“Mực hòa nước mắt viết nên thơ”
Ban Biên Tập tinhxangocminh.net xin trích bài thơ này trong quyển Minh Đăng Quang Pháp Giáo để giới thiệu đến toàn thể độc giả gần xa, cùng nhau đọc lại đôi dòng cảm niệm và cuộc đời cao quý của Tổ sư, để lấy đó làm niềm tin mà tiến tu đạo nghiệp, thực hành phẩm hạnh thanh bần giản dị, nối truyền y bát, mà đức Tổ sư là một tấm gương cao quý cho chúng ta noi theo và tu học.
Ngày mùng một, tháng hai năm Ngọ
Ngày Đức Thầy lãnh thọ tai ương
Động lòng trời, đất, thảm thương !
Thiên hôn, địa ám, khác thường mọi khi.
Mưa sùi sụt, lâm ly như khóc,
Gió thét, gào, ê óc như than !
Mây giăng như phủ tấm màn
Ba ngày mù mịt, mưa chan dầm dề.
Đấng cứu thế, chịu bề thê thảm !
Tay sắt kia va chạm thân vàng
Tấm thân, công đức huy hoàng
Tai bay họa gởi, vương mang cực hình.
Lòng thiên hạ hãi kinh, nhao nhố !
Khắp nơi nơi, thống khổ, bi thương !
Công Thầy khai mở đạo trường,
Độ trong sanh chúng hiền lương tu hành.
Nay Thầy phải lâm vành lao lý,
Đệ tử đành rơi lụy khoanh tay
Chước chi gỡ nạn cho Thầy ?
Ngồi yên nhìn mãi cảnh này được đâu ?
Tám Tăng sĩ, nặng bầu nhiệt huyết,
Lòng thương Thầy cương quyết, đớn đau,
Phát tâm hòa nguyện cùng nhau,
Đến nơi chốn ấy mong sao gặp Thầy.
Ví được cảnh sum vầy Sư đệ,
Thấy được Thầy quí thể tồn sanh
Thân con khổ sở cũng đành
Thủy chung cho trọn tấc thành hiếu tâm.
Xuống đến đó, hỏi thăm cớ sự…
Ai có ngờ nạn dữ tới nơi !
Thầy đâu chẳng thấy tăm hơi,
Mà thân con phải vào nơi ngục tù.
Buồn chạnh nghĩ : “Kiếp tu vô vội
… Cớ sao còn ràng trói tấm thân?”
Nhìn cây kiềng sắt còng chân,
Thương Thầy thống khổ, ruột dần quặn đau !
Ôi giọt lệ anh hào lã chã
Khóc Tôn sư! Khóc cả chúng sanh!
Thầy truyền giáo pháp tu hành
Là thương trần thế điêu linh khổ nàn!
Thầy chẳng quản cơ hàn đói lạnh
Gắng công tu khổ hạnh miệt mài.
Mỗi ngày một bữa ngọ chay
Mỗi năm chăn áo đổi thay một lần.
Nay còn phải lột trần thê thảm
Một quần đùi mặc tạm che thân.
Đêm trời lạnh thấu xương gân
Ngày thời oi bức như gần ngột hơi !
Ngày một bữa cơm xơi với muối,
Chịu thấu đâu những buổi khảo tra
Lòng nào lòng chẳng thiết tha?
Tôn Sư như thế nữa là chúng sanh?
Đường giải thoát tu hành gián đoạn,
Ngọn Pháp đăng đã cạn lưng dầu
Mịt mờ còn thấy chi đâu,
Rừng đời hang thẳm hố sâu khôn dò.
Hết nghĩ xét thương lo viễn vọng,
Lại ngặt mình khổ thống tâm can
Thương Thầy gánh chịu hàm oan,
Cõi lòng khô héo, lá gan dập bầm.
Mười một bữa giam cầm chẳng hỏi.
Đến hôm sau lịnh gọi đi làm,
Nghe qua biết tính sao kham!
Cá nằm trên thớt phải cam phận liều.
Gắng cất bước đi theo đến đó,
Người chỉ cho nhổ cỏ tươi xanh.
Than rằng: Tôi kẻ tu hành,
Giới điều Phật dạy sát sanh đặng nào ?
Người lại bảo : – “Không sao điều ấy
Ta khiến làm tội quấy về ta”.
Thôi còn biết tính sao a?
Cúi đầu vâng lịnh cho qua trận đòn.
Được một tháng không còn nhổ cỏ,
Lại bắt qua đắp mộ, chôn thây
Lợp nhà, bửa củi, khiêng cây.
Đào mương, chở gạch, đắp xây hố hầm.
Việc nặng nhọc, cam đành thọ lãnh,
Ghê những là thoi đánh nặng tay.
Tấm thân Phật tử đọa đày
Bậm môi mà đếm những ngày đau thương.
Còn làm chuyện chán chường tủi hổ
Sai nhà tăng đem đổ đồ dơ
Không đi bị đánh bất ngờ
Cú thoi tới tấp chẳng chờ nói năng.
Lại thịnh nộ hung hăng oai vũ:
“Bỏ tù cho thịt rủ xương tàn!”
Ác tâm người đã dẫy tràn,
Nào thương kẻ ngậm hàm oan nín sầu?
Thêm những tiếng nặng đầu nhức óc,
Giọng cao cầu, nhiếc móc khinh khi:
Rằng bây ăn học làm chi,
Lại theo tà đạo, tu gì đi xin?
Mở trí rộng mà nghe tao giảng.
Tụi bây là một hạng ngu si
Như bây tu lắm quái kỳ
Như tao mới phải tu vì quân vương
Tu thì phải gươm, thương đấu sức
Tu phải cho đại lực, đại hùng
Tu sao nước được hưng sùng
Tu cần tranh đấu tới cùng thành công.
Với kẻ ấy, khó mong mở miệng
Chỉ im hơi, lặng tiếng ngơ tai.
Làm câm, làm điếc qua ngày,
Như người dị chủng lạc loài đến đây.
Thân đứng giữa vòng vây thúc giục
Từng lớp người bao phủ trùng dương
Thấy toàn những kẻ dữ hung
Cảnh đâu có cảnh lạ lùng lắm thay
Bởi quá lạ người hay soi móc,
Cùng dèm pha, trêu chọc giễu chơi
Cái bia cho chúng nhạo chơi
Lặng thinh để mặc tiếng người thị phi
Con chịu cảnh thương bi mòn mỏi,
Mà tin Thầy không hỏi được ai.
Ngày qua, rồi lại qua ngày
Chân mang kiềng sắt gần đầy ba trăng.
Một bữa nọ kêu phăng buông thả
Rằng : “Thầy ông tội đã tạo gây ?
Còn trong bóng tối chưa hay.
Điều tra giữ lại nơi đây gạn lừa”.
Liệu bề thế khó thưa hỏi được
Thôi phải đành cất bước ra về.
Mắt nhìn cảnh vật ủ ê
Thương thầy khốn khổ dầm dề lụy rơi.
Gà lạc mẹ chơi vơi, nheo nhóc,
Tủa bương tìm kêu khóc ngẩn ngơ.
Lạ lùng dớn dác thẩn thờ
Mẹ ơi! mẹ hỡi! bây giờ mẹ đâu!
Lệ hầu cạn, nguồn sầu chưa cạn,
Khổ thân con, chẳng tạn mặt Thầy
Khi đi Y Bát đủ đầy,
Khi về trơ tấm thân gầy quần manh.
Một lần chót nhìn quanh thảm thiết
Nơi đã ghi một vết thương tâm.
Chốn nao Thầy bị giam cầm,
Thầy ơi có biết con tầm Thầy chăng ?
Giọt lệ thảm rơi văng thấm đá
Khí uất xung ủ cả vòm trời.
Đường về thăm thẳm xa khơi
Bước chân ngao ngán rụng rời tứ chi.
Nơi chốn cũ nào khi hội lễ
Tình Thầy trò vui vẻ bao nhiêu
Nay nhìn quang cảnh đìu hiu
Vắng sau, quạnh trước, chín chiều ruột đau.
Lòng nung nấu trông mau sáng tối
Muốn thâu giờ một buổi thành hai.
Đêm qua cho chóng đến ngày,
Ngày nay ngóng đợi, ngày mai Thầy về.
Ngày qua, lại, không hề nghe Thấy;
Bặt bóng tăm từ ấy nhẫn nay.
Lòng con tâm trạng ai hoài,
Lần tay tính mãi tháng dài năm dư.
Ôi đức cả Tôn sư thông thấu,
Cùng thiên cao địa hậu chứng tri.
Con nguyền kiếp kiếp tu trì,
Nương về theo bóng Từ Bi của Ngài.
Con chờ đợi ngày mai trời sáng,
Đức Thầy về khêu rạng Pháp đăng.
Lập nên giới Hiệp Hòa Tăng,
Độ trong sanh chúng đồng đăng, đạo tràng.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MƯU NI PHẬT