Gia Phong chư Phật và mùa Xuân

Đã đọc: 4690           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

I. Đời Trần, Trần Nhân Tông (1258-1308), một nhà vua đi tu đắc đạo, trở thành vị Thiền sư sơ tổ Thiền phái Trúc Lâm

Khi còn làm vua, Trần Nhân Tông đã viết bài Thơ Cảnh Xuân:

"Liểu rủ hoa hồng chim hát ca
Mây chiều in bóng trước hiên nhà
Khách vào, thế sự không cần hỏi
Chỉ tựa lan can ngắm cỏ hoa."
(Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
Họa đường thiền ảnh mộ vân phi
Khách lai bất vấn nhân gian sự
Chỉ bạng lan can khán thúy vi)

Lời thơ cho chúng ta thấy dấu ấn "Gia phong của chư Phật" tiềm ẩn trong bài "Cảnh Xuân" rất đậm nét, và chính dấu ấn này đã khơi lại mạch đạo "tầm tứ" làm tiền đề nối nhịp cho nhà vua Trần Nhân Tông hội nhập Phật cảnh chân tâm.

Sau khi đi tu trở thành một vị Thiền sư, Trần Nhân Tông tiếp tục soi sáng:

"Thân như hơi thở qua buồng phổi
Kiếp tựa mây luồn đỉnh núi xa
Chim khuyên kêu rã bao ngày tháng
Đâu phải mùa Xuân dễ luống qua?"
(Thân hư hô hấp tyrung khí
Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú
Bất nhị tầm thường không quá Xuân).

Đây chính là một thắi độ tỉnh giác trước vô thường, biết quý trọng và làm chủ tâm thức mình trước sự chuyển dịch của thời gian.

Câu chuyện đối đáp truyền trao ý pháp của Thiền sư với các học nhơn sau đây cho chúng ta thấy rõ hơn. Một hôm có một Thiền sinh đến tham vấn:

-- Bạch Hòa Thượng, gia phong của Đức Phật quá khứ thì thế nào?

Thiền sư đáp:

"Vườn rừng vắng mặt người chăm sóc
Lý trắng đào hồng tự nở hoa."

Hễ còn phàm phu thì trú trong vòng tương đối -- có đến có đi, có thị có phi, có hôm qua, có ngày nay. Lý đào dù ở trong rừng vắng, dù không người chăm sóc, nhưng đến thời tiết nhơn duyên hoa tự nở. Cũng vậy, một khi đạt đến đỉnh cao của tâm thức, an trú trong đạo quả rồi thì dù ở đâu, đi đâu, động hay tịnh, hôm qua hay ngày nay -- Phật pháp muôn đời vẫn là Phật pháp ; Đức Phật Di Đà mãi mãi vẫn là Đức Phật Di Đà.

Thiền sinh lại hỏi tiếp:

-- Gia phong của các Đức Phật hiện tại thì thế nào ?

Thiền sư đáp:

"Nhạn sớm lạc trên hồ nước bạc
Gió Xuân say giữa khóm đào hồng."

Tinh thần "Ngã bất nhập địa ngục, thùy nhập địa ngục" hay tư tưởng "Phật pháp bất ly thế gian giác" đã được Thiền sư thi vị hóa một cách sinh động tuyệt vời. Phật pháp thường khi không hề bị ngăn ngại, mà trái lại còn chủ động hội nhập một cách năng động để tiếp chúng độ sanh. "Lạc" hay "say" đây chính là triển khai tính "cơ, lý", là truyền thống, nề nếp của ba đời chư Phật mà Đức Phật Thích Ca là một hiện thân.

Thiền sinh lại hỏi tiếp:

-- Còn gia phong của Đức Phật vị lai ?

Thiền sư đáp:

"Bãi biển đợi triều, mây nhớ nguyệt
Thôn chài nghe sáo, khách trông nhà."

Những động từ: đợi, nhớ, nghe, trông... là những ngôn ngữ kết nối sự quay về hội nhập giữa các chủ thể - sắc: bãi biển, thôn chài, áng mây, ngôi nhà... với các khách thể - trần: nước triều, ánh trăng. tiếng sáo và khách lữ hành. Bãi biển sẽ đẹp, sống động khi có nước triều lên; thôn chài sẽ mơ màng thơ mộng biết bao khi có tiếng sáo nhẹ vang; áng mây trời càng thêm lung linh khi có ánh trăng rằm ẩn chiếu và ngôi nhà trở nên ấm áp khi người khách (chủ) lữ hành đã trở về. Vì thế, chúng ta dễ dàng nhận ra nơi Đức Phật Di Lặc là một hiện tượng của ý Pháp"... luôn luôn du hành vì an lạc, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người."

Thiền sinh lại hỏi:

-- Còn gia phong của Hòa Thượng thì sao ?

Thiền sư đáp:

"Áo rách đùm mây đun cháo sớm
Bình xưa đựng nguyệt nấu trà khuya."

Ôi! Lời thơ uyên áo, thiền vị, một ý nghĩa đẹp tuyệt vời làm sao! Hình ảnh một vị đạo sư nương chiếc thân tứ đại giả hợp, vui sống đời sống thiểu dục tri túc (áo rách đùm mây) để hằng ngày tinh tấn hành trì đạo nghiệp (đun cháo sớm) trưỡng dưỡng tâm chơn. Và cũng chính nơi xác thân xa xưa cũ kỹ này (bình xưa đựng nguyệt) mà con người luôn biết gìn giữ một tâm thức trí tuệ trong sáng như ánh trăng hiền diệu để mỗi ngày (nấu trà khuya) tích lũy tư lương.

Đến đây, học nhơn lại hỏi:

-- Ngày xưa, khi Linh Vân thấy hoa đào nở mà chứng ngộ thì thế nào ?

Thiền sư đắp:

"Hoa tàn, hoa nở theo thời tiết
Đông quân bị hỏi cũng không lời."

Ngày xưa, Thiền sư núi Linh Vân, mùa Xuân đến, thấy hoa đào nở mà chứng ngộ Phật pháp tức là sự tương ứng tâm cảnh của người đắc nhập. Nay ta chưa đủ năng lực thời duyên thì dù có nhìn ngàn cánh hoa nở, họa chăng cũng chỉ biết vui đón mừng Xuân. Vì thế dù có hỏi các vị Đông quân (ý chỉ mặt trời hay mùa Xuân) thì cũng không có ai đáp lời.

 

II. Thân phận con người là một hệ quả
tất yếu trong đời sống hiện hữu

Giác ngộ làm chủ cuộc sống của chính mình, của một đời người không phải là điều dễ làm. Từ khi mới lọt lòng Mẹ cho đến khi trưởng thành, già yếu và mất đi... mỗi đời người chúng ta trải qua không biết bao nỗi thăng trầm, khổ vui, được mất. Thiền sư Trần Nhân Tông thương tưởng chúng sanh, thể hiện lòng đại từ đại bi vạch lối chỉ đường:

"Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc - không
Xuân sang hoa bướm rộn tơ lòng
Chúa Xuân nay đã từng quen mặt
Thiền tọa ngồi yên, ngắm rụng hồng."
(Niên thiếu hà tằng liễu sắc, không
Nhất Xuân tâm sự bách hoa trung
Như kim khám phá Đông Hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng).

Nếu mỗi người chúng ta không tỉnh giác, tự mình không dừng chân thì cuộc luân hồi dài khó nổi thoát ra.

Đến cuối đời, Thiền sư Trần Nhân Tông vẫn không quên để lại một bài thơ -- vừa cảnh tỉnh, nhắc nhở môn sinh hậu bối mà cũng để khẳng định giềng mối gia phong của chư Phật:

"Số đời một hơi thở
Tình đời hai biển trăng
Cung ma đâu xá kể
Nước Phật một trời Xuân."
(Thế số nhất tức mặc
Thời tình lưỡng hải ngân
Ma cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thắng Xuân)

Ôi! Gia phong của chư Phật -- một mùa Xuân miên viễn trong lòng.


 

 


Tài liệu tham khảoViệt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang
Thiền Sư Việt Nam của Thích Thanh Từ
Thơ văn Lý Trần của Viện Văn học / UBKHXHVN.

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập