Chương 14: Định nghĩa thiện và vĩ đại

- T04. Tìm hiểu kinh Bốn Mươi Hai Chương
- Phần 1: Tổng luận Kinh Bốn Mươi Hai Chương
- Phần 2: Lược giải kinh Bốn Mươi Hai Chương - Chương 1: Định nghĩa Sa môn và Sa môn quả
- Chương 2: Đối tượng tu tập (Bảo sở Sa Môn, Định nghĩa Đạo)
- Chương 3: Sa môn hạnh
- Chương 4: Thập thiện - Thập ác
- Chương 5: Lỗi lầm và hối quá
- Chương 6: Phỉ báng thiện và ác quả dị thục
- Chương 7: Thái độ của Đức Phật trước lời khiển trách
- Chương 8: Ác giả ác báo
- Chương 9: Giá trị tri và hành (Điều kiện ngộ đạo)
- Chương 10: Phước đức tuỳ hỷ hạnh bố thí
- Chương 11: Đối tượng và phước đức của bố thí
- Chương 12: 20 điều khó của kiếp người
- Chương 13: Điều kiện chứng túc mạng minh (Thể nhập chí đạo)
- Chương 14: Định nghĩa thiện và vĩ đại
- Chương 15: Nhẫn nhục
- Chương 16: Điều kiện con đường đạt đạo
- Chương 17: Ánh sáng người đạt đạo
- Chương 18: Cốt tuỷ của đạo Phật
- Chương 19: Nguyên lý vô thường của vạn pháp
- Chương 20: Hữu thể con người: Vô thường, khổ, vô ngã
- Chương 21: Danh vọng: Thú vui ít giá trị
- Chương 22: Tài sắc: Ngọt ít, đắng nhiều
- Chương 23: Ân ái là tù ngục
- Chương 24: Ái dục khổ đệ nhất (Cũng may chỉ có một)
- Chương 25: Lửa ái cháy tay
- Chương 26: Thiên ma dâng ngọc nữ
- Chương 27: Lại nói về điều kiện đạt đạo
- Chương 28: Không nên chủ quan (Khi chưa phải là A La Hán)
- Chương 29: Đoạn trừ tâm ái dục – duy trì phạm hạnh
- Chương 30: Tránh dục như tránh lửa
- Chương 31: Đoạn âm không bằng đoạn tâm
- Chương 32: Diệt ái dục, ly sinh tử
- Chương 33: Tỳ kheo-chiến sĩ diệt lậu hoặc
- Chương 34: Độc lộ giải thoát (Tinh tấn trung đạo)
- Chương 35: Bỏ cấu nhiễm tâm, đạt đạo giải thoát
- Chương 36: Lại nói về cái khó của con người
- Chương 37: Chứng đạo phải do sự tu tập (Như Lai chỉ là người chỉ đường)
- Chương 38: Mạng sống con người chỉ trong một hơi thở
- Chương 39: Chư pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ
- Chương 40: Thân hành đạo - Tâm hành đạo
- Chương 41: Tinh tấn - Bỏ tình dục (Giải thoát)
- Chương 42: Phương tiện tri kiến, Như thị tri kiến
- Phụ lục
- Chuyện lạ về y đức của một bậc chân tu
I. DỊCH NGHĨA
Có vị sa môn hỏi Đức Phật:
- Thế nào là thiện? Cái gì là vĩ đại nhất?
Đức Phật dạy:
- Thực hành Đạo đế, bênh vực chân lý là thiện. Tâm chí tiếp hợp với đạo là vĩ đại nhất.
II. LƯỢC GIẢI
Cũng với thể loại vấn đáp đơn giản, ngắn gọn, kinh văn của chương 14 này lại định nghĩa đến hai thuật ngữ khá quen thuộc, đó là “thiện” và “vĩ đại” một cách súc tích với sắc thái của giáo lý Bắc tông.
Được hỏi thế nào là thiện, Đức Phật trả lời: “Thực hành Đạo đế, bênh vực chân lý là thiện”. Định nghĩa thiện này hoàn toàn lập cước trên nền tảng học lý Đại thừa Phật giáo. Nếu như ở phần lược giải của chương 4, chúng ta đã biết, thiện theo quan điểm truyền thống của Phật giáo Nam tông là không bệnh hoạn, là tốt đẹp, là khôn khéo, là không lỗi lầm, là có quả an vui[1] thì định nghĩa của kinh này súc tích hơn, xác đáng hơn. Thiện gồm hai phạm trù, thực hành Đạo đế và bênh vực chân lý. Đây cũng chính là nét đặc sắc của Kinh Bốn Mươi Hai Chương so với các kinh hệ Nikaya.
Đề cập đến Đạo đế, ta hiểu ngay rằng Đạo đế là chân lý về con đường diệt khổ. Con đường diệt khổ, theo sớ giải của các luận sư Bắc tông là 37 phẩm trợ đạo pháp, đứng đầu là 8 chánh đạo, kế đến là 7 giác chi, 5 căn, 5 lực, 5 tinh tấn, 4 như ý túc và 4 niệm xứ. Riêng đối với Phật giáo Nam tông, con đường diệt khổ là Bát Chánh Đạo. Vì trong 8 chánh đạo đã bao hàm 37 phẩm trợ đạo pháp.
“Này các Tỳ kheo, tu tập thánh đạo tám ngành làm cho sung mãn, 4 niệm xứ được tu tập đi đến viên mãn, 4 chánh cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực và 7 giác chi đều đi đến viên mãn.”[2]
Trên cơ sở đó, tám chánh đạo được xem là con đường diệt khổ độc nhất cứu cánh, hướng đến xuất ly sinh tử, giải thoát Niết bàn: “Thánh đạo tám ngành, nếu tu tập làm cho sung mãn đưa đến Niết bàn, đưa đến cứu cánh tịch diệt.”[3]
Ở một đoạn kinh khác, tám chánh đạo còn gọi là Trung Đạo.
“Thế nào là Trung Đạo? Này các Tỳ kheo, do Như Lai giác hiểu, đưa đến an tịnh thắng trí, giác ngộ Niết bàn. Chính là con đường thánh tám ngành.”[4]
Như vậy, khi phân chia chi tiết, chúng ta thấy:
- Có chánh tri kiến là thiện: Chánh tri kiến bao gồm thông đạt Tứ diệu đế, thông đạt nhaân quả báo ứng, thông đạt bản chất vô thường, vô ngã của các pháp về mặt hiện tượng, còn bản thể là bất sinh, bất diệt…
- Có chánh tư duy là thiện: Chánh tư duy là một thứ tư duy ly khai các loại suy luận thuần lý nằm trong nhị biên (có không), tứ cú (có, không, vừa có vừa không, chẳng có chẳng không). Hay nói đúng hơn, nó là một thứ tư duy xuất ly tư duy, và vô tam độc, tam bất thiện căn tư duy (tư duy không mang sắc thái tham, sân, si).
- Có chánh ngữ là thiện: Chánh ngữ là từ bỏ lời vọng ngữ, lời ly gián ngữ, lời độc ác, lời phù phiếm. Là nói đúng chân lý, đúng bản chất của vấn đề, không quanh co. Là ái ngữ, nhu nhuyến ngữ, chân thật ngữ.
- Có chánh nghiệp là thiện: Bao hàm những hành vi luân lý, ôn hòa, từ bi của Phật giáo như không sát sinh, không trộm cắp, không tà hạnh, không vọng ngữ, không uống rượu.
- Có chánh mạng là thiện: Chánh mạng là nếp sống đạo đức, phạm hạnh, hiền lương không phương hại đến lợi ích tha nhân, từ bỏ ác, làm điều lành, giữ tâm ý thanh tịnh, không gây tệ trạng cho xã hội…
- Có chánh tinh tấn là thiện: Chánh tinh tấn bao gồm bốn phạm trù tu tập. Điều ác đã làm, quyết không làm nữa. Điều ác chưa làm không bao giờ làm. Điều thiện đã làm ra sức phát huy. Điều thiện chưa làm, tạo điều kiện thực hiện.
- Có chánh niệm là thiện: Chánh niệm là vô niệm, là khéo quán tuệ, không tác ý bất thiện, tĩnh lự, tỉnh giác, với mục đích điều phục mọi tham ưu ở đời.
- Có chánh định là thiện: Chánh định ly các dục pháp (dục giới, sắc giới, vô sắc giới), lậu pháp (dục, kiến, hữu, vô sinh), tu tập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền.[5]
Đó là phạm trù thứ nhất của thiện. Phạm trù còn lại là “bênh vực chân lý”, chân lý là một khái niệm tương đối trừu tượng. Theo Bắc tông, chân lý là Tứ diệu đế, lục độ vạn hạnh, ngũ minh, và quan trọng là nguyên lý bất sinh, bất diệt của các pháp. Theo Nam tông, chân lý chính là Tứ diệu đế hay đơn giản hơn “các hành là vô thường, các hành là khổ (tương đối), các hành là vô ngã.”[6] Bênh vực chân lý là bảo vệ, giữ gìn, bênh vực những nguyên lý tuệ giác đó, dù có phải trả giá bằng sinh mạng.
Một vấn đề khác được nêu lên trong pháp thoại, là câu hỏi của một vị sa môn tham vấn Đức Phật về nhận thức quan với điều gọi là “vĩ đại nhất”. Nếu như quan điểm truyền thống của Bà la môn cho rằng vĩ đại nhất là người hội đủ năm đặc tính: 1/ Bà la môn thuần chủng. 2/ Tinh thông ba tập Veda, nhân tướng học, tự nhiên học. 3/ Dung mạo tuấn tú, đẹp trai. 4/ Nếp sống mẫu mực theo Bà la môn. 5/ Thông minh xuất chúng (Trường II, Kinh Sonadanda, tr. 130), thì Đức Phật cho rằng “tâm chí tiếp hiệp với Đạo là vĩ đại nhất”. Nội dung của Đạo như đã lược trình bày ở trên cũng như khái niệm “chí đạo” ở chương 13 và chương 2: “Vô niệm, vô tác, phi tu, phi chứng”. Tiếp hợp với đạo là tiếp hiệp với tám chánh đạo, là tiếp hiệp với nguyên lý “Vô niệm, vô tác, phi tu, phi chứng”. Cái vĩ đại như vậy mới thật sự là vĩ đại nhất. Vì khi tâm chí đã tiếp hiệp các chân lý, tâm hành giả sẽ xu hướng đến thiện pháp, ly bất thiện pháp, xu hướng đến Niết bàn, giải thoát: một sự vĩ đại của các vĩ đại.
Nhìn chung, cả hai định nghĩa về “thiện” và “điều vĩ đại nhất” của Đức Phật trong chương này thật siêu việt. Đồng thời, đây cũng là mốc đánh dấu những nét đặc thù trong nhận thức quan của Phật giáo Bắc tông là khúc chiết, sâu sắc. Thiện không chỉ là những hành vi luân lý đạo đức theo nghĩa thông thường, mà thật sự còn liên quan đến những phạm vi nhân bản và siêu nhân bản Phật giáo, nhân sinh quan và thế giới quan Phật giáo. Thiện còn liên quan đến nhận thức luận, và tam tuệ học giới (chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng), định (chánh ngữ, chánh niệm, chánh định) và tuệ (chánh kiến, chánh tư duy). Cũng như gọi là vĩ đại nhất, chưng bởi, tâm hiệp với chí đạo, với đạo đế, với nguyên lý siêu lý luận, thực chứng như đã nói.
Do đó, chương này còn xem là chương đặc thù của giáo lý Bắc tông trong Kinh Bốn Mươi Hai Chương.
[1] Bộ Pháp Tụ, tr. 24.
[2] Tương Ưng Bộ Kinh V, tr. 49.
[3] Tương Ưng Bộ Kinh V, tr. 11.
[4] Tương Ưng Bộ Kinh V, tr. 424.
[5] Theo Tương Ưng Bộ Kinh V, tr. 810.
[6] Dhp.277-279.
- Giải Thích Giới Luật Và Oai Nghi Của Sa Di Thích Nhật Từ dịch và chú thích
- Nghiên cứu giới Tỳ-kheo của Thượng tọa bộ: Đối chiếu với năm phái luật Phật giáo Lý Phụng My - Việt dịch: Thích Nhật Từ
- Giới Sa-di-ni, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn Thích Nhật Từ
- Giới Sa-di, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn Thích Nhật Từ
- Giới bổn Tỳ-kheo-ni của Luật Tứ phần Thích Nhật Từ
- T04. Tìm hiểu kinh Bốn Mươi Hai Chương Thích Nhật Từ
- 27. Hành trình đến chánh niệm Bhante Henepola Gunaratana - Jeanne Malmgren - Diệu Liên Lý Thu Linh dịch
- 66. Gieo trồng phước đức Thích Đạt Ma Phổ Giác
- 54. Đối thoại giữa Triết học và Phật giáo Jean Francois Revel & Matthieu Ricard - BS: Hồ Hữu Hưng dịch
- 34. Đậu Nành - Nguồn Dinh Dưỡng Tuyệt Hảo Tâm Diệu
- 48. Đối thoại giữa khoa học và Phật giáo Matthieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận - BS: Hồ Hữu Hưng dịch
- T11. Đối diện cái chết Thích Nhật Từ
- 37. Đạo học - Con đường an vui hạnh phúc Vân Như Bùi Văn Nhự
- 39. Đạo Phật hiện đại hóa Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
- 23. Đạo gì ? Thích Trí Siêu
Đánh giá bài viết này
Cùng tác giả
- Từ điển Phật giáo Việt Nam: Các mục từ đã làm xong
- Quy cách phiên dịch và biên tập Tam tạng thánh điển Phật giáo Việt Nam
- Thư mời tham gia biên soạn "Từ điển Phật giáo Việt Nam"
- Từ điển Phật học vần A-Z (2010 mục từ, ngày 02/1/2023)
- Từ điển Phật giáo (50 từ gợi ý trong tổng số 3500 mục từ đã hoàn tất) - Một số mục từ Văn học Phật giáo Việt Nam gợi ý
- Quy cách biên soạn "Từ điển Phật giáo Việt Nam"
- Dự thảo các nhóm biên soạn bộ "Từ điển Phật giáo Việt Nam"
- Bản sắc hóa và quốc tế hóa vị thế của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
- Khái quát Nội dung Kinh Trung Bộ
- Khái quát Nội dung Kinh Trường Bộ
Được quan tâm nhất

![]() |
Kinh Phật cho người tại gia 30/09/2014 14:27:00 |
![]() |
14 điều Phật dạy 26/09/2014 18:22:00 |

Gửi bình luận của bạn
BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)