Làm Sao Phá Ngã Chấp
ôi rất ngưỡng mộ Lục tổ Huệ Năng khi biết Ngài là cư sĩ mà hoát nhiên ngộ đạo sau khi nghe câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang. Còn một điều nữa mà tôi tin rằng mọi người cũng như tôi, khâm phục Ngài sát đất. Ngài dốt đặc, không biết một chữ bẻ đôi, chưa được học Phật pháp chánh thức, chỉ học lóm thóm thôi lại xuất khẩu thành bài kệ xuất chúng, vượt cả không gian và thời gian. Bài kệ như cơn địa chấn cực mạnh làm rung chuyển chùa Đông Thiền, tăng chúng thất kinh, ngài Giáo thọ Thần Tú giật mình, phủi tay áo chào thua. Ngũ tổ Hoằng Nhẫn hoan hỷ, “lén” truyền tâm ấn và trao y bát cho Ngài vào nửa đêm và bảo Ngài lập tức rời khỏi chùa ngay. Từ đó Ngài trở thành vị tổ thứ ba mươi ba của Phật giáo và thứ sáu của Trung Quốc tính từ tổ Bồ Đề Đạt Ma. Trường hợp của Ngài khá hiếm trong lịch sử Phật giáo. Ngài ngộ đạo nhanh như thế có phải do Ngài có căn tu hay do sự diệu dụng của kinh Kim Cang?. Bị câu hỏi đó thôi thúc, tôi cố gắng trì tụng kinh nhằm tìm kiếm đôi điều huyền diệu để trợ duyên trên đường tu tập mới toanh của mình..
Kinh có ba mươi hai (32) phần, nội dung chủ yếu là Phật trả lời câu hỏi của Trưởng lão Tu bồ đề “người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm sao trụ tâm, làm sao hàng phục tâm”(vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm)?. Sau khi trả lời cặn kẽ câu hỏi trên, Phật còn bổ sung thêm nhiều phần khác nữa để làm sáng tỏ phần trả lời của Ngài, chỉ cho mọi người thấy vạn pháp vô ngã, động viên khuyến khích mọi người trì tụng kinh Kim Cang.
Nhìn chung, các phần đều có liên quan với nhau nhưng lại không theo một trình tự nhất định mà đan xen, chồng chéo, trùng lắp nhau, thậm chí…mâu thuẫn và lạc đề! Mâu thuẫn ở chỗ, phần hai mươi (20) Phật bảo phải lìa sắc tướng nhưng đến phần hai mươi bảy (27) Ngài lại bảo không nên nói tướng đoạn diệt?. Hai nữa là mình chưa ngộ đạo làm sao độ hết chúng sanh vào vô dư Niết bàn?. Còn lạc đề ở chỗ câu hỏi của ông Tu bồ đề hướng về nội tâm nhưng Phật lại trả lời hướng về ngoại giới, lấy trước làm sau và ngược lại (muốn hàng phục tâm phải diệt độ hết chúng sinh vào vô dư niết bàn; muốn an trụ tâm phải bố thí nhưng không trụ vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp)!?. Văn chương kinh sách Phật giáo đều được viết theo lối “ý tại ngôn ngoại” ngắn gọn xúc tích rất khó hiểu!. Chính vì vậy mà tôi tụng đọc kinh Kim Cang đôi ba chục lần nhưng vẫn như người đi lạc giữa rừng sâu rậm rạp, ngước lên không thấy mặt trời, nhìn chung quanh không thấy lối ra. Tôi bị bế tắc, không thông suốt ý nghĩa kinh văn là do đâu? Do văn chương khó hiểu hay do tâm mình u mê vọng động? Hoặc do mình chưa đủ duyên, chưa gieo trồng căn lành với chí ít một vị Phật như kinh nói?. Để giải đáp những thắc mắc đó, tôi nghĩ tôi phải tìm một vị cao tăng hoặc bậc thiện tri thức nhờ họ mở trí khai tâm cho, nếu không, con đường tu tập của tôi sẽ…khó như lên trời!.
May mắn thay! Một hôm, tôi đến thăm người anh ruột, anh ấy tặng tôi quyển “Kinh Kim Cang giảng giải” của Hòa thượng Thanh Từ do NXB Tôn Giáo xuất bản năm 2013. Đọc xong quyển sách tôi sung sướng đến trào nước mắt. Khi đói dù thức ăn tầm thường cũng quí giá cũng ngon lành, có khổ đau bất hạnh mới biết thế nào là sung sướng hạnh phúc, tôi nghĩ.
Nếu nói quyển sách đã xua tan hoài nghi thắc mắc của tôi thì không đúng mà phải nói là Hòa thượng Thanh Từ đã khai mở tâm trí tôi. Nhờ những lời giảng giải bình dị, cặn kẽ của Hòa thượng tôi mới hiểu được ý nghĩa thậm thâm vi diệu của kinh Kim Cang. Trước kia tôi hiểu “chúng sanh” là chỉ chung bốn loài, thai sanh, noãn sanh, hóa sanh và thấp sanh. “Bố thí” là tự nguyện đem tiền bạc của cải của mình biếu tặng, cho không người khác. Vạn pháp đều có thật, do tự nhiên và con người tạo ra, có hình dáng và đặc tính mà khi nhìn vào ai cũng biết ngay đó là vật gì, con gì. Sau khi xem quyển sách tôi mới biết “chúng sinh” còn có thêm nghĩa vọng niệm của mình, “bố thí” còn có thêm nghĩa buông xả, không dính mắc vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp và vạn pháp do duyên sinh, không có tự tính, không phải thật tướng (vô ngã). Tóm lại, muốn an trụ và hàng phục tâm, trước hết phải quán chiếu vạn pháp vô ngã mới đưa được tất cả vọng niệm vào nơi không sanh không diệt; mới buông xả dễ dàng, không dính mắc (trụ) vào sáu trần cảnh, tức không trụ mà trụ vậy. Đó mới là cốt lõi của kinh.
Ngã hay bản ngã là tự tính hay “cái tôi”. Trước khi tiếp xúc với giáo lý Phật giáo, tôi tin “cái tôi” là một cá thể độc lập, tồn tại trong thân thể, là chủ nhân ông và “quản lý” mọi hoạt động của thân thể từ vật chất đến tinh thần. Chính vì thế nên mọi sản phẩm do tôi tạo ra hoặc được biếu tặng nó đều giành hết, bảo là của nó. Nó còn buộc tôi phải giữ gìn và bảo vệ những thứ đó, phải ngăn chặn và chống trả với bất cứ ai xâm phạm hoặc tranh giành, chiếm đoạt. Tóm lại, nó xem tôi và sai khiến tôi như một tên đầy tớ, “phán” thế nào tôi nghe theo thế ấy, biểu tôi đi hướng đông tôi không dám đi hướng tây…
Quyển Kinh Kim Cang giảng giải của Hòa thượng Thanh Từ như chiếc chìa khóa vàng, mở cửa căn phòng tối tăm ngột ngạt, đưa tôi ra bên ngoài, thấy được chân như, ngộ được quan điểm trước kia của tôi sai lầm tệ hại, tạo nhiều nghiệp chướng, chuốc khổ vào thân. Hòa thượng viết “Đọc toàn quyển kinh Kim Cang, chúng ta thấy Phật phá sạch, không còn sót một kiến chấp nào. Đây là quả bom, là khối chất nổ mạnh làm nổ tung hai ngọn núi kiến chấp của chúng sanh”. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào sự diệu dụng của kinh Kim Cang, nguyện siêng năng tinh tấn tu hành theo lời Phật dạy cho thân tâm được an lạc./-