Hành hương về đất Phật

Đã đọc: 6535           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font

Đoàn nhà thơ Việt Nam dự liên hoan thơ quốc tế tại Ấn Độ được bạn sắp xếp một chuyến hành hương về đất Phật.

Từ Kolkata chúng tôi về Bồ Đề Đạo Tràng (Boud dha gaya) bằng chuyến xe lửa chạy suốt đêm. Chúng tôi như lạc vào một ga xe lửa rất lớn có những đoàn tàu xuôi ngược liên tục.

Có thể nói ngành đường sắt Ấn Độ khá phát triển và đây cũng là phương tiện giao thông thuận tiện và rẻ nhất của một đất nước rộng lớn với hơn một tỷ dân. Sau một giấc ngủ say theo nhịp lắc lư như cánh võng, chúng tôi được đón ở cửa sân ga. Người đón lần này là người của nhà chùa Việt Nam Phật quốc tự do thầy Thích Huyền Diệu sáng lập.

 Thánh địa Phật giáo Ấn Độ.

 Ngôi chùa Việt Nam Phật Quốc Tự ở Ấn Độ.


Ngôi chùa Việt trên đất Ấn Độ


Thầy là một con người kỳ lạ, một vị Tiến sĩ người Việt tu nghiệp tại Pháp đã cất công xây dựng ngôi chùa này. Vào Chùa Việt Nam Phật quốc chúng tôi như lạc vào một ngôi chùa ở làng quê nào đó ở Việt Nam.


Bước qua cánh cổng đã bắt gặp những lũy tre xanh, những hàng chuối và rất nhiều cây ăn quả ở Việt Nam như đu đủ, bưởi, hồng... ở đây nghe được tiếng chim cu gáy thong thả. Ngôi chùa xây có nét kiến trúc như chùa ở Bắc Bộ nhưng có một cái tháp rất cao. Đây là nét khác biệt với ngôi chùa các nước khác xung quanh. Thầy Thích Huyền Diệu giải thích: Chùa Việt Nam tuy nhỏ nhưng phải có tháp cao để từ xa người ta đã nhận ra. Đặc biệt nổi bật trên các tấm cửa đều đắp nổi hình ảnh chữ S của đất nước Việt Nam.


Theo thầy: Để cho những người khiếm thị khi đến đây họ lấy tay sờ thì vẫn nhận ra đó là ngôi chùa Việt Nam. Bồ Đề Đạo Tràng chúng tôi được thầy Nhuận Đạt đang làm Tiến sĩ Phật giáo ở Ấn Độ đưa đi thăm nơi đất Phật khai minh dưới gốc cây Bồ Đề. Hoàng Đế Ashok cho xây một ngôi chùa lớn hình chóp vươn cao 60 mét lên nền trời như một ngọn bút, ở bốn góc lại có bốn tháp nhỏ trông hình dáng giống hệt như thế tạo nên sự hài hòa cân xứng cho cả ngôi chùa. Trong điện thờ chính có một pho tượng Đức Phật khá lớn ngồi trong tư thế nhập định hướng về phía Đông đúng tư thế của Đức Phật đã ngồi tựa bên cây bồ đề và thành đạo. Men theo bên trái ngôi chùa đến đằng sau là cây bồ đề của Đức Phật 2600 năm tuổi.


Ngay dưới gốc cây có một phiến đá lớn được gọi là tòa kim cương nơi Đức Phật tọa thiền. Trước lối vào là hai phiến đá đen hình tròn chạm khắc đôi bàn chân của Đức Phật. Cây Bồ Đề trong tiếng Anh và tiếng Hin - đi người ta gọi đó là cây bo, chắc hẳn xuất phát từ chữ Boldha của từ Srankrat có nghĩa là tỉnh thức và giác ngộ, lá Bồ Đề to bằng bàn tay hình trái tim. Ở đây chúng tôi làm lễ và mang về tặng bạn bè một ít lá Bồ Đề đã được ướp hương liệu.

Cây Bồ Đề nơi Đức Phật ngồi tọa thiền 49 ngày để giác ngộ có tuổi thọ 2600 năm tỏa bóng sum suê mát rượi. Rất nhiều đoàn khách các nước hành hương về đây, đông nhất là các nhà sư Tây Tạng có sắc phục rất riêng biệt màu đỏ thẫm. Tôi thẫn thờ chứng kiến cảnh đoàn người mộ đạo: đi 3 bước (tam bộ) là ngũ thế (gồm chân, tay, ngực trần...) của họ lại một lần chạm xuống đất (nhập địa) gọi là "Ngũ thế nhập địa". Đây là cách vái, lạy khổ sở, đau đớn nhất thế giới. Trán họ vồng lên u bướu và xám xịt với các vết sẹo, vệt chai. Bụng họ ấp một tấm da cừu, da ngựa còn cả lông lá đã sờn rách. Hai tay họ có khi được đeo hai cái guốc có quai da để khi "nhập" "đánh cộp một cái" đủ để "ngũ thế" xuống đất thì hai bàn tay chịu áp lực chính sẽ không chảy máu.


Kushinagar là nơi Đức Phật lui về nghỉ những ngày cuối cùng và nhập Niết Bàn ở tuổi 80. Hai nơi này là chứng nhân để nói lại cho nhân loại biết rằng Đức Phật cũng là một con người như một người trần, cũng có sinh có tử. Hai nơi khác đặc biệt quan trọng hơn là Bồ Đề Đạo Tràng nơi Hoàng Tử Tất Đạt Đa sau bao thăng trầm trong cuộc tìm kiếm chân lý đã ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Đề để được khai minh. Sau đó Người vượt 250 cây số để tới Saranath giảng bài kinh đầu tiên cho 5 tín đồ của Phật Giáo.

 Mặt nước sông Hằng trở lên lung linh, huyền ảo trong ngày

Lễ truyền thống của người Ấn Độ.


Tiếng hồng hạc gợi nhớ đồng quê Việt

 

Một Ấn Độ vừa huyền bí vừa sôi động để lại cho tôi những ấn tượng khó quên. Đặc biệt là ngôi chùa Việt Nam Phật quốc tự cứ neo mãi trong tôi hình bóng nước Việt luôn ở trong tâm hồn của những người con Việt xa xứ. Tạm biệt Ấn Độ xứ sở của thi ca và những điệu nhạc mê hồn. Tôi nhớ mãi câu thơ của thi hào Tago: "Cây là nỗ lực khôn cùng của đất để nói với bầu trời đang lắng nghe..."

 


Ấn tượng đặc biệt với tôi là khi qua biên giới hai nước Ấn Độ, Nêpal để đến với ngôi chùa Việt Nam của thầy Thích Huyền Diệu xây ở Lâm Ti Ni, thủ tục làm visa rất đơn giản. Mỗi người trong đoàn chỉ nộp 25 USD là có thể ở lại trên đất Népal 15 ngày. Cửa khẩu như một chiếc cổng chào người đi lại nhộn nhịp, ít thấy sắc phục cảnh sát. Nhưng đi sâu vào khoảng 300m gặp một toán cảnh binh Népal mặc áo rằn ri chặn lại. Vì chúng tôi đi ban đêm nên họ chỉ soi đèn pin lướt qua xem hộ chiếu và đặc biệt trò chuyện líu lo thật thân mật với chú lái xe và cười bắt tay chúng tôi rất cởi mở. Chỉ có một chi tiết khiến tôi giật mình là một chú chó cảnh rất đẹp đang hít hít: thì ra đó là một loài khuyển đánh hơi thuốc phiện rất nhạy.


Ngôi chùa Việt ở đất nước Népal rất lạ. Ở đây có một cái hồ nhỏ, ở giữa hồ xây ngôi chùa một cột, có cầu thang lên hiền hòa để người thật ôn hòa, thật tĩnh tâm mới có thể khéo léo lách mình vào được bên trong. Những người hấp tấp nôn nóng thì sẽ va đầu vào cửa và lui ra ngay thay cho việc bước tiếp vào trong chùa.


Sáng ngủ dậy tôi bỗng nghe thấy tiếng chim kêu lạ ở khu vườn chùa. Thì ra đó là một loài chim Hồng Hạc (loài chim quý hiếm trong sách đỏ) được thầy Huyền Diệu đưa về chăm sóc. Tiếng kêu thật da diết của những chú chim mỏ đỏ to, đi lại trong vườn chùa, vừa vươn cổ, vừa thoát ra những âm thanh mềm mại trông thật dễ thương như những chú cò của đồng quê Việt Nam.


Chúng tôi cũng đã đến vười Lộc Uyển, nơi sau khi đắc đạo, Đức Phật gặp 5 anh em A Nhã Kiều Trần Như  từng tu khổ hạnh ở đây. Đức Phật cho biết mình đã chứng ngộ được chân lý và thuyết giảng bài kinh đầu tiên ở đây mang tên "Chuyển pháp luân".Thật lạ ở đây người Ấn Độ cho khắc hàng chục bia đá bài kinh này của hàng chục thứ tiếng các nước nhưng ấn tượng nhất với chúng tôi là tấm bia đá thạch khắc chữ Việt Nam là lớn nhất.

 Đàm đạo cùng nhà sư Nhuận Đạt ở vườn chùa Phật Quốc Tự.


Ấn tượng sông Hằng


Đến Ấn Độ chúng tôi được leo lên đỉnh núi Linh Thứu Sơn. Đỉnh núi linh thiêng này đánh dấu nơi Đức Phật thuyết giảng bộ kinh đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa. Thầy Huyền Trang thế kỷ thứ VII (nhân vật chính Đường Tăng trong Tây Du Ký) ngày xưa cũng từng đến chiêm bái Linh Thứu Sơn. Nơi đây còn lưu giữ cả nền tháp xây bằng gạch đỏ và các tảng đá mà Đức Phật ngồi thiền. Giữa đỉnh cao núi non thật trong trẻo tôi ngỡ như có một từ trường kỳ lạ nâng bổng mình lên nhẹ nhõm.


Mười ngày đi Ấn Độ không xem ti vi (vì không hiểu tiếng Ấn) không nghe điện thoại (ngoài vùng phủ sóng) không Internet, ăn chay mà con người vẫn được kết nối với cộng đồng bằng một sợi dây vô hình là tâm linh. Leo núi không mỏi mệt, đi đường bộ mà cứ như bay, thật thanh thản lạ lùng. Ngôn ngữ chính vẫn là những nụ cười, ánh mắt, cái bắt tay thân thiện.

Người Ấn Độ ăn bằng cách bốc. Họ cho rằng như thế là tôn trọng các sản vật thiêng liêng của lúa gạo. Những tấm bánh mỳ không trộn bất cứ hoạt chất gì  khác, được nướng trực tiếp trên những tấm vỉ sắt nóng chấm với một thứ nước sền sệt đủ các loại thực phẩm bổ dưỡng lúc nào cũng có pha một thứ hương liệu đặc biệt không thể thiếu, đó là bột cà ry.

Thực phẩm tươi sống ở đây thật rẻ. Với 30 ngàn đồng tiền Việt đã ăn xong một bữa trưa thật đơn giản. Bữa ăn của họ tuyệt đối chỉ có nước lọc chứ không thấy bia rượu. Đặc biệt buổi sáng có món trà sữa là không thể thiếu đối với người Ấn. Chúng tôi cùng đứng uống trà với họ. Những chén trà sữa nóng bốc khói đựng trong những chiếc cốc nhựa nhỏ hoặc nặn bằng đất nung chỉ dùng một lần. Trời lạnh, uống trà sữa xuýt soa, cổ quàng những chiếc khăn to xù, có khi quấn cả nửa người- Đó là nét đặc trưng ẩm thực và ăn mặc của người Ấn Độ bình dân.

Các công sở, cửa hàng bắt đầu mở cửa làm việc từ 10h sáng (tức là 11h30 Việt Nam). Họ dành toàn bộ thời gian yên tĩnh nhất của buổi sáng cho công việc tâm linh như cầu nguyện hay là những việc làm trong sạch nhất của cá nhân với gia đình của họ. Người Ấn Độ sống chậm, nhẩn nha và gắn kết cộng đồng bằng một sợi dây vô hình trong đó có cả âm nhạc và ca hát, ít tức giận và ganh ghét đố kỵ.


Ấn tượng cuối cùng của tôi khi rời Ấn Độ là con sông Hằng mà Đài truyền hình TP Hồ Chí Minh đã từng làm một sê ri phim hàng chục tập "Huyền bí sông Hằng". Chúng tôi đi dọc sông Hằng. Ở đây rất nhiều chim giống như hải âu bay rợp trời sà xuống thuyền. Đặc biệt dân địa phương ít ăn cá sông Hằng vì họ cho rằng đây là cá thiêng.

Tôi cũng gặp một đám cưới đi dọc sông Hằng.. Chú rể trong sắc phục hoàng tử, còn cô dâu thì đeo rất nhiều trang sức bằng vàng. Người Ấn Độ rất quý vàng. Người nghèo nhất cũng có vài chiếc vòng vàng đeo trong ngày hội. Con gái đi đám cưới thường choàng một tấm khăn màu đỏ như một dấu hiệu riêng. Đi dự đám cưới họ không những được ăn uống ca hát vui chơi mà còn được nhà chủ thưởng tiền, tạo ra một không khi lễ hội thật tưng bừng như đi hái lộc xuân vậy.

Nguồn: GiaDinh.net.vn

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

5.00

Tags

Không có tags cho bài viết này

Được quan tâm nhất

Previous
Next

Đăng nhập