3) Kinh SN 22.63: https://suttacentral.net/sn22.63/vi/minh_chau
(4) Kinh SN 22.64: https://suttacentral.net/sn22.64/vi/minh_chau
(5) Kinh SN 12.38: https://suttacentral.net/sn12.38/vi/minh_chau
(6) Kinh SN 35.95: https://suttacentral.net/sn35.95/vi/minh_chau
(7) Bài Pháp Khẩn Cấp: https://thuvienhoasen.org/a34732/bai-phap-khan-cap-bahiya-sutta