Đạo Phật Ngày Nay

Phật Sự Trọng Đại Của Người Xuất Gia

Người xuất gia, khi khoác lên mình chiếc y giải thoát, thường nhớ đến chí nguyện “ Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”, đem ánh sáng giác ngộ đến với tha nhân, đem đạo vào đời làm lợi lạc quần sanh.

         “Hủy hình thủ khí tiết. Cắt ái từ sở thân. Xuất gia hoằng Thánh đạo. Thệ độ nhất thế nhân”. Đây là bài kệ được tuyên thệ trong buổi lễ xuất gia, từng câu từng chữ như được thấm nhuần chí nguyện thiêng liêng, cao cả của người con Phật. Vậy Phật sự trọng đại của người xuất gia là gì ?.

     Phật sự : có nghĩa là những việc làm nhằm phát huy và xiển dương tinh thần thượng cầu hạ hóa của Phật giáo.

    Theo Kinh Duy-ma, Đức Phật đối với tất cả việc đều xem là Phật sự, đây là biểu thị đức tính của Phật.

    Thiền tông dùng từ ngữ này để chỉ cho các việc làm nhằm xiển dương Phật pháp như : khai nhãn, an tòa (an trí tượng Phật) niêm hương, thượng đường, nhập thất, phổ thuyết, dạy chúng… Nói chung các nghi thức cử hành trước Phật đều gọi là Phật sự.(1)

    Trọng đại : là việc to lớn, quan trọng.

    Xuất gia : lìa bỏ sinh hoạt gia đình, chuyên tâm tu theo tịnh hạnh của Sa-môn; cũng chỉ cho người xuất gia tu đạo, đồng nghĩa với Sa-môn, Tì-kheo. Vì xuất gia là xa lìa cõi thế tục nên còn gọi là Xuất trần. Xuất gia phải cạo bỏ râu tóc, không trang sức, đồng thời mặc y hoại sắc, nên xuất gia còn gọi Lạc sức, Thế phát, Lạc phát nhiễm y, Thế phát nhiễm y, Thế nhiễm, Lạc nhiễm. Trong 7 chúng đệ tử, ngoài 2 chúng tại gia là Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di thì 5 chúng Tì-kheo, Tì-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di và Sa-di-ni đều thuộc chúng xuất gia, gọi là xuất gia ngũ chúng. (2)

    Sanh tử là việc lớn, vô thường nhanh chóng. Thế nên, người xuất gia cần tu tập sáng đạo để thoát ly sanh tử. Và Phật sự trọng đại của người xuất gia là tu tập đạt được giác ngộ, giải thoát để trước tự lợi sau lợi tha.

    Muốn được giác ngộ, người xuất gia cần chuyên tâm tu tập giới, định, huệ, ôn tầm văn, tư, tu và để tâm nghiên cứu nơi Tam tạng kinh điển. Đây là kim chỉ nam để mỗi hành giả nương theo, hành trì trên lộ trình giác ngộ, giải thoát.

    Giới, Định, Tuệ: còn gọi Tam vô lậu học.

    Theo Phiên Dịch Danh Nghĩa tập 4, “Giới” là ngăn ngừa đều sai trái, đình chỉ việc xấu ác, “Định” là dứt ưu lự, lắng các duyên; “Huệ” là phá ác chứng chân. Tu học được 3 pháp này có thể đạt được vô thượng Niết-bàn chứng thánh quả Vô lậu.

  1. 1.     Giới học: Tiểu thừa gồm có 5 giới, 8 giới, 250 giới; Đại thừa có tam tụ tịnh giới, 10 giới trọng 48 giới khinh.
  2. 2.     Định học: Tiều thừa có Thiền định, Tứ vô sắc định, Cửu tưởng, Bát bối xả v.v… Đại thừa lại thêm Cửu chủng Đại thiền, Bách bát tam-muội, Bách nhị thập tam-muội…
  3. 3.     Huệ học: Tiểu thừa quán Tứ đế, Thập nhị nhân duyên; Đại thừa quán Chân như, Thật tướng…

Ngoài ra, Giới, định, huệ có thêm 2 chữ “Tăng thượng”, nghĩa là thù thắng, như: Tăng thượng giới, Tăng thượng định và Tăng thượng huệ. (3)

    Văn, tư, tu: hay còn gọi là Tam Huệ, ba thứ trí huệ có năng lực phân biệt sự lí các pháp.

  1. 1.     Văn huệ: Trí huệ nghe biết từ 3 tạng, 12 phần giáo hoặc thiện tri thức, có công năng sanh ra thánh huệ vô lậu, nên gọi là Văn sở thành huệ. Đây là sự thành tựu của Thanh văn.
  2. 2.     Tư huệ: Thánh huệ vô lậu sinh ra từ sự tư duy các đạo lý đã nghe, đã thấy. Đây là sự thành tựu của Duyên giác.
  3. 3.     Tu huệ: Thánh huệ vô lậu sinh ra nhờ sự tu tập. Đây là sự thành tựu của Bồ-tát.

Văn huệ là Nhân của Tam huệ, nếu chúng sanh thụ trì, chuyển đọc, truyền bá rốt ráo các Kinh tạng thì sinh Huệ; y theo Văn huệ này thì sinh Tư huệ, y theo Tư huệ này thì sinh Tu huệ. Đây là quá trình đoạn trừ phiền não, chứng đắc Niết-bàn, giống như từ hạt giống nẩy mầm, từ mầm sinh thân, từ thân chuyển sinh ra cành lá, hoa quả. Cho nên 2 huệ trước thuộc về Tán huệ, chỉ là trợ duyên làm phát khởi Tu huệ, còn Tu huệ là định trí, có tác dụng đoạn hoặc chứng chân. Nếu nói theo giai vị của Đại thừa Bồ-tát thì giai vị Thập trụ được Văn huệ, giai vị Thập hạnh được Tư huệ và giai vị Thập hồi hướng được Tu huệ. (4)

    Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, chương thứ nhất, Đức Phật có dạy rằng: Âm “ Phật ngôn: Từ thân xuất gia, thức tâm đạt bổn, giải vô vi pháp, danh viết Sa môn”. Nghĩa : “ Phật dạy : Từ giã cha mẹ đi xuất gia học đạo, thấu rõ nguồn tâm, hiểu vô vi pháp, được gọi là bậc Sa môn”. (5)

    Thức tâm đạt bổn: tức rõ được chân tâm, Phật tánh vốn sẵn có nơi mỗi người.

    Vô vi pháp: pháp không có tạo tác, lìa sinh diệt biến hóa và tuyệt đối thường trụ. (6)

    Sa môn: người xuất gia cạo bỏ râu tóc, siêng làm các việc lành, dứt bỏ các điều ác, điều phục tâm, chế ngự thân, để mong đạt đến cảnh giới Niết-bàn. (7)

    Ở đây, Đức Thế Tôn dạy người xuất gia khi đã xả bỏ thế tục, từ giã cha mẹ, quyến thuộc cần phải chuyên tâm tu tập để thấu suốt nguồn tâm, ngộ pháp vô vi, được gọi là Sa môn, là những bậc xiển dương giáo pháp Phật đà, chuyển mê khai ngộ, làm lợi lạc cho tha nhân.

    Nếu như người thế gian lấy công danh, địa vị để làm sự nghiệp, thì Đức Phật dạy người xuất gia phải lấy trí huệ làm sự nghiệp. Nhân nơi trí huệ, hành giả thấy, biết như thật, mà không khởi tâm so sánh, dính mắc, phân biệt. Nhân nơi trí huệ mà thân, khẩu, ý được trang nghiêm thanh tịnh, không gây tạo tội lỗi. Và cũng nhân nơi trí huệ, mà người xuất gia biết được đâu là việc đúng pháp, đúng thời để làm lợi lạc cho tha nhân.

    Trí huệ: Trí huệ do tu tập Bát chánh đạo và 6 hạnh Ba-la-mật mà chân thật hiển hiện. Trí huệ này cao sâu, thấy rõ tất cả sự vật và đạo lí, nên gọi là Bát-nhã. Bồ-tát muốn đạt đến bờ bên kia phải tu 6 hạnh Ba-la-mật. Trong ấy, Bát-nhã Ba-la-mật (Trí huệ ba-la-mật) được gọi là mẹ của chư Phật, là nền tảng cho 5 Ba-la-mật còn lại và đứng vào địa vị quan trọng nhất. (8)

    Đây là phần tự lợi, kế đến là phần lợi tha.

    Trong phần lợi tha, tùy vào khả năng và hạnh nguyện, mà người xuất gia tùy duyên để độ sanh. Hành giả tu tập lợi lạc được đến đâu thì làm lợi ích cho tha nhân đến đó. Nhưng tựu trung, cũng không ngoài cốt yếu của lời Phật day: “Không làm mọi điều ác. Thành tựu các hạnh lành. Tâm ý giữ trong sạch”. (9)

    Kế đến là việc hoằng dương chánh pháp, đây là sứ mạng thiêng liêng, cao cả của người xuất gia, đem đạo vào đời, làm lợi lạc cho tha nhân, giúp chúng sanh đi đến con đường hướng thiện, hướng thượng có được đời sống chân, thiện, mỹ. Đức Phật có dạy rằng: “Này các Tỳ kheo, hãy lên đường thuyết pháp vì hạnh phúc, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người”(10)

    Đạo Phật được lưu truyền và phát triển đến ngày nay, là do công hạnh giáo hóa của các bậc cao Tăng thạc đức. Quý ngài đã dùng tâm lực, trí lực, nguyện lực để đem đạo vào đời, làm các việc như: giảng Kinh, thuyết pháp, quy y Tam Bảo, xuất gia gieo duyên, bố thí, phóng sanh… Và tất cả các việc làm đem đến bình an và hạnh phúc cho nhân sinh đều là Phật sự để độ sanh.

    Thắp sáng ngọn đuốc trí huệ rồi đem mồi đèn nối lửa cho hàng ngàn ngọn đuốc khác là sứ mạng thiêng liêng, cao cả, là Phật sự trọng đại của người xuất gia.

    Người xuất gia, là người “Hành Như Lai sứ, tác Như Lai sự”, đem lại an vui và lợi lạc cho tha nhân. Tu tâp đạt được giác ngộ và giải thoát là Phật sự trọng đại của người xuất gia, mà mỗi hành giải cần khắc ghi và hành trì bổn phận sự này. Và mỗi hành giả hãy luôn ghi nhớ lời dạy của Thiền sư Linh Hựu, trong Bài văn Cảnh Sách, để luôn cảnh tỉnh, sách tấn tự thân trong suốt quá trình tu tập và làm lợi ích cho tha nhân. “Âm : Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Nghĩa : Phàm là người xuất gia, phải cất bước vượt tới chỗ cao vời, tâm hình khác tục, kế thừa và làm hưng thạnh dòng Thánh, nhiếp phục ma quân, nhằm báo đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi”. (11).

    Chú thích và tài liệu tham khảo:

(1)             Từ Điển Phật Học Huệ Quang, tập IV, trang 3655, Nxb: Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh, năm 2007.

(2)             Từ Điển Phật Học Huệ Quang, tập VII, trang 6182, Nxb:  Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, năm 2016.

(3)             Từ Điển Phật Học Huệ Quang, tập II, trang 1714, Nxb: Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh, năm 2007.

(4)             Từ Điển Phật Học Huệ Quang, tập V, trang 4110, Nxb: Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, năm 2016.

(5)             Kinh Tứ Thập Nhị Chương, trang 7-8, Nxb: Hồng Đức, năm 2018.

(6)             Từ Điển Phật Học Huệ Quang, tập VII, trang 6132, Nxb: Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, năm 2016.

(7)             Từ Điển Phật Học Huệ Quang, tập I, trang 703, Nxb: Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, năm 2016.

(8)             Từ Điển Phật Học Huệ Quang, tập I, trang 402, Nxb: Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, năm 2016.

(9)             Kinh Pháp Cú, số 183, trang 195, Nxb: Phương Đông, năm 2017.

(10)         Kinh Đại Bổn, Trường Bộ Tập 1, Đại tạng kinh Việt Nam, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1991,tr.502.

(11)         Văn Cảnh Sách, trang 83-84, Nxb: Hồng Đức, năm 2018.

Bình luận