Sự tích rằm tháng Bảy và xuất xứ của hai tiếng Vu Lan
Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu thảo của  Ông Ma Ha Một Ðặc Già La, thường gọi là Ðại Mục Kiền  Liên, gọi tắt là Mục Liên. Vốn là một tu sĩ khác đạo,  về sau Mục Liên đã quy y và trở thành một đệ tử lớn  của Phật, đạt được sáu phép thần thông rồi được  liệt vào hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử  của Phật. Sau khi đã chứng quả A La Hán, Mục Liên ngậm  ngùi nhớ đến mẫu thân, bèn dùng huệ nhãn nhìn xuống  các cõi khổ mà tìm thì thấy mẹ đã đọa vào kiếp ngạ  quỷ (quỷ đói) nơi địa ngục A Tì. Thân hình tiều tụy,  da bọc xương, bụng ỏng đầu to, cổ như cọng cỏ. Mẹ  Mục Liên đói không được ăn, khát không được uống.  Quá thương cảm xót xa, Mục Liên vận dụng phép thần thông,  tức tốc đến chỗ mẹ. Tay bưng bát cơm dâng mẹ mà nước  mắt lưng tròng. Mẹ Mục Liên vì đói khát lâu ngày nên  giật vội bát cơm mà ăn. Tay trái bưng bát, tay phải bốc  cơm nhưng chưa vào đến miệng thì cơm đã hóa thành lửa.  Mục Liên đau đớn vô cùng, khóc than thảm thiết rồi trở  về bạch chuyện với Ðức Phật để xin được chỉ dạy  cách cứu mẹ.  
  
 Phật cho Mục Liên biết vì nghiệp chướng của các kiếp  trước mà mẹ ông mới phải sanh vào nơi ác đạo làm loài  ngạ quỷ. Một mình Mục Liên thì vô phương cứu được  mẹ dù ông có thần thông đến đâu và dù lòng hiếu thảo  của ông có thấu đến đất trời, động đến thần thánh.  Phải nhờ đến uy đức của chúng tăng khắp các nẻo đồng  tâm hiệp ý cầu xin cứu rỗi cho mới được. Bởi vậy,  Phật dạy Mục Liên phải thành kính đi rước chư tăng  khắp mười phương về, đặc biệt là các vị đã chứng  được bốn quả thánh hoặc đã đạt được sáu phép thần  thông. Nhờ công đức cầu nguyện của các vị này, vong  linh mẹ Mục Liên mới thoát khỏi khổ đạo. Phật lại  dạy Mục Liên sắm đủ các món để dâng cúng các vị  ấy, nào là thức thức thời trân, hương dâu đèn nến,  giường chõng chiếu gối, chăn màn quần áo, thau rửa mặt,  khăn lau tay cùng các món nhật dụng khác. Ðúng vào ngày  rằm tháng 7 thì lập trai đàn để cầu nguyện, thiết trai  diên để mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực,  các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Ðức Phật mà chú  tâm cầu nguyện cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí  chủ được siêu thoát. Mục Liên làm đúng như lời Phật  dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp  ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng dường  để cầu siêu đó gọi là Vu Lan bồn pháp, lễ cúng đó  gọi là Vu Lan bồn hội, còn bộ kinh ghi chép sự tích trên  đây thì gọi là Vu Lan bồn kinh.  
  
 Ngày rằm tháng 7 do đó được gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy  lễ này có phải cũng là lễ cúng cô hồn hay không ? Không  ! Ðây là hai lễ cúng khác nhau được cử hành trong cùng  một ngày. Sự tích lễ cúng cô hồn đại khái như sau :  Cứ theo "Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ  Ðà La Ni Kinh" mà suy thì việc cúng cô hồn có liên  quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt  là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng  gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối,  A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ  thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa  bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết  và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy  như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách  tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói : " Ngày mai ông  phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc  thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ  được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi  trên ". A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật  bèn đặt cho bài chú gọi Là "Cứu Bạt Diệm Khẩu  Ngạ Quỷ Ðà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được  thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng  diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho  loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng  ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những  vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là  thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn  bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn  còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi còn nói  tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc  là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn.  Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng  cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng diệm  khẩu mà nghĩa gốc là " thả quỷ miệng lửa ",  về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành  " tha tội cho tất cả những người chết ". Vì  vậy, ngày nay mới có câu : " Tháng bảy ngày rằm xá  tội vong nhân ".  
  
 Vậy lễ Vu Lan và lễ cúng cô hồn là hai lễ cúng khác  nhau. Một đằng thì liên quan đến chuyện ông Mục Liên,  một đằng lại liên quan đến chuyện ông A Nan. Một đằng  là để cầu siêu cho cha mẹ và ông bà bảy đời, một  đằng là để bố thí cho những vong hồn không ai thờ cúng.  Một đằng là báo hiếu, một đằng là làm phước. Sự  khác nhau giữa hai bên là hiển nhiên, nhưng nhiều người  vẫn cứ lẫn lộn. Chẳng hạn trước đây, ông Thái văn  Kiểm cho rằng lễ Vu Lan và lễ (xá tội) vong nhân (fête  des Trépassés) là một. Còn lễ cúng cô hồn (fête des âmes  errantes) và lễ xá tội vong nhân (Pardon des Trépassés) chính  là một thì ông lại xem là hai (X. Les fêtes traditionnelles  Vietnamiennes, B.S.E.I., t. XXXVI, no1, 1961, pp. 64-65). Mới đây,  hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi cho rằng lễ Vu Lan  là để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết  (Chúng tôi nhấn mạnh - HT) không còn phải đọa cảnh khổ  nữa (Từ điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr. 795,  mục Vu Lan bồn). Nhưng đây không phải là " những người  đã chết " nói chung vì như đã biết, đó chỉ là cha  mẹ cùng với ông bà bảy đời mà thôi.  
  
 Trở lên là nói về sự khác nhau giữa lễ cúng cô hồn  với lễ báo hiếu, thường gọi là lễ Vu Lan. Vu Lan là  dạng tắt của Vu Lan bồn. Nhưng Vu Lan bồn là gì ? Sau đây  là lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi : " Bồn  là cái chậu đựng thức ăn. Cái chậu đựng thức ăn đem  cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 để cầu nguyện  cho vong hồn những người đã chết không còn phải đọa  cảnh khổ nữa. Vu Lan dịch âm từ chữ Sanscrit Ullabana,  là cứu nạn treo ngược. Những người làm nhiều điều  ác đức, sau khi chết, phải thác sinh xuống những cõi sống  rất khổ gọi là địa ngục. Ở đây có một khổ hình  là bị treo ngược (Sđd, tr. 795). Chúng tôi sẽ dựa vào  lời giảng này mà tìm hiểu về xuất xứ của mấy tiếng  " Vu Lan " và " Vu Lan bồn ". Lời giảng này  có bốn điểm sai mà điểm sai thứ nhất thì chúng tôi  vừa mới chỉ ra ở những dòng cuối của đoạn trên.  
  
 Sau đây là điểm sai thứ hai : Nói bồn là cái chậu đựng  thức ăn thì không đúng vì bồn chỉ là một yếu tố phiên  âm (sẽ phân tích rõ ở phần sau) mà thôi. Nói rằng đó  là " cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng  vào ngày rằm tháng 7 " thì lại sai theo một kiểu khác  nữa. Chậu là " đồ dùng thường làm bằng sành sứ  hoặc kim loại, miệng rộng, lòng nông, dùng để đựng  nước rửa ráy, tắm giặt hoặc để trồng cây v.v..."  (Từ điển tiếng Việt 1992). Vậy đựng thức ăn trong loại  đồ dùng đó mà dâng lên cho chư tăng thọ thực là một  hành động hoàn toàn thất nghi và thất lễ. Thật ra, Phật  đã dạy Mục Liên như sau :  
  
 Phải toan sắm sửa chớ chầy  
 Ðồ ăn trăm món trái cây năm màu  
 Lại phải sắm giường nằm nệm lót  
 Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu  
 Món ăn tinh sạch báu mầu  
 Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng  
  
 (Diễn ca kinh Vu Lan bồn)  
  
 Thau, bồn (chậu) chỉ là những thứ phải dâng cho chư tăng  trong dịp Vu Lan để dùng trong việc rửa ráy, tắm giặt  ... mà thôi. Còn thức ăn thì phải " tinh sạch báu mầu,  đựng trong bình bát " đàng hoàng lịch sự, chứ có  đâu lại đựng trong chậu.  
  
 Thật ra, trước Thích Minh Châu và Minh Chi, cũng có những  học giả đã giảng như trên, chẳng hạn Ðoàn Trung Còn  trong bộ từ điển lớn về Phật học hoặc Toan Ánh trong  bộ sách dày về nếp cũ. Ðây là một cách giảng lệ thuộc  vào cái sai của sách vở Trung Hoa. Từ Nguyên chẳng hạn,  đã giảng về mấy tiếng Vu Lan bồn như sau : " Nói  lấy chậu đựng trăm thức để cúng dường chư Phật "  (Vị dĩ bồn trữ bách vị cung dưỡng chư Phật).  
  
 Ðiểm sai thứ ba là đã theo cái sai của những người đi  trước mà giảng Vu Lan thành " cứu nạn treo ngược",  vì thấy từ điển Trung Hoa giảng Vu Lan bồn là " cứu  đảo huyền ". Thật ra, khi Từ Nguyên chẳng hạn, giảng  Vu Lan bồn thành " cứu đảo huyền " là đã mượn  hai tiếng "đảo huyền " trong sách Mạnh Tử. Trong  sách này, có cú đoạn " Dân chi duyệt chi do Giải đảo  huyền dã" nghĩa là "như giải thoát khỏi sự khốn  khổ tột cùng vậy ". Chính Từ Nguyên cũng đã giảng  " đảo huyền " là sự khốn khổ tột cùng (khốn  khổ chi thậm). Vậy " cứu đảo huyền " không phải  là " cứu nạn treo ngược " mà lại là " giải  thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng ". Hai tiếng "  đảo huyền " ở đây không còn được hiểu theo nghĩa  đen nữa. Nghĩa của chúng ở đây cũng giống như nghĩa  của chúng trong thành ngữ " đảo huyền chi tế "  là tình cảnh khốn khó, chứ không phải là " cảnh  bị treo ngược ".  
  
 Ðiểm sai thứ tư là ở chỗ nói rằng danh từ Sanscrit "Ullabana  " có nghĩa là " cứu nạn treo ngược ". Trước  nhất, cần nói rằng từ Sanscrit này đã bị viết sai. Vậy  không biết ở đây hai tác giả muốn nói đến danh từ  Sanscrit nào, nhưng cứ theo dạng sai chính tả đã thấy thì  có thể luận ra rằng đó là một trong hai từ sau đây :  Ullambana hoặc Ullambhana. Ở đây, xin phân tích từ thứ nhất:  Ullambana gồm có ba hình vị : ud (trở thành ul do quy tắc  biến âm samdhi khi d đứng trước l) là một tiền tố, thường  gọi là tiền động từ (préverbe) chỉ sự vận động từ  dưới lên, lamb là căn tố động từ có nghĩa là treo và  ana là hậu tố chỉ hành động. Vậy Ullambana có nghĩa là  sự treo lên. Nhưng tất cả chỉ có như thế mà thôi ! Từ  Sanscrit này không hề diễn đạt cái ý treo ngược hoặc  treo xuôi gì cả. Nó lại càng không thể có nghĩa là "  cứu nạn treo ngược " được.  
  
 Trở lên, chúng tôi đã nêu ra những điểm sai trong lời  giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi về hai tiếng "Vu  Lan ". Vậy đâu là xuất xứ và ý nghĩa đích thực  của hai tiếng này ? Trước nhất, Vu Lan là dạng nói tắt  của " Vu Lan bồn ". Ðây là ba tiếng đã được  dùng để phiên âm danh từ Sanscrit Ullambhana. Từ này thoạt  đầu đã được phiên âm bằng bốn tiếng Hán đọc theo  âm Hán Việt là Ôlambàna. Dạng phiên âm cổ xưa này đã  được Từ Hải khẳng định. Về sau, Ôlambàna được thay  thế bằng dạng phiên âm mới là " Vu Lan bồn",  trong đó Vu thay thế cho Ô, lan cho lam và bồn cho bà + n (a).  Vì " Vu Lan bồn " chỉ là ba tiếng dùng để phiên  âm, cho nên từng tiếng một (Vu, Lan, bồn) hoàn toàn không  có nghĩa gì trong Hán ngữ cả. Do đó, tách bồn ra mà giảng  thành " cái chậu đựng thức ăn " như hai tác giả  Thích Minh Châu và Minh Chi đã làm là hoàn toàn không đúng.  
  
 Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Danh từ Sanscrit này  có ba hình vị: Tiền tố ud (trở thành ul vì lý do đã nói),  căn tố động từ lambh và hậu tố ana. Xin nói rõ về từng  hình vị : Không giống như trong Ullambana, ở đó nó chỉ  sự vận động từ dưới lên. Trong Ullambhana, tiền tố  ud chỉ ý phủ định hoặc đối lập, thí dụ : chad (che,  bọc, phủ), dv (đối với), uc-chad (cởi quần áo), khan (chôn),  đv ut-khan (moi lên), gam (đi), đv ud-gam (đi ra), nah (trói,  buộc), đv un-nah (cởi trói) v.v... Trong những thí dụ trên,  ud trở thành uc, ut, un do quy tắc biến âm samdhi. Còn các  căn tố động từ thì được ghi bằng chữ in hoa theo truyền  thống khi chúng được tách riêng. Căn tố động từ lambh  là hình thái luân phiên với labh, có nghĩa là lấy, chiếm  lấy, nắm bắt ... Vậy Ul-lambh có nghĩa là giải thoát.  Hậu tố ana chỉ hành động có liên quan đến ý nghĩa mà  tiền tố và căn tố động từ diễn đạt. Vậy Ullambhana  có nghĩa là sự giải thoát. Ullambhana được phiên âm sang  Hán ngữ bằng ba tiếng dọc theo âm Hán Việt là " Vu  Lan bồn ". Vu Lan bồn được nói tắt thành Vu Lan. Vậy  Vu Lan là sự giải thoát. Xuất xứ của nó là danh từ Sanscrit  Ullambhana. Ðây là từ thứ hai trong hai từ mà chúng tôi  đã suy đoán ở trên. Trong cấu tạo của từ này, tuyệt  nhiên cũng không có một thành tố nào mà về ngữ nghĩa  lại có liên quan đến hiện tượng " treo ngược "  cả.  
  
 Trở lên, dù sao cũng chỉ là ý kiến thô thiển của một  cá nhân. Ðúng hay sai, xin được sự thẩm xét của các  nhà chuyên môn, trước nhất là các nhà Phật học và các  nhà Phạn học.