Mục Đích Của Giáo Dục Phật Giáo

Đã đọc: 3367           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font

Một nguyên nhân chính về các vấn đề giáo dục của chúng ta xuất phát từ thương nghiệp hóa giáo dục. Ngày nay, mô hình tăng trưởng công nghiệp của xã hội mở rộng nhiều lãnh vực của nó, ngay cả xã hội nông nghiệp với quy mô lớn thuộc miền Đông và Đông Nam Á, đòi hỏi hệ thống giáo dục chuẩn bị cho học sinh/sinh viên trở thành những công nhân sản xuất trong tiến trình kinh tế bị chi phối bởi nổ lực đạt đến siêu lợi nhuận.

Một cách lý tưởng, giáo dục là công cụ chủ đạo đối với  sự phát triển của nhân loại, là yếu tố cần thiết để đào tạo một đứa bé ngây ngô trở thành một người lớn nghiêm chỉnh đứng đắn. Tuy nhiên, ngày nay, khắp mọi nơi trên thế giới, cả những nước đã phát triển và những nước đang phát triển, chúng ta có thể thấy rằng giáo dục chính thống đang gặp phải rắc rối nghiêm trọng. Sự hướng dẫn trong lớp học đã trở nên quen thuộc và liến thoáng đến nổi trẻ em thường xem trường học là một bài tập trong kiên nhẫn hơn là một cuộc phiêu lưu trong học hỏi nghiên cứu. Ngay cả những học sinh/sinh viên  xuất sắc và cần mẫn nhất cũng dể dàng trở nên thao thức áy náy, và nhiều em chỉ biết tìm cách giải thoát mình bằng con đường hút xách, nghiện ngập ma túy, thử nghiệm tình dục và bạo lực vô bổ. Bản thân các thầy/cô giáo cũng rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”, tuy không hài lòng với hệ thống mà mình đang phục vụ, nhưng cũng không thể tìm ra giải pháp hữu hiệu có ý nghĩa để thay thế.

            Một trong những lý do chính cho trạng thái buồn chán về công việc này là sự thiếu vắng tầm nhìn chú trọng đến mục đích giáo dục phù hợp hơn. Giáo dục, theo nghĩa đen, là “định hướng”, nghĩa là nó biểu lộ trách nhiệm đích thực của quá trình này nhằm vạch ra trong tâm trí tiềm năng bẩm sinh của nó cho hiểu biết. Sự nổ lực để học hỏi, hiểu biết và nhận thức là một đặc điểm căn bản của nhân loại, như bản chất bên trong nội tâm của chúng, còn đói, khát là thuộc về phạm trù của cơ thể. Tuy nhiên, trong thế giới vô cùng phức tạp hiện nay, sự hiếu học này thường xuyên bị bóp méo bởi những vòng xoáy đạo đức đơn điệu gây khổ đau cho xã hội rộng lớn hơn. Thực vậy,  giống như chúng ta thèm ăn các thực phẩm lành mạnh (thực phẩm không có độc) được nghành công nghiệp thức ăn nhanh chế biến với các thành phần nguyên liệu không có giá trị dinh dưỡng,  cũng thế, ở trường học, tâm trí của trẻ em bị thiếu hụt chất bổ dưỡng cần thiết cho sự tăng trưởng lành mạnh.. Trên danh nghĩa giáo dục, học sinh được thông qua các khóa học với sự truyền thụ kiến thức tiêu chuẩn nhằm mục đích tạo cho họ trở thành những quan chức có năng lực trong một hệ thống xã hội thiếu phẩm chất. Giáo dục như vậy có lẽ rất cần thiết để bảo đảm ổn định xã hội, chứ nó ít khi mang lại kết quả cao hơn trong học tập, việc chiếu rọi tâm linh với ánh sáng sự thực và lòng tốt.

            Một nguyên nhân chính về các vấn đề giáo dục của chúng ta xuất phát từ thương nghiệp hóa giáo dục. Ngày nay, mô hình tăng trưởng công nghiệp của xã hội mở rộng nhiều lãnh vực của nó, ngay cả xã hội nông nghiệp với quy mô lớn thuộc miền Đông và Đông Nam Á, đòi hỏi hệ thống giáo dục chuẩn bị cho học sinh/sinh viên trở thành những công nhân sản xuất trong tiến trình kinh tế bị chi phối bởi nổ lực đạt đến siêu lợi nhuận. Một quan niệm như vậy về mục đích của giáo dục là  khá khác biệt, từ đó phù hợp với các nguyên lý của Phật giáo. Hiệu quả thực tế chắc chắn có vị trí của nó trong giáo dục Phật giáo, vì Phật giáo đề xuất triết lý “trung đạo” thừa nhận các nguyện vọng tinh thần  cao thượng của chúng ta tùy thuộc vào một cơ thể khỏe mạnh và một xã hội vật chất an toàn. Tuy nhiên, theo Phật giáo, khía cạnh thực tiển của giáo dục phải được tích hợp với các nhu cầu khác trong ý định mang lại tiềm năng của bản chất nhân loại từ tính trung thực trong cách thức mà đức Phật đã hình dung. Trên tất cả, một quy chế giáo dục được hướng dẫn qua giới luật Phật giáo phải nhằm mục đích truyền đạt các giá trị tối đa để phổ biến thông tin. Nó phải được hướng dẫn không chỉ đơn thuần về các kỉ năng phát triển xã hội và thương mại, mà còn nuôi dưỡng hạt giống tinh thần cao thượng trong tâm hồn của học sinh/sinh viên.

            Ngày nay, từ khi xã hội thế tục tuyên bố rằng  thể chế giáo dục là tập trung vào việc chuẩn bị cho học sinh/sinh viên những nghề nghiệp của họ. Trong một đất nước Phật giáo như Sri Lanka, thì trách nhiệm hằng đầu là truyền đạt giới luật phật giáo cho học sinh/sinh viên khiến họ tự nhiên tham dự vào các trường Phật học. Giáo dục Phật giáo trong các trường Phật học nên được quan tâm trên hết với sự chuyển hóa tính cách. Vì tính cách của một con người được đúc kết bằng các giá trị, và những giá trị này được chuyên chở bằng những ý tưởng truyền cảm hứng, nên công việc trước tiên của các nhà giáo dục Phật giáo là phải đối diện trực tuyến để xác định rõ ý tưởng qua hệ thống giáo dục của họ. Nếu trở lại với các pháp thoại của đức Phật trong việc tìm kiếm ý tưởng phù hợp với một đời sống theo Phật giáo, chúng ta nhận thấy năm phẩm chất mà đức Phật thường nêu lên như là những tiêu chuẩn cho đệ tử mẫu mực, cả tu sĩ lẫn cư sĩ. Năm phẩm chất này là niềm tin, giới hạnh, khoan dung, nghiên cứu và trí tuệ. Hai trong năm phẩm chất đó-niềm tin và khoan dung-chủ yếu liên quan đến tâm thức: chúng được liên hệ với việc thuần hóa cảm xúc bên trong của bản chất nhân loại. Hai phẩm chất liên quan đến tri thức là nghiên cứu và trí tuệ. Riêng phẩm chất giới hạnh hay đạo đức liên hệ đến cả hai lãnh vực (tâm và tri thức) của nhân cách: ba giới đầu-không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm-điều chỉnh các cảm xúc; còn hai giới không nói dối, không uống rượu hổ trợ  phát triển sự sáng suốt và chân thật rất cần thiết cho nhận thức chân lý. Như vậy, giáo dục Phật giáo nhằm mục đích song song chuyển hóa tính cách và trí óc con người, quân bình cả hai lãnh vực này đồng thời bảo đảm chúng trở nên hoàn thiện.

            Toàn bộ hệ thống giáo dục Phật giáo đều phải bắt nguồn từ niềm tin (saddha)-tin tưởng vào Tam Bảo, và trên tất cả là tin vào đức Phật, một bậc Giác Ngộ hoàn toàn, một vị thầy vô song, một người hướng dẫn vô thượng cho đời sống chân thực và hiểu biết đúng đắn. Căn cứ vào niềm tin này, các học sinh/sinh viên phải được truyền cảm hứng để trở nên hoàn thiện trong đức hạnh (sila) bằng cách sống theo các nguyên tắc đạo đức được gọi là năm giới cấm (năm phạm trù học pháp).  Họ phải đến để biết rõ các giới luật này, thấu hiểu lý do để quan sát chúng, và biết cách áp dụng chúng vào trong những trường hợp khốn khó của cuộc sống con người ngày nay. Quan trọng nhất, họ cần phải nhận thức rõ những đức tính tích cực qua các phạm trù học pháp này hiện hữu: lòng tốt, lương thiện, trong sạch, trung thực và trí tuệ. Họ cũng phải có tính khoan dung và hy sinh (caga), do đó, rất cần thiết để khắc phục tính ích kỉ, tham lam và hẹp hòi, đồng thời tập trung vào sự tiến bộ của chính mình nhằm góp phần điều chỉnh xã hội ngày nay. Việc nổ lực hoàn thiện ý tưởng khoan dung độ lượng này là để phát triển lòng tự bi và tâm buông xả, các phẩm chất mà đức Phật đã thể  hiện suốt trong sự nghiệp hoằng hóa của Ngài. Điều đó có nghĩa mang tính hợp tác vĩ đại hơn là tính cạnh tranh, sự cống hiến để hoàn thiện hơn là tự cao tự đại, và hạnh phúc đích thực của chúng ta đạt được qua sự hài hòa và từ tâm hơn là bằng cách lợi dụng và bóc lột người khác.

            Giới thứ tư và thứ năm có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Bằng cách học tập (suta) có nghĩa là nắm bắt một kiến thức rộng lớn về kinh điển Phật giáo qua việc đọc nhiều và kiên trì nghiên cứu. Tuy nhiên, đơn thuần học vấn là chưa đủ. Kiến thức chỉ hoàn thiện mục đích thích ứng của nó khi nó phục vụ như một phương tiện hữu hiệu cho trí tuệ (panna), nhận thức sâu sắc của cá nhân trực tiếp về sự thực của các pháp. Tất nhiên, trí tuệ cao hơn hoàn thiện Bát Chánh Đạo chứ không nằm trong lãnh vực của trường Phật học. Trí tuệ này phải được sinh khởi bằng phương cách tu dưỡng tâm thức trong tỉnh lặng và quán chiếu, hai phạm trù của thiền định Phật giáo. Tuy nhiên, giáo dục Phật giáo có thể đi xa hơn trong việc bố trí khơi sáng trí tuệ này bằng cách dùng giới luật để gạn lọc được thấm nhuần bới nhận thức. Trong lãnh vực này, học vấn và trí tuệ có mối liên hệ chặt chẻ với nhau, cung cấp một nền tảng trước đây cho tương lai sau này. Trí tuệ phát sinh bằng cách thực hiện các ý tưởng  và các giới luật đã học thông qua nghiên cứu cơ cấu của tâm trí có hệ thống, trong đó đòi hỏi sự phản chiếu sâu sắc, nhanh trí thảo luận và quán chiếu tinh vi. Đây chính là trí tuệ mà đức Phật đã thể hiện như là phương tiện trực tiếp cho sự giải thoát tối hậu, là chìa khóa để mở cánh cửa bất diệt, và cũng là con đường dẫn đến thành công trong việc đương đầu với những thách thức của cuộc sống thế tục. Như vậy, trí tuệ là vương miện, là đỉnh cao nhất trong toàn bộ hệ thống giáo dục Phật giáo, và tất cả các bước sơ bộ trong hệ thống giáo dục Phật giáo cần được hướng tới nở hoa với đức hạnh vô thượng này. Đó là nền tảng khiến giáo dục đạt được thành công mỹ mãn, trở nên soi sáng trong tri giác chân thực nhất và sâu sắc nhất, như đức Phật đã thốt lên trong đêm giác ngộ của mình: “chánh kiến, tri giác, trí tuệ, hiểu biết và ánh sáng khởi lên trong ta”.

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập