Hoa mai và đạo tình

Đứng trước phong cảnh ngày Xuân, muôn hoa khoe sắc, nhà thơ thưởng thức vẻ đẹp này để rồi dạt dào bao nỗi luyến lưu. Cảm xúc theo cảnh trào dâng khiến nhà thơ cao hứng muốn ghi lại hình mạo của Chúa Xuân.
Những chất liệu làm nên thi ca thì rất nhiều: Màu sắc rực rỡ của hoa đào, âm thanh xào xạc của rặng dương liễu, tiếng hót líu lo của chim hoàng oanh. Phần lớn những tác phẩm vẽ lại những cảnh vật ở trước mắt có sức mời gọi như trên, ai có thể dững dưng. Nhưng đối với bậc cao tăng kiến đạo bằng trí huệ lớn từ "Sắc" thấy "Không" thì nhận rằng núi sông và đất đai đều hiển lộ pháp thân, hoa cỏ làm người vui mà cũng hiển lộ chí đạo. Cũng như các nhà lý học đời Tống chẳng hạn, họ ca tụng những câu thần tình trong Kinh Thi, cho là Thiền cơ hoạt bát để dẫn chứng cho sự lưu hành của chí đạo.
Chu Tử nói:
- Bán mẫu phương đường nhất giám khai
- Thiên quang vân ảnh cộng bồi hồi
- Vấn cừ na đắc thanh như hứa
- Vị hữu nguyên đầu hoạt thủy lai.
- (Mặt ao rộng nữa mẫu giống như một mặt gương.
- Sắc trời bóng mây cùng in bóng trong đó.
- Hỏi ra vì sao được trong như thế,
- Vì có nước lưu thông ở đầu nguồn đến)
- Ao vuông nữa mẫu giống như gương
- Trời mây một sắc đến in khuôn
- Hỏi ra sao được trong như thế
- Bởi nước lưu thông ở thượng nguồn.
Ông cho đó là lời nói kiến đạo, là thơ ngụ đạo.
Hoa mai là quốc hoa cho mọi người cùng thưởng thức, tánh chịu đựng sương gió lạnh lẽo giúp nó trổ hoa chính là tượng trưng cho tinh thần và khí tiết của người Trung quốc. Hoa mai được nhà thơ khen tặng đứng đầu trăm hoa. Các câu thơ vịnh hoa mai nổi tiếng của Lâm Hòa Tĩnh như:
- Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển
- Âm hương phù động nguyệt hoàng hôn
- (Bóng thưa của hoa nằm ngang giữa làn nước trong ở nơi cạn,
- Hương thầm của hoa làm lung lay bóng nguyệt lúc hoàng hôn)
- Bóng hoa vắt ngang làn nước biếc
- Hương thầm lay nguyệt lúc hoàng hôn.
Và của Tô Đông Pha như:
- Phân phân sơ nghi nguyệt quảy thụ
- Liên liên độc dữ tham hoàng hôn.
- Những cánh hoa mai rơi lả tả mới ngỡ rằng trăng rải ánh vàng trên cây,
- Nhà thơ như hòa làm một với hoa mai lúc hoàng hôn)
- Mai lả tả ánh vàng vương cây lá
- Người với hoa là một giữa hoàng hôn
Phần đông dừng ở nơi thấy hoa tả cảnh, có thể là cao tăng hoặc thiền nhân cảm thọ chẳng đồng, dùng hoa mai để gởi gắm tình cảm ẩn chứa đạo lý. Bài thơ cổ mai (gốc mai già) của một nhà sư đời Đường như sau:
- Hỏa ngược phong thao thủy tứ căn
- Sương thuân tuyết trựu cổ đài ngân
- Đông phong vị khẳng tùy hàn thử
- Hựu nghiệt hanh hương dữ phản hồn.
- Đường tăng (khuyết danh)
Dịch thơ:
- Gốc mai già
- Lửa táp gió lùa lại nước ngâm
- Sương (như) búa, tuyết (như) cưa khắc dấu hằn
- Gió đông lạnh buốc dù chưa đến
- Song vẫn đâm chồi tỏa ngát hương
- Một vị tăng đời Đường.
- Thiên niên đài thọ bất thành Xuân
- Thùy tín u hương tợ ngọc hồn (1)
- Tế tuyết mãn lâm vô nguyệt sái
- Điểm đăng xuy giác tố hoàng hôn
- Hư Đường Trí Ngu (2)
Dịch thơ:
- Nghìn năm rêu bám, chẳng nghênh Xuân
- Ai hay hương thoảng tợ ngọc hồn
- Trời lạnh khắp rừng trăng chẳng chiếu
- Đốt đèn, thổi ốc, báo hoàng hôn
Trích trong Ngữ lục của Thiền sư Trí Ngu hiệu Hư Đường (quyển 7)
- Thường ức Tây Hồ (3) xử sĩ gia
- Sơ chi linh nhụy tự hoành tà
- Tinh minh nhất phiến đương thời sự
- Chỉ khiếm thanh hương bất khiếm hoa
Dịch thơ:
- Thường nhớ Tây Hồ nhà ẩn dật
- Chuộng vẽ mai vàng với cành trơ
- Một đóa linh khôi vừa mới hé
- Chỉ thiếu hương thơm chẳng thiếu hoa.
Thơ ngụ đạo không gì khác hơn là mượn có để hiển không, mượn vật để ngụ lý dùng thanh sắc để hiển dụng, dùng nó để giải thích thì rất tốt. Hoa mai thường được nhà thơ thưởng thức lấy làm đề tài ngâm vịnh, cũng là đối tượng mà thiền sư dùng để hiển bày thiền cơ Phật lý. Hoa mai trước gió đông và băng tuyết tượng trưng cho tiết tháo của bậc hiền nhân quân tử giữa những cơn biến động của cuộc đời, nên rất được thi nhân và triết gia thưởng thức cùng ngâm vịnh.
- *****
Chú thích:
(1) Ngọc hồn: tên một loài hoa đẹp.
(2) Trí Ngu (1185 - 1269): Thiền tăng đời Tống, họ Trần, hiệu Hư Đường, tức Canh Tẩu, người Tương sơn (Triết giang) Trung Quốc. Năm 16 tuổi theo Sư Uẩn chùa Phổ Minh xuất gia, du học khắp nơi, đến Kim Sơn yết kiến Vận Yểm Phổ Nham được tỏ ngộ, nối pháp làm truyền nhân phái Dương Kỳ tông Lâm Tế. Sau đó lần lượt tham kiến các bậc thiện trí thức. Niên hiệu Thiệu Định thứ 2 (1229), ban đầu sư trụ trì chùa Hưng Thánh, sau đó lần lượt trụ các chùa Báo Ân, Hiển Hiếu, Thụy Nham, Diên Phước, Bảo Lâm, Dục Vương, Tịnh Từ, Kinh Sơn. Sư được Tống Lý Tông, Tống Độ Tông quy y, giáo hóa hưng thạnh.
Tác phẩm: Hư Đường Hòa Thượng Ngữ Lục 10 quyển lưu hành nơi đời.
(3) Tây Hồ: tức Lâm Hòa Tĩnh, một nhà ẩn dật đời Minh.
Lâm Hòa Tĩnh (967 - 1928) tên thật là Lâm Bô, tự là Quân Phục, người Tiền Đường (Hàng châu), học giỏi nhưngkhông chịu ra làm quan, ở ẩn trên núi Cô Sơn, bạn cùng hoa mai và chim hạc.
- Sưu tầm: Thanh Sơn
- (Trích dẫn: Thơ Thiền Đường Tống, nhà xuất bản Đồng Nai)
- Xuân nghìn năm-xuân đối diện Nguyễn Đức Sinh
- Xuân Viễn Xứ Bạch Vân Nhi
- Mừng Xuân Quý Mão - 2023 Minh Đạo
- Xuân về Chánh Bảo Trung
- Tiếng Xuân Khánh Hoàng
- Tết – Phút suy niệm về bài Cáo Tật Thị Chúng Thích Thiện Hữu
- Sáu Tên Giặc Minh Thắng
- Cầu Nguyện Đầu Năm Tâm Chơn
- Xuân Lòng Tâm Chơn
- Đức Di Lặc và ý nghĩa sáu đứa bé HT. Thích Thanh Từ
- Mừng Năm Mới (slideshow) Nguyễn Nguyệt gởi
- Hương sen dìu bước mùa Xuân …. Cư sĩ Liên Hoa
- Dâng sớ cầu an Cúng sao giải hạn TK Thích Chân Tuệ
- Ăn tết trong chùa LAM KHÊ
- Câu đối xuân 2010 Thích Nhật Từ
Đánh giá bài viết này
Cùng tác giả
Được quan tâm nhất

![]() |
Dâng sớ cầu an Cúng sao giải hạn 15/02/2010 17:22:00 |
![]() |
Đức Di Lặc và ý nghĩa sáu đứa bé 15/02/2010 20:05:00 |
![]() |
Tết – Phút suy niệm về bài Cáo Tật Thị Chúng 20/02/2010 07:30:00 |
![]() |
Hoa mai và đạo tình 20/02/2010 07:32:00 |
![]() |
Cầu Nguyện Đầu Năm 19/02/2010 07:15:00 |

Gửi bình luận của bạn
BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)