Quê hương, ngôi chùa và thiên nhiên trong cõi thơ của Trần Nhân Tông
Thị phi, thành bại, vinh nhục cùng bao nhiêu chuyện đời lô nhô lố nhố khác cũng ra đi cùng với trận mưa đêm qua. Cuối cùng, chẳng còn lại gì cả, chỉ còn một chút "núi non tịch mịch" đọng lại trong hồn Thiền sư thi sĩ mà thôi.

Thứ bóng chiều mà Trần Nhân Tông đã quan sát rất tinh tế qua câu: "Bán vô bán hữu tịch sương biên". Tức là "Trời nhá nhem tối" hay "Trời chạng vạng" như người dân ở các miệt miền quê thuộc miền Trung vẫn thường gọi như vậy, để chỉ lúc ngày và đêm đang giao thoa với nhau.
Thật là một điều sai lầm, trong thi ca cổ điển của Việt Nam, ngay cả Nguyễn Du, một thi hào đã nhìn thấu suốt hết nỗi "đoạn trường" của kiếp nhân sinh, khiến mỗi lần chúng ta đọc đến là thấy tâm hồn buốt lạnh. Vậy mà khi tả về phong cảnh thì tuyệt nhiên không thấy con trâu, con bò, con cò trắng hay cánh đồng lúa xanh đâu cả. Phải đợi đến Nguyễn Khuyến, tức là đến tận cuối thế kỷ thứ 19 thì phong cảnh và đời sống "chân lấm tay bùn" của quê hương mới xuất hiện trong thi ca. Vì sao như vậy? Có lẽ, đó là kết quả đương nhiên của lối học từ chương chăng? Hay cũng có thể là vì mặc cảm nữa, rằng sự nghèo nàn và mộc mạc đối với họ không phải là cái đẹp mà thi ca họ muốn hướng đến.
Chính vì thế, mà mỗi khi tả về phong cảnh thì lúc nào cũng phải có "tuyết, nguyệt, phong, hoa" hay "hồ, đình, liễu, tạ", những cảnh mà ta bắt gặp đầy dẫy khi đọc thi ca Trung Quốc. Mặc dù, chính họ thì đang sống và đôi chân hằng ngày vẫn lê bước trên những con đường thôn dã của Việt Nam.
Trong khi đó, Trần Nhân Tông được sinh ra và lớn lên giữa chốn triều đình, không sống ở thôn dã. Thế mà Trần Nhân Tông đã làm một bài thơ phong cảnh, có thể nói là hoàn toàn Việt Nam. Như vậy, ta thấy rằng tấm lòng ông mộc mạc và gần gũi với quê hương đất nước đến chừng nào.
Một lần khác, cũng tại quê nhà, Trần Nhân Tông đi dạo một mình trên con đường đất có nhiều bùn lầy. Cơn mưa vừa tạnh, đã xóa sạch những đám bùn nhơ đó. Trước mắt Trần Nhân Tông hiện ra những màu sắc linh hoạt vô cùng:
"Lục ám hồng bi bội tịch liêu
Tễ vân thôn vũ thổ hoa tiêu"
Màu xanh thẫm, màu đỏ thưa, cảnh thêm vắng vẻ
Mây quang, mưa tạnh, ngấn bùn đất cũng mất sạch
Trần Nhân Tông vừa đi vừa ngước nhìn ngôi chùa Phổ Minh rêu phủ thì lòng chợt u hoài vì nhớ đến vua cha:
"Phổ Minh phong cảnh hồn như tạc
Phảng phất canh trường nhập mộng nhiên"
Phong cảnh chùa Phổ Minh vẫn như trước,
Phảng phất trong chiêm bao hình dánh vua cha, như trông tường thấy bóng, ăn canh thấy hình...
Tại sao nhìn ngôi chùa mà lại nhớ đến vua cha? Phải nhìn những gì có liên hệ đến sinh hoạt của vua cha khi còn sanh tiền, như nơi làm việc của vua cha, lăng mộ của vua cha, nơi vua cha thường đi dạo như vườn ngự uyển thì nhớ vua cha mới hợp lý chứ? Có lẽ, đây là lần đầu tiên ngôi chùa và hình bóng người cha lại xuất hiện cùng một lúc trong cõi thơ của Việt Nam vậy.
Vì dường như, với Trần Nhân Tông, thì ngôi chùa, người cha, hay quê cha đất tổ cũng chỉ là một mà thôi?
![]() Còn một biến cố này nữa, vào năm Mậu Thân, tức là năm 1308, chị của Trần Nhân Tông bị bệnh nặng. Thiên Thụy công chúa muốn thấy mặt em mình trước khi nhắm mắt, bèn sai người nhà lên Yên Tử báo tin. Trần Nhân Tông liền chống gậy xuống núi. Theo sách Thánh Đăng ngữ lục, thì Trần Nhân Tông bắt đầu rời núi từ mồng 3 nhưng đến mồng 10 mới đến kinh đô Thăng Long. Sau khi thăm và dặn dò chị xong, đến ngày Rằm Trần Nhân Tông lại chống gậy về núi trở lại.
Trên đường trở về, Trần Nhân Tông ghé và nghỉ lại trong một ngôi chùa cổ ở làng Hương Cổ Châu. Sáng hôm sau, trước khi tiếp tục lên đường, Trần Nhân Tông đã ghi lại bốn câu thơ này trên vách tường của chùa:
"Thế số nhất sách mạt
Thời tình lưỡng hải ngân
Ma cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thắng xuân"
(Đề cổ Châu Hương thôn tự)
Số đời hoàn toàn mờ tịt
Tình người đổi thay qua đôi mắt
Khi cung ma bị quản chặt
Thì cõi Phật tràn ngập màu xuân.
Có những bài thơ, ta đọc mà không cần biết làm ở đâu và trong hoàn cảnh nào, nhưng đọc vẫn cứ thấy hay. Nhưng ngược lại, có những bài thơ mà ta phải biết lý do và hoàn cảnh khi tác giả làm, thì đọc mới thấy hay được. Đây là trường hợp bài "Đề cổ Châu Hương thôn tự" này chẳng hạn.
Đứng trước cái chết sắp xảy ra cho chị mình, Trần Nhân Tông không giữ được sự xúc động về số phận bi thảm của kiếp người.
Nhưng kiếp người càng đen tối bao nhiêu, thì ông lại càng tin tưởng mãnh liệt vào con đường đi lên đầy chông chênh mà ông đang đi bấy nhiêu. Vì, như Trần Nhân Tông đã viết:
"Phật Quốc bất thắng xuân"
Vì cõi Phật thì tràn ngập màu xuân
Và trên đỉnh cao của núi Yên Tử ấy, chắc Trần Nhân Tông đã tìm thấy một mùa xuân vô tận?
Nhưng bài thơ độc đáo ở chỗ, khi đọc lên ta thấy nỗi dằn vặt khôn nguôi của Trần Nhân Tông về thân phận bi thảm của kiếp người.
Đêm ấy, trong một ngôi chùa cổ ở làng Hương Cổ Châu, ta có thể đoán chắc rằng, cả đêm Trần Nhân Tông đã không chợp mắt được, vì ông đã bị đôi mắt của người chị mình ám ảnh. Trong đôi mắt ấy, hiện ra những mảnh đời: những năm tháng làm vua trong triều, cơ nghiệp nhà Trần, dù đang hồi hưng thịnh đấy, nhưng cuộc đời thì đầy dâu biển, chắc chắn một ngày nào đó không xa, rồi cũng sẽ như đôi mắt của chị mình, đôi mắt như đang luyến tiếc cả những năm tháng huy hoàng xưa, rồi cũng từ từ khép lại vĩnh viễn mà thôi.
Thì ra, ngôi chùa với Trần Nhân Tông, không chỉ là nơi ông trở về để an thân lập mệnh, mà cũng còn là nơi chốn để ông tâm sự về những nỗi dằn vặt và khổ đau của chính đời mình nữa.
II. Nếu ai đã từng đọc Thiền (Zen) và thi ca Nhật Bản, chắc khó quên được hai nhà thơ Tây Hành (Saigyo) và Ba Tiêu (Bashô).
Lịch sử thi ca Nhật Bản gọi họ là hai nhà thơ lãng tử, vì cả hai đều bỏ trọn cả đời để đi lang thang khắp mọi nẻo đường, nhất là những nẻo đường thôn dã của nước Nhật.
Họ đã đi tận đến những nơi xa xôi, đến tận những chân trời mênh mông bát ngát để lắng nghe niềm im lặng của cỏ nội hoa đồng.
Tây Hành và Trần Nhân Tông của Việt Nam có nhiều điểm tương đồng.
Tây Hành đã từ bỏ chức quan dưới triều Kiếm Thương (Kamakura). Và Trần Nhân Tông thì từ bỏ ngôi báu của nước Đại Việt. Như vậy là, cả hai cùng từ bỏ giai cấp quý tộc của mình để đi tu, và cả hai đều say mê Phật giáo Thiền Tông.
![]() Ở Nhật Bản, chân dung của Tây Hành trong chiếc áo du tăng, đứng ngóng ngọn núi Phú Sĩ phủ đầy tuyết trắng được trưng bày khắp nơi như niềm hãnh diện của dân tộc Nhật.
Nhưng rất buồn là ở Việt Nam, hầu như chỉ biết Trần Nhân Tông như một nhà anh hùng dân tộc hay vị sơ tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, chứ ít ai biết Trần Nhân Tông như một thi sĩ lang thang. Sách Tam Tổ Thực Lục có ghi: "Điều ngự (tức Trần Nhân Tông) đã đi khắp mọi nẻo đường thôn quê, khuyên dân phá bỏ các dâm từ và thực hành giáo lý Thập Thiện".
Dĩ nhiên trong tư cách một Thiền sư, mà lại là người đã sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, thì sứ mạng chính là hoằng dương chánh pháp, khai mở yếu chỉ của Thiền tông. Nhưng khi bước chân của Trần Nhân Tông đã lang thang đây đó thì cái đẹp của thiên nhiên cũng đã quyến rũ tâm hồn ông rất nhiều. Mặc dù, đang gánh vác nhiều trách nhiệm nặng nề nhưng khi đứng trước cái đẹp của thiên nhiên, thì Trần Nhân Tông như muốn bỏ hết mọi hệ lụy của cuộc đời, để được đắm mình trọn vẹn vào cái đẹp hồn nhiên của thiên nhiên. Bởi vậy, ông gần như muốn đưa ra một điều kiện cho những ai muốn cùng ông thưởng thức cái đẹp của thiên nhiên. Ví dụ, khi đứng trước một mùa xuân như thế này:
"Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi"
(Xuân cảnh)
Trong khóm hoa dương liễu rậm, chim hót chậm rãi
Dưới bóng thềm ngôi nhà chạm vẽ, mây chiều lướt bay.
Thì điều kiện của Trần Nhân Tông đưa ra như sau:
"Khách lai bất vấn nhân gian sự
Cộng ỷ lan can khán thúy vi"
Khách đến chơi không hỏi việc đời
Mà nên cùng tựa lan can ngắm màu xanh mờ mịt ở chân trời.
Chuyện đời, với Trần Nhân Tông là chuyện gì?
"Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tầm tùy dạ vũ hàn
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề hiểu hựu xuân tàn"
Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm
Lòng lợi danh lạnh theo trận mưa đêm
Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch
Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn.
Thị phi, thành bại, vinh nhục cùng bao nhiêu chuyện đời lô nhô lố nhố khác cũng ra đi cùng với trận mưa đêm qua. Cuối cùng, chẳng còn lại gì cả, chỉ còn một chút "núi non tịch mịch" đọng lại trong hồn Thiền sư thi sĩ mà thôi.
Để tiếp tục cuộc lãng du của đời mình, vào năm 1301, Trần Nhân Tông quyết định đi Chiêm Thành, không phải đi trong tư cách một vị Thái Thượng Hoàng của nước Đại Việt, mà ông đã ra đi như một du tăng, vì lúc bấy giờ ông đã đi tu rồi.
Khởi hành từ mùng 3 nhưng mãi đến tháng 11 năm đó Trần Nhân Tông mới về lại Thăng Long.
Không còn hồ nghi gì nữa, chắc chắn Trần Nhân Tông đã mang thông điệp hoà bình của Phật Giáo Đại Việt đến cho Chế Mân, vua của nước Chiêm Thành, trong cuộc gặp gỡ giữa hai người tại kinh đô Đồ Bàn.
Và cũng nhân cơ hội này, để tạo tình hữu nghị lâu dài cho hai nước nên Trần Nhân Tông đã hứa gả con gái mình, tức Huyền Trân công chúa cho Chế Mân. Ta có thể xem đây như là một hy sinh lớn lao, vì Trần Nhân Tông đã đặt quyền lợi Tổ quốc lên trên quyền lợi gia đình.
Nhưng điều mà ta muốn nói ở đây là: Trần Nhân Tông đã ra đi như một thi nhân, một thi nhân rất khát khao đến những miền đất xa lạ.
Con đường thiên lý từ Thăng Long đến Đồ Bàn (Bình Định ngày nay) biết bao là kỳ hoa dị thảo trên bước chân của thi nhân. Thiên nhiên lúc ấy vẫn còn hoang sơ. Sở dĩ ta gọi là hoang sơ vì con người thời ấy chưa hề có ý nghĩ chinh phục thiên nhiên.
Và con người sẽ trơ trọi biết bao, nếu con người bị ly cách khỏi thiên nhiên!
Ta có thể tạm kết luận một cách thơ mộng rằng, Trần Nhân Tông là thi nhân đầu tiên của nước ta, đã nhìn được dãy Trường Sơn chạy dọc theo miền Trung bấy giờ.
Có lẽ, từ thủa con người mới biết làm thơ, thì núi non đã là nơi gợi hứng vô tận cho hồn thơ của họ rồi, nhất là các thi sĩ của Đông phương.
Chẳng hạn, Tây Hành và Ba Tiêu luôn luôn đứng ngóng đỉnh núi Phú Sĩ của Nhật Bản phủ đầy tuyết trắng, Tô Đông Pha của Trung Quốc vẫn ôm giấc mộng khám phá cho được chân diện mục của núi Lô Sơn khuất sau những tảng mây mù, và Nguyễn Du của Việt Nam vẫn thường rong chơi trên chín ngọn Hồng Lĩnh.
Có lẽ, vì núi cao và đầy hiểm hóc, nên núi non vẫn luôn luôn là biểu tượng cho những kẻ đi tìm tuyệt đối.
Mà thi nhân, chẳng phải là kẻ đi tìm tuyệt đối đó sao?
Với Trần Nhân Tông cũng thế, trong bài phú bằng tiếng Nôm, bài "Cư trần lạc đạo", ông viết:
"Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao
Chiền vắng am thanh, chỉn thật đạo nhân du hí.."
Trần Nhân Tông mất ngày 1 tháng 11 năm Mậu Thân (1308). Vậy mà tháng 9 năm đó, ông đã cùng với đệ tử là Bảo Sát đi dạo khắp các núi nằm trong dãy Yên Tử, thì ta biết lòng của Trần Nhân Tông yêu núi non biết chừng nào!
![]()
|
- Vài đóng góp của tự điển Béhaine trong văn hoá ngôn ngữ Việt Nam Nguyễn Cung Thông
- Bạo lực ngôn từ Thích Thanh Thắng
- Phố nửa làng Thích Tâm Nhãn
- Đi lễ chùa Việt ở các nước trên thế giới NamBun (PL&XH)
- Chùa Thiện Ân, Fresno (Hoa Kỳ) với vườn tượng lộ thiên và vườn cây cảnh tuyệt đẹp Võ Văn Tường
- Nhẫn nhục thế nào cho chính đáng? Thích Thanh Từ
- Vào chùa chụp ảnh có sao không? Đức Tùy
- Bí ẩn bức tượng 'ông Phật đen' ở Quan Âm tu viện Biên Hòa Nguồn: vtc.vn
- Câu chuyện “tắm Phật”! Thích Quảng An
- Ngày Của Mẹ Thích Trừng Sỹ
- 6 câu nói người xưa khuyên nên đọc hàng ngày Nguồn:Daikynguyenvn.com
- Cung tiễn Ân Sư Thích Đồng Trí
- Bảo tồn và phát huy Văn Hóa Phật Giáo ở Châu Á Trần Hồng Liên
- Thông điệp tình người trong mùa Sen nở Tiểu Bình
Đánh giá bài viết này
Cùng tác giả
- Thi ca Huyền Không với tuổi thơ học đạo
- Rabindranath Tagore – Thi nhân đi tìm vô hạn trong vòng tay của bà mẹ cát bụi
- Quê hương, ngôi chùa và thiên nhiên trong cõi thơ của Trần Nhân Tông
- Cuộc hành trình cuối cùng của đức Phật với những thống khổ muôn đời của nhân loại
- Thiền sư Chân Nguyên với tín ngưỡng Di Đà tại Việt Nam
- Cuộc hành trình của đức Phật với những thống khổ muôn đời của Nhân loại
- Buddhaghosa và Lev Tolstoy - Những người đi tìm ý nghĩa cho cuộc đời
- Thiền sư Chân Nguyên với tín ngưỡng Di Đà tại Việt Nam
- Từ đêm nhìn sao mai mọc nơi rặng hy mã lạp sơn đến những con đường thôn dã của quê hương
Được quan tâm nhất

![]() |
Thông điệp tình người trong mùa Sen nở 25/05/2010 12:22:00 |
![]() |
Cung tiễn Ân Sư 01/05/2016 08:10:00 |
Bí ẩn bức tượng 'ông Phật đen' ở Quan Âm tu viện Biên Hòa 24/05/2016 09:51:00 |
![]() |
Câu chuyện “tắm Phật”! 19/05/2016 10:40:00 |
![]() |
Bảo tồn và phát huy Văn Hóa Phật Giáo ở Châu Á 07/04/2015 16:33:00 |
Quê hương, ngôi chùa và thiên nhiên trong cõi thơ của Trần Nhân Tông 04/11/2016 10:19:00 |
6 câu nói người xưa khuyên nên đọc hàng ngày 05/05/2016 06:52:00 |
Nhẫn nhục thế nào cho chính đáng? 08/06/2016 12:56:00 |

Gửi bình luận của bạn
BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)