Đạo Phật Ngày Nay

Vì sao thư viện Kinh Phật SuttaCentral phải 100% xa lìa AI?

Vì sao trang nhà lớn nhất thế giới về Phật Giáo hiện nay là https://suttacentral.net/ -- nơi có các bản dịch Tạng Pali và Tạng A Hàm trong vài chục ngôn ngữ -- yêu cầu hãy xa lìa 100% đối với trí tuệ nhân tạo AI? Nơi trang Phật học này hiện lưu giữ bản Việt dịch Tạng Nikaya dịch bởi Thầy Thích Minh Châu và Bhikkhu Indacanda; và Tạng A Hàm dịch bởi hai Thầy Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng. Nhà sư Trưởng ban biên tập trang nhà này là Bhikkhu Sujato đã viết ba bài để giải thích. Bản thân dịch giả không có đủ trình độ kỹ thuật để hiểu về AI, do vậy ba bản Việt dịch nơi đây có thể có những sai sót; độc giả quan tâm có thể tìm đọc nguyên văn ba bài tiếng Anh của Bhikkhu Sujato theo links cuối bài, cũng là khởi đầu của ba chuỗi thảo luận của các nhà sư học giả quốc tế. Sau đây là những suy nghĩ của Bhikkhu Sujato.)

(Lời giới thiệu của Nguyên Giác: Bài này được dịch để bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả những thế hệ tứ chúng trong hơn hai thiên niên kỷ qua đã học thuộc lời Đức Phật dạy, đã truyền lại từ đời này sang đời sau, đã lưu giữ kinh điển, và đã dịch kinh sang hàng chục ngôn ngữ cho nhân loại. Và cũng đặc biệt là chủ đề của nhóm ba bài viết trong này từ vị Tam Tạng Pháp Sư Bhikkhu Sujato. Thế giới đang bước vào cuộc cách mạng rất mới của trí tuệ nhân tạo, AI, một công cụ có nhiều ứng dụng hữu dụng cho gần như mọi mặt của đời sống. Chỉ trong vài giây đồng hồ, AI có thể cho chúng ta những hình ảnh đẹp hy hữu như nghệ thuật nhiếp ảnh, có thể soạn ra các ca khúc xuất sắc trong nhiều thể loại, có thể làm các video thần tốc cho các công ty quảng cáo, và nhiều ứng dụng tuyệt vời khác. Tuy nhiên, có một nơi AI bị cấm vào. Đó là Tàng kinh các về Phật học lớn nhất thế giới hiện nay. Để tìm hiểu lập trường này, dịch giả sẽ dịch ba bài viết sau, các links sẽ để cuối bài:

- AI-1: Let’s Make SuttaCentral 100% AI-free Forever;

- AI-2: Machine translations of suttas are the wrong solution for the wrong problem;

- AI-3: There is no road from here to there.

Vì sao trang nhà lớn nhất thế giới về Phật Giáo hiện nay là https://suttacentral.net/  -- nơi có các bản dịch Tạng Pali và Tạng A Hàm trong vài chục ngôn ngữ -- yêu cầu hãy xa lìa 100% đối với trí tuệ nhân tạo AI? Nơi trang Phật học này hiện lưu giữ bản Việt dịch Tạng Nikaya dịch bởi Thầy Thích Minh Châu và Bhikkhu Indacanda; và Tạng A Hàm dịch bởi hai Thầy Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng. Nhà sư Trưởng ban biên tập trang nhà này là Bhikkhu Sujato đã viết ba bài để giải thích. Bản thân dịch giả không có đủ trình độ kỹ thuật để hiểu về AI, do vậy ba bản Việt dịch nơi đây có thể có những sai sót; độc giả quan tâm có thể tìm đọc nguyên văn ba bài tiếng Anh của Bhikkhu Sujato theo links cuối bài, cũng là khởi đầu của ba chuỗi thảo luận của các nhà sư học giả quốc tế. Sau đây là những suy nghĩ của Bhikkhu Sujato.)

.... o ....

 

AI-1: Hãy cùng làm cho SuttaCentral 100% xa lìa AI mãi mãi

 AI đang bùng nổ. Những ý tưởng cơ bản đã xuất hiện từ những năm 1980s, nhưng chỉ đến khi ChatGPT của OpenAI được phát hành, nó mới vươn lên thống trị những cuộc thảo luận công nghệ. Trước đây, tôi [Bhikkhu Sujato] đã quan tâm đến việc tìm hiểu về công nghệ và hào hứng với những khả năng. Tuy nhiên, theo thời gian, tôi ngày càng hoài nghi, đến mức giờ tôi tin rằng chúng ta cần phải cấm sự hiện diện của "AI mạnh" hoặc "AGI", theo tôi là bất kỳ tác nhân máy tính nào có vẻ ngoài giống con người. Ngay cả những dạng AI yếu hơn nhưng vẫn mạnh mẽ hiện nay cũng có những lợi ích được thổi phồng quá mức và những tác hại không được đánh giá đúng mức.

 Tôi sẽ thảo luận về những điều này sau, nhưng hiện tại, tôi muốn đưa ra một đề xuất cứng rắn. SuttaCentral trong mọi khía cạnh, bao gồm cả diễn đàn này, nên cam kết 100% không có nội dung nào từ AI. Không được phép có bất kỳ nội dung nào do máy tạo ra trong bất kỳ nền tảng, chương trình quảng bá, kho dữ liệu hoặc bất kỳ nơi nào khác của chúng ta. Điều này áp dụng ngay cả khi [nội dung từ máy] được chỉnh sửa bởi con người. Điều đó không có nghĩa là không thể có bất kỳ AI nào đằng sau hậu trường, ví dụ như phụ tá mã hóa [coding assistants], tìm kiếm, và những thứ tương tự. Những thứ như vậy có nhược điểm và lợi ích, và về mặt thực tế là không thể tránh chúng hoàn toàn tại thời điểm này. Vì vậy, lệnh cấm ảnh hưởng đến sự hiện diện thực tế của các văn bản do máy tạo ra.

 Một lý do cho điều này là, rất nhanh chóng, internet đang tràn ngập những thứ vô giá trị của AI. Một loạt các trang web, ứng dụng, blog, diễn đàn, thư rác, mạng truyền thông xã hội, quảng cáo, v.v., tràn ngập những thứ vô giá trị do máy tạo ra. Điều này phá hủy toàn bộ bối cảnh kỹ thuật số, bắt đầu từ các công cụ tìm kiếm. Rất sớm thôi, nếu không muốn nói là đã xảy ra rồi, "nội dung" do con người tạo ra (ôi, tôi ghét những chữ đó biết bao!) sẽ bị nhấn chìm trong đống rác của AI, và AI càng "tốt" thì càng khó để phân biệt [với sản phẩm của người]. Hệ quả của điều này là chẳng bao lâu nữa, một số ít thành trì của nhân loại thực sự sẽ được coi trọng như những viên ngọc quý.

 Về việc sử dụng nội dung của chúng tôi bởi những người khác, đặc biệt là việc thu thập dữ liệu dịch thuật để sử dụng cho bản dịch máy, đây không phải là điều mà chúng tôi có thể ngăn chặn hợp pháp. Ngay cả khi có sự bảo vệ bản quyền—mà hiện tại vẫn chưa có—thì giấy phép CC0 mà chúng tôi cho phép bất kỳ loại sử dụng nào. (Ghi chú của dịch giả: CC0 là Giấy phép Creative Commons Zero, là giấy phép tác giả cho miễn tác quyền. Thí dụ, 3 bài này của ngài Sujato là CC0, cho phép copy, phổ biến.)

 Tuy nhiên, chúng tôi yêu cầu bất kỳ ai sử dụng tác phẩm của chúng tôi hãy theo tinh thần của truyền thống Phật giáo. Theo quan điểm của tôi, điều này loại trừ bất kỳ ứng dụng AI bắt chước con người nào như "chatbot Phật giáo" hoặc "bản dịch AI". Truyền thống Phật giáo luôn coi bản dịch là một hoạt động thiêng liêng và các văn bản được tạo ra là lời của Đức Phật. Bản dịch không chỉ đòi hỏi kiến ​​thức ngôn ngữ mà còn phải hiểu sâu sắc về Giáo pháp và cách diễn đạt của nó.

 Vì vậy, chúng ta nên đưa ra cam kết mạnh mẽ này và quảng cáo nó, gắn nhãn trang web và sách của chúng ta là “Không phải do AI”. Đã có những dự án thực hiện điều này, cho thấy mối quan tâm đó rộng lớn như thế nào.

  Nếu ai đó tin rằng AI có những lợi ích lớn mà chúng ta đang bỏ lỡ, thì thật tuyệt: hãy tự mình xây dựng nó và chứng minh tôi sai.

.... o .....

 

AI-2: Các bản dịch kinh từ máy là giải pháp sai cho vấn đề sai

An Shi-Gao (An Thế Cao), được biết đến trong truyền thuyết là một hoàng tử Parthia, định cư tại thành phố Luoyang (Lạc Dương) của Trung Quốc vào năm 148 CN, nơi ông tiến hành dịch hơn một chục văn bản sang tiếng Trung Hoa từ tiếng Phạn (hoặc một tiếng gì tương tự). Ông là người đầu tiên dịch các văn bản Phật giáo ở Trung Quốc, bắt đầu một tiến trình dài và chậm chạp tạo ra kinh điển Trung Quốc mà chúng ta có ngày nay. Nhiều năm sau, một quá trình tương tự đã được thực hiện ở Tây Tạng.

 Hai dự án dịch thuật này là những tượng đài đức tin vĩ đại. Chúng đã tồn tại hàng trăm năm và hình thành nên nền tảng văn hóa Phật giáo cho toàn bộ các quốc gia. Và chúng đã làm như vậy vì chúng có giá trị chân thực. Chúng ta muốn đọc chúng vì chúng diễn đạt Chánh pháp, và vì chúng ta có thể cảm nhận Chánh pháp thông qua giọng nói độc đáo của con người. Mỗi dịch giả đều bất toàn theo cách riêng của họ.

 Hiện nay, việc dịch các văn bản Phật giáo đang diễn ra nhanh hơn bao giờ hết. SuttaCentral đang lưu trữ khoảng 500 MB bản dịch và chúng tôi chỉ là một trong nhiều dự án. Công việc này còn lâu mới hoàn thành và nhiều văn bản vẫn chưa được dịch: các luận thư tiếng Pali, cũng như hầu hết các kinh điển tiếng Trung Hoa và tiếng Tây Tạng.

 Dịch thuật là công việc gian nan, và đòi hỏi nhiều kỹ năng mà không phải ai cũng có. Nhưng không khó đến vậy, và không có quá ít người có kỹ năng. Tôi đã dịch toàn bộ kinh điển Pali trong vài năm. Tôi chưa bao giờ được đào tạo chính quy về Chánh pháp, cũng không có bất kỳ sự hỗ trợ nào từ các tổ chức. Tôi biết công việc này đòi hỏi những gì. Theo ước tính của tôi, có hàng chục người sử dụng diễn đàn này có khả năng dịch kinh điển.

 Tôi vẫn còn thấy bí ẩn tại sao chúng ta thấy rất ít nỗ lực trong vấn đề này từ tất cả các định chế lớn, các tu viện, tổ chức, trường đại học. Có hàng ngàn người ở đó và hàng tỷ đô la. Tất cả những gì cần là một số sự lãnh đạo và tập trung.

 Bình thường, một dịch giả có thể dịch khoảng 2.000 chữ/ngày. Đó là cách tôi tính toán để có thể hoàn thành các bài kinh Pali. Và đó là cách tôi biết rằng một vài nhóm dịch giả tận tụy có thể dịch các văn bản chưa được dịch trong vòng có thể là một thập niên. Không có gì có thể ngăn cản chúng ta.

 Trên thực tế, một số dự án đang được tiến hành [dịch ra tiếng Anh]. Numata có một kế hoạch lâu dài là dịch kinh điển từ tiếng Trung Quốc. 84000 đang tiến hành đều đặn, tạo ra các bản dịch chất lượng cao của các văn bản từ tiếng Tây Tạng. Alex Wynne có kế hoạch dịch các luận thư tiếng Pali. Các dự án này đang được tiến hành và các khoảng trống đang được lấp đầy.

Vậy tại sao chúng ta cần bản dịch máy? Chúng ta đang giải quyết vấn đề gì? Tại sao chúng ta cần chạy ráo riết các máy tính khổng lồ trong một tháng để tạo ra một mô hình AI có thể đưa ra một số văn bản tự động tạo dựa trên kinh Phật?

 Chúng ta đang giải quyết vấn đề gì?

Ca sĩ kiêm kỹ sư will.i.am đã phát triển cả các công ty khởi nghiệp AI và các chương trình giáo dục. Tạp chí Time đưa tin anh đã trả lời như sau:

 .

[Trích] => “Khoản đầu tư mà xã hội đã bỏ ra cho AI (trí tuệ nhân tạo) vượt quá khoản đầu tư cho HI, tức là trí thông minh của con người. Nó mất cân bằng đến mức một cách tiềm thức, chúng ta biết rằng chúng ta chưa đầu tư vào tuổi trẻ, vào cộng đồng của mình. Chúng ta chưa đầu tư vào nhân loại để theo kịp các cỗ máy thông minh. … Thật khó để gây quỹ cho trẻ em. Thật vô nhân đạo, đó thậm chí là một sự thật. Tại sao lại khó để gây quỹ cho giáo dục đến vậy? Điều đó khiến tôi trằn trọc cả đêm — Tôi không hiểu nổi.” [hết trích]

.

Công việc đã được thực hiện để tạo ra các văn bản kỹ thuật số được thực hiện từ lòng tin. Văn bản Pali mà SuttaCentral sử dụng cuối cùng bắt nguồn từ công trình của Viện nghiên cứu Vipassana Research Institute ở Pune, Maharashtra. Đó là một trong những khu vực nghèo nhất trên thế giới, nơi cộng đồng Phật tử bao gồm những người Dalit. Những người này trước đây là những kẻ bị ruồng bỏ khỏi xã hội Hindu, dưới mức thấp nhất của những người thấp kém, những nô lệ bị khinh miệt mà sự tồn tại của họ không chỉ được biện minh cho hợp lý mà còn là yêu cầu của Thượng Đế. Họ đã tìm thấy sự tự do thông qua công trình của Tiến sĩ Ambedkar, người đã dạy họ rằng Đức Phật đã chỉ ra một con đường để họ nâng cao bản thân. Bây giờ, có những Phật tử khuynh hướng Amedkarite ở đây tại Sydney, chủ yếu làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin, những người bạn và tín đồ được cộng đồng Phật tử coi trọng.

 Và chúng tôi tại SuttaCentral, cũng như hầu hết các dự án Pali khác trên thế giới, đều dựa vào công việc của những người đó mỗi ngày. Bạn có thể tưởng tượng họ đã làm việc với những gì ở Pune vào những năm 1990s không? Đối với họ, điều đó hẳn là rất tuyệt vời. Tôi hình dung họ đã có được một mớ  máy tính, và những người tình nguyện ngồi và gõ trên đó. Chắc hẳn là rất nhiều người! Làm một điều gì đó có ý nghĩa như vậy, cùng nhau tạo ra một điều gì đó tuyệt vời; Tôi tự hỏi điều này đã thay đổi cuộc sống của những người đã làm điều này như thế nào? Lạch cạch trên những chiếc máy tính cũ kỹ từ những năm 90s, làm công việc vẫn có giá trị như ngày nay.

Không có quá nhiều thay đổi theo một số cách, vì các tu sĩ và tín đồ Phật giáo vẫn đang làm việc, cung cấp lao động tình nguyện vì lòng tin. Công việc này được thu thập và sử dụng bởi các công cụ AI, mà [các công ty AI] không bao giờ có ý định trả lại bất cứ thứ gì.

 SuttaCentral đi tiên phong trong việc sử dụng giấy phép CC0 tự do, miễn trừ mọi loại hạn chế pháp lý đối với việc sử dụng các văn bản của chúng tôi. Tuy nhiên, chúng tôi cũng lưu ý rằng các văn bản nên được sử dụng "theo các giá trị và nguyên tắc của cộng đồng Phật giáo". Điều kiện này cố tình viết mơ hồ. Nhưng các giá trị và nguyên tắc đó là gì?

 Một trong số đó là sự bố thí (dāna). Không một Phật tử truyền thống nào nghĩ đến việc sử dụng một ngôi chùa, lấy những cuốn sách được tặng miễn phí của họ và học hỏi từ Tăng đoàn mà không đền đáp lại gì. Bất kỳ Phật tử nào cũng có thể nói với bạn rằng Tăng đoàn cung cấp bố thí pháp (“món quà của giáo pháp”), trong khi cộng đồng cư sĩ cung cấp lại cúng dường (“món quà hỗ trợ vật chất”). Điều này có thể có nhiều hình thức: một khoản đóng góp khi nghe giảng; một sự cúng dường thực phẩm; giúp đỡ công việc trong tu viện; tình nguyện cho tổ chức, v.v. Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ chỉ nhận mà không cho. Điều đó không thích nghi.

 Nhưng đó là những gì họ làm. Họ lấy đi và lấy đi và họ không bao giờ trả lại một thứ gì. Những dự án này đã sử dụng công sức của chúng tôi trong nhiều năm, và chúng tôi chưa bao giờ nhận lại được thứ gì. Các tổ chức phương Tây giàu có đang nuốt chửng công sức của Phật tử. Về cơ bản, điều này phá vỡ truyền thống Phật giáo, vi phạm sự cân bằng mà Đức Phật đã thiết lập, và nhờ đó cộng đồng Phật giáo đã phát triển trong 2.500 năm.

 Điều chúng ta nên làm là nuôi dưỡng con người. Chúng ta nên đào tạo các học giả và dạy ngôn ngữ. Và điều này nên được thực hiện trong bối cảnh đúng nghĩa Chánh pháp: không chỉ là học bổng hàn lâm vô nghĩa, mà là nền giáo dục sống thực sự, khai thác tiềm năng và tài năng tâm linh của con người. Nền giáo dục dựa trên sự thật và đức tin. Học sinh nên được dạy, không chỉ ngữ pháp và ý nghĩa của các văn bản cổ, mà còn là nghệ thuật viết văn biểu hiện và có ý nghĩa, đây là phần khó nhất của công việc dịch thuật. Chúng ta cần những nhà lãnh đạo có thể truyền cảm hứng cho mọi người, và chúng ta cần nguồn tài trợ và sự hỗ trợ của tổ chức.

 Điều gì xảy ra khi bạn làm điều này khá đáng chú ý. Bởi vì sự khác biệt quan trọng nhất giữa một "bản dịch" máy và một bản dịch của con người không nằm ở những chữ đưa ra. Đó là một bên là máy, và một bên là con người. Khi một người làm công việc này, họ dành cả ngày để đọc những lời trong kinh điển, tiếp thu chúng và tìm cách diễn đạt chúng. Công việc của họ mang tính khám phá và tích hợp. Nó thay đổi họ. Nó không thể không thay đổi họ.

 Tôi là một người khác hơn so với trước khi tôi dịch kinh. Nhìn xem, có thể tôi không phải là một người vĩ đại; hầu hết những ngày tôi đấu tranh để trở thành một người khá tốt. Tôi có những khoảnh khắc của mình. Nhưng, bạn nên biết tôi trước đó! Những câu nói giỡn của tôi thậm chí còn tệ hơn! Mỗi ngày, sự hiểu biết mà tôi đã học được đều giúp ích cho tôi. Nó giúp ích cho việc thiền định của tôi và giải quyết các vấn đề trong cuộc sống của tôi. Nó giúp ích cho việc giảng dạy và giao tiếp của tôi. Tôi đã học ở cấp độ sâu sắc, và nhiều vấn đề mà tôi thấy các học sinh trẻ hơn phải vật lộn với chỉ là những vấn đề đã được giải quyết đối với tôi.

 Đó là những gì bạn làm khi bạn có công trình phiên dịch là con người. Bạn tạo ra những con người tốt hơn, thăng hoa hơn. Hãy nhìn vào những đóng góp của các tu sĩ như các Tôn giả Bodhi hay Analayo hay Brahmali. Công việc phiên dịch của họ là một phần cuộc sống của họ và là một phần con người mà họ đã trở thành. Nó nâng cao họ, thăng hoa họ, và nó nâng cao tất cả chúng ta.

Điều này không bao giờ có thể xảy ra từ một bản dịch máy. Máy làm cho mọi thứ trở nên quá dễ dàng. Nó đưa ra một câu trả lời, dường như giải quyết mọi vấn đề khó khăn. Nhưng tất nhiên là không. Nó chỉ giả vờ như các vấn đề không tồn tại.

Những việc này cần thời gian. Tôi thường làm việc khá nhanh. Bài viết này bạn đang đọc, tôi đã viết trong vài giờ, cộng thêm một chút thời gian chỉnh sửa. Nhưng tôi sẽ dành một ngày, đôi khi là nhiều ngày, chỉ để sửa đúng một chữ của tiếng Pali [khi dịch kinh]. Hầu hết câu trả lời thông thường là ổn, và tôi có thể chỉ cần bám vào những gì mọi người đều biết. Nhưng tôi không thể làm vậy. Có một sự kích thích trong đầu tôi không cho phép tôi làm vậy. Nó ngửi thấy mùi khi có điều gì đó không ổn. Khi tôi nói, "Được rồi, đủ tốt rồi" và tiếp tục, nó im lặng một lúc, rồi quay lại cằn nhằn tôi. Nó sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi tôi đi đến tận cùng [bản dịch kinh].

 Khi bạn có thể có được bất kỳ bản dịch nào được tạo ra bởi một dàn máy như vậy, nó làm hạ cấp tính nhân văn của người dịch. Đây là lý do tại sao, trên khắp thế giới, những người sáng tạo đang phản đối AI. Các nhà báo, nghệ sĩ, diễn viên, tác giả, họa sĩ, nhiếp ảnh gia, nhà làm phim, nhạc sĩ. Tất cả họ đều thấy tác phẩm của mình bị các công cụ AI này nuốt chửng, sau đó chúng lại nhả ra một bản sao nửa vời của sự sáng tạo.

Có người đã gửi cho Nick Cave một ca khúc do ChatGPT sáng tác “theo phong cách của Nick Cave”. Nhạc sĩ này đã trả lời trên Red Hand Files của anh:

.

[Trích] => “Tôi hiểu rằng ChatGPT vẫn còn trong giai đoạn sơ sinh nhưng có lẽ đó là nỗi kinh hoàng mới hiển lộ của AI – rằng nó sẽ mãi mãi trong giai đoạn sơ sinh, vì nó sẽ luôn phải đi xa hơn nữa, và hướng đi luôn luôn hướng về phía trước, luôn luôn nhanh hơn. Nó không bao giờ có thể bị đảo ngược, hoặc chậm lại, vì nó đưa chúng ta đến một tương lai không tưởng, có thể, hoặc tới sự hủy diệt hoàn toàn của chúng ta. Ai có thể nói được điều nào? Tuy nhiên, phán đoàn rằng bài hát này 'theo phong cách của Nick Cave', thì nó có vẻ không ổn, Mark ạ. Ngày tận thế đang đến rất gần. Bài hát này hỏng rồi.

“Trong trường hợp này, ChatGPT là sự sao chép như một trò hề. ChatGPT có thể viết một bài diễn văn hoặc một bài tiểu luận hoặc một bài giảng tôn giáo hoặc một cáo phó nhưng không thể tạo ra một bài hát chơn thực. Có lẽ theo thời gian, nó có thể tạo ra một bài hát mà trên bề mặt, không thể phân biệt được với bản gốc, nhưng nó sẽ luôn là một bản sao, một kiểu làm hề giễu nhại.

“Các bài hát sinh khởi từ đau khổ, ý tôi muốn nói rằng các bài hát dựa trên cuộc đấu tranh nội tâm phức tạp của con người trong quá trình sáng tạo và, theo như tôi biết, các thuật toán không hề có cảm thọ. Dữ liệu kỹ thuật số thì không đau khổ. ChatGPT không có nội tâm, nó không nơi đâu cả, không chịu đựng được điều gì, không có sự táo bạo để vượt qua những giới hạn của mình và do đó, nó không có khả năng chia sẻ trải nghiệm siêu việt, vì nó không có giới hạn nào để vượt qua. Vai trò buồn thảm của ChatGPT là nó được định sẵn để bắt chước và không bao giờ có thể có kinh nghiệm chơn thực của con người, bất kể kinh nghiệm của con người có thể trở nên mất giá và tầm thường đến mức nào theo thời gian.” [hết trích]

.

Một nhạc sĩ sáng tác biết điều này. Tại sao chúng ta không thể thấy điều đó?

Vấn đề của chúng ta không phải là chúng ta không có đủ bản dịch. Mà là chúng ta đã mất niềm tin vào con người. Phật tử trong quá khứ, với tín tâm của mình, đã dành hết tâm trí và trái tim vào công việc biên dịch kinh điển, tạo ra một thứ gì đó huy hoàng tồn tại qua hàng thiên niên kỷ. [Vậy mà] Chúng ta bấm một nút và tạo ra thứ vô dụng từ một dàn máy.

Tại sao không phải cả hai? Tại sao không coi bản dịch máy là một giải pháp tạm thời “đủ tốt” để đáp ứng một số nhu cầu cơ bản, đồng thời tài trợ cho các bản dịch thực sự. Tại sao không phải cả hai, thực sự vậy.

Tại sao không phải là cả ngựa và xe kéo, và xe chạy bằng xăng? Tại sao không phải là cả thư giấy và email? Tại sao không phải là cả điện thoại cố định và điện thoại di động? Tại sao không phải là cả cửa tiệm góc phố và Amazon?

Điều chúng ta đã học được, hết lần này đến lần khác, là mọi người sẽ không sử dụng những gì tốt nhất, họ sẽ sử dụng những gì có sẵn. Và những gì có sẵn là các thiết bị có màn hình. Và mọi công ty công nghệ lớn đều dành hàng tỷ đô la để đào sâu AI vào mức sâu nhất có thể. Nó ở đó, cho dù bạn có thích hay không.

Khi chúng ta, với tư cách là một cộng đồng Phật giáo, thực hiện các dự án AI của riêng mình, chúng ta đang cho những kẻ thống trị AI mượn tiếng nói của mình. Hãy nói những gì bạn muốn, hãy làm mọi thứ khác đi nếu bạn có thể, nhưng thông điệp vẫn như vậy. AI thực sự tốt và bản dịch máy cũng tốt đối với cộng đồng Phật giáo.

Tại sao trong khi các nghệ sĩ và ca sĩ, các nhà báo và nhà thơ đang đấu tranh để giữ lại nhân tính của họ, chúng ta lại cho đi nhân tính của mình?

Chúng ta đã mất lòng tin nào khiến chúng ta rơi vào tình trạng như vậy?

.... o ....

AI-3: Không có con đường nào từ đây tới đó

=> Ghi chú: Tôi đã viết lại bài tiểu luận này sau khi nhận được phản hồi trong phần bình luận. Cảm ơn tất cả các bình luận viên! [hết ghi chú]

Trong vài bài tiểu luận gần đây, tôi đã xem xét việc sử dụng AI khi áp dụng vào các văn bản Phật giáo. Tất nhiên, đây chỉ là một tập hợp phụ cực kỳ nhỏ của một ngành công nghiệp lớn hơn nhiều. Từ bây giờ, tôi sẽ xem xét bức tranh toàn cảnh về ngành công nghiệp AI nói chung, triết lý của nó, con người của nó, mục đích và tác động của nó.

Người ta có thể đồng ý với bản chất có vấn đề của toàn bộ ngành, nhưng vẫn chấp nhận rằng các ứng dụng chuyên biệt là hợp lý. Chúng ta có thể làm chút ít ở đây, và nó không thực sự liên quan gì đến những gì các công ty lớn đang làm. Rõ ràng là có điều gì đó trong việc này, và có sự khác biệt về mặt đạo đức trong mục đích mà công việc được thực hiện. Nhưng ranh giới không bao giờ rõ ràng như chúng ta mong muốn. Các công ty lớn có AI đang cung cấp năng lượng cho các cuộc tấn công quân sự cũng đang tài trợ cho AI tại các trường đại học lớn để thực hiện nghiên cứu cơ bản. Bạn có thể làm việc trên dự án AI nhỏ của mình, nhưng các công ty lớn thực sự muốn tràn ngập bạn.

Đây không phải là ngẫu nhiên. Đây là hệ quả của bản chất cơ bản của lĩnh vực này: hiệu quả của AI phụ thuộc vào quy mô. Càng phát triển, AI càng lớn, càng khó thực hiện bất kỳ công việc nào có quy mô của con người. Và đó là lý do tại sao AI ngày càng bị độc quyền bởi cùng một số ít tập đoàn. Theo cách này, nó tương tự như tiền điện tử, cũng bắt đầu với các hoạt động khai thác tầng hầm quy mô nhỏ, và khi trở nên phổ biến, nó đã trở thành một hệ thống toàn cầu của các trang trại máy chủ công nghiệp.

Nhưng chúng ta hãy quay lại ý tưởng cơ bản của chính ý tưởng về AI: họ muốn xây dựng một trí óc máy móc. Thật không may, lĩnh vực AI không có khái niệm rõ ràng về ý thức. Họ, nhìn chung, là những người theo chủ nghĩa duy vật, những người tin rằng ý thức xuất hiện từ hoạt động của não. Và họ nghĩ rằng nếu họ tạo ra một dàn máy đủ giống não, nó sẽ trở nên có ý thức. Tất nhiên, Phật giáo không phải là một hình thức duy vật, và chúng ta bác bỏ quan niệm rằng ý thức phát sinh từ hoạt động của não. Đây là một khái niệm triết học không được khoa học xác định. Do đó, triết học Phật giáo, dưới bất kỳ hình thức nào, phải bác bỏ tiền đề cơ bản của toàn bộ dự án AI.

Alan Turing đã nói về việc máy móc có thể “suy nghĩ” hay không. Ngày nay, người ta nói về máy móc “lý luận” hoặc sử dụng “trí thông minh”. Không có định nghĩa rõ ràng nào về những thuật ngữ này, và sự dai dẳng của việc, một mặt, hoàn toàn không thể nói được chúng đang cố gắng đạt được điều gì, và mặt khác, dành hàng nghìn tỷ đô la để đạt được điều đó, là triệu chứng của lối suy nghĩ ảo tưởng trong lĩnh vực AI..

Mới ngày hôm nay, báo The Guardian đưa tin rằng Elon Musk tuyên bố:

[Trích] => “Tôi đoán rằng chúng ta sẽ có AI thông minh hơn bất kỳ con người nào vào khoảng cuối năm sau.” [hết trích]

Bằng cách không định nghĩa “thông minh hơn”, ông [Musk] đã xóa bỏ ảo tưởng về kiểu suy nghĩ này. Con người có nhận thức, còn máy móc thì không. Chúng ta đều biết rằng máy móc có thể làm một số việc tốt hơn con người. Máy tính Texas Instrument của tôi vào những năm 70s có thể tính toán tốt hơn tôi. Nhưng không có việc nào trong số những việc mà máy móc làm đó có liên quan gì đến ý thức. Musk nói tiếp:

[Trích] => “Nếu tôi có thể bấm nút tạm dừng AI hoặc siêu trí tuệ kỹ thuật số AI thực sự tiên tiến thì tôi sẽ làm. Có vẻ như điều đó không thực tế nên về cơ bản xAI sẽ xây dựng một AI. Theo một cách tốt, hy vọng là vậy.” [hết trích]

Có ngành công nghiệp nào khác từng phát triển bằng cách nói với mọi người rằng đó là một ý tưởng tồi, nhưng chúng ta sẽ cố gắng không làm cho nó tốt, "một cách hy vọng"?

Đức Phật đã nói điều gì đó về kiểu suy nghĩ này.

[Trích] => “Này Poṭṭhapāda, giả sử rằng có người nói rằng: ‘Bất kỳ người phụ nữ đẹp nhất trong xứ là ai, thì đó chính là người tôi muốn, người tôi mong muốn!’ Họ sẽ nói với anh ta, ‘Thưa ông, người phụ nữ đẹp nhất trong xứ mà ông mong muốn—ông có biết cô ta là một nhà quý tộc, một bà la môn, một nông dân hay một người hầu không?’ Khi được hỏi điều này, anh ta sẽ nói, ‘Không.’ Họ sẽ nói với anh ta, ‘Thưa ông, người phụ nữ đẹp nhất trong xứ mà ông mong muốn—ông có biết tên hay gia tộc của cô ấy không? Cô ấy cao hay thấp hay trung bình? Da của cô ấy đen, nâu hay nâu vàng? Cô ấy đến từ làng nào, thị trấn nào, hay thành phố nào?’ Khi được hỏi điều này, ông ta trả lời, ‘Không.’ Họ nói với ông ta, ‘Thưa ông, ông có mong muốn một người mà ông chưa từng biết hoặc nhìn thấy không?’ Khi được hỏi điều này, ông ấy trả lời, ‘Có.’ Ông nghĩ sao, này Poṭṭhapāda? Nếu vậy, lời tuyên bố của người đàn ông đó không có cơ sở chứng minh được sao?” (Kinh Trường Bộ DN 9 Poṭṭhapādasutta) [hết trích]

Ngược lại, Phật giáo sơ kỳ (Early Buddhism) có một quan niệm rõ ràng về tâm. Và nếu đúng như vậy, nó hoàn toàn loại trừ khả năng có ý thức theo con đường mà các tín đồ AI tưởng tượng ra. Quan niệm này không được thiết lập bởi quá trình giả khoa học quét não và đưa ra các tương quan tinh thần. Nó phát sinh từ sự phản chiếu bên trong được đào sâu thông qua thiền định và được hướng dẫn bởi kiến ​​thức về lời dạy của Đức Phật. Quá trình này bộc lộ các lớp và sắc thái của tâm, cho phép người tu thiền phát triển sự hiểu biết không chỉ mang tính lý thuyết mà còn thực tế và hiệu quả. Giống như bất kỳ sự hiểu biết thực sự nào, nó có hiệu quả: khi bạn hiểu được tâm, bạn có thể buông bỏ.

Chúng ta hãy cùng khám phá sơ lược về quá trình này. Theo quan điểm Phật giáo sơ kỳ, hoạt động của tâm được hiểu liên quan đến nhận thức chủ quan hoặc ý thức (viññāṇa: consciousness). Ý thức này phát sinh phụ thuộc vào sự kích thích của căn, với tâm là căn thứ sáu nhận thức được những suy nghĩ, ý tưởng và ký ức.

Vì viññāṇa là ý thức về các hiện tượng khác, nó thiếu các phẩm chất của những thứ đó nhưng nó bị ảnh hưởng bởi chúng. Nghĩa là, ý thức tự thân nó không phải là đỏ hay trắng, không ngọt hay chua, không sân giận hay tham lam hay khôn ngoan. Tuy nhiên, với tư cách là nhận thức chủ quan về những thứ này, nó phản ánh các phẩm chất của chúng, như một tấm gương phản chiếu màu đỏ mà thực tế gương không trở thành màu đỏ.

Tất nhiên, nó không thiếu những phẩm chất riêng của nó. Bản chất của nó như một hiện tượng có điều kiện là phải nhận thức, và nó có thể nhận thức nhiều hay ít, sáng và rõ, hoặc mờ đục. Theo cách này, nó không giống như một tấm gương, phản chiếu ánh sáng mà không bị thay đổi bởi ánh sáng. Viññāṇa luôn thay đổi.

Chúng ta chứng kiến ​​một chuyển đổi lớn của ý thức cứ mỗi khi chúng ta ngủ thiếp đi: cái biết mờ dần đến gần như là bóng tối, một cõi mơ mà nơi đó logic và lý tính đã trốn khỏi. Hoặc ngay cả giấc ngủ sâu hơn, trọn vẹn, nơi sự phản bội duy nhất của ý thức xảy ra nếu chúng ta thức dậy. Và sau đó chúng ta thấy sự leo thang dần của cái biết trở lại vào ánh sáng ban ngày khi chúng ta lấy lại khả năng nhận thức, có thể phân biệt mọi thứ xung quanh mình. Và khi ý thức trở lại, thì tất cả những thứ đi kèm cũng vậy. Và chúng ta suy nghĩ, mong muốn, ngạc nhiên và bắt đầu một ngày khác.

Khi tâm tràn ngập lòng tham, điều đó ảnh hưởng đến cách mà ý thức của chúng ta nhận biết. Thật khó để mô tả những điều như vậy, một lý do cho điều đó là nó luôn khác nhau vì những tham muốn luôn luôn khác nhau. Cái tham ái dục của một cậu thiếu niên không giống với cái tham tiền bạc của một giám đốc điều hành. Tuy nhiên, chúng có chung một phẩm chất là hạn chế và thu hẹp ý thức, nhưng lại tiếp thêm năng lượng cho nó theo một hướng cụ thể.

Trong lý duyên khởi, yếu tố điều kiện chính cho ý thức là saṅkhārā [hành, lựa chọn], ở đây chỉ đến các lựa chọn đạo đức. Khi chúng ta chọn làm điều thiện, nó sẽ hướng tâm theo một hướng nhất định, định hình ý thức. Khi chúng ta chọn làm điều ác, nó sẽ tạo ra một loại tâm  khác với những trải nghiệm khác. Nếu chúng ta có thói quen chọn điều ác, tâm chúng ta sẽ mang những phẩm chất xấu xa đó, trở nên đồi trụy và thoái hóa, thiếu lòng từ bi và trí tuệ. Nếu chúng ta làm điều thiện, chúng ta sẽ tạo ra một tâm cởi mở và sáng suốt. Đây là nguyên tắc cơ bản nằm sau mọi thiền định của Phật giáo. Nếu chúng ta muốn tạo ra một tâm thế nào, thì đạo đức phải là bước đầu: nó phải là đặc tính quyết định. Đó là cách bạn tạo ra, không chỉ là một tâm, mà là một tâm lành mạnh. Có nhiều cách khác để tạo ra sự tan vỡ hơn là sự lành mạnh.

Ý thức là một căn hữu cơ của sự nhận biết. Nó không hiện hữu một mình tự nó—không có thứ gì như ý thức thuần túy tách biệt khỏi các chiều khác của tâm. Thay vào đó, ý thức là chức năng chủ quan của tâm, được tạo ra và hỗ trợ kết hợp với các khía cạnh như cảm giác (thọ), nhận thức (tưởng), ý định và sự chú ý. Các yếu tố này không thể tách rời và chúng luôn diễn ra theo một dòng tương thuộc lẫn nhau. Ý thức hiện diện từ khi sinh ra, và phát triển và tiến hóa trong suốt cuộc đời, để đáp ứng với các kinh nghiệm và để thỏa mãn các tham muốn. Thậm chí còn hơn thế nữa, nó [thức] là một dòng suối chảy từ kiếp này sang kiếp khác, mang lại sự liên tục trong đó cái thay đổi mạnh mẽ nhất là cái chết.

Ý thức là thứ vi tế nhất, khó nắm bắt nhất, nhưng lại phổ biến khắp mọi nơi trong tất cả những thứ có điều kiện [hữu vi]. Nó ở đó khi bạn nếm muối, khi bạn ngủ, khi bạn chết. Khi thiền định đi sâu hơn, ý thức bắt đầu bộc lộ chính nó như một tiếng vọng hoặc một sự phản chiếu, hay tốt hơn, như một thoáng chuyển động trong sự phản chiếu. Nó có sự mềm mại, dịu dàng và phản ứng vượt trội mà nó thường che giấu khỏi chúng ta. Ý thức muốn biết, không muốn được biết đến. Tuy nhiên, có điều gì đó về nó, sâu thẳm bên trong, khao khát được hiểu.

Đó là thành trì cuối cùng của Tự ngã, nơi ẩn náu mà chúng ta bám víu khi đã nhìn thấu mọi mánh khóe và sự lừa dối khác. Nhưng nó [thức] cũng trống rỗng, giống như ảo ảnh của một nhà ảo thuật.

Một khi chúng ta hiểu được ý thức theo cách này, rõ ràng là không thể đi từ “suy nghĩ” [niệm] đến “ý thức”. Bạn không thể bắt đầu bằng cách ghép các bit và mảnh lại với nhau để rồi ý thức mới nhảy ra hiển lộ. Suy nghĩ hoặc trí tưởng tượng hoặc lý luận không thể hiện hữu nếu không có ý thức. Tất cả chúng đều có ngay từ đầu. Nhưng còn tệ hơn thế nữa, bởi vì một dàn máy không có “suy nghĩ” [niệm] hoặc “trí nhớ”, nó có thứ gì khác cũng có cùng tên.

Khi chúng ta nói về một dàn máy có “trí nhớ”, nó không có cùng khả năng như một tâm có. Thay vào đó, nó thực hiện một điều hoàn toàn khác, một phần giống với các chức năng mà chúng ta liên kết với trí nhớ, cụ thể là nhớ lại các sự kiện trong quá khứ. Một trong những yếu tố phản bội ở đây là trí nhớ của máy theo vài cách lại tốt hơn trí nhớ của con người: máy có thể sao chép chính xác một cái gì đó, trong khi ý thức thực sự dựa vào sự tái tạo mơ hồ. Điều này cho thấy trí nhớ của máy là một loại khác so với trí nhớ của con người.

(Ghi chú của NG: Trong đoạn kế dưới, ngài Sujato nói về cách chúng ta dùng chung một chữ theo quy ước nhưng khác nghĩa. Thí dụ, Phật tử khi nói chuyện vẫn dùng chữ "tôi" hay "chúng tôi" như đời thường, nhưng đều biết rằng thực chất là vô ngã, không có "cái tôi" nào hết. Phân biệt này để nói về "trí nhớ" hay các sản phẩm của người và máy.)

Chúng ta sử dụng cùng một chữ vì sự tiện lợi, nhưng điều đó đánh lừa chúng ta để nghĩ rằng chúng là cùng một thứ. Đây là cùng một loại ngụy biện luận lý mà các Phật từ từ xa xưa đã hiểu trong bối cảnh của “cái tôi”. Chúng ta hiểu rằng không có “cái tôi” theo nghĩa là một thực thể siêu hình, trường tồn mà đó là chính con người chúng ta là trong bản chất sâu sắc nhất của mình. Tuy nhiên, chúng ta sử dụng chữ này trong cuộc trò chuyện hàng ngày giống như bất kỳ ai khác. Nhưng với chánh niệm, chúng ta vẫn sáng suốt về những gì chúng ta thực sự đang đề cập đến. Nếu không, khuynh hướng chấp có ngã (ahaṁkāra) ăn sâu trong chúng ta sẽ nhanh chóng dẫn chúng ta đến sự bám víu mù quáng vào những hoang tưởng siêu hình của mình.

Điều tương tự cũng áp dụng cho, ví dụ, bài tập về logic. Khi bạn hoặc tôi thực hiện phép toán cộng, có một tiến trình ý thức diễn ra. Một dàn máy có thể thực hiện cùng một phép tính, sử dụng một kiểu tiến trình hoàn toàn khác. Tuy nhiên, về mặt chức năng, chúng ta mô tả cả hai theo cùng một cách như đã "giải" xong bài toán. Một lần nữa, sự khác biệt được hiển lộ ra vì một máy tính đơn giản có thể thực hiện bài toán nhanh hơn và chính xác hơn chúng ta, nhưng rõ ràng là nó không có ý thức.

Các dàn máy không nhớ, chúng mô phỏng trí nhớ. Chúng không nhận ra sự vật, chúng mô phỏng sự nhận dạng. Chúng không suy nghĩ, chúng mô phỏng sự suy nghĩ. Về mặt bên ngoài, những quá trình này có vẻ giống nhau ở một mức độ nào đó, vì có sự đan xen các chức năng. Nhưng đối với máy móc, tất cả những gì có là bên ngoài. Không có gì bên trong, không có gì từ góc nhìn của máy, không có gì giống như chuyện là một dàn máy. Bạn sẽ không bao giờ có được từ một niệm được mô phỏng, từ trí nhớ được mô phỏng, từ cảm thọ được mô phỏng đến cái ý thức thực sự. Nơi mức tốt nhất, bạn sẽ tạo ra thứ gì đó tốt hơn trong việc đánh lừa nhiều người hơn.

Lịch sử triết học Ấn Độ gắn liền với sự xuất hiện của các nhà hiền triết chiêm nghiệm như Đức Phật. Khi những người vĩ đại và thông thái chỉ ra tính trung tâm của ý thức là chìa khóa giải thoát, người ta lắng nghe, thảo luận và hình thành các triết lý. Sự chú ý của họ được thu hút bởi sức mạnh của trí tuệ sáng suốt, và họ hướng sự chú ý và phát triển tâm của họ theo cùng con đường đó.

AI cũng đang làm điều tương tự, ngoại trừ việc chúng ta bị mê hoặc bởi một sự giả tạo. Sự chú ý của con người trên toàn thế giới đã bị thu hút, những suy nghĩ, nỗi sợ hãi, hy vọng và tưởng tượng của chúng ta bị thu hút bởi sự xuất hiện của một thứ gì đó quá xa lạ mà dường như giống chúng ta. Chúng ta muốn nó là cái gì thật. Chúng ta muốn trở thành nó. Khi làm như vậy, chúng ta mong muốn xóa bỏ tính chủ quan của chính mình.

Các AI không có ý thức, không hiểu, và không cảm thọ bất cứ những gì. Chúng không được thụ thai trong ái dục, không được nuôi lớn trong yêu thương, không bị dằn xé bởi lòng căm giận. Chúng chỉ phun ra những dòng dữ liệu.

Những người rao bán AI tin tưởng mù quáng rằng "giới hạn" này sẽ được loại bỏ theo thời gian. Họ nói rằng có một cái dị thường đang đến gần, khi một dàn máy thông minh hơn con người. Họ coi điều này là cần thiết và đáng mong muốn. Elon Musk đã nói, "Tất cả chúng ta sẽ ngu hơn một con mèo trong nhà khi so sánh với AI, nếu điều đó có thể an ủi chúng ta." Hãy nhớ rằng trong cùng một dòng tweet, ông Musk đã ủng hộ khoa học giả tạo về phrenology (Não tướng học) kỳ thị chủng tộc và ưu sinh học, mà tôi đoán ít nhất cũng chứng minh rằng AI đã thông minh hơn một số người.

Nếu chúng ta có thể tạo ra một dàn máy thông minh hơn chúng ta, chắc chắn nó có thể tạo ra một dàn máy khác thông minh hơn chính nó, dẫn đến một vòng xoáy theo cấp số nhân của trí thông minh chỉ bị giới hạn bởi năng lượng, vật liệu và tốc độ ánh sáng. Sau đó, chúng ta sẽ đến với máy tính lượng tử, nơi mà tốc độ ánh sáng chỉ là một hướng dẫn chứ không phải là một quy tắc.

Không có chuyện nào như thế sẽ xảy ra. Đó hoàn toàn là tưởng tượng, không có cơ sở bằng chứng nào. Những gì AI làm không dính gì đến ý thức. Bất kể dàn máy xử lý dữ liệu lớn đến mức nào cũng không quan trọng; nó chỉ là một dàn máy xử lý dữ liệu.

Nhưng niềm tin rằng điều đó sẽ xảy ra là có thật. Ảo tưởng không có bằng chứng này thúc đẩy hy vọng và nỗi sợ hãi của thế hệ chúng ta. Những người ủng hộ AI cố tình lợi dụng điều này, đã khuếch đại nỗi sợ hãi trong khi thổi phồng các khả năng, trong khi vẫn nói dối về trách nhiệm đạo đức và về các hướng dẫn cho đúng luật pháp. Đừng tin họ.

NGUỒN:

-- AI-1: Let’s Make SuttaCentral 100% AI-free Forever

https://discourse.suttacentral.net/t/ai-1-let-s-make-suttacentral-100-ai-free-forever/33374

-- AI-2: Machine translations of suttas are the wrong solution for the wrong problem

https://discourse.suttacentral.net/t/ai-2-machine-translations-of-suttas-are-the-wrong-solution-for-the-wrong-problem/33408

-- AI-3: There is no road from here to there

https://discourse.suttacentral.net/t/ai-3-there-is-no-road-from-here-to-there/33426

.... o ....

Bình luận