Thấy và biết

Trong bài thơ “Sơn phòng mạn hứng” của vua Trần Nhân Tông có câu “Vượn nhàn ngựa mỏi người lên lão” ý nói vạn vật vô thường, con người không thể trẻ khỏe, sung mãn mãi mà đến lúc nào đó cũng mệt mỏi cần được nghỉ ngơi an hưởng tuổi già. Lúc về già người ta thường tìm vui qua du lịch, chơi hoa kiểng cây cảnh, nghe nhạc hoặc xem sách báo, tập dưỡng sinh…Riêng tôi chọn nghiên cứu giáo lý Phật giáo, hơi muộn nhưng có còn hơn không.
Một buổi trưa, tôi nằm nghe nhạc nhẹ dỗ giấc ngủ. Đang lim dim, tôi chợt chạnh lòng khi nghe giọng hát trầm ấm, ngọt ngào của một nam ca sĩ trình bày nhạc phẩm “Ngày Về” của nhạc sĩ Hoàng Giác “Tung cánh chim tìm về tổ ấm. Nơi sống bao ngày giờ đằm thắm…”. Tôi chạnh lòng không phải vì xa quê hương mà vì…cuộc đời tôi. Ông bà cha mẹ tôi đều là tín đồ Phật giáo, qui y Tam bảo, trì trai giữ giới, suốt đời gắn liền với đạo pháp. Lúc còn là con chim non nớt, tôi đã sống và được nâng niu, ôm ấp trong cái tổ ấm đó, nhưng khi đủ lông đủ cánh tôi tung bay vào khung trời bao la, không biết đường về.
Giáo lý Phật giáo quá đồ sộ, thiên kinh vạn quyển, người mới nhập môn không biết bắt đầu từ đâu. Tôi may mắn hơn họ, tự trang bị được một số kiến thức cơ bản khi sinh hoạt trong Gia đình Phật tử thời thanh thiếu niên. Vậy mà tôi còn khá lúng túng khi lựa chọn một hướng đi thích hợp với căn tánh của mình: Thiền tông, Tịnh độ tông, Duy thức tông hay các tông phái khác?
Phật giáo chia nhiều tông phái cả Nam và Bắc tông. Tất cả các tông phái Bắc tông đều thuộc Đại thừa, hình thành từ Ấn Độ và Trung Quốc sau khi Phật Thích Ca nhập diệt. Kinh tạng, luận tạng liên quan cũng xuất hiện cùng thời điểm đó trở về sau. Ở nước ta, Thiền tông, Tịnh độ tông phát triển mạnh và phổ biến nhất, kinh điển nhiều nhất, số người tu tập, hành trì đông đảo nhất. Duy thức tông cùng các tông phái khác ít hơn nhiều.
Ngày nay, kinh điển đã được dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt lại được các vị pháp sư, luận sư giảng giải nhưng nhìn chung vẫn còn đó nhiều chướng ngại trong việc tu hành đối với những người trình độ học kém cỏi, khả năng tiếp thu giáo lý còn hạn chế, nhận thức chưa thấu đáo như tôi. Thiền tông theo phương châm “Giáo ngoại biệt truyền. Bất lập văn tự. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tánh thành Phật” nên lối truyền tâm pháp cho đệ tử của các thiền sư rất ư ngắn gọn, khó hiểu. Dùng công án để chấm dứt tiến trình suy luận, mở đường cho thiền sinh sẵn sàng tiếp thu kinh nghiệm và thực chứng tâm linh. Khi tham thiền phải học thoại đầu rồi phát nghi tình và tham cứu công án chừng nào đến bờ bên kia (ba la mật) mới thôi.
Tịnh độ tông tương đối đơn giản hơn bằng pháp môn trì danh niệm Phật với các kinh A Di Đà, Vô lượng thọ…đòi hỏi người tu phải nhứt tâm mới được siêu sanh Cực lạc. Thời gian qua, lại có vài hệ phái hình thành ngay trong nước và từ nước ngoài du nhập vào truyền bá giáo lý và phương thức tu hành mới lạ, trong số đó có pháp môn Tịnh độ của Hòa thượng Tịnh Không (Trung Quốc). Theo pháp môn nầy thì người tu “chỉ cần một câu danh hiệu Phật (A Di Đà) có thể tiêu trừ 80 ức kiếp sanh tử tội nặng” hoặc trì danh và lạy Phật mỗi ngày trên 300 lần trong vài ba năm thì sau khi chết Phật sẽ rước về Tây phương Cực lạc. Còn nhiều điều huyền diệu khác nữa được nói đến trong quyển sách “Khai Thị” do Hòa thượng Tịnh Không thuyết giảng cho thấy đây là cách tu dễ dàng và đạt kết quả mau chóng nên thu hút khá nhiều người theo và phổ biến nó. (Hòa thượng Tịnh Không nổi tiếng trên thế giới, pháp môn của Sư không phải loại “bàng môn tả đạo” như của bà Thanh Hải vô thượng sư mà được phổ biến ở nhiều nước và Việt Nam. Sư viết khá nhiều sách chứ không chỉ có “Khai Thị”, tuy nó là loại sách bỏ túi, in vi tính theo kiểu ấn tống, không có nhà xuất bản. Tôi cũng được người hàng xóm tặng một quyển).
Tôi thật sự hoang mang, chao đảo. Già rồi. Sức khỏe kém. Nhiều bệnh tật. Đầu óc mụ mị. Ngồi thiền, học thoại đầu, phát nghi tình và tham cứu công án khá vất vả. Niệm Phật thì khó tập trung tư tưởng (nhứt tâm), còn theo Duy thức thì chỉ 51 món tâm hành mà học hoài học mãi vẫn không thuộc không nhớ! Cho nên, chỉ đọc tụng, nghe kinh (Văn) mà không hiểu được nội dung, không “thâm nhập kinh tạng” (Tư) thì làm sao phát Bồ đề tâm, hành trì (Tu) cho được!
May mắn thay! Tôi gặp được một thiện tri thức. Người ấy khuyên tôi nên quay về với giáo lý ban đầu của Phật Thích Ca, “Tứ Thánh Đế” và “Bát Chánh Đạo”. Tôi từng nghe giáo lý này nhưng chưa hiểu nội dung do chưa được tiếp xúc, đọc tụng kinh điển lần nào. Lần đầu tiên được vị thiện tri thức giảng giải rõ ràng minh bạch tôi như người đi lạc giữa rừng sâu biển rộng có trong tay cái la bàn, thấy được con đường phải đi. “Mỗi con đường chỉ là một lối đi và cũng không ảnh hưởng gì đến mình hay đến ai nếu phải từ bỏ nó, một khi trái tim buộc bạn phải làm thế. Hãy quan sát mỗi con đường kỹ lưỡng và chính xác. Và hãy tự hỏi mình, chỉ chính mình thôi…đó là một con đường của trái tim? Nếu phải thì đó là một lối đi tốt đẹp, nếu không nó chỉ vô ích” (Carlos Castaneda).
Trong cuộc sống đời thường, đôi mắt sắc xảo, nhạy bén, linh hoạt và quan trọng nhất trong năm giác quan. Mắt thấy mọi sự vật, hiện tượng và biến cố đã và đang xảy ra trong không gian, môi trường từ gần đến xa Căn cứ vào đó, người ta có thể tiên đoán những gì sắp xảy ra để có những biện pháp phòng tránh, đương đầu hoặc đón nhận, định hướng cho tương lai. Có thể nói, hầu hết những phát minh vĩ đại, thành tựu rực rỡ của nhân loại từ trước đến nay phần lớn xuất phát từ mắt quan sát.
Mắt lại được tôn vinh là cửa sổ tâm hồn, nơi biểu hiện tâm tư, tình cảm, xúc cảm của con người mà bốn giác quan kia không thể hiện bằng. Nó còn thấy mọi góc khuất, ngóc ngách của tâm hồn, đến tận cùng tầng sâu tâm thức, có thấy mới có biết.
Trong Phật giáo cũng thế, nhãn căn chiếm 9 duyên khi tiếp xúc với sắc trần (tai 8 duyên, mũi-lưỡi-thân 7 duyên). Nó có hai phần, bên ngoài thô sơ gọi là Phù trần căn, bên trong tinh tế gọi là Tịnh sắc căn hay Thắng nghĩa căn do sự tinh tế và thù thắng của nó. Thiền sư Suzuki viết “Thấy đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận thức luận Phật giáo, vì nó là cơ sở của Biết. Không thể có Biết nếu không có Thấy, tất cả mọi cái Biết đều xuất phát từ cái Thấy. Thấy và Biết (tri kiến) như thế nằm chung trong giáo pháp của Phật. Triết lý Phật giáo cuối cùng cũng dạy ta Thấy được thực tại, đúng như nó là. Thấy chính là chứng ngộ”. Tuy nhiên, cái thấy ở đây không có nghĩa thông thường mà là ẩn dụ, một dạng cảm nhận, bao trùm cả cái thấy bằng mắt nhưng vượt lên trên nhận thức của mắt, hay nói cách khác đó là sự thực chứng phi giác quan.
Chính vì thế mà trong “Bát Chánh Đạo”, Phật Thích Ca đã đưa cái thấy (chánh kiến) lên hàng đầu. Có thấy đúng mới suy nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng…và thực hành đúng ba bước, giới-định-tuệ, giải thoát bất hạnh khổ đau.
Trong các loài chim, có vài loài có khả năng định hướng tuyệt vời, đó là chim thiên di. Vào mùa đông, chúng bay hàng ngàn cây số từ Bắc cực đến Nam cực tránh rét. Khi xuân sang chúng lại bay trở về tổ ấm đúng hướng mà không cần la bàn. Tôi thua cả loài chim thiên di.
Mở đầu bài thơ “Sơn phòng mạn hứng” vua Trần Nhân Tông viết:”Ai trói lại mong cầu giải thoát” lấy ý từ giai thoại tổ Đạo Tín cầu đạo với tổ Tăng Xán. Lúc bấy giờ tổ Đạo Tín là một thiếu niên chừng 14-15 tuổi. Ngài yêu cầu tổ Tăng Xán dạy pháp tu giải thoát, Tổ hỏi lại ngài rằng ai trói buộc mà đòi giải thoát. Ngài nói không ai trói buộc hết. Tổ bảo không ai trói buộc thì cần gì giải thoát. Ngài liền giác ngộ.
Tôi đã bị dục lạc thế gian trói buộc trên sáu mươi năm dài đăng đẳng, càng vùng vẩy sợi dây vô hình càng siết chặt thêm, còn bị chúng làm mờ mắt, không thấy đường về. Nay nhận được đạo pháp nhiệm mầu tôi sáng mắt ra, có thể tự cởi trói và “tung cánh chim tìm về tổ ấm” cho phần đời còn lại được an nhiên tự tại, an lạc thân tâm./
Đức Phật thuyết giảng bài pháp Tứ Diệu Đế đầu tiên cho 5 anh em Kiều Trần Như tại Vườn Nai sau khi Ngài đắc đạo
Tứ Diệu Đế
Bát Chánh Đạo
- Hãy sống chánh niệm trong từng phút giây Bình Yên
- Thấy Phật Dược Sư bằng tâm HT.Thích Trí Quảng
- Từ kinh Pháp hoa nhìn về kinh Nguyên thủy HT. Thích Trí Quảng
- Hạnh phúc của người tu Hòa thượng Thích Trí Quảng
- 12 lời nguyện của Phật Dược Sư Thích Thiện Phước
- Tội phước theo ta như bóng với hình Thích Đạt Ma Phổ Giác
- Con người tham muốn dục vọng quá lừng lẫy Thích Đạt Ma Phổ Giác
- Tâm là chủ nhân của bao điều họa phúc Thích Đạt Ma Phổ Giác
- Thân và Tâm cái nào quan trọng Thích Đạt Ma Phổ Giác
Đánh giá bài viết này
Cùng tác giả
Được quan tâm nhất


Gửi bình luận của bạn
BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)