Chúc Thánh

Đã đọc: 593           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font

TỪ CUỘC MỞ CỎI CỦA CÁC CHÚA NGUYỄN, SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO ĐÀNG TRONG, ĐẾN CÁC DÒNG THIỀN PHẬT GIÁO RA ĐỜI, TRONG ĐÓ CÓ DÒNG THIỀN CHÚC THÁNH.

                       1-Thời Thế

                         Trong bối cảnh Trịnh – Nguyễn phân tranh trong gần nữa thế kỷ, từ năm Đinh Mão ( 1627) cho đến năm Nhâm Tý ( 1672 ) với hơn 7 lần xua quân giáp chiến với nhau, từ trận năm Đinh Mão ( 1627) cho đến cuộc chiến năm Nhâm Tý ( 1672 ) mà vẫn chưa   phân thắng  thua, gây bao đau thương và xáo trộn cuộc sống dân tình, hai bên  chọn dòng sông Gianh để tạm thời làm dấu  cắt đôi cương thổ. Cả hai đều chọn sông Gianh  bởi trước hết có tính đặc thù riêng của nó và những cậu ca dao cổ đã ví von:

                           Sông Gianh cả thảy ba nguồn

                   Nguồn Nan, nguồn Nậy lại còn nguồn Son.

                           Lòng thành dạ thiết cho tròn

                   Mai sau dựng nghiệp, cháu con hưởng nhờ.

 

                      Một lần nữa làm ranh Đàng Trong và Đàng Ngoài lại thêm được khắc thêm sâu trong những trang lịch sử không mấy vui của dân tộc. Theo nhiều ý kiến, về mặt lý thuyết, cả hai Trịnh Nguyễn đều muốn mang khẩu hiệu “ Phù Lê diệt Mạc ” và  tỏ vẻ trung thành với triều Hậu Lê, nhưng sự thật thì cả hai đều muốn củng cố và tạo  thế lực vững chắc cho riêng mình.

                       Trong quá trình đó, ngoài kia (Đàng Ngoài ) Chúa trịnh đã không dưới hai lần có ý định sanh  cầu viện nước Phương Bắc với những ý đồ không trong sáng, một măt đêm ngày lo tranh giành quyền lực, nhưng may nhờ có sự can ngăn của quần thần còn nhiều tỉnh táo nên  sự quá đà nghiêm trọng ấy chưa xảy ra.

                       Cũng trong khi đó, tại phương Nam ( Đàng Trong ), các chúa Nguyễn thay nhau thực hiện chủ trương Nam tiến, mở rộng cương thổ và  sắp đặt các phủ, xứ ngày thêm vững vàng. Đó được xem như là một sự kế thừa sự nghiệp khởi nguyên từ chúa Tiên Nguyễn Hoàng ( 1558 – 1613 ), tiếp theo sau đó còn có các vị chúa anh minh như chúa sãi Nguyễn Phúc Nguyên ( 1613 – 1635 ), chúa thượng Nguyễn Phúc Lan ( 1635 – 1648 ; chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần ( 1648 – 1687 )..v…v…các chúa Nguyễn đã tạo nên mới dây mắc xích xuyên suốt, tạo thành một thế lực cực mạnh và là cục diện đối lập với họ Trịnh ở Phương Bắc, Đàng ngoài với phương châm “ Nam tiến, Bắc cự “. Ngay từ  bước đầu, với những  mối dây  liên  hệ thế lực ấy, các chúa Nguyễn đã thành công, buộc họ Trịnh  Đàng Ngoài phải chọn sông Gianh làm lằn ranh chia đôi  lãnh địa. Phần mình, với chính sách mở rộng và thoáng, các chúa Nguyễn Đàng Trong vừa một mặt tiếp tục cuộc hành trình Nam tiến mở mang bờ cõi vừa mở cửa giao thương với nhiều nơi, ban đầu chọn thương cảng Hội An làm trung tâm kinh tế phồn thịnh nhất thời bấy giờ, song song với các mặt  xã hội, an dân khác.

                          Cũng trong quá trình diễn biến đó, tại nước láng giềng Trung Hoa phương Bắc, bộ tộc Mãn Châu từ vùng Đông bắc nước này tràn xuống  đánh chiếm Trung Nguyên, lập ra vương triều Mãn Thanh. Các thành phần “phản Thanh Phục Minh’ xuôi dạt xuốngphương Nam của đất Đàng Trong, được  các chúa Nguyễn khôn khéo trọng dụng, ưu đãi cho người Hoa lập nên các làng Minh Hương ở Huế, Hội An Gia Định, vừa mở mang  kinh tế, vừa ổng định an ninh  lại vừa thu hút thêm nhiêu sức mạnh, tạo thành tiềm lực để phát triển.

                           2- Thế Thời

                          Không phải đợi đến các chúa Nguyễn sau này mới trọng dụng và  hỗ trợ Phật giáo Đàng Trong phát triển, mà ngay từ thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng, khi trấn nhậm hai xứ Thuận – Quảng đã thể hiện điều đó rất tích cực như năm Tân Sửu (1601 ) cho trùng tu chùa Thiên Mụ; Năm Nhâm Dần ( 1602 ) lạc thành chùa Thiên Mụ và trùng tu chùa Sùng Hóa, năm Đinh Mùi ( 1607 ) lập chùa Bửu Châu ở Trà Kiệu, Quảng Nam; năm Kỷ Dậu ( 1609 ) lập chùa Kính Thiên ở xã Thuận trạch, huyện Lệ Thủy, tình Quảng Bình... Các chúa Nguyễn lẫn các triều đại nhà Nguyễn tiếp theo tuy cũng hết lòng trọng thị Phật giáo nhưng không chọn Phật giáo làm quốc giáo như thời Lý – Trần. Tuy nhiên, lại chỉ chọn Phật giáo làm nơi an dựa tinh thần to lớn  cho lưu dân xa xứ, khai phá những vùng đất mới vì với họ  chỉ có ngôi chùa, tiếng chuông mới làm an dịu nỗi  nhớ cố hương da diết. Hơn nữa hầu hết họ đều là những thành phần nghèo khó, chấp nhận ly hương, thuận nghe theo lệnh các chúa ra đi khai mở những vùng đất mới, nên chỉ có  ngôi chùa mới là chốn tìm về để khỏi vọng về khoắc khoải nhớ cố hương. Đặc biệt, trong các thời kỳ đầu khai phá, những vùng đất xứ Đàng Trong, họ phải sống chung với rất nhiều sắc dân như Chàm, Khơ-me, người Hoa.v…v…mà văn hóa và phong tục rất xa lạ. Vì vậy ngày sóc, ngày vọng  họ tìm đến chùa và thực thi hạnh Từ Bi, Bố Thí như  trở lại nếp sống ngàn xưa của dân tộc. Vì vậy nếu thực thi một xã hội Nho giáo với những đạo lý gò bó e rằng người lao động bình dân sẽ khó lòng chịu khép mình vào khuôn phép trong khi cuộc sống còn nhiều vất vã gian nan phía trước. Ở Hội An, ngoài ngôi chùa Bửu Châu do chúa Tiên Nguyễn Hoàng xây dựng còn có ngôi chùa thứ hai nổi tiếng không kém là chùa Chiên Đàn do lưu dân người Hoa xây dựng vào năm Quý Tỵ ( 1653 ), chùa này còn có tên gọi khác là Chùa Di Đà, Quan Âm hay Minh Hương Phật tự. Sau khi chúa thành lập xong dinh Quảng Nam ở xã Cần Húc, vá cho lập thêm một ngôi chùa gần đó đặt tên là Long Hưng, phía Đông của trấn.

                           3- Phải Thế

                           Theo những diễn biến  tích cực đó, tác giả Nguyễn Lang ( Việt nam Phật giáo Sử Luận ) viết rằng: Trong thâm ý của chúa Nguyễn, đạo Phật có thể làm nơi nương tựa tinh thần cho công trình lập quốc của dòng họ Nguyễn. Cũng ví vậy cho nên sau này, các chúa Nguyễn đều tỏ vẻ sùng thuợng đạo Phật và nhân dân Đàng Trong cũng nghênh đón các vị du tăng Trung Quốc với tấm lòng chân thật, mặn nồng. Trong thời đại chuyển tiếp giữa hai triều Minh-Thanh, nhiều cao tăng rung Hoa đã tới Đàng trong hành hóa. Một phần quan trọng của những tổ đình hiện nay là do các thiền sư Trung Hoa sáng lập.

                              Vào những năm Đinh Mão ( 1687 -) đến năm Canh Ngọ (1690 ) chúa Anh Tôn Nguyễn Phúc Trăn ( 1648 – 1691 ) cử Thiền sư Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ) về lại Trung Quốc để thỉnh mời thêm nhiều vị tăng sĩ, thình thêm tượng Phật pháp khí sang Đàng Trong. Chuyền  đi khứ hồi thành công tốt đẹp và Thiền sư Nguyên Thiều sau đó được chùa hỗ trợ tổ chức đại giới đàn tại chùa Linh Mụ - Huế.(1)

                             Năm Ất Hợi ( 1695 ) Thiền sư Nguyên Thiều cũng đã mời thỉnh được Hòa Thượng Thạch Liêm ( 1633 – 1704 ) cùng các vị, trong đó có Minh Hải Pháp Bảo ( 1670 – 1746 ), Minh Vật Nhất Tri ( ? – 1786 ), Minh Hoằng Tử Dung ( ? - ? ), Minh Lượng Thành Đẳng ( ? -? ). Tuy chưa biết chính xác  số lượng chư vị được  mòi sang là bao nhiêu nhưng theo bia ký  thì có hơn 14 vị được trải đều khắp nơi để hoằng hóa ở  Đàng Trong, trong đó có  hai vị  ra Đàng Ngoài là Thiền sư Hải Trừng Chuyết Chuyết ( 1590 – 1644 ) ở chùa ninh Phúc- Bắc Ninh, Thăng Long và thiền sư Minh Hành Tại Toại ( 1596 – 1659 ).

                            Như vậy cho nhiều đời sau thấy rằng về tính chân lý Phật giáo, dù ờ đâu, quốc độ nào cũng đều chung một màu giải thoát nhất định và trong chốn thuận duyên thùy thuận mang theo một ít hình thái và sắc thái văn hóa bản địa. Do vậy việc các thiền sư người Trung Hoa đến Đại Việt  hoằng hóa, nói chính xác hơn là cùng nhau hỗ trợ công cuộc hoằng hóa với chư  tăng ni Phật giáo  bản địa và tất cả đã hòa quyện nhau tôn cao thêm giá trị chân lý Phật giáo giữa chốn nhân gian. Nét hay của các chúa Nguyễn thời bấy giờ là đã nắm bắt được thể thống nhất ấy nơi Phật đạo, dốc hết tâm lực đề mong cầu một xã hội an lành qua hình bóng Phật giáo, một tôn giáo vốn đã là của cha ông mình bao đời trước, khác với hành động  trần tục khom lưng đi sang phương Bắc của Đàng Ngoài để cẩu viện trong thể nhược tiểu thời gian lịch sử trước đó chưa lâu còn có không ít lần  xảy ra làm buồn lòng thể quốc.

                       Theo dòng lịch sử, đất nước chúng ta đã đứng trước biết bao vấn nạn ngoại xâm, nhất là hơn một ngàn năm Bắc thuộc, luôn dũng cảm đứng lên để gìn giữ và bảo vệ cương thổ ngàn đời con Hồng cháu Lạc, không có lần nào  quỳ gối khom lưng, cam chịu thân phận nô lệ. Do đó khi chúng ta chống ngoại xâm, ngoại xâm từ nhiều phía, đến từ nhiều nơi, nhiều  giai đoạn khác nhau, đặc biệt  khi chúng ta nói“ chống Trung Quốc” thậm chí quơ lùa hô hào “thoát Trung”thì ai cũng hiểu rằng  đó không phải là chống lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Bởi lẽ lịch sử Phật giáo Trung Quốc và Phật giáo Đại Việt vốn luôn mặn nồng và giao thoa một cách tuyệt đẹp. Một dòng thiền, một bộ kinh chữ Hán, hay hàng liễn trướng đối trước cổng chùa chúng ta phải dẹp bỏ hết mới là thoát Trung? Ông bà mình đã có câu “ Ném chuột vỡ lọ”, vậy chống  nhưng chống việc gì, ý nào mới là cái chống của một bậc thức giã, của hàng con Phật kiên trung và của những người đệ tử luôn  mang bên mình  thâm ân Tứ Đại.

                          4- Là Đây

                          Công ơn hoằng hóa của các thiền sư  Trung Hoa trên đất Đại Việt khi ấy rất đáng trân trọng, đáng kể nhất là Thiền sư Nguyên Thiều Siêu Bạch,  dòng 33 Lâm Tế Chánh Tông và Thiền sư Minh Hải Pháp Bảo khai sơn dòng Lâm Tế Chúc Thánh ngay tại  mãnh đất này. Đó là hai trong những dòng thiền phát triển mạnh và rộng khắp cho đến ngày nay. Theo giáo sư Lê Mạnh Thát : Có thể nói Phật giáo Việt nam trong tình hình phát triển hiện nay tuyệt đại bộ phận do sự tác động của bày dòng thiền chính, trong đó bốn dòng trực tiếp kế thừa các dòng thiền từ Trung Quốc và bốn dòng được phát sinh tại nước ta. Bốn dòng từ Trung Quốc, nếu dựa vào thứ tự truyền nhập vào Việt nam là các dòng Bút Tháp của Viên Văn Chuyết Công ( 1590 – 1644 ), dòng Bút Tháp là của Siêu Bạch Thọ Tông ( 1648 – 1728 ), dòng Quốc Ân của Nguyên Thiều Hoàn Bích ( 1648 – 1728 ), cả ba dòng này đều thuộc phái Lâm tế và dòng Hòe Nhai của Thủy nguyệt thuộc phái tào Động. Ba dòng còn lại thì đều xuất phát tại Việt Nam hoặc do kết hợp một dòng từ Trung Quốc như Bút Tháp với một dòng tồn tại lâu đời  tại Việt nam như Trúc Lâm, mà điển hình là dòng Long Động của thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng ( 1647 – 1726 ) hoặc do các vị thiền sư người Việt nam hay trung Quốc hành đạo tại Việt nam xuất kệ thành lập dòng mới, cụ thể là cá dòng thiền Chúc Thánh của thiền sư Minh Hải Pháp Bảo (1670 – 1746 ) và Thiên Thai của Thiệt Diệu Liễu Quán ( 1667 – 1742 ).

                        Ba dòng này kể từ đầu thế kỷ XVIII trở đi cho đến hôm nay đã có những đón góp to lớn nhiều mặt cho lịch sử dân tộc cũng như cho Phật giáo Việt nam với những người con ưu tú của mình. Về mặt chính trị, họ đã tham gia công cuộc hộ quốc an dân như thiền sư Như Ý Trần Cao Vân, Võ Trứ. v…v…Về mặt kho học kỷ thuật có những tiếng tăm lớn như Chân An Tuệ Tĩnh ( ? – 1711), đặ biệt về mặt  văn hóa và văn học thì hàng loạt tên tuổi lầy lừng đã xuất hiện trên bầu trời Việt nam trong giai đoạn này như Chân Nguyên Tuệ Đăng ( 1647 – 1726 )Pháp Chuyên Luật truyền Diệu Nghiêm ( ( 1726 – 1798 ), Toàn Nhật Vi Bảo Quang Đài ( 1757 – 1834 ), Trừng Thông Viên Thành ( 1879 – 1928).v…v…(2)

                             5- Đất Lành Chim Đậu

                             Danh xưng Quảng Nam lần đầu xuất hiện vào năm Tân Mão ( 1471 ) khi mở rộng vùng đất phía Nam Thuận Hóa, vua Lê Thánh Tôn lập thêm đơn vị hành chính thứ 13 gồm Thừa Tuyên Quảng Nam, trong đó có 3 phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn ( nay là Quàng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định). Quàng Nam từng là vùng đất đóng đô của một vương quốc  tồn tại hơn 15 thế` kỷ. Dưới triều Lê Thánh Tông Quảng Nam trờ thành một bộ phận của Đại Việt trong thời điểm Trịnh – Nguyễn phân tranh. Quảng nam thuộc quyền cai quản của chúa Nguyễn từ năm Canh ngọ (1570). Hội An được chọn làm điểm giao thương duy nhất với thế giới nên nhiều thương gia ngoại quốc hay gọi “Quảng Nam quốc “. Quảng Nam đã góp phần vào tiến trình mở nước của dân tộc và tạo lập cuộc sống phồn vinh của một vùng – xứ Quảng. Và Phật giáo cũng đóng một vai trò quan trọng  trong tiến trình ấy như là điều không thể thiếu, từ vua chúa cho đến các hàng thứ dân đều có niềm tin an dựa tinh thần, đưa vai trò của Phật giào lên  đỉnh cao trong thành tích sự nghiệp xây dựng và mở cõi.

                         Ngoài ngôi chùa Vạn Đức tại thôn Cẩm Hà, Hội An do thiền sư Minh Lượng Thành Đẳng khai sơn, chùa Chúc Thánh tại thôn Cẩm Phô, Hội An do thiền sư Minh Hải Pháp Bảo khai sơn đã góp thêm sức sống cho vùng đất mới, và cũng tại nơi đây Ngài khai  mở dòng thiền Chúc Thánh hanh thông và thành công. Khi đó Ngài chỉ mới vừa 27 tuổi. Nguyên trước đó, khi còn  tu hành tại Trung Hoa ngài là đời thứ 34 của dòng Lâm Tế Tông, có lẽ do vậy ở Việt Nam chúng ta thường  quen gọi Lâm Tế Chúc Thánh là vậy.

                       Thiền sư Minh Hải Pháp Bảo khi khai mở dòng Chúc Thánh có bài kệ truyền pháp danh và Pháp tự rất nổi tiếng:

                       Minh thực pháp toàn chương

                      Ấn chơn như thị đồng

                      Chúc Thánh thọ thiên cửu

                      Kỳ Quốc tộ địa trường

                     Đắc chính luật vi tuyên

                     Tổ đạo hạnh giải thông

                     Giác hoa bồ đề thọ

                     Sung mãn nhân thiên trung.

                      Tác giả Nguyễn Lang dịch nghĩa như sau :

                        Hiểu thấu pháp chân thực

                       Ấn Chân Như hiện tiền

                       Cầu Thánh quân tuổi thọ

                       Chúc đất nước vững bền

                       Giới luật nêu trước tiên

                       Giải và Hạnh nối liền

                       Hoa nở cây giác ngộ

                       Hương thơm lừng nhân thiên.

                      Cho đến hôm nay dòng truyền thừa đã xuống đến chữ Thánh ( Chúc Thánh thọ thiên cửu ), có nghĩa là đã đến đời thứ 44, 45 và 46. Dòng thiền này cũng đã tùy thuận  khế cơ  lan tõa rộng ra các nước trên thế giới, nơi có những bước chân hoằng hóa của  tăng-ni  người Việt Nam.

                       Liên quan đến bài kệ truyền thừa này của Thiền sư Minh Hải - Pháp Bảo; theo tài liệu sưu khảo của tác giả Thích Giải Nghiêm, dòng Chúc Thánh ở Bình Định sau khi truyền đến chữ Đồng thì sang chữ Vạn chứ không theo chữ Chúc như các dòng Chúc Thánh ở Quảng Nam và những nơi khác. Nguyên do năm Đinh Mùi ( 1967 ) thầy giám học Thích Đổng Quán ( trường Bồ Để Nguyên Thiều ) đã phát hiện và sưu tra từ gia phả của một em học sinh gốc Hoa đến xin nhập học, được gia đình em này cung cấp  gia phả liên quan đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), phát hiện thêm bài kệ truyền pháp ( Xem thêm chú thích số 3 ) của Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo và được xem là bài kệ truyền pháp thứ hai của dòng thiền Chúc Thánh. Những thắc mắc chung quanh vần đề này cũng được tác giả Thích Giải Nghiêm đặt ra và có giải đáp tương đối, đặc biệt kệ  truyền thừa của thiền Sư Minh Hài - Pháp Bảo sao lại nằm bên gia phả của Tổ Nguyên Thiều. Nhưng có một gút mắc chưa được gợi mở là từ trước khi dòng  Chúc Thánh Bình Định chọn xuống chữ Vạn trong  bài kệ thứ hai, như vừa nêu– thí dụ từ trước năm 1967 chẳng hạn, thì nơi này đã thực hiện việc truyền thừa có giống như dòng Chúc Thánh các nơi khác như thế nào? Do điều kiện và không thuộc lãnh vực chuyên môn nên người viết chưa thể tự tiến hành tìm hiểu sâu thêm nhiều. Hy vọng qua cuộc hội thảo này sẽ có được câu trả lời làm sáng tỏ thêm hơn. Trước mắt, chúng tôi  vẫn nghĩ rằng, việc khác biệt  đôi dòng kệ không có ý nghĩa quyết định sự phân lập, dị biệt trong dòng Chúc Thánh của  thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo, mà trên tất cả, sự truyền thừa  vẻ vang ngay từ nền móng ban đầu đã thành công và được sớm chấp nhận  trong dòng chảy chung của Phật giáo Việt Nam. Đó là  hình ảnh và hành trạng của dòng Thúc Thánh các nơi; từ  Trung Vào Nam hay vươn ra tận quốc ngoại; đó là điều đáng tự hào nhất  trong thời kỳ Phật giáo Việt Nam nương theo đà phát triển của thời đại.

                              Như vậy, từ các chúa Nguyễn  bằng tất cả tâm từ, đã khôn khéo vận dụng nền tảng Phật giáo vào công cuộc  di dân mở đất, mà bước đầu, đặc biệt  hơn các thế lực vọng ngoại, chỉ biết phục tùng và cầu viện; các chúa Nguyễn ngay từ đầu đà thấy tính nhất quán  của chân lý Phật giáo, nên đã mạnh dạng  thực hiện ý nguyện mời thình chư tăng  người Trung Hoa  sang  góp sức truyền pháp và hoằng hóa chúng sanh, để  Phật giáo Việt nam ngày nay có những dòng thiền  mở rộng, mang đậm dấu ấn, cung cách, kể cả nghi lễ theo cung cách của Phật giáo Việt Nam. Trong đó có Dòng Chúc Thánh.

 

 

                                                        Dương Kinh Thành

                                        (Trung Tâm Nghiên Cứu Phật Giáo Việt Nam )

 Phần chú thích:

         Các tài liệu tham khảo:

         - Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia.

        - Trang nhà Quảng Đức.com

         -Việt sử : Xứ Đàng Trong 1556 – 1777-Phan Khoang-Khai Trí XB 1969.  

        -Việt nam Phật giáo Sử luận, tập II- Nguyễn Lang, NXB Văn Học, Cty phát hành sách

         Hà Nội 1992.

-       Cục Văn Thư Và Lưu Trữ Nhà Nước.

-       Tìm Hiểu sự hình thành và phát triển của thiền phái Chúc Thánh tại Quảng Nam-

Thích Giải Nghiêm.

1-    Đây là thời gian  Tổ Nguyên Thiều Siêu Bạch đang ở tại  chủa Quốc Ân, ( ấp Phước Quả, phường Trường An, thành phố Huế). Đây là ngôi chùa do chính Ngài khai sơn cùng với tháp Phổ Đồng sau  10 năm xây dựng chùa Hà Trung ở Thuận hóa ( huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên ). Trước đó, vào năm thứ 3 niên hiệu Cảnh Trị - Ất Tỵ ( 1665) thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1648 -1687 ) Ngài từ nguyên quán Quảng Đông xuôi theo tàu buôn đến phủ Quy Nhơn ( Bình Định ).Tại đây Ngài khai sơn chùa Thập tháp di Đà ( làng Thuận Chánh, huyện Tuy Viễn ).

2-    Lời Giới Thiệu. giáo sư Lê Mạnh Thát ( Lịch sử truyền thừa Thiền Phái Chúc Thánh – Thích Như Tịnh ).

3-          ( Truyền pháp danh kệ )                     (Truyền pháp tự kệ )

Minh thiệt pháp toàn chương             Đắc chánh luật vi tông

Ấn chơn như thị đồng                        Tổ đạo giải hạnh thông

Vạn hữu vi nhất thế                            Giác hoa viên cảnh trí

Quán liễu tâm cảnh không                Sung mãn lợi nhân thiên

Giới hương thành thánh quả            Hằng sa chư pháp giới

Giác hải đồng liên hoa                      Tế độ đẳng hàm sanh

Tín tấn sanh phước huệ                    Châu viên thế tướng dụng

Hạnh trí giải viên thông                    Quán chiếu sát trần trung

Ảnh nguyệt thanh trung thủy           Khứ lai đương nhất niệm

Vân phi nhật khứ lai                        Năng sở khởi phi tha

Đạt ngộ vi diệu tánh                         Tâm cảnh thùy biên thủ

Hoằng khai tổ đạo trường               Chơn vọng tổng giai như.

 



Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Tags

Không có tags cho bài viết này

Được quan tâm nhất

Previous
Next

Đăng nhập