Bản Sanh: truyện 341 tới 350 / Jataka Tales: Stories 341–350
Nguyên bản: Pali
Anh dịch: H.T. Francis, R.A. Neil và Ānandajoti Bhikkhu
Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác
J341. Kandari Jātaka -- Không chung thủy sẽ dẫn đến nhiều hậu quả.
Tóm tắt: Hoàng hậu Kinnarā, vợ của vua Kaṇḍari xứ Benares, ngoại tình với một người đàn ông tàn tật sống trên cây. Khi bị phát hiện, nhà vua muốn giết chết bà, nhưng vị sư của ông, Pañcālacaṇḍa, giải thích rằng hành vi này đơn giản là bản chất của phụ nữ, và lưu ý rằng ngay cả những phụ nữ trẻ trên thế gian cũng hành động tương tự.
.
Ở Benares cổ đại, vua Kandari, một vị vua đẹp trai, hết lòng vì người vợ xinh đẹp của mình, hoàng hậu Kinnara. Bất chấp sự xa hoa của cung điện, với nước hoa được cung cấp hàng ngày để trang trí và nấu nướng, Kinnara vẫn lén lút ngoại tình với một người đàn ông nghèo, tật nguyền sống dưới gốc cây mận Jambu. Bị hấp dẫn bởi những ham muốn thầm kín của nàng, Kinnara lén lút đến thăm chàng vào ban đêm sau khi đã thỏa mãn chồng, giữ kín chuyện ngoại tình của mình trong nhiều đêm.
Một ngày nọ, trong một chuyến đi chơi hoàng gia, Kandari tỏ ra ghê tởm khi nhìn thấy người đàn ông tật nguyền. Nghe được lời nhà vua nói, người đàn ông vừa cảm thấy bị xúc phạm vừa thầm tự hào về mối quan hệ bí mật của mình với hoàng hậu. Vị tư tế của hoàng gia, Pancalacanda, nghi ngờ sự phản bội của hoàng hậu và đề nghị một thử thách, khiến nhà vua bí mật theo dõi Kinnara trong một trong những cuộc phiêu lưu nửa đêm của nàng. Ông chứng kiến cảnh nàng giao du với người đàn ông tật nguyền, và một chiếc khuyên tai nàng đánh rơi đã xác nhận sự ngoại tình của nàng.
Tức giận, Kandari đối chất với Kinnara, tiết lộ rằng anh ta đang giữ chiếc khuyên tai và buộc tội cô phản bội. Mặc dù nhà vua đã ra lệnh xử tử cô, Pancalacanda đã can thiệp, đề xuất một chuyến đi cải trang để cho Kandari thấy rằng sự không chung thủy tồn tại ngoài Kinnara. Chuyến đi của họ đã phơi bày vô số hành vi không chung thủy của phụ nữ, cuối cùng khiến nhà vua phải xem xét lại phán quyết của mình.
Khi trở về Benares, ông đã quyết định tha thứ cho Kinnara, mặc dù trục xuất cô khỏi cung điện, đồng thời chọn một hoàng hậu khác. Câu chuyện kết thúc bằng một bài học đạo đức về bản chất của sự lừa dối ở phụ nữ, cùng với việc tiết lộ danh tính thực sự của Pancalacanda là Kunala, một vị Bồ tát được tôn kính, minh họa cho sự phức tạp của tình yêu, lòng chung thủy và nhận thức xã hội trong các mối quan hệ.
.... o ....
J341. Kandari Jātaka -- Living with infidelity will have many consequences.
Summary: Queen Kinnarā, married to King Kaṇḍari of Benares, has an affair with a disabled man who lives in a tree. When she is discovered, the king wishes to kill her, but his priest, Pañcālacaṇḍa, explains that this behavior is simply the nature of women, noting that even young women in the world act similarly.
.
In ancient Benares, King Kandari, a handsome ruler, was devoted to his beautiful wife, Queen Kinnara. Despite the opulence of their palace, with daily deliveries of perfume used for ambience and cooking, Kinnara held a secret affair with a poor, handicapped man who lived under a Jambu plum tree. Intrigued by her hidden desires, Kinnara stealthily visited him at night after satisfying her husband, keeping her infidelity a secret for many nights.
One day, during a royal outing, Kandari expressed disgust upon seeing the handicapped man. The man, overhearing the king's words, felt both insulted and inwardly proud of his hidden relationship with the queen. The family priest, Pancalacanda, suspected the queen's betrayal and suggested a test, leading the king to secretly follow Kinnara on one of her midnight escapades. He witnessed her interaction with the handicapped man, and an earring she dropped confirmed her infidelity.
Furious, Kandari confronted Kinnara, revealing he had the earring and accusing her of betrayal. Though the king ordered her execution, Pancalacanda intervened, proposing a journey in disguise to show Kandari that infidelity exists beyond Kinnara. Their travels exposed numerous acts of unfaithfulness among women, ultimately leading the king to reconsider his judgment.
Upon returning to Benares, he chose to pardon Kinnara, albeit banishing her from the palace, while selecting another queen. The tale concludes with a moral about the nature of deceit among women, paired with the revelation of Pancalacanda's true identity as Kunala, a revered Bodhisatta, illustrating the complexities of love, fidelity, and societal perceptions in relationships.
.... o ....
J342. Vanara Jātaka -- Con Khỉ và Con Cá Sấu
Tóm tắt: Đề Bà Đạt Đa tìm cách giết Đức Phật. Đáp lại, Đức Phật kể câu chuyện về một con cá sấu muốn ăn tim của một con khỉ. Tuy nhiên, con khỉ đã khéo léo lừa con cá sấu tin rằng trái tim của nó vẫn còn trên cây, nhờ đó nó trốn thoát.
.
Đức Phật từng kể câu chuyện này khi Ngài đang ở trong Rừng Trúc, về Đề Bà Đạt Đa, kẻ đang tìm cách giết Ngài.
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ Tát sinh ra là một chú khỉ con trên dãy núi Himalaya. Khi lớn lên, Ngài sống gần sông Hằng, ăn trái cây và sống an lành giữa những tán cây.
Một ngày nọ, một con cá sấu cái dưới sông nhìn thấy khỉ và muốn ăn tim khỉ. Nó nói với chồng: "Ta muốn nếm thử tim khỉ."
Con cá sấu đực muốn làm vợ vui lòng. Nó nghĩ: "Ta sẽ lừa khỉ, dìm chết nó, rồi lấy tim nó về cho vợ."
Vì vậy, nó nói với khỉ: "Bạn ơi, có một hòn đảo đầy trái cây ngọt giữa dòng sông. Hãy đi theo ta, chúng ta sẽ cùng nhau ăn chúng."
Con khỉ hỏi: "Làm sao tôi có thể đến đó? Tôi không biết bơi."
Cá sấu nói: "Đừng lo. Ngồi lên lưng ta, ta sẽ cõng ngươi đến đó."
Con khỉ tin tưởng và trèo lên lưng nó. Nhưng khi ra đến giữa sông, cá sấu bắt đầu lặn xuống nước.
Con khỉ hét lên: "Sao ngươi lại làm thế? Ngươi sẽ nhấn chìm ta mất!"
Cá sấu nói: "Ta sẽ giết ngươi và lấy thịt tim ngươi về cho vợ ta."
Con khỉ nhanh chóng nghĩ ra một kế hoạch. Nó nói: "Ôi, anh bạn ngốc nghếch! Sao anh không nói cho tôi biết sớm hơn? Tôi không mang trái tim trong người. Tôi treo nó trên cây sung bên bờ sông."
Cá sấu nói: "Thật sao? Vậy thì chúng ta đi lấy nó đi."
Con khỉ nói: "Được, đưa tôi đến đó, tôi sẽ đưa nó cho anh."
Con cá sấu ngốc nghếch tin lời nó và bơi trở lại bờ sông, nơi có cây sung mọc.
Ngay khi lên đến bờ, con khỉ nhanh chóng nhảy từ lưng cá sấu lên cây. Khỉ trèo lên cành cây cao nhất và hét lớn: "Đồ ngốc! Làm sao có người sống mà không có trái tim? Ngươi sẽ không bao giờ lừa ta nữa!"
Rồi con khỉ biến mất giữa những tán cây.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nói: "Lúc đó, Đề Bà Đạt Đa là con cá sấu, còn ta là con khỉ."
.... o ....
J342. Vanara Jātaka -- The Monkey and the Crocodile
Summary: Devadatta is attempting to kill the Buddha. In response, the Buddha tells a story about a crocodile that wanted to eat a monkey's heart. However, the monkey cleverly tricked the crocodile into believing that his heart was left on a tree, allowing him to escape.
.
The Buddha once told this story while he was staying in the Bamboo Grove, about Devadatta, who was trying to kill him.
Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born as a young monkey in the Himalaya mountains. When he grew up, he lived near the Ganges River and spent his days eating fruits and living peacefully among the trees.
One day, a female crocodile in the river saw the monkey and wanted to eat his heart. She told her husband, “I want to taste the heart of that monkey.”
The male crocodile wanted to please his wife. He thought, “I will trick the monkey, drown him, and take his heart for my wife.”
So he said to the monkey, “My friend, there is an island full of sweet fruits in the middle of the river. Come with me, and we’ll eat them together.”
The monkey asked, “How can I get there? I cannot swim.”
The crocodile said, “Don’t worry. Sit on my back, and I will carry you there.”
The monkey trusted him and climbed onto his back. But when they were in the middle of the river, the crocodile began to dive under the water.
The monkey shouted, “Why are you doing that? You will drown me!”
The crocodile said, “I am going to kill you and take your heart’s flesh for my wife.”
The monkey quickly thought of a plan. He said, “Oh, foolish friend! Why didn’t you tell me earlier? I don’t carry my heart inside my body. I left it hanging on a fig tree by the river.”
The crocodile said, “Really? Then let’s go get it.”
The monkey said, “Yes, take me there, and I will give it to you.”
The foolish crocodile believed him and swam back to the riverbank where the fig tree grew.
As soon as they reached the shore, the monkey jumped quickly from the crocodile’s back onto the tree. He climbed to the highest branch and shouted, “You fool! How could anyone live without a heart? You will never trick me again!”
Then the monkey disappeared among the trees.
When the Buddha finished the story, he said: “At that time, Devadatta was the crocodile, and I myself was the monkey.”
.... o ....
J343. Kuntani Jātaka -- Con chim diệc (cò, vạc) và các hoàng tử
Tóm tắt: Trong khi một con chim diệc đi làm nhiệm vụ cho nhà vua, hai hoàng tử trẻ đã giết chết con nhỏ của nó. Khi trở về, chim mẹ gài chết hai cậu bé để trả thù. Đức Phật kể lại một sự kiện tương tự trong quá khứ và đoạn hội thoại sau đó.
.
Đức Phật từng kể câu chuyện này khi Ngài ngự tại Tu viện Kỳ Viên. Câu chuyện kể về một con chim diệc sống trong cung điện của vua Kosala.
Chim này không phải là loài chim bình thường. Nó mang theo thư của vua và được đối xử rất tôn trọng. Nó sống trong cung điện và có hai con diệc con.
Một ngày nọ, nhà vua sai con diệc mang thư đến cho một vị vua khác. Trong khi chim này đi vắng, một số hoàng tử trẻ đang chơi trong cung điện. Chúng nhìn thấy hai con diệc con, bắt chúng lại và bóp chết chúng một cách tàn nhẫn.
Khi chim diệc mẹ trở về sau chuyến đi, nó tìm kiếm các con của mình nhưng không thấy. Buồn bã, nó hỏi ai đã giết chúng. Các thị vệ trả lời: "Chính các hoàng tử trẻ đã làm điều đó."
Lúc bấy giờ, có một con cọp dữ được nuôi trong cung điện, bị xích bằng một sợi xích sắt chắc chắn. Các hoàng tử thích đến thăm con cọp để giải trí. Khi thấy họ đến đó, con diệc nghĩ: "Bọn trẻ này đã giết chết các con của ta. Ta sẽ khiến chúng phải chịu đau khổ như ta đã từng chịu đựng."
Vậy là, khi các hoàng tử đang đứng gần con diệc, con diệc bất ngờ tấn công họ. Nó dùng cánh và mỏ đẩy và kéo họ cho đến khi họ ngã ngay trước mặt con cọp. Con cọp gầm lên và giết chết họ ngay lập tức.
Con diệc nói: "Giờ thì lòng ta đã mãn nguyện rồi", rồi bay đi về phía dãy Himalaya.
Khi mọi người trong cung điện biết chuyện, họ vô cùng kinh ngạc. Các nhà sư sau đó bàn luận về chuyện này tại Chánh Điện: "Này các huynh đệ, một con diệc trong cung điện của nhà vua đã trả thù cho những đứa con đã chết của nó bằng cách gây ra cái chết của các hoàng tử, và sau đó nó đã bay đi."
Khi Đức Phật nghe họ nói chuyện, Ngài nói: "Này các tỳ kheo, không chỉ bây giờ, mà cả trong quá khứ, chính con diệc đó đã trả thù theo cách này."
Sau đó, Đức Phật kể cho họ nghe một câu chuyện từ một kiếp trước.
Ngày xưa, khi Bồ Tát còn là vua xứ Benares, Ngài đã cai trị vương quốc một cách khôn ngoan và công bằng.
Trong cung điện của mình, có một con diệc mang tin tức cho ngài—giống hệt như con diệc trong câu chuyện này. Một ngày nọ, khi diệc đi vắng, một số thiếu niên trong hoàng tộc đã giết chết đàn con của nó. Khi nó trở về và biết chuyện, nó đã trả thù theo cách tương tự—nó sai con cọp trong cung điện giết chết các cậu bé.
Sau đó, nó vừa buồn vừa giận. Nó nghĩ: “Ta không thể ở lại đây thêm nữa. Nhưng ta sẽ không rời đi nếu chưa nói sự thật với đức vua.”
Thế là con diệc đến trước mặt đức vua, cúi đầu cung kính và thưa: “Thưa đức vua, vì sự bất cẩn của ngài, các hoàng tử trẻ đã giết chết các con của tôi. Trong cơn giận dữ, tôi đã làm con cọp giết chết chúng. Tôi cũng đã làm sai. Giờ tôi không thể ở lại đây nữa.”
Đức vua từ tốn nói: “Ngươi đã lấy ác báo ác rồi. Hãy bỏ qua cơn giận đi. Xin hãy ở lại đây.”
Nhưng con diệc đáp: “Khi đã bị đối xử bất công, thật khó để sống hòa bình với nhau trở lại. Tôi phải đi.”
Nhà vua lại nói: "Người trí có thể tha thứ và sống hòa thuận. Xin hãy ở lại."
Nhưng con diệc đáp: "Thưa bệ hạ, thần không thể ở lại đây thêm nữa." Nó cúi chào nhà vua, dang rộng đôi cánh và bay về phía dãy Himalaya, không bao giờ quay trở lại.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nói: "Con diệc trong kiếp trước chính là con diệc trong câu chuyện này. Vua Benares lúc đó chính là ta."
.... o ....
J343. Kuntani Jātaka -- The Heron and the Princes
Summary: While a heron is away on an errand for the king, two young princes kill her young. When she returns, she has the boys killed in retaliation. The Buddha recounts a similar event from the past and the dialogue that followed.
.
The Buddha once told this story while staying at Jetavana Monastery. It was about a heron that lived in the palace of the King of Kosala.
This heron was no ordinary bird. She carried the king’s messages and was treated with respect. She lived in the palace and had two young chicks.
One day, the king sent the heron with a letter to another ruler. While she was away, some young princes were playing in the palace. They saw the two baby herons, caught them, and cruelly squeezed them to death.
When the mother heron returned from her mission, she looked for her young ones and could not find them. Sadly, she asked who had killed them. The palace servants told her, “The young princes did it.”
At that time, there was a fierce tiger kept in the palace, chained with a strong iron chain. The princes liked to visit the tiger for fun. When the heron saw them going there, she thought, “These boys killed my babies. I will make them suffer as I have suffered.”
So, as the princes stood near the tiger, the heron suddenly attacked them. Using her wings and beak, she pushed and pulled them until they fell right in front of the tiger. The tiger roared and killed them instantly.
The heron said, “Now my heart is satisfied,” and then flew away toward the Himalayas.
When people in the palace learned what had happened, they were shocked. The monks later discussed it in the Hall of Truth, saying, “Brothers, a heron in the king’s palace took revenge for her dead chicks by causing the death of the princes, and then she flew away.”
When the Buddha heard them talking, he said, “Monks, not only now, but also in the past, the same heron took revenge in just this way.”
Then the Buddha told them a story from a previous life.
Long ago, when the Bodhisatta was the King of Benares, he ruled the kingdom wisely and fairly.
In his palace lived a heron that carried messages for him—just like the one in the present story. One day, while the heron was away, some young boys in the royal family killed her chicks. When she returned and learned what had happened, she took revenge in the same way—she caused the tiger in the palace to kill the boys.
Afterward, she felt both sorrow and anger. She thought, “I cannot stay here any longer. But I will not leave without telling the king the truth.”
So the heron went before the king, bowed respectfully, and said, “My lord, because of your carelessness, the young princes killed my babies. In anger, I made the tiger kill them. I have done wrong too. Now I cannot remain here.”
The king said kindly, “You have already repaid wrong with wrong. Let your anger go. Please stay here.”
But the heron answered, “When one has been deeply wronged, it is hard to live together in peace again. I must go.”
The king again said, “The wise can forgive and live in harmony. Please stay.”
But the heron replied, “My lord, I cannot stay here any longer.” She bowed to him, spread her wings, and flew away toward the Himalayas, never to return.
When the Buddha finished telling the story, he said: “The heron in that past life was the same heron in this story. The King of Benares at that time was myself.”
.... o ....
J344. Ambacora Jātaka -- Ông Cụ Canh Giữ Vườn Xoài
Tóm tắt: Một vị ẩn sĩ giả mạo sống trong một vườn xoài và ăn trộm xoài cho bản thân và người thân. Khi bị trộm lấy mất xoài trong vườn, ông ta vu cáo bốn cô con gái của một người giàu có tội ăn cắp cho đến khi họ phải thề thốt. Đức Phật kể lại những sự kiện tương tự trong quá khứ và những lời thề của các cô gái trẻ.
.
Câu chuyện này được Đức Phật kể lại khi Ngài đang ở tại Tu viện Kỳ Viên. Câu chuyện kể về một vị khổ hạnh già trông coi một vườn xoài.
Khi còn trẻ, vị này đã chăm sóc những cây xoài. Về già, sau khi trở thành nhà khổ hạnh, ông dựng một túp lều nhỏ bằng lá trong một vườn xoài gần Kỳ Viên. Ông ăn những quả xoài chín rụng từ trên cây và chia cho người thân.
Một hôm, khi ông ra ngoài khất thực trong làng, một nhóm trộm đến, đập đổ những quả xoài, ăn một ít rồi lấy đi.
Ngay sau đó, bốn cô con gái của một thương gia giàu có đến bờ sông gần đó để tắm. Trong lúc đi dạo quanh sau đó, họ tình cờ đi vào vườn xoài.
Khi vị khổ hạnh già quay lại và thấy họ, ông đã buộc tội họ ăn xoài của mình.
"Thưa ngài," họ nói, "chúng tôi chỉ đến đây thôi. Chúng tôi không ăn xoài của ngài."
Ông lão đáp: "Vậy thì hãy thề đi để chứng minh điều đó."
Các cô gái đồng ý, tuyên thệ, và cảm thấy xấu hổ vì lời buộc tội. Sau đó, ông lão thả họ đi.
Sau đó, một số nhà sư nghe được chuyện đã xảy ra và bắt đầu bàn tán trong hội trường — về việc vị khổ hạnh già đã bắt các cô con gái của thương gia thề trước khi thả họ đi. Khi Đức Phật nghe được cuộc bàn tán và hỏi chuyện gì đã xảy ra, họ kể lại cho Ngài nghe.
Đức Phật nói: "Đây không phải lần đầu tiên ông lão này bắt các thiếu nữ thề về xoài. Ông ta đã làm điều tương tự từ lâu rồi." Rồi Đức Phật kể câu chuyện từ quá khứ này.
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Benares, Bồ-tát đã giáng sinh làm Sakka, vua của chư thiên trên cõi trời.
Vào thời đó, có một vị ẩn sĩ gian trá sống trong một vườn xoài bên bờ sông gần Benares. Ông ta ăn những quả xoài chín rụng từ trên cây, chia cho người thân và giả vờ sống một cuộc đời thánh thiện, mặc dù bản thân lười biếng và bất lương.
Vua trời Sakka nhìn xuống từ trên trời và tự hỏi: “Trong số loài người, ai thực sự hiếu kính cha mẹ, giúp đỡ người già, bố thí, giữ gìn giới luật và chân thành thực hành đời sống thánh thiện? Và ai trong số họ chỉ giả vờ tốt?”
Trong khi tìm kiếm, Sakka thấy vị ẩn sĩ giả danh đang canh chừng những quả xoài của mình thay vì thiền định hay thực hiện các bổn phận tâm linh. Sakka nghĩ: “Người này không phải là ẩn sĩ chân chính. Ta sẽ dạy cho hắn một bài học.”
Khi vị ẩn sĩ vào làng xin ăn, Sakka đã dùng thần thông đánh đổ và rải rác những quả xoài, làm như thể có kẻ trộm đến lấy cắp chúng.
Ngay lúc đó, bốn cô con gái của một thương gia giàu có từ Benares tắm sông xong đi vào vườn. Khi vị ẩn sĩ nhìn thấy họ, ông hét lên: “Các ngươi đã ăn mất xoài của ta!”
Các cô gái trẻ thưa: “Thưa ngài, chúng tôi vừa mới đến. Chúng tôi không ăn xoài của ngài.”
“Vậy thì hãy thề đi,” ngài nói. “Nếu các ngươi thề, ta sẽ thả các ngươi đi.”
Họ đồng ý và lần lượt thề, tuyên bố mình vô tội. Sau khi nghe họ nói, vị đạo sĩ nói: “Các ngươi đã nói rất nghiêm túc. Chắc hẳn những người khác đã ăn xoài rồi. Các ngươi có thể đi rồi.” Thế là ngài để họ đi.
Sau đó, Sakka hiện ra với hình dạng đáng sợ trước mặt vị đạo sĩ giả mạo và đuổi ông ta ra khỏi vườn.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, ngài nói: “Vị đạo sĩ giả mạo ngày xưa chính là vị sư già canh giữ vườn xoài ngày nay. Bốn cô con gái của vị thương gia ngày xưa cũng chính là những người phụ nữ đó. Và Sakka chính là ta.”
.... o ....
J344. Ambacora Jātaka -- The Old Man Who Watched the Mangoes
Summary: A false ascetic lives in a mango grove and steals mangoes for himself and his relatives. When some thieves steal mangoes from the grove, he falsely accuses the four daughters of a wealthy man of theft until they take an oath. The Buddha recounts similar events from the past and the oaths the young women made.
.
This story was told by the Buddha while he was staying at Jetavana Monastery. It was about an old ascetic who guarded a mango orchard.
When he was young, the man had looked after mango trees. In old age, after becoming a ascetic, he built a small hut made of leaves in a mango orchard near Jetavana. He ate the ripe mangoes that fell from the trees and shared some with his relatives.
One day, while he went out to collect alms in the village, some thieves came, knocked down the mangoes, ate some, and took the rest away.
Soon after, four daughters of a rich merchant came to the river nearby to bathe. As they wandered around afterward, they happened to walk into the mango orchard.
When the old ascetic returned and saw them, he accused them of eating his mangoes.
“Sir,” they said, “we just came here. We did not eat your mangoes.”
The old man replied, “Then take an oath to prove it.”
The girls agreed, took the oath, and were embarrassed by the accusation. After that, the old man let them go.
Later, some monks heard what had happened and began talking about it in the assembly hall — how the old ascetic had made the merchant’s daughters swear an oath before letting them go. When the Buddha heard the discussion and asked what it was about, they told him.
The Buddha said, “This is not the first time that this old man made young women take an oath about mangoes. He did the same thing long ago.” Then the Buddha told this story from the past.
Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born as Sakka, the king of the gods.
At that time, there was a deceitful ascetic who lived in a mango orchard on a riverbank near Benares. He ate ripe mangoes that fell from the trees, gave some to his relatives, and pretended to live a holy life, though he was lazy and dishonest.
Sakka looked down from heaven and wondered, “Who among humans truly honors their parents, helps the elderly, gives alms, follows moral rules, and sincerely practices the holy life? And who among them only pretends to be good?”
As he searched, Sakka saw the false ascetic keeping watch over his mangoes instead of meditating or doing his spiritual duties. Sakka thought, “This man is not a true ascetic. I will teach him a lesson.”
When the ascetic went into the village to beg for food, Sakka used his divine power to knock down the mangoes and scatter them, making it look as if thieves had come and stolen them.
Just then, four daughters of a rich merchant from Benares came into the orchard after bathing in the river. When the ascetic saw them, he shouted, “You have eaten my mangoes!”
The young women said, “Sir, we just came. We did not eat your mangoes.”
“Then take an oath,” he said. “If you do, I will let you go.”
They agreed and each took an oath one after another, declaring that they were innocent. After hearing them, the ascetic said, “You have spoken solemnly. Others must have eaten the mangoes. You may go now.” So he let them leave.
Then Sakka appeared in a frightening form before the false ascetic and drove him away from the orchard.
When the Buddha finished the story, he said: “The false ascetic of the past was the same as the old monk who guarded the mangoes today. The four merchant’s daughters were the same women both then and now. And Sakka was myself.”
.... o ....
J345. Gajakumbha Jātaka -- Vị Tăng Lười Biếng và Con Rùa
Tóm tắt: Có một vị sư rất lười biếng và chểnh mảng bổn phận. Đức Phật kể câu chuyện về một lần Ngài khuyên một vị vua rằng sự lười biếng của một con rùa có thể dẫn đến cái chết của nó, điều này đã truyền cảm hứng cho nhà vua trở nên siêng năng hơn.
.
Câu chuyện này được Đức Phật kể lại khi Ngài đang ở tại Tu viện Kỳ Viên. Câu chuyện kể về một vị Tăng lười biếng.
Vị Tăng này xuất thân từ một gia đình danh giá ở thành Savatthi. Sau khi nghe Đức Phật thuyết giảng, ông đã xuất gia. Nhưng chẳng bao lâu sau, ông trở nên lười biếng. Ông không học kinh điển, không dạy dỗ người khác, không tham gia các nghi lễ tôn giáo. Thay vào đó, ông dành thời gian ở những nơi công cộng mà không làm gì có ích.
Các vị Tăng khác bàn tán về ông trong hội trường. Họ nói: "Vị Tăng này đã gia nhập con đường cao quý của Đức Phật, con đường dẫn đến giải thoát, vậy mà ông vẫn lười biếng và biếng nhác."
Khi Đức Phật đến và hỏi họ đang bàn luận điều gì, họ trả lời. Đức Phật nói: "Đây không phải lần đầu tiên ông ta lười biếng. Ông ta cũng đã lười biếng trong một kiếp trước." Sau đó, Đức Phật kể cho họ nghe một câu chuyện từ quá khứ.
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ Tát là quan đại thần và cố vấn của vua. Nhà vua rất lười biếng. Bồ Tát nghĩ ra cách dạy cho nó một bài học.
Một hôm, nhà vua cùng Bồ Tát đến vườn thượng uyển. Đang đi dạo, ngài thấy một con rùa di chuyển rất chậm. Nhà vua hỏi: "Này Đại vương, đó là con gì vậy?"
Bồ Tát đáp: "Thưa Đại vương, đó là một con rùa. Nó lười biếng đến nỗi dù có di chuyển cả ngày cũng chỉ đi được vài phân."
Rồi ngài nói với con rùa: "Này Rùa Già, ngươi di chuyển rất chậm. Ngươi sẽ làm gì nếu có hỏa hoạn xảy ra trong rừng?"
Con rùa đáp: "Khắp nơi đều có lỗ hổng và khe hở. Ta sẽ tìm chỗ trốn trong đó, hoặc sẽ chết nếu không tìm được."
Bồ Tát quay sang nhà vua và nói: "Tâu Đại vương, nếu ai vội vàng khi đến lúc nghỉ ngơi, hoặc trì hoãn khi đến lúc hành động, thì người đó sẽ tự hủy hoại thành công của mình. Nhưng những người hành động đúng lúc và nỗ lực luôn đạt được mục tiêu."
Nghe vậy, nhà vua hiểu ra bài học. Từ đó trở đi, ngài không còn lười biếng nữa và siêng năng làm việc.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nói: “Trong kiếp trước, vị sư lười biếng chính là con rùa. Còn ta chính là vị quan thông thái.”
.... o ....
J345. Gajakumbha Jātaka -- The Lazy Monk and the Tortoise
Summary: One monk is very lazy and neglectful of his duties. The Buddha tells a story about a time when he advised a king that a turtle’s laziness could lead to its demise, which inspired the king to become more diligent.
.
This story was told by the Buddha while he was staying at Jetavana Monastery. It was about a lazy monk.
This monk came from a good family in the city of Savatthi. After hearing the Buddha’s teachings, he became a monk. But soon he grew lazy. He did not study the scriptures, teach others, or take part in religious duties. Instead, he spent his time in public places doing nothing useful.
The other monks talked about him in the assembly hall. They said, “This monk joined the Buddha’s excellent path, which leads to salvation, yet he remains lazy and idle.”
When the Buddha came and asked what they were discussing, they told him. The Buddha said, “This is not the first time he has been lazy. He was lazy in a past life, too.” Then the Buddha told them a story from the past.
Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was his chief minister and advisor. The king was very lazy. The Bodhisatta thought of a way to teach him a lesson.
One day, the king went to his garden with the Bodhisatta. While walking there, he saw a tortoise moving very slowly. The king asked, “My friend, what is that creature?”
The Bodhisatta replied, “Great King, that is a tortoise. It is so lazy that even if it moves all day, it goes only a few inches.”
Then he said to the tortoise, “Old Tortoise, you move very slowly. What would you do if a fire started in the forest?”
The tortoise said, “There are holes and cracks everywhere. I would find a hiding place in one of them, or die if I could not.”
The Bodhisatta turned to the king and said, “Your Majesty, if someone hurries when it is time to rest, or delays when it is time to act, he ruins his own success. But those who act at the right time and with effort always reach their goal.”
Hearing this, the king understood the lesson. From that day on, he stopped being lazy and worked diligently in his duties.
When the Buddha finished his story, he said: “In that past life, the lazy monk was the tortoise. I myself was the wise minister.”
.... o ....
J346. Kesava Jātaka -- Thức ăn ngon nhất là thức ăn được dâng tặng với yêu thương.
Tóm tắt: Noi gương Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc), nhà vua bắt đầu thực hành bố thí hàng ngày cho các nhà sư. Tuy nhiên, các nhà sư không dùng bữa tại cung điện; thay vào đó, họ mang thức ăn đến cho những người ủng hộ và dùng bữa tại đó. Đức Phật kể một câu chuyện về một vị thầy già và người học trò cưng của ông, minh họa cho việc, khi ngay cả thức ăn ngon nhất và các bác sĩ tốt nhất cũng không thể chữa khỏi bệnh cho vị thầy, thì lòng từ bi của người học trò đã có thể giúp đỡ.
.
Khi Đức Phật ngự tại Kỳ Viên, Ngài đã kể câu chuyện về tình bạn chân thật và lòng từ bi.
Tại thành Savatthi, có một người giàu có tên là Anathapindika (Cấp Cô Độc). Mỗi ngày, ông đều cúng dường thức ăn cho năm trăm vị sư. Nhà ông luôn đầy ắp các vị sư mặc áo cà sa vàng, thanh tịnh và sáng sủa, không khí tràn ngập hương trầm.
Một ngày nọ, nhà vua đi quanh kinh thành và thấy nhiều vị sư tại nhà Anathapindika. Ngài nghĩ: "Ta cũng sẽ cúng dường thức ăn cho các vị sư mỗi ngày." Vì vậy, ngài đến gặp Đức Phật và nói rằng sẽ cúng dường thức ăn cho năm trăm vị sư mỗi ngày.
Từ đó trở đi, thức ăn luôn sẵn sàng trong cung điện của nhà vua - cơm ngon và các món ăn ngon. Nhưng các vị sư không thích dùng bữa ở đó. Thức ăn được phục vụ bởi những người hầu của nhà vua, những người không hề tỏ ra tử tế hay tôn trọng. Vì vậy, các vị sư thường mang thức ăn về nhà bạn bè hoặc người ủng hộ của họ và chia sẻ với họ. Họ ăn bất cứ thức ăn nào được dâng lên ở đó, dù đơn sơ hay thô sơ.
Một hôm, nhà vua nhận được một ít trái cây rừng và bảo người hầu: "Hãy dâng những thứ này cho các nhà sư."
Người hầu đến phòng ăn của các nhà sư nhưng không thấy ai ở đó.
Họ thưa với nhà vua: "Không có nhà sư nào ở đây cả."
Nhà vua hỏi: "Tại sao? Chưa đến giờ ăn sao?"
Họ trả lời: "Đã đến giờ ăn rồi, nhưng các nhà sư lại lấy thức ăn của ngài và đi nơi khác. Họ chia cho bạn bè rồi ăn bất cứ thức ăn đơn sơ nào được dâng lên."
Nhà vua bối rối nói: "Thức ăn của ta là ngon nhất. Tại sao họ không ăn?"
Ngài đến gặp Đức Phật và hỏi.
Đức Phật nói: “Bệ hạ, thức ăn ngon nhất là thức ăn được dâng tặng với tình thương. Trong nhà bệ hạ, thức ăn rất ngon, nhưng không ai dâng tặng với lòng từ bi. Các vị sư đến nơi nào có người cúng dường với tấm lòng thân thiện. Không có hương vị nào tuyệt vời hơn hương vị của tình thương. Thức ăn được dâng tặng mà không có tình thương, dù có ngọt ngào và bổ dưỡng, cũng không ngon bằng cơm gạo tẻ được dâng tặng với lòng từ bi.
“Ngày xưa, các bậc hiền triết đã hiểu được chân lý này. Khi họ bị bệnh, dù vua có sai thầy thuốc đến, họ cũng không khỏi. Nhưng khi họ đến với những người bạn chân thành, ăn canh gạo tẻ hoặc cơm gạo tẻ được dâng tặng với tình thương, họ sẽ khỏi bệnh.”
Đức Phật kể một câu chuyện từ quá khứ.
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba La Nại (Benares), Bồ Tát sinh ra trong một gia đình Bà La Môn và được gọi là Kappa. Khi lớn lên, ngài học tại Takkasila và sau đó trở thành một nhà khổ hạnh.
Lúc đó, có một nhà khổ hạnh khác tên là Kesava, có năm trăm đệ tử và sống ở dãy Himalaya. Kappa gia nhập họ và trở thành đệ tử cao cấp. Ngài và Kesava trở thành bạn thân.
Sau đó, Kesava cùng các đệ tử xuống Ba La Nại để lấy muối và giấm. Họ ở lại trong vườn của nhà vua. Ngày hôm sau, họ vào kinh thành khất thực. Nhà vua nhìn thấy họ và mời họ đến cung điện dùng cơm. Ngài đãi họ thức ăn và cho họ ở lại trong vườn.
Khi mùa mưa kết thúc, Kesava muốn trở về núi. Nhà vua nói: "Thưa Đại sư, ngài đã già rồi. Xin hãy ở lại gần chúng tôi. Xin hãy để các vị sư trẻ tuổi trở về núi."
Vậy là Kesava ở lại, còn Kappa cùng các nhà khổ hạnh khác lên dãy Himalaya.
Kesava rất nhớ Kappa. Ngài không thể ngủ hay ăn uống bình thường. Chẳng bao lâu sau, ngài bị đau bụng và xuất huyết dạ dày. Nhà vua đã cử thầy thuốc đến, nhưng không có kết quả.
Kesava nói với nhà vua: "Nếu nhà vua muốn tôi hồi phục, hãy đưa tôi lên dãy Himalaya."
Nhà vua đồng ý và sai cận thần Narada đưa ngài đến đó.
Khi Kesava gặp lại Kappa, ngài lập tức cảm thấy khỏe hơn. Kappa nấu một nồi canh đơn giản gồm kê, gạo lứt và lá cây, không muối hay gia vị. Kesava uống nước này, và bệnh tình của ngài biến mất ngay lập tức.
Sau đó, nhà vua lại phái Narada đến hỏi thăm tình hình của Kappa. Narada thấy Kesava khỏe mạnh và hỏi: "Các thầy thuốc của nhà vua không thể chữa khỏi cho ngài. Kappa đã chữa lành cho ngài bằng cách nào?"
Kesava đáp: "Ngài ấy đã cho tôi một bữa ăn đơn giản được nấu bằng tình thương - chỉ gồm gạo lứt và lá cây với nước. Nhờ lòng tốt và tình bạn của ngài, bệnh tình của tôi đã được chữa khỏi."
Narada kinh ngạc. Ngài nói: "Trước kia, nhà ngươi được ăn cơm ngon nhất với vua, vậy mà giờ lại được ăn canh nhạt với một ẩn sĩ. Tại sao vậy?"
Kesava đáp: "Món ăn có thể ngon hoặc nhạt, nhưng tình thương là gia vị tuyệt hảo nhất. Món ăn được trao tặng với tình thương luôn ngon tuyệt."
Narada trở về kể lại mọi chuyện cho nhà vua nghe.
Đức Phật kể xong câu chuyện và nói: "Lúc bấy giờ, nhà vua là Ananda, quan Narada là Sariputta, Kesava là Phạm Thiên, và Kappa là ta."
.... o ....
J346. Kesava Jātaka -- The best food is the food that is given with love
Summary: In imitation of Anāthapiṇḍika, the king begins a daily practice of giving alms to the monks. However, the monks do not eat at the palace; instead, they take the food to their supporters and eat there. The Buddha tells a story about an old teacher and his favorite pupil, illustrating how, when even the best food and doctors could not cure the teacher’s illness, the loving kindness of his pupil was able to help.
.
When the Buddha was staying at Jetavana, he told this story about true friendship and loving kindness.
In the city of Savatthi lived a rich man named Anathapindika. Every day, he offered food to five hundred monks. His house was always full of monks in yellow robes, peaceful and bright, and the air was filled with the smell of incense.
One day, the king went around the city and saw the many monks at Anathapindika’s house. He thought, “I will also offer food every day to the monks.” So he went to see the Buddha and said he would give food to five hundred monks every day.
From then on, food was always ready in the king’s house—fine rice and delicious dishes. But the monks did not like to eat there. The food was served by the king’s servants, who did not show kindness or respect. So the monks would take the food, then go to the homes of their friends or supporters and share it with them. They would eat whatever food was given there, even if it was simple or rough.
One day, the king received some wild fruits and told his servants, “Give these to the monks.”
The servants went to the monks’ dining hall but found no one there.
They told the king, “No monk is here.”
The king asked, “Why? Is it not mealtime?”
They replied, “It is mealtime, but the monks take your food and go elsewhere. They give it to their friends and then eat whatever simple food they are given.”
The king was puzzled and said, “My food is the best. Why don’t they eat it?”
He went to the Buddha and asked.
The Buddha said, “Your Majesty, the best food is the food that is given with love. In your house, the food is fine, but there is no one who gives it with kindness. The monks go where people offer food with friendly hearts. There is no taste greater than the taste of love. Food given without love, even if it is sweet and rich, is not as good as simple rice given with kindness.
“In the past, wise men knew this truth. When they were sick, even if the king sent doctors and medicine, they were not healed. But when they went to their true friends and ate simple broth or wild rice given with love, they became well again.”
Then the Buddha told a story from the past.
Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born into a Brahmin family and was called Kappa. When he grew up, he studied at Takkasila and then became an ascetic.
At that time, there was another ascetic named Kesava, who had five hundred followers and lived in the Himalayas. Kappa joined them and became the senior student. He and Kesava became close friends.
Later, Kesava went down to Benares with his followers to get salt and vinegar. They stayed in the king’s garden. The next day, they went into the city for alms. The king saw them and invited them to eat at his palace. He served them food and let them stay in his garden.
When the rainy season ended, Kesava wanted to return to the mountains. The king said, “You are old, Master. Please stay near us. Let the younger monks go back to the mountains.”
So Kesava stayed behind, and Kappa went with the other ascetics to the Himalayas.
Kesava missed Kappa very much. He could not sleep or eat properly. Soon he became sick with stomach pain and bleeding. The king sent doctors, but nothing helped.
Kesava told the king, “If you wish me to recover, send me to the Himalayas.”
The king agreed and sent his minister, Narada, to take him there.
When Kesava saw Kappa again, he immediately felt better. Kappa made a simple broth of millet, wild rice, and leaves, without salt or spices. Kesava drank it, and his illness disappeared at once.
The king later sent Narada again to ask about him. Narada found Kesava healthy and asked, “The king’s doctors could not cure you. How did Kappa heal you?”
Kesava said, “He gave me a simple meal made with love—just wild rice and leaves with water. Because of his kindness and friendship, my sickness was cured.”
Narada was amazed. He said, “You once ate the best rice and food with the king, but now you enjoy plain broth with a hermit. Why?”
Kesava replied, “Food may be fine or plain, but love is the best seasoning. Food given with love is always delicious.”
Narada went back and told the king everything.
The Buddha finished the story and said, “At that time, the king was Ananda, the minister Narada was Sariputta, Kesava was the god Brahma, and Kappa was myself.”
.... o ....
J347. Ayakuta Jātaka -- Vị Vua Cấm Sát Sinh
Tóm tắt: Các nhà sư thảo luận về những nỗ lực của Đức Phật để giúp đỡ và cứu độ chúng sinh. Đức Phật kể lại một câu chuyện về việc Ngài từng cấm giết động vật để tế thần. Khi các Dạ Xoa nổi giận vì lệnh cấm này, ngài đã được chính Vua Trời Sakka cứu thoát.
.
Khi Đức Phật còn tại Jetavana, Ngài đã kể câu chuyện này để dạy về bổn phận làm điều thiện cho người khác.
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Benares, Bồ Tát được sinh ra là con trai của hoàng hậu. Khi lớn lên, Ngài học được mọi nghệ thuật và kỹ năng, và sau khi vua cha băng hà, Ngài lên ngôi vua. Ngài cai trị dân chúng một cách khôn ngoan và công bằng.
Vào thời đó, nhiều người tin rằng việc giết động vật để dâng lên thần linh sẽ mang lại phước lành. Họ thường giết dê, cừu đực và các loài vật khác để làm vật tế thần.
Bồ Tát muốn chấm dứt sự tàn ác này. Ngài đã tuyên bố với công chúng: "Không được giết hại bất kỳ sinh vật nào trong vương quốc của ta."
Vì vậy, các vong linh gọi là Yakkhas (quỷ dạ xoa) rất tức giận. Chúng đã nhận được lễ vật từ những lễ tế này, và giờ đây chúng sẽ không nhận được gì cả. Vì vậy, chúng tụ tập trên dãy Himalaya và quyết định giết Bồ Tát.
Chúng đã cử một con Yakkha hung dữ đến để thực hiện việc này. Quỷ Dạ Xoa cầm một thanh sắt lớn, đang cháy, to bằng mái nhà, và đi đến cung điện của Bồ Tát. Khoảng nửa đêm, nó xuất hiện bên giường của nhà vua, sẵn sàng tấn công.
Ngay lúc đó, Sakka (vua của các vị thần) cảm thấy ngai vàng của mình nóng lên - một dấu hiệu cho thấy điều gì đó xấu xa đang xảy ra. Ngài nhìn xuống và thấy quỷ Dạ Xoa sắp làm hại Bồ Tát. Vì vậy, Sakka nhanh chóng từ trên trời xuống, cầm vũ khí sấm sét, và đứng cạnh quỷ Dạ Xoa để ngăn chặn nó.
Bồ Tát tỉnh dậy và thấy quỷ Dạ Xoa đứng đó với thanh sắt đang cháy. Ngài không thấy Sakka, nhưng tự hỏi: "Tại sao vị thần này lại ở đây? Nó đến để bảo vệ ta hay để giết ta?"
Quỷ Dạ Xoa, sợ hãi trước sự hiện diện của Sakka, không dám tấn công. Ông ta nói với nhà vua: “Tâu Đại Vương, tôi đến đây để giết ngài theo lệnh của đám Dạ Xoa. Nhưng vì Vua Trời Sakka, Vua của các vị thần, đang đứng cạnh ngài, nên tôi quá sợ hãi không dám làm hại ngài.”
Nghe vậy, Bồ Tát bình tĩnh nói: “Nếu đại thần Sakka bảo vệ tôi, thì tôi không có gì phải sợ. Không quỷ nào có thể làm hại người được bảo vệ bởi lòng tốt và chân lý.”
Nghe những lời dũng cảm này, Sakka nói với Bồ Tát: “Đại Vương, xin đừng sợ. Từ nay trở đi, chúng tôi sẽ bảo vệ ngài. Hãy tiếp tục làm điều thiện và bảo vệ tất cả chúng sinh.”
Sau đó, Sakka trở về thiên cung của mình, và đám Dạ Xoa sợ hãi bỏ chạy.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nói: “Lúc bấy giờ, Sakka là nhà sư Anuruddha, và chính tôi là vua xứ Benares.”
.... o ....
J347. Ayakuta Jātaka -- The King Who Forbade Killing
Summary: The monks discuss the efforts the Buddha made to help and save others. The Buddha recounts a story in which he once forbade animal sacrifices. When the Yakkhas became angered by this prohibition, they were saved by Sakka himself.
.
When the Buddha was living at Jetavana, he told this story to teach the duty of doing good to others.
Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born as the son of the chief queen. When he grew up, he learned all the arts and skills, and after his father died, he became king. He ruled his people wisely and justly.
At that time, many people believed that killing animals to offer them to the gods would bring them blessings. They often killed goats, rams, and other creatures for these sacrifices.
The Bodhisatta wanted to stop this cruelty. He made a public announcement: “No living creature is to be killed in my kingdom.”
Because of this, the spirits called Yakkhas (demons) were very angry. They had been receiving the offerings from these sacrifices, and now they would get none. So they gathered together in the Himalayas and decided to kill the Bodhisatta.
They sent one fierce Yakkha to do the job. The Yakkha took a huge, burning piece of iron, as big as a house roof, and went to the Bodhisatta’s palace. Around midnight, he appeared beside the king’s bed, ready to strike.
At that very moment, Sakka (the king of the gods) felt his heavenly throne grow hot — a sign that something evil was happening. He looked down and saw the Yakkha about to harm the Bodhisatta. So Sakka quickly came down from heaven, holding his thunderbolt weapon, and stood beside the Yakkha to stop him.
The Bodhisatta woke up and saw the Yakkha standing there with the burning iron. He did not see Sakka, but he wondered, “Why is this spirit here? Has he come to protect me or to kill me?”
The Yakkha, frightened by Sakka’s presence, did not dare to strike. He said to the king, “Great King, I came here to kill you on the orders of the Yakkhas. But because Sakka, the King of the Gods, is standing beside you, I am too afraid to harm you.”
Hearing this, the Bodhisatta said calmly, “If the great god Sakka protects me, then I have nothing to fear. No demon can harm one who is defended by goodness and truth.”
Hearing these brave words, Sakka spoke to the Bodhisatta: “Great King, do not be afraid. From now on, we will protect you. Continue to do good and protect all living beings.”
Then Sakka returned to his heavenly home, and the Yakkha fled in fear.
When the Buddha finished the story, he said: “At that time, Sakka was the monk Anuruddha, and I myself was the King of Benares.”
.... o ....
J348. Aranna Jātaka -- Hãy kết bạn với những người tử tế, chân thật và kham nhẫn
Tóm tắt: Sống yên bình với cha trên dãy Himalaya, người con trai bị một người phụ nữ thông minh, thoát khỏi bọn cướp, dụ dỗ và cố gắng lừa gạt anh ta. Tuy nhiên, người con trai quyết định chờ cha trở về trước khi hành động. Khi Bồ Tát trở về, ngài khuyên con trai nên chọn những người bạn tốt bụng, trung thực, kiên nhẫn và đáng tin cậy, và tránh xa những kẻ ngu ngốc hoặc độc ác, ngay cả khi điều đó có nghĩa là phải sống một mình.
.
Khi Đức Phật còn ở tại Jetavana, Ngài đã kể câu chuyện về một chàng trai trẻ bị một thiếu nữ dụ dỗ.
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ tát sinh ra trong một gia đình Bà la môn. Khi lớn lên, Ngài trở nên rất thông thái và học được tất cả các môn nghệ thuật tại Takkasila.
Sau khi vợ mất, Ngài quyết định từ bỏ cuộc sống thế tục để sống như một bậc thánh nhân. Ngài mang theo người con trai duy nhất của mình đến dãy Himalaya. Ở đó, họ dựng một túp lều nhỏ và sống một cuộc sống yên bình.
Một ngày nọ, Bồ tát để con trai mình trong ẩn thất và đi vào rừng để hái trái cây và củ.
Trong khi Ngài đi vắng, một nhóm cướp đã tấn công một ngôi làng gần đó và bắt một số người làm tù binh. Một cô gái trẻ đã trốn thoát và chạy vào rừng. Cô tìm thấy ẩn thất nơi chàng trai trẻ đang sống.
Cô gái thông minh và không biết xấu hổ. Cô nói chuyện ngọt ngào với chàng trai trẻ, khiến chàng quên đi lời thề [tịnh hạnh] và dụ dỗ chàng vào sự cám dỗ. Sau khi đã chiếm được lòng tin của chàng, nàng nói: “Hãy đi với em. Chúng ta hãy cùng nhau rời khỏi nơi này.”
Chàng trai nói: “Bây giờ anh không thể đi được. Anh phải đợi cha trở về. Sau khi gặp cha, anh sẽ đến gặp nàng.”
Cô gái đồng ý và nói: “Được thôi. Em sẽ đợi chàng trên đường.”
Rồi nàng ra ngoài và ngồi xuống bên đường.
Khi Bồ Tát trở về, con trai ngài cảm thấy lo lắng và hỏi: “Thưa cha, nếu con vào làng, con nên chọn loại người nào làm bạn? Con nên tin tưởng loại người nào?”
Bồ Tát nhẹ nhàng đáp: “Con trai, hãy kết bạn với những người tử tế, chân thật và nhẫn nại—những người giữ lời hứa và không bao giờ làm hại con trong suy nghĩ, lời nói hay hành động. Hãy tránh xa những người bất cẩn, hay thay đổi, hay nóng giận. Dù phải sống một mình, vẫn tốt hơn là sống giữa những kẻ ngu ngốc hay độc ác.”
Nghe những lời dạy khôn ngoan này, chàng trai trẻ thưa: “Thưa cha, người tốt như vậy thật khó tìm. Con sẽ ở lại đây với cha.”
Từ đó trở đi, chàng trai trẻ ở lại với cha và thực hành thiền định. Cả hai đều sống cuộc đời thanh tịnh và khi chết, họ được tái sinh vào cõi Phạm Thiên.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, Ngài nói: “Vị đạo sĩ thông thái ấy chính là ta.”
.... o ....
J348. Aranna Jātaka -- Make friends with those who are kind, honest, and patient
Summary: Living peacefully with his father in the Himalayas, the son was tempted by a clever woman who escaped robbers and tried to lead him away from his vows. The son, however, decided to wait for his father's return before acting. When the Bodhisatta returned, he advised his son to choose friends who are kind, honest, patient, and trustworthy, and to avoid the foolish or wicked, even if it meant living alone.
.
When the Buddha was staying at Jetavana, he told this story about a young man who was led astray by a woman.
Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born into a Brahmin family. When he grew up, he became very wise and learned all the arts at Takkasila.
After his wife died, he decided to give up worldly life and live as a holy man. He took his only son with him to the Himalayas. There they built a small hut and lived a peaceful life.
One day, the Bodhisatta left his son in the hermitage and went into the forest to gather fruit and roots.
While he was away, a group of robbers attacked a nearby village and took some people as prisoners. A young woman escaped from them and ran into the forest. She came upon the hermitage where the young man lived.
The girl was clever and shameless. She talked sweetly to the young man, made him forget his vows, and led him into temptation. After she had gained his trust, she said, “Come with me. Let us leave this place and go away together.”
The young man said, “I cannot go now. I must wait until my father returns. After I see him, I will come to you.”
The girl agreed and said, “Very well. I will wait for you on the road.”
Then she went out and sat down beside the path.
When the Bodhisatta returned, his son felt troubled and asked, “Father, if I go into a village, what kind of people should I choose for friends? What kind of men should I trust?”
The Bodhisatta answered gently, “My son, make friends with those who are kind, honest, and patient— those who keep their word and never harm you in thought, speech, or action. Avoid people who are careless, changeable, or quick to anger. Even if you must live alone, it is better than living among the foolish or wicked.”
Hearing these wise words, the young man said, “Father, such good people are hard to find. I will stay here with you.”
From then on, he stayed with his father and practiced meditation. Both of them lived pure lives and, when they died, were reborn in the Brahma world.
When the Buddha finished his story, he said, “The wise ascetic was myself.”
.... o ....
J349. Sandhibheda Jātaka -- Lời nói vu khống giống như lưỡi gươm sắc bén.
Tóm tắt: Một nhóm sáu nhà sư thu thập những câu chuyện về các nhà sư khác và dùng chúng để vu khống kẻ thù. Đức Phật kể một câu chuyện về một con bò và một con sư tử sống chung như đôi bạn thân cho đến khi một con chó rừng xúi giục chúng chống lại nhau, dẫn đến việc chúng giết hại lẫn nhau, sau đó con chó rừng ăn thịt chúng.
.
Khi Đức Phật còn ở tại Kỳ Viên, Ngài đã kể câu chuyện này để dạy về sự nguy hiểm của việc nói xấu người khác - nói xấu và lan truyền lời dối trá.
Một ngày nọ, Đức Phật nghe nói rằng một nhóm tỳ kheo được gọi là "Sáu Vị Tỳ Kheo" đang nói xấu và lan truyền những câu chuyện sai sự thật về các tỳ kheo khác. Vì điều này, những tranh cãi và chia rẽ bắt đầu xuất hiện giữa họ.
Đức Phật gọi họ lại và nói: "Này các tỳ kheo, có đúng là các ngươi đang nói xấu người khác và gây ra những cuộc cãi vã mà nếu không thì sẽ không xảy ra không?"
"Vâng, thưa Đức Thế Tôn", họ thừa nhận.
Đức Phật nói: "Lời nói vu khống giống như bị đâm bằng một lưỡi gươm sắc bén. Ngay cả những tình bạn thân thiết cũng có thể bị phá hủy bởi lời nói vu khống. Những người nói hoặc nghe lời vu khống dễ dàng mất đi bạn bè. Hãy để ta kể cho các ngươi một câu chuyện từ rất lâu rồi - về một con sư tử và một con bò đực đã mất đi tình bạn của chúng vì một con chó rừng gian xảo."
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Benares, Bồ Tát đã được sinh ra làm con trai của vua. Khi lớn lên, chàng theo học tất cả các ngành nghệ thuật tại Takkasila và sau này trở thành một vị vua thông thái và công bằng.
Lúc bấy giờ, có một người chăn bò đang chăn gia súc trong rừng. Một ngày nọ, chàng quên mang về một con bò cái sắp sinh. Con bò cái đó ở lại trong rừng. Tại đây, nó gặp một con sư tử cái, và thật bất ngờ, chúng trở thành đôi bạn thân thiết.
Sau đó, bò cái sinh ra một con bê, còn sư tử cái sinh ra một con non. Con bê con và sư tử con cũng trở thành đôi bạn thân thiết và dành toàn bộ thời gian bên nhau.
Một ngày nọ, một người kiểm lâm nhìn thấy tình bạn kỳ lạ giữa một con sư tử và một con bò đực. Khi đến kinh thành, anh ta tâu với nhà vua:
“Thưa bệ hạ, thần đã nhìn thấy một điều kỳ diệu trong rừng – một con sư tử và một con bò đực sống chung như những người bạn.”
Nhà vua nói: “Nếu có thêm một con vật thứ ba nhập bọn, sẽ có rắc rối. Hãy báo cho thần biết ngay nếu điều đó xảy ra.”
Người kiểm lâm đồng ý.
Một lúc sau, một con chó rừng đến và bắt đầu quanh quẩn bên sư tử và bò đực. Khi người đi rừng thấy vậy, anh ta quay lại thưa với nhà vua: "Thưa bệ hạ, một con chó rừng đã nhập bọn với chúng."
Nhà vua nói: "Con chó rừng đó sẽ gây ra sự diệt vong cho chúng. Nó sẽ khiến chúng đánh nhau và tiêu diệt lẫn nhau."
Và điều đó đã xảy ra chính xác. Chó rừng nghĩ thầm: "Ta đã ăn đủ thứ thịt, nhưng chưa bao giờ ăn thịt sư tử hay bò đực. Ta sẽ cho hai con này đánh nhau, rồi ta sẽ ăn cả hai!"
Vì vậy, nó thì thầm những lời dối trá với từng con.
Nó nói với sư tử: "Con bò đực nói rằng ngươi yếu đuối."
Nó nói với bò đực: "Sư tử nói rằng nó sẽ giết ngươi."
Hai người bạn tin vào những lời dối trá. Họ nổi giận với nhau và bắt đầu đánh nhau dữ dội cho đến khi cả hai đều bị giết.
Khi nhà vua cùng đoàn tùy tùng đến, đúng như dự đoán, cả sư tử và bò đực đều nằm chết. Chó rừng đang vui vẻ ăn thịt họ.
Nhà vua nói với người đánh xe ngựa: "Hãy xem điều gì xảy ra khi bạn bè nghe lời vu khống. Kẻ nói dối được hưởng lạc thú trong khi người tốt phải chịu khổ. Kẻ nghe lời đồn đãi tự chuốc lấy tai họa, còn kẻ lờ đi thì sống hạnh phúc như chư thiên."
Sau đó, nhà vua ra lệnh cho quân lính mang theo bờm, da, móng vuốt và răng sư tử, rồi trở về kinh thành.
Khi Đức Phật kể xong câu chuyện, ngài nói: "Lúc bấy giờ, ta là vua xứ Benares."
.... o ....
J349. Sandhibheda Jātaka -- Slanderous talk is like a sharp sword.
Summary: A group of six monks collects stories about other monks and uses them to slander their foes. The Buddha tells a story about how, in the past, a cow and a lion lived together as best friends until a jackal set them against each other, leading them to kill one another, after which the jackal ate their flesh.
.
When the Buddha was staying at Jetavana, he told this story to teach about the danger of slander — speaking ill of others and spreading lies.
One day, the Buddha heard that a group of monks called “the Six Priests” were gossiping and spreading false stories about other monks. Because of this, arguments and divisions were starting to appear among them.
The Buddha called them together and said, “Brothers, is it true that you are spreading harmful talk about others and causing quarrels that would not otherwise exist?”
“Yes, Lord,” they admitted.
The Buddha said, “Slanderous talk is like being struck with a sharp sword. Even strong friendships can be destroyed by gossip. Those who speak or listen to slander easily lose their friends. Let me tell you a story from long ago — about a lion and a bull who lost their friendship because of a deceitful jackal.”
Long ago, when King Brahmadatta ruled in Benares, the Bodhisatta was born as his son. When he grew up, he studied all the arts at Takkasila and later became a wise and just king.
At that time, a cowherd was taking care of his cattle in a forest. One day, he forgot to bring home a cow that was about to give birth. That cow stayed behind in the forest. There, she met a lioness, and surprisingly, they became good friends.
Later, the cow gave birth to a calf, and the lioness gave birth to a cub. The young calf and the lion cub also became close friends and spent all their time together.
One day, a forester saw this strange friendship between a lion and a bull. When he went to the city, he told the king,
“Your Majesty, I saw something amazing in the forest — a lion and a bull living together as friends.”
The king said, “If a third animal joins them, there will be trouble. Tell me at once if that happens.”
The forester agreed.
After some time, a jackal came and began hanging around the lion and the bull. When the forester saw this, he went back to the king and said, “My lord, a jackal has joined them.”
The king said, “That jackal will cause their ruin. He will make them fight and destroy each other.”
And that is exactly what happened. The jackal thought to himself, “I have eaten all kinds of meat, but never lion or bull. I will make these two fight, and then I can eat both!”
So he whispered lies to each one.
He told the lion, “The bull says you are weak.”
He told the bull, “The lion says he will kill you.”
The two friends believed the lies. They grew angry with each other and began to fight fiercely until both were killed.
When the king arrived with his men, just as he had guessed, both the lion and the bull lay dead. The jackal was happily eating their flesh.
The king said to his charioteer, “See what happens when friends listen to slander. The liar enjoys himself while the good suffer. Those who listen to gossip bring ruin on themselves, but those who ignore it live happily, like the gods.”
Then the king ordered his men to take the lion’s mane, skin, claws, and teeth, and he returned to the city.
When the Buddha finished the story, he said, “At that time, I was the king of Benares.”
.... o ....
J350. Devatapanha Jātaka -- Các vị thiên hỏi nhà vua bốn câu hỏi.
Tóm tắt: Các vị thần trú ngụ trong lọng của nhà vua đặt ra bốn câu hỏi. Nhà vua đồng ý tham khảo ý kiến của các vị tiên tri Bà-la-môn, nhưng họ không thể đưa ra câu trả lời. Chỉ có bậc thông thái Mahosadha mới có thể trả lời đúng.
.
Câu chuyện này cũng xuất hiện trong truyện Ummagga Jātaka (Jataka 546).
Ngày xưa, một vị vua đã mời một bậc hiền triết—Bồ Tát—đến ngồi trên ngai vàng dưới một chiếc lọng trắng, biểu tượng của hoàng gia. Nhà vua ngồi xuống một chiếc ghế thấp hơn và nói: “Thưa hiền giả, một vị thần ngự trong chiếc lọng trắng đã hỏi trẫm bốn câu hỏi khó. Trẫm đã hỏi bốn vị cận thần thông thái của mình, nhưng không ai trả lời được. Con trai ta ơi, con có thể giải đáp cho trẫm được không?”
Bồ Tát nói: “Tâu bệ hạ, bất kể đó là vị thần của chiếc lọng, hay Tứ Đại Thiên Vương, hay bất kỳ ai khác—bất cứ ai hỏi thần một câu hỏi, thần đều sẽ trả lời.”
Sau đó, nhà vua bắt đầu với câu hỏi đầu tiên, đúng như vị thần đã hỏi:
Câu hỏi 1: “Hắn đánh bằng tay và chân, hắn đánh vào mặt; vậy mà, tâu bệ hạ, hắn còn quý hơn cả một người chồng.”
Bồ Tát suy nghĩ kỹ rồi nói: “Thưa đức vua, đây là một đứa trẻ với mẹ. Khi một đứa bé ngồi trên đùi mẹ, nó chơi đùa và đánh mẹ bằng tay chân, giật tóc mẹ, thậm chí còn đánh vào mặt mẹ. Tuy nhiên, người mẹ vẫn cười và nói: ‘Con trai hư, sao con lại đánh mẹ?’ Rồi, tràn đầy tình thương, bà ôm hôn con trai mình nhiều hơn. Lúc đó, đối với bà, cậu bé còn quý giá hơn cả chồng mình.”
Khi ngài giải thích xong, vị thiên nữ hiện ra cách chiếc lọng trắng một nửa và nói bằng giọng ngọt ngào: “Câu hỏi đã được giải đáp thỏa đáng!” Bà dâng tặng Bồ Tát một hộp quà quý giá chứa đầy hương thơm và hoa cỏ của thiên đường, rồi biến mất. Đức vua cũng ban tặng ngài những món quà và hỏi câu hỏi thứ hai.
Câu hỏi 2: “Bà mắng mỏ chàng trai rất gay gắt, nhưng lại muốn chàng ở gần; và thưa đức vua, chàng trai còn quý giá hơn cả một người chồng.”
Bồ Tát thưa: “Thưa đức vua, đây lại là chuyện về một người mẹ và đứa con trai. Khi đứa con trai bảy tuổi của bà không chịu vâng lời, bà nổi giận và hét lên: ‘Cút đi! Cầu mong điều không may xảy đến cho con!’ Nhưng khi cậu bé thực sự bỏ đi và không trở về nhà, bà trở nên lo lắng. Bà tìm kiếm con khắp nơi, khóc lóc và gọi tên con. Khi cuối cùng tìm thấy con, bà ôm hôn con và nói: ‘Con có tin lời ta nói không?’ Vì vậy, dù bà có mắng con, tình yêu của bà vẫn không hề mất đi. Đó là lý do tại sao bà quý đứa con hơn cả chồng mình.”
Vị thiên nữ lại ban thưởng như trước, và nhà vua cũng ban cho vị hiền triết nhiều quà hơn.
Sau đó, nhà vua hỏi câu hỏi thứ ba:
Câu hỏi thứ ba: “Bà ấy trách móc anh ta vô cớ, vậy mà anh ta, thưa đức vua, lại còn quý hơn cả chồng.”
Bồ Tát thưa: “Thưa đức vua, câu hỏi này liên quan đến tình nhân. Khi hai người yêu nhau thân thiết, đôi khi người này vô cớ buộc tội người kia – nói rằng: ‘Anh không còn yêu em nữa’, hoặc ‘Trái tim anh đã thuộc về người khác’. Mặc dù những lời này là dối trá, nhưng chúng lại khiến hai người yêu nhau gần gũi và yêu thương nhau hơn. Đó chính là ý nghĩa của câu hỏi.”
Một lần nữa, vị thiên nữ và đức vua ban thưởng cho vị hiền triết.
Sau đó, đức vua hỏi câu hỏi cuối cùng:
Câu hỏi thứ 4: “Người đó đón nhận thức ăn, nước uống, quần áo và chỗ ở; vậy mà, thưa đức vua, người ấy còn quý hơn cả chồng.”
Bồ Tát đáp: “Thưa đức vua, điều này ám chỉ những bậc thánh nhân sống bằng khất thực – những Bà-la-môn tốt bụng và ngay thẳng. Những gia đình tín thành, tin vào việc làm tốt và đời sau, cảm thấy hạnh phúc khi cúng dường thức ăn, quần áo và chỗ ở cho những bậc thánh nhân này. Khi thấy những vị khất sĩ này dùng thức ăn của mình, họ nghĩ: ‘Họ đang dùng của cúng dường của chúng ta đấy’, và họ cảm thấy vui mừng và yêu mến. Vì vậy, mặc dù những bậc thánh nhân này nhận những gì được cúng dường, họ vẫn rất được những người bố thí yêu quý.”
Sau câu trả lời cuối cùng này, vị thiên nữ lại khen ngợi Bồ Tát và ban cho Ngài một hộp châu báu khác. Nhà vua rất hài lòng, phong Ngài làm tổng tư lệnh. Từ đó trở đi, Bồ Tát trở nên rất nổi tiếng và được kính trọng trong nước.
.... o ....
J350. Devatapanha Jātaka -- The Devas four questions to the king.
Summary: The Devas residing in the king’s parasol posed four questions to the king. He agreed to consult his Brahmin seers, but they were unable to provide answers. Only the wise Mahosadha could respond correctly.
.
This story also appears in the Ummagga Jātaka (Jataka 546).
Once, a king invited a very wise man—the Bodhisatta—to sit on the royal throne under a white parasol, a symbol of royalty. The king himself sat on a lower seat and said: “Wise sir, a divine being who lives in the white parasol asked me four difficult questions. I asked my four wise ministers, but none of them could answer. Please, my son, can you solve them for me?”
The Bodhisatta said, “My king, it does not matter whether it was the deity of the parasol, or the Four Great Kings, or anyone else—whoever asks me a question, I will answer it.”
Then the king began with the first question, just as the deity had asked:
Question 1: “He strikes with hands and feet, he hits the face; yet, O king, he is dearer than a husband.”
The Bodhisatta thought carefully and said, “My king, this means a child with his mother. When a little boy sits on his mother’s lap, he plays and beats her with his hands and feet, pulls her hair, and even hits her face. Still, the mother laughs and says, ‘You naughty boy, why are you hitting me?’ Then, full of love, she hugs and kisses him even more. At that moment, he is dearer to her than her husband.”
When he finished explaining, the divine being appeared halfway from the white parasol and said with a sweet voice, “The question is well answered!” She offered the Bodhisatta a precious box filled with heavenly perfumes and flowers, then vanished. The king also gave him gifts and asked the second question.
Question 2: “She scolds him harshly, yet wants him to be near; and he, O king, is dearer than a husband.”
The Bodhisatta said, “My king, this again is about a mother and her son. When her seven-year-old son refuses to obey her, she gets angry and shouts, ‘Go away! May something bad happen to you!’ But when he actually leaves and doesn’t return home, she becomes worried. She looks for him everywhere, crying and calling his name. When she finally finds him, she hugs and kisses him, saying, ‘Did you take my words seriously?’ So even when she scolds him, her love never goes away. That is why the child is dearer to her than her husband.”
The divine being again gave the same reward as before, and the king also offered him more gifts.
Then the king asked the third question:
Question 3: “She blames him without reason, yet he, O king, is dearer than a husband.”
The Bodhisatta said, “My king, this question is about lovers. When two lovers are close, sometimes one accuses the other without cause—saying, ‘You don’t love me anymore,’ or ‘Your heart is with someone else.’ Even though these words are false, they make the lovers even closer and more affectionate. That is the meaning of the question.”
Again, the divine being and the king rewarded him.
Then the king asked the final question:
Question 4: “One takes food, drink, clothing, and shelter; yet, O king, he is dearer than a husband.”
The Bodhisatta answered, “My king, this refers to holy men who live by begging—good and righteous brahmins. Faithful families, who believe in good deeds and in life after death, feel happy when they give food, clothes, and shelter to such holy men. When they see these mendicants eating their food, they think, ‘It is our offering they are using,’ and they feel joy and affection. So even though these holy men take what is given, they become very dear to those who give.”
After this final answer, the divine being again praised the Bodhisatta and gave him another casket full of jewels. The king, very pleased, made the Bodhisatta his commander-in-chief. From that time on, the Bodhisatta became very famous and honored in the land.
.... o ....
.
.