Phật Dạy Khổ Vui Trong Đời Sống Ngũ Dục

Đã đọc: 3403           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font

Cuộc sống ở thế gian này, ai cũng tham muốn được hưởng thụ năm món dục lạc, sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngọt và thân xúc chạm êm ái là nhu cầu cần thiết mà ai cũng muốn khát khao tìm kiếm, nhằm để thỏa mãn sự khoái lạc của mình.

Ngũ dục là 5 sự ham muốn của một chúng sinh, thích được thỏa mãn đầy đủ năm trần cảnh nên cũng gọi là ngũ trần.

1- Tài dục: Ham muốn tiền bạc của cải, vàng ngọc, tài sản vật chất.

2- Sắc dục: đắm say đam mê sắc đẹp mỹ miều.

3- Danh dục: Tham muốn địa vị, quyền cao chức trọng, danh thơm tiếng tốt.

4- Thực dục: Tham muốn ăn uống cao lương mỹ vị ngon nhiều.

5- Thùy dục: Tham muốn ngủ nghỉ nhiều.

Sắc dục: Ham muốn sắc đẹp, ưa thích tướng tốt. Thinh dục: Ham muốn tiếng hay, dịu ngọt….Hương dục: Ham muốn mùi thơm ngạt ngào….Vị dục: Ham muốn đồ ăn thức uống ngon ngọt…Xúc dục: Ham muốn sự đụng chạm êm ái, dễ chịu….

Người đắm say đam mê theo ngũ dục quá đáng, giống như con chó gặm khúc xương khô, như kẻ cầm lửa đi ngược gió, như ngậm máu phun người dơ miệng mình, như chứa rắn độc trong nhà, hưởng thụ ngũ dục không có chừng mực, điều độ sẽ làm khổ não chúng ta trong hiện tại và mai sau.

Trong Kinh Di GIÁO đức Phật dạy: Tỳ Kheo các ông! Đã có thể an trụ trong giới rồi, phải biết kiềm chế ngũ căn chẳng để buông lung theo ngũ dục. Thí như người chăn trâu, cầm roi nhìn nó, chẳng cho phạm vào lúa mạ người, nếu chúng ta để ngũ căn tức mắt tai mũi lưỡi thân…chạy theo ngũ dục… sẽ gây tai hại rất nặng, cũng như ngựa chứng chẳng dùng dây cương chế ngự, chính nó sẽ đưa ta sa vào hầm hố, chông gai…

Ngũ dục lạc là năm đối tượng con người thường tiếp xúc, được Đức Phật nói đến trong rất nhiều bản kinh. Đức Phật thường nhắc nhở các hàng đệ tử, phải có thái độ thận trọng đối với ngũ dục, Ngài không khuyến khích lìa bỏ ngũ dục một cách thái quá, để sống đời sống khổ hạnh ép xác, vì hai lối sống cực đoan ấy đều không đưa đến an lạc, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau.

 

Thế gian ai cũng muốn mưu cầu hạnh phúc để hưởng thụ ngũ dục lạc gồm có tiền tài, sắc đẹp, danh vọng địa vị, ăn uống thoải mái và ngủ nghỉ tự do, tùy theo phước báo của mỗi người mà có sự sung mãn hay nghèo nàn trong hưởng thụ. Hưởng thụ ngũ dục như là nhu cầu cần thiết của đời sống con người và ai cũng nghĩ rằng đó là điều kiện mang lại hạnh phúc.

 

Đức Phật thường nhắc nhở tất cả mọi người phải biết sự tác hại của ngũ dục, không nên tham cầu quá đáng. Tiền bạc hay của cải vật chất là phương tiện để nuôi sống chúng ta tồn tại, nhưng nó do ta làm ra chính vì vậy khi ăn uống, ta phải quan niệm ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn. Rồi kế đến là ngủ nghỉ nó cũng là nhu cầu cần thiết, nếu chúng ta chỉ đam mê ham làm giàu để hưởng thụ dục lạc về sắc đẹp thì sức khỏe sẽ bị tàn phá nhanh chóng và tuổi thọ suy giảm.

 

Đức Phật khuyến khích mọi người hãy nên giảm bớt ham muốn quá đáng, tham cầu trong khả năng của mình, biết tiết độ trong mọi nhu cầu để có sự an lạc thảnh thơi, mà không bị những lo lắng, thất vọng, sợ hãi…làm mình phiền não khổ đau.

 

Tâm mong cầu, tham muốn các dục là động lực thúc đẩy con người tích cực làm việc để có đời sống ổn định. Vì thế sự tham muốn, mong cầu về các dục khiến cho con người khổ não nhiều hơn là an vui.

 

Khi chúng ta tham muốn điều gì cũng mang đến niềm vui, hạnh phúc cho chính mình, chẳng hạn như ta cảm thấy thích thú khi ăn ngon mặc đẹp; sung sướng khi ở nhà cao cửa rộng; thoải mái khi đầy đủ các tiện nghi; vui vẻ hạnh phúc khi có vợ đẹp con xinh, và được quyền cao chức trọng, có nhiều tiền của, kẻ hầu, người hạ v.v…

 

Đức Phật chỉ khuyên nhủ chúng ta hãy nên muốn ít biết đủ, có nghĩa là chúng ta biết tiết chế, biết điều hòa để có được sự thảnh thơi an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Và tránh được những hệ lụy khỗ đau, trong lo lắng, sợ hãi, thất vọng…do tham muốn quá độ.

 

Tiền bạc của cải là phương tiện trao đổi để sử dụng hữu ích trong mối quan hệ của đời sống như ăn uống, ngủ nghỉ là nhu cầu cần thiết của con người. Về cơ bản, con người là chúng sinh cõi dục, do dục mà được sinh ra và hiện hữu, con người cần có các nhu cầu ăn, mặc, ở, bệnh, nghỉ ngơi, giải trí, hoạt động đi lại, giao tiếp và thưởng thức các cảm xúc khoái lạc giác quan v.v…Con người không thể sống mà không ăn uống, ngủ nghỉ, vui chơi giải trí, thư giãn sau khi làm việc.

 

Tài sản của cải vật chất vốn là huyết mạch để bảo tồn sự sống cho tất cả mọi người. Mạch nhảy, máu lưu thông chạy khắp cơ thể nên con người mới sống và tồn tại. Tài là khả năng con người có được nhờ học hỏi, nghiên cứu, tìm tòi, luyện tập và biết vận dụng phát huy vào trong đời sống để mưu cầu hạnh phúc.

 

Ở đời ai cũng có tài dù nhiều hay ít tùy theo khả năng mỗi người. Từ tài năng đó con người làm ra đồng tiền để nuôi sống bản thân, gia đình và góp phần xây dựng an vui, hạnh phúc cho xã hội. Tài sản nói chung bao gồm tất cả phương tiện vật chất liên quan đến đời sống con người, trong đó có vàng, bạc, tiền, nhà cửa và ruộng đất.

 

Ngày xưa, khi con người chưa biết xài tiền nên chỉ trao đổi hàng hóa bằng các phương tiện vật chất để đáp ứng nhu cầu sinh sống. Sau này con người văn minh, tiến bộ nên chế ra tiền để làm phương tiện cân bằng giá trị vật chất, tiền là đầu mối quan trọng làm con người đam mê phát huy tài năng để có được nhiều tiền.

 

Mặt phải, trái của sự giàu có

 

Ai cũng có ước mơ mình sau này trở nên giàu có, trừ những người đã đang sống trong những gia đình khá giả. Và ai cũng có thể ước mơ mình có khối tài sản khổng lồ, nhưng căn biệt thự với sân vườn đẹp mắt, có hồ bơi, các loại xe sang, máy may riêng để thỏa mãn những gì mình mong muốn.

Vậy, điều gì đã xảy ra với những người đã đạt được những gì họ tham vọng và mong muốn.

Tiền có thể mang lại những đổi thay trong cuộc sống, theo hai hướng tích cực và tiêu cực. Một gia đình khi làm ăn được lợi nhuận càng nhiều thì tham vọng càng lớn “ thuyền to sóng lớn”. Tuy nhiên có nhiều người rất ham thích tiền, mê tiền đến nỗi lãng quên trách nhiệm đối với gia đình, người thân.

Người có nhiều tiền của chỉ mang lại sự thoải mái về các phương diện vật chất, nhưng rất lo lắng và sợ hãi, cho nên họ hay tìm kiếm các thầy tướng số để chỉ bày cách gìn giữ của cải. Họ không biết rằng, hiện tại giàu có là do biết gieo trồng phước báo nhiều đời, nên ngày nay mới có được như vậy.

Sự thoải mái về vật chất đủ đầy, không tạo nên hạnh phúc hay sự mãn nguyện thậm chí có thể làm cho chúng ta rất nhiều kẻ ganh ghét, tật đố muốn hãm hại vì quy luật cạnh tranh để tồn tại. Sống thoải mái về mọi phương diện vật chất là điều tốt, nhưng cảm nhận được bình yên, hạnh phúc mới là lý tưởng sống lâu dài.

Sự giàu có cũng làm lộ ra bản chất của con người, nếu chúng ta là một người hiểm độc, việc trở nên giàu có sẽ khiến người đó trở nên mưu ma chước quỷ hơn. Ngược lại, nếu chúng ta là người nhân từ đức độ thì việc giàu có đó, sẽ đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Sự giàu có cũng làm ảnh hưởng đến mối quan hệ với gia đình, bè bạn và xã hội. Một số người sẽ trông đợi sự giúp đỡ của chúng ta để được hưởng lợi ích, và ta cũng nên suy nghĩ những người này có quý mến mình thật sự không? “Hay họ chỉ đến vì tiền".

Phần lớn mọi người đều cho rằng sự giàu có mang lại nhiều lợi ích thiết thực hơn cho gia đình họ. Tuy nhiên có nhiều tiền vẫn tốt hơn, khi chúng ta bệnh tật phải cần có một số tiền lớn để giải phẫu, nhờ vậy có thể thoát được chết chóc đau thương. Có tiền để giúp đỡ gia đình người thân và rộng hơn nữa là để đóng góp lợi ích cho xã hội khi cần thiết.

Sự thoải mái trong đời sống vật chất với đầy đủ tiện nghi, không thể đem đến hạnh phúc thật sự hay sự mãn nguyện lâu dài, bởi vì lòng tham lam của con người như giếng sâu không đáy, nó sẽ làm cho ta bất an lo lắng và sợ bị hao hụt, mất mát.

Khi chúng ta đã quen với nếp sống cao sang quyền quý, mọi nhu cầu đều có người phục dịch, sẽ làm cho cái ngã của ta lớn thêm, bởi ta nghĩ rằng mình là trung tâm của vũ trụ, là thầy thiên hạ, là ta, là của ta….,nên ta càng cống cao ngã mạn chẳng coi ai ra gì.

Nếu ta biết sữ dụng đồng tiền đúng chỗ thì sẽ đem lại lợi lạc cho chính mình, gia đình người thân và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hôi. Chính vì thế, tiền là huyết mạch của sự sống để mọi người phấn đấu gầy dựng bằng tài năng của chính mình, qua sự làm việc đóng góp.

 

Có nhiều người nghĩ có tiền là hạnh phúc, thật ra tiền chỉ đem lại sự sung mãn về vật chất, nó không phải là yếu tố chính trong hạnh phúc. Tiền là vật vô tri do con người tạo ra, nhiều người không hiểu nên bị đồng tiền sai sử, chi phối mà làm những điều xấu ác.

 

Do nhu cầu sự sống, ai cũng cần phải có tiền để nuôi sống bản thân và gia đình, nhưng đồng tiền làm ra phải bằng mồ hôi, nước mắt của chính mình. Thật ra, ai cũng ước mơ đáng quý và trân trọng, lớn lên có một việc làm ổn định, có vợ hoặc chồng và có con để xây dựng hạnh phúc gia đình và góp phần an sinh đời sống cho xã hội.

 

Kinh Pháp Cú dạy:

 

            Dầu mưa bằng tiền vàng, 

            Các dục khó thỏa mãn.

            Dục đắng nhiều ngọt ít,

            Biết vậy là bậc Trí.

 

Phật còn đưa ra một ví dụ khác: “Người đam mê đắm say chạy theo ngũ dục quá đáng thì chẳng khác gì người khát nước mà uống nước muối, càng uống càng thêm khát.

 

Chính vì vậy, Phật dạy chúng ta phải biết muốn ít, biết đủ để ngăn ngừa lòng tham lam của mình, khi nào chúng ta cảm thấy đủ thì sẽ an ổn, nhẹ nhàng. Nên Kinh dạy: “Ái dục là cội gốc của luân hồi sinh tử”. Hầu như tất cả những nỗi khổ niềm đau, tội ác trên thế gian này đều do ái dục và lòng tham muốn quá độ mà ra.

 

Một đời sống có ý nghĩa và giá trị, là một đời sống không quá lệ thuộc vào phương tiện vật chất, nhưng không thể không có tiền bạc và tài sản, vì nó là phương tiện để nuôi sống chúng ta. Để đảm bảo một đời sống tốt đẹp, hài hòa, Phật dạy người cư sĩ có quyền làm ra tiền bạc, của cải một cách chính đáng; nghĩa là từ sự tinh cần, siêng năng bằng đôi bàn tay và khối óc của mình để tạo dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho bản thân, gia đình, người thân và đóng góp lợi ích thiết thực xã hội.

 

Tuy nhiên, sự giàu có về vật chất chỉ đáp ứng nhu cầu đầy đủ sự sung túc cho con người, hạnh phúc thật sự trong cuộc sống không phải là người có nhiều tài sản, tiền bạc, quyền uy, thế lực, nhà cao cửa rộng, mà chính là tự do không bị ràng buộc bởi tham lam, sân hận, và si mê. Đó là một thứ hạnh phúc chân thật lâu dài, dù chúng ta có nhiều tiền bạc vẫn không thể mua bán, đổi chát được.

 

Do đó, ngoài việc có nhiều tiền bạc, của cải để có cơ hội phục vụ tốt cho gia đình, đóng góp cho đời, chúng ta cần phải thăng hoa đời sống tinh thần, phát huy con người tâm linh, nên thường sống trong chánh niệm tỉnh giác, mở rộng tấm lòng từ bi thương xót muôn loài bằng tình người trong cuộc sống.

 

Nhờ vậy chúng ta biết vun bồi xây dựng tài sản tâm linh, nên các tâm tư mê muội không có cơ hội xen vào như toan tính, hơn thua, tranh chấp, hận thù, tàn sát giết hại lẫn nhau, làm tổn thương nhân loại.

 

Tiền bạc, của cải có thể giúp ta giải quyết nhiều thứ trong cuộc đời, nên trước tiên ai muốn bảo tồn sự sống là cần phải có tiền. Nhưng tiền bạc, của cải khi có thì ta phải biết sử dụng như thế nào cho hợp lý? Một người công dân muốn sống an vui, hạnh phúc thì phải biết sử dụng bốn yếu tố căn bản sau đây:

 

Có công ăn việc làm ổn định nuôi sống bản thân và luôn thường xuyên trau dồi công việc nghề nghiệp được tốt đẹp. Tiền bạc làm ra bằng nghề nghiệp chân chính và phải biết cách gìn giữ không để thất thoát. Phải biết chi tiêu cân đối, hài hòa, không nên hoang phí quá mức, tiền làm ra ít mà muốn xài nhiều; hoặc tiền bạc làm ra nhiều mà không dám xài vào việc có lợi ích, thành ra bỏn sẻn.

 

Tiền bạc và tài sản là phương tiện để con người sinh sống, phục vụ cho cá nhân có nhu cầu ăn, mặc, ở hằng ngày. Muốn vậy, trước hết ta phải có một việc làm ổn định về lâu về dài, nhưng nghề nghiệp mình chọn không làm tổn hại cho nhân loại. Các nghề nên tránh như mua bán vũ khí, nô lệ, phụ nữ; các chất gây say, gây nghiện như rượu, xì ke, ma túy; chế tạo thuốc độc hoặc trực tiếp sát sinh hại vật bằng nhiều hình thức…

 

Có nhiều người vì sĩ diện bản ngã muốn chứng tỏ đẳng cấp giàu sang bằng người hoặc hơn người, nên đã vay nợ xây dựng nhà cửa khang trang dù nhu cầu không cần thiết, do đó lún sâu vào nợ nần, dẫn đến tán gia bại sản bởi họ không biết bằng lòng với hiện tại.

 

Đa số chúng ta ai cũng nghĩ có thật nhiều tiền bạc và của cải là hạnh phúc, đó là điều lầm lẫn quá lớn của nhân loại, nên khi có quyền lực trong tay thì tìm cách vơ vét, gom góp về cho riêng mình, nhưng tiền bạc làm ra từ sự phi pháp đó rất khó mà tồn tại lâu dài.

 

Khi có nhiều tiền thì phải hưởng thụ, vui chơi trác táng, dễ dẫn đến sa đọa làm mình và người khổ đau, làm mất hạnh phúc gia đình và tác hại xấu đến xã hội. Tiền làm ra không bằng mồ hôi, nước mắt của chính mình thường bị năm nhà cuốn trôi. Nhà lũ lụt, nhà hỏa hoạn, nhà trộm cướp, nhà vua quan tịch thâu, nhà con cái bất hiếu, phá sản và các tai nạn bất ngờ khác.

 

Chính vì để thỏa mãn lòng tham dục thì con người phải lao đầu vào gian khổ để tranh giành được mất, hơn thua mà tạo thêm nghiệp si mê không có ngày thôi dứt. Ví dụ, như trước đây chung ta có một chiếc xe máy, rồi chúng ta ước mơ muốn có xe hơi, khi được xe hơi rồi lại muốn xe siêu sang hiện đại. Con người ta sẽ khó dừng lại khi mình không chịu bằng lòng với hiện tại, vì lòng tham con người như giếng sâu không đáy.

 

Nói như vậy, không phải để chúng ta bi quan mà không chịu cố gắng siêng năng làm ăn nữa. Chúng ta vẫn làm việc phục vụ, nhưng bằng cả khối óc và con tim, bằng mồ hôi xương máu của mình, để không làm tổn hại người khác.

 

Hơn nữa, tiền của tuy cần thiết cho cuộc sống nhưng đâu phải lúc nào nó cũng mang lại hạnh phúc và an lạc cho chúng ta đâu? Thực tế cho thấy, có những gia đình lúc còn nghèo khó thì mọi người sống rất hoà thuận, vui vẻ với nhau, nhưng đến khi giàu có rồi thì tình cảm vợ chồng, con cái, anh em lại bị sức mẻ và đổ vỡ, bởi lòng tham quá độ.

 

Vì lòng tham lam quá đáng mà con người ta có thể nhẫn tâm làm tổn hại người khác, để có tiền nhanh chóng. Một số người đã tán tận lương tâm làm ăn phi pháp như mua bán vũ khí, mua bán phụ nữ, mua bán xì ke, ma túy vì lợi nhuận quá cao, tạo ra nhiều băng nhóm tội phạm gây hiểm họa cho loài người, dẫn đến sự thiệt hại lớn lao của nhân loại, về mặt vật chất lẫn tinh thần.

 

Người Phật tử chân chính vì lòng từ bi thương xót chúng sinh nên không được kinh doanh, mua bán các loại chết người đó. Tiền bạc tài sản nếu sử dụng không đúng mục đích thì trở thành rắn độc, nhưng thiếu nó lấy gì để chúng ta sinh sống mà dấn thân phục vụ, hoằng pháp lợi sinh.

 

Mục đích của cuộc sống không phải là giàu có, nhiều tiền của mới là hạnh phúc, mà chúng ta phải biết bằng lòng với những gì đang có trong hiện tại, không nên đua đòi bắt chước làm bằng người, khi ta không có khả năng và điều kiện.

 

Tiền bạc chính là người đầy tớ tốt khi ta biết làm chủ đồng tiền, sử dụng vào việc chi tiêu hằng ngày tùy theo hoàn cảnh của mỗi cá nhân và gia đình. Sức mạnh của đồng tiền thật ghê gớm, nó có thể làm cho con người say mê, điên đảo bất chấp mọi thủ đoạn.

 

Người có tiền nếu biết sử dụng đúng cách vẫn đỡ hơn người không có tiền, như khi có bệnh hoặc giải quyết một số vấn đề cấp thiết. Người có tiền có bệnh không, có già không, có chết không? Nếu có thì phải có khổ. Tuy nhiên, người có tiền, có phước vẫn đỡ hơn người nghèo khó, bất hạnh ở chỗ sung túc, đầy đủ về vật chất.

 

Người tham muốn quá đáng dù tiền kho bạc đống, nhà ngang dãy dọc, đất ruộng cò bay thẳng cánh, cũng chưa cho là vừa, mà vẫn còn mong muốn được nhiều hơn nữa. 

 

Do đó, người giàu hay kẻ nghèo đều phải biết tu tâm dưỡng tánh thì sẽ chuyển hóa được bất hạnh, khổ đau trở thành an vui, hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ. Tiền bạc nói cho cùng, cũng chỉ là phương tiện để trao đổi hài hòa các nhu cầu cần thiết trong xã hội. Nếu ta không biết dùng tiền đúng chỗ, đúng nơi, hoang phí một cách vô bổ để phục vụ cho cá nhân và cộng đồng xã hội thì tiền bạc đó trở thành vô nghĩa.

 

Chính vì thế, đồng tiền làm ra phải chân chính, nếu không thì vô cửa trước lòn cửa sau hoặc có mà không đóng góp vào việc lợi ích cho mọi người, thì ta sẽ trở thành kẻ tham lam bỏn sẻn, keo kiết.

 

Chúng ta có thể sống an lạc, hạnh phúc khi biết đủ và sẵn sàng làm lợi ích cho nhiều người. Ông bà chúng ta cũng thường dạy hãy nên gieo nhân tốt giúp người cứu vật, để lại phước đức cho con cháu sau này: 

 

            “Bởi chưng kiếp trước khéo tu,

            Ngày nay con cháu võng dù thênh thang.”

Kế đến là sắc đẹp: Sắc là các màu sắc, hình dáng mà mắt tiếp xúc nhìn thấy mọi hình ảnh sự vật rồi sinh tâm phân biệt đẹp xấu, từ đó muốn chiếm hữu, nhất là lòng ham muốn về nam sắc, nữ sắc là đầu mối dẫn chúng sinh luân hồi trong sinh tử trong vô số kiếp.

Từ ngàn xưa cho đến nay tình ái vẫn là thứ dễ làm cho con người mù quáng và si mê nhất, nên dễ dàng gây ra nhiều tội lỗi, do đó, rất nhiều câu chuyện thương tâm xảy ra làm đau lòng nhân thế. Cảnh nhồi da xáo thịt làm mất đi nhân cách của một con người, con giết cha, mẹ giết con, vợ giết chồng rồi kẻ tình địch giết hại lẫn nhau vì ghen tuông vô cớ. Con người càng ngày làm mất đi giá trị đạo đức do không tin sâu nhân quả, nên dễ dàng gây ra nhiều tội lỗi và làm khổ đau cho nhau.

     Ai cũng có thể biết tình yêu đưa đến hôn nhân nhằm phát triển giống nòi nhân loại và bảo vệ truyền thống gia tộc, nhưng lại là đầu mối của nhiều hệ lụy khổ đau, bởi sự yêu thương trong ích kỷ của riêng mình. Khi mới yêu, ai cũng cố gắng che dấu khiếm khuyết của mình để được người tình yêu mến, khi đã lấy nhau rồi thói quen xấu mới lòi ra, nhà Phật gọi là tập khí.

     Tập khí tức những thói quen từ những suy nghĩ rồi hành động, được huân tập lập đi lập lại nhiều lần. Bởi vì huân tập lâu ngày cho nên nó có sức mạnh chi phối, sai sử chúng ta dù biết đó là tác hại, như người đam mê sắc dục ham của lạ, có thể làm tan vỡ hạnh phúc gia đình mình hoặc người khác, nhất là những người giàu sang và có địa vị trong xã hội.         

     Thật ra tình dục không phải là chuyện xấu, nó luôn gắn liền với con người từ vô thủy kiếp đến nay. Đã là chúng sinh thì phải ăn, phải ngủ, phải làm việc và thụ hưởng các cảm giác khoái lạc giác quan.

     Con người là một sinh vật cao cấp, hơn hẳn các loài khác về mọi phương diện, nếu biết suy nghĩ, nói năng và hành động hướng thiện bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, thì sẽ giúp ích cho nhân loại sống an vui, hạnh phúc.

     Ngược lại vì tình cảm riêng tư muốn chiếm hữu trong sự ganh ghét, ích kỹ sẽ gây khổ đau cho nhau. Chính vì thế, mà loài người luôn đứng ở vị trí cao quý vì biết cách làm chủ bản thân, nếu vì lòng tham cho riêng mình thì cùng hung cực ác, nếu vì lợi ích chung cho nhân loại thì không có loài nào sánh bằng.   

     Thế gian là một trường đời hỗn hợp, ai biết tu nhân tích đức thì sống an vui hạnh phúc, ai không biết thì cam chịu khổ đau trong si mê sa đoạ. Hạnh phúc hay khổ đau đều do mình tạo lấy, không ai có quyền ban phước giáng họa, mà chính mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc, được gây ra từ thân, miệng, ý, của mỗi người.

     Phật dạy người cư sĩ tại gia có quyền lấy vợ lấy chồng, nhưng phải thủy chung một chồng một vợ, không được dan díu và quan hệ bất chính với vợ chồng người khác. Ngoại tình là nguyên nhân dẫn đến ghen tuông vô cớ và phá hoại hạnh phúc gia đình người khác.

     Trong tình yêu ghen tuông luôn gắn liền với ích kỷ và nó là trạng thái tâm lý không thể tách rời nhau, có yêu thương là có ghen ghét. Bao nhiêu vụ án xảy ra làm đau lòng nhân thế với những cái chết thật đáng tiếc và vô lý làm sao, chỉ vì ghen tuông trong mù quáng. Bởi vì chúng ta yêu thương trong sự lợi dụng lẫn nhau, mà không có tình yêu thương chân thật, nên dẫn đến hẹp hòi, ích kỹ làm tan vỡ hạnh phúc gia đình.

Trong tình ái do bảo vệ cái ta ích kỹ hoặc ghen tuông vô cớ, dễ làm con người mù quáng gây nhiều đau khổ cho nhau. Tình yêu bản chất vốn không xấu xa tội lỗi, ai cũng muốn mình được an vui, hạnh phúc trong đời sống lứa đôi, nhưng vì chúng ta không có sự hy sinh và chia sẻ cho nhau, ta không biết bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, vì sự tham lam ích kỷ của ta.

Sắc đẹp là điều ai cũng ưa thích và muốn chiếm hữu mãi mãi, không muốn rời xa. Người đời phần nhiều thường đua chen, giành giựt chạy theo sắc đẹp mà đôi khi quên cả chính mình.

 

Người tham muốn sắc đẹp, thì suốt đời giong ruổi đi tìm, thấy ai có nhan sắc xinh đẹp thì say mê đắm đuối chẳng muốn rời xa. Một khi đã thỏa mãn được dục vọng, thì lại ruồng bỏ người đẹp nầy để chạy theo người đẹp khác, khiến mình mất hết cả nhân cách. 

 

Một ví dụ: Khi tôi nhìn thấy một cô gái xinh đẹp, hình tướng thon thả, dáng điệu dễ nhìn. Người có trí huệ sẽ biết biết tư duy, nghiệm xét đam mê sắc đẹp sẽ làm tan nhà nát cửa. Gái đẹp thường ham giàu sang phú quý và khó chung thủy, nếu chúng ta muốn chiếm hữu thì phải hao tốn tiền của và mất mát nhiều thứ, còn làm cho mình hao tỗn tinh thần vì lo sợ người khác chiếm đoạt.

 

Người đẹp thường hay kiêu ngạo và chấp vào thân mình là thật có và lâu dài, nên lúc nào cũng trau chuốt làm đẹp, thậm chí phải tốn tiền thẩm mỹ để được mọi người ham thích khen ngợi. Các diễn viên điện ảnh, minh tinh màn bạc, người mẫu, hoa hậu khó bao giờ sống chung thủy một vợ, một chồng bởi vì họ quá chấp ngã, ai không cung phụng chiều chuộng đúng mức thì dễ dàng bị leo cây.

 

Chính vì vậy, ai đã sở hữu được thân hình bốc lửa và xinh đẹp thì hãy nhớ khéo tu tập, đến khi nhan sắc tàn phai sẽ rất khổ tâm, lúc này chẳng ai thèm quan tâm đến, sống cô đơn quạnh quẻ một mình mà đau khổ vô cùng vì tiếc nuối quá khứ, một thời oanh liệt nay giờ còn đâu.

 

Người quá xinh đẹp và người quá xấu cũng đều có một nỗi khổ riêng, đẹp quá nhiều người tìm đến tìm cách dụ dỗ, chiếm đoạt dẫn đến ghen tuông thù địch lẫn nhau. Người quá xấu không ai thèm dòm ngó đến, nên rất là mặc cảm tự ti sống trong tủi hờn và đau khổ.


Người tham muốn danh vọng, thì suốt đời giong ruổi theo quyền cao, chức trọng, danh thơm tiếng tốt. Họ bằng mọi thủ đoạn để lòn cúi hết chỗ này đến chỗ khác, cố mong được địa vị cao sang. Họ lao tâm, khổ trí, tìm đủ mọi cách để nắm giữ cho được cái danh vọng, hư ảo nhằm đạt được quyền lợi tối cao. 

 

Ngày xưa, con người cảm thấy bé nhỏ với bầu vũ trụ bao la này nên đa số đặt niềm tin vào một đấng tối cao có quyền ban phước, giáng họa. Từ đó, các ông vua phong kiến lợi dụng danh nghĩa mình là Thiên-tử thay trời trị vì thiên hạ.

 

Đất nước và con người đều thuộc quyền sở hữu của nhà vua. Tất cả mọi người đều phải trung thành tuyệt đối. Vua muốn phong quan tiến chức cho ai thì phong, muốn giết ai thì giết; kẻ dưới không có quyền khiếu nại, nếu vua bảo chết mà không chịu nghe gọi là bất trung; với một quyền lực như vậy, ông vua được hưởng tất cả mọi nhu cầu cần thiết theo sự kính trọng tột cùng của mọi người.

 

Làm vua quả thật không đơn giản tí nào, vì người đó vô số kiếp đã từng phục vụ và đóng góp cho nhân loại quá nhiều, nên ngày nay mới được hưởng phước làm vua. Quyền lực thời phong kiến xem ông vua là con trời, và cả đất nước con người thuộc quyền sở hữu của nhà vua.

 

Ở thời đại cổ xưa, con người rất tin tưởng vào đấng thần linh, thượng đế mà không dám chống trái vì sợ thần linh giận dữ, trừng phạt. Ngày nay, con người văn minh tiến bộ vượt bậc nên thấy chế độ phong kiến quân chủ độc tôn không còn phù hợp với thời kỳ khoa học hiện đại, do đó đã thay đổi cơ chế quyền lực thành dân chủ nhiều đảng để cùng cạnh tranh làm việc, phục vụ, đóng góp lợi ích cho xã hội, được dân bầu từng nhiệm kỳ một.

 

Nếu vị lãnh đạo nào có khả năng làm lợi ích cho đất nước nhiều thì được bầu thêm một nhiệm kỳ mới, nhưng tối đa chỉ hai nhiệm kỳ rồi nhường chỗ cho người khác, do đó tình trạng tham nhũng, lạm phát của công rất ít khi xảy ra.

 

Cơ chế dân chủ hay ở chỗ nếu mình nắm ghế quyền lực mà không đủ khả năng để giúp ích mọi người thì tự xin từ chức, hoặc nếu lạm dụng quyền hạn tham nhũng thì có ban hành pháp truy tố theo pháp luật hiện hành đem lại công bằng, lợi ích cho xã hội.

 

Lịch sử nhân loại với không biết bao triều đại đã lợi dụng, quyền cao chức trọng để được ăn trên ngồi trước, bóc lột tham nhũng hà hiếp dân chúng gây đau thương tổn hại cho nhiều người. Chúng ta nếu biết áp dụng con người tâm linh của chính mình, mới có đủ khả năng giúp nhân loại vượt qua rào cản của si mê, tội lỗi nhờ hiểu biết chân chính và thương yêu mọi người trong bình đẳng. Ai làm người cũng nên biết thao thức, trăn trở và hãy mở rộng tấm lòng ra để cùng nhau kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống bằng trái tim hiểu biết.

 

Đời sống con người luôn song hành hai phần thân và tâm, tức thể xác và tinh thần; nhưng đa số chúng ta chỉ chú trọng về phần vật chất cho thân  nhiều hơn mà quên lãng đi yếu tố tinh thần. Mặc dù chúng ta sống trong giàu có, tiện nghi vật chất đầy đủ, nhưng lại nghèo nàn phần tâm linh nên chúng ta thường làm tổn hại nhiều người khác. Lại có một hạng người tuy giàu có, dư dã, nhưng lại sống khổ sở hơn người nghèo vì chẳng dám ăn, dám xài, nói chi đem ra giúp đỡ cho người khác. Họ sống trong tham lam, ích kỷ, hẹp hòi, lao tâm nhọc sức để tích chứa cho riêng mình mà chẳng giúp ích gì cho ai.

 

Chúng ta muốn cho xã hội được phát triển vững mạnh và lâu dài, thì con người cần phải làm giàu tri thức và đạo đức. Tri thức giúp phát triển xã hội, đạo đức giúp con người sống có hiểu biết và yêu thương hơn. Tri thức và đạo đức như đôi cánh chim tung bay khắp cả bầu trời rộng lớn để cùng bồi đắp cho nhau sống có tình người bằng trái tim hiểu biết. Thiếu tri thức thì không làm được gì, có tri thức mà không có đạo đức thì dễ dàng bị tha hóa, tiêu cực, làm thiệt hại cho nhau.

 

Phật dạy: Con người là chủ nhân ông của bao điều họa phúc, bất hạnh hay khổ đau đều do mình quyết định. Chúng ta hãy vì tình thương của nhân loại mà bình đẳng giúp đỡ sẻ chia cho nhau, vì con người hơn hẳn các loài vật là có sự hiểu biết chân chính, nên chúng ta phải thiết lập tình thương theo nhịp cầu tương thân, tương ái bằng tình người trong cuộc sống.

Người tham muốn ăn uống ngon hợp khẩu vị, thì suốt đời lân la bên cạnh những món ngon vật lạ, quanh quẩn bên những tiệc tùng, tìm khoái khẩu trong những rượu ngon, vị lạ nên phải giết hại nhiều các loài vật để bồi bổ cho mình.

Chúng ta thử tìm hiểu xem, con người lúc vừa mới chào đời tuy chưa biết ăn nhưng ta biết khóc để đòi bú sữa mẹ, mà sữa mẹ là do đã ăn cơm uống nước cùng các loài sinh vật khác bị giết. Khi biết ăn ta đã ăn thịt cá từ bé đến giờ, nên gây đau khổ cho rất nhiều loài vật.

Tại sao ta phải giết chết các loài vật để ăn trong khi ta không cần giết chúng, mà vẫn có sự sống nhờ các loài hoa màu bằng thảo mộc, chúng vẫn có thể giúp ta giữ được sức khỏe và hạn chế tối đa việc làm tổn thương các loài có tình thức? Nếu sự sống của con người vẫn được tồn tại mà không làm chết các sinh vật khác thì cuộc đời an vui, hạnh phúc biết bao.

Tại sao con người giết sinh vật để ăn? Từ khi loài người có mặt trên thế gian này họ chỉ ăn các loại cây trái và hoa màu thiên nhiên. Lúc đầu, loài người chỉ ăn các loại nấm, hạt, hoa, lá, củ, quả, cây, nghĩa là chỉ ăn thức ăn bằng thực vật mà thôi, nhưng dần dần con người ăn thịt cá là do bắt chước các loài dã thú ăn nuốt lẫn nhau.

Ăn uống, tiệc tùng như thế lâu ngày đã trở thành văn hóa tín ngưỡng trong dân gian mà "phép vua cũng thua lệ làng". Nói cho cùng, ăn uống là một nhu cầu cần thiết và cũng là phương tiện để bày tỏ tình thân hữu hay mối quan hệ giữa con người với nhau trong xã hội, nhưng do lối văn hóa ăn uống của người Việt đã ăn thì phải ăn cho đã, đã uống thì phải uống cho say, ăn với uống phải no say.

Người đàn ông thường hay mắc phải thói quen rượu bia, mới đầu vì nhu cầu quan hệ đối tác làm ăn sau riết rồi trở thành thói quen, thành nghiệp nghiện rượu bia. Bữa nào lỡ không có chiến hữu tiệc tùng, thì sẽ cảm thấy bứt rứt khó chịu, bồn chồn trong người, đêm đó thế nào cũng ngủ không yên vì cơn thèm khát.

Con ma rượu bia này chính do mình tạo ra, nuôi dưỡng nên nó âm thầm phát triển cho đến khi ngày nào không có nó, ta cảm thấy khổ sở khó chịu là biết mình bị ma men xâm nhập. Khi chúng ta đã bị con ma men này xâm nhập rồi thì tai hại sẽ bắt đầu ụp đến, làm cho ta có thể tán gia bại sản, thân tàn ma dại. Khi cơn nghiện rượu nổi lên rồi thì mất tự chủ, cuối cùng có thể cướp của hay lường gạt của người khác để có tiền uống rượu.

Đối với thức ăn vật chất, Đức Phật dạy mọi người không nên ăn nhiều, chỉ ăn vừa đủ giúp cơ thể khỏe mạnh, không nên ăn những gì không thích hợp với cơ thể. Cách thức ăn uống của người Việt tương đối lành mạnh nhưng chế độ ăn uống thường mang tính cách theo thói quen, ngon miệng, hợp khẩu vị mà có thể thiếu các chất bổ dưỡng cần thiết hoặc dư chất bổ dưỡng.

Trong cuộc sống chúng ta thường chỉ lo ăn với uống cho đó là vấn đề chính yếu. Tối ngày chúng ta làm lụng vất vả chỉ để ăn với uống sao cho ngon miệng nên ta phải giết hại các sinh vật rồi tham đắm, dính mắc vào đó mà chịu quả báo xấu khi đủ nhân duyên. Ăn thì phải món ngon vật lạ hoặc cao lương mỹ vị.

Nhìn từ góc độ triết lý học Phật giáo, chúng ta thấy vô vàn, vô số địa ngục khác như các bệnh viện phòng cấp cứu, các nhà bếp của mỗi gia đình, các quán nhậu, các lò sát sanh, các chợ bán thịt cá, heo, bò, gà, vịt, các loài hải sản và cuối cùng là các nhà lưới bẫy đánh bắt.

Mỗi một ngày, vô số các loài bị phanh da xẻ thịt để cung cấp phục vụ cho loài người. Nhìn ở góc độ địa ngục trần gian, chúng ta còn có thể hình dung địa ngục trong tâm thức mỗi người, đó là tâm toan tính hại người, hại vật hoặc bị phiền não chi phối gọi là địangục tâm thức. Người tu nếu đạt đến giác ngộ giải thoát thì tâm sẽ an nhiên, tự tại dù thân có bị hành hạ, đau nhức chi phối.

Chúng ta ăn chay để tránh nghiệp báo bệnh tật và chết yểu, nhưng cũng có người cho rằng “cỏ cây cũng có sự sống”. Đúng! Cây cỏ cũng có sự sống, nhưng cây cỏ không có cảm giác, không có ý thức tham sống sợ chết, lo lắng sợ hãi, vui buồn khổ đau như các loài vật. Con người là một sinh vật có hiểu biết cao nhờ biết suy nghĩ và nghiệm xét, con người là vật tối linh trong các loài sinh vật.

Ăn chay đúng cách sẽ tránh được nhiều bệnh tật, các nhà khoa học chuyên nghiên cứu chất dinh dưỡng đều xác định rằng: “Không chỉ trong thịt cá mới có chất dinh dưỡng mà trong các loại rau đậu, củ quả cũng có rất nhiều”. Con người cần phải có ăn uống mới bảo tồn mạng sống, nếu ăn không đúng cách dễ sinh ra nhiều bệnh tật, do tâm tham muốn quá độ.

Ăn rau đậu, củ quả thì trong người cảm thấy nhẹ nhàng, còn ăn thịt cá thấy hôi tanh và cơ thể nặng nề. Chính vì thế, khi nấu nướng người ta thường cho gia vị thật nhiều để làm át mùi tanh hôi của thịt cá và tạo nên sự hấp dẫn, nhằm kích thích khẩu vị của mọi người.

Một bằng chứng cho thấy một số động vật chỉ ăn cỏ cây, hoa lá có thân hình thật to lớn, lại khoẻ như voi, trâu, bò, ngựa, dê,… Chúng chẳng bao giờ ăn thịt cá nhưng lại to lớn, khoẻ mạnh và có thể giúp nhiều cho con người.

Ăn chay là thể hiện lòng từ bi đối với các loài vật nên người Phật tử phải tập ăn chay từ một hai ngày mỗi tháng, đến khi đủ nhân duyên thì ăn chay hoàn toàn. Khi ăn chay chúng ta nên thay đổi thức ăn cho đỡ ngán, tất cả có thể cùng ăn với cơm, bánh mì, bún, hủ tiếu…v.v..

Nếu không biết nấu sẽ mất chất bổ, làm hại bộ máy tiêu hóa, lại không ngon miệng. Khi nấu luộc nên đậy nắp, không nấu luộc quá chín hoặc chỉ luộc sơ qua, chúng ta nấu luộc vừa chín tới để đảm bảo đầy đủ chất bổ dưỡng.

Tóm lại, vấn đề ăn mặn và ăn chay còn khá nhiều khía cạnh tế nhị khác, trong phạm vi hạn hẹp và có giới hạn chúng tôi không dám luận bàn nhiều, chỉ nhắc lại lời cổ nhân dạy: “Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn". Nghĩa là, con người sinh ra trên trái đất này, ngoài chuyện ăn uống để bảo tồn mạng sống, thì chúng ta còn phải làm tròn trách nhiệm đối với gia đình, người thân và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Phật nói: "Chúng sinh sở dĩ đi không cách đất, không khỏi cỏ cây, ra vào không rời khỏi không khí, là bởi ăn những món do gieo trồng từ đất, nên thân thể rất nặng nề và chậm chạp. 

Người tham muốn ngủ nghỉ nhiều, thì quá nửa đời mình lẩn quẩn trên chiếc giường, bộ ván; ăn xong lại nghỉ chuyện đi nằm chẳng muốn làm gì hết, khi ngủ xong lại muốn ngủ nữa giống như các loài heo vậy đó, mất cả tự chủ và thể diện của mình. 

Con người vì không biết rõ thực tướng của vạn vật nên si mê chấp thân tâm làm ngã rồi dẫn đến chiếm hữu, lười biếng, ăn không ngồi rồi. Loài heo vì tham ăn ngon, ngủ kỹ nên mới bị đọa lạc như thế, tối ngày chỉ biết ăn rồi ngủ, ngủ dậy rồi ăn, chẳng biết làm gì.

Chúng được cho ăn món thượng hạng hằng ngày rồi nằm phè ra ngủ, thấy thế tưởng như ngon lành nhưng không ngờ đang gần kề cái chết mà không hay biết. Ăn ngon ngủ kỹ là căn bệnh trầm kha của nhiều người, đa số ai cũng thích như vậy từ chỗ si mê tham ái chấp trước mà ra.

Tóm lại, khi đã tham muốn quá độ, thì không bao giờ mình chịu bằng lòng với những gì đang có trong hiện tại. Nên ngạn ngữ có câu: "Bể kia dễ lấp, túi tham khó đầy". Thật đúng như thế, "lòng tham như giếng sâu không đáy", thì làm sao có thể đầy được? 

Ðể đối trị với lòng tham hưởng thụ quá đáng, Phật dạy chúng ta phải nên muốn ít, biết đủ. Trong kinh có nói: Người biết đủ, dù nằm trên đất cát vẫn an lạc, hạnh phúc trái lại, người không biết đủ, dù ở cung vàng điện ngọc cũng không vừa ý. Vậy muốn được sung sướng và an vui hạnh phúc, chúng ta cần phải biết bằng lòng với những gì mình đã có. 

Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có. Như muốn có cái nhà để ở nhằm đảm bảo việc ăn uống, ngủ nghỉ trong sinh hoạt hằng ngày. Biết đủ, là dù gặp hoàn cảnh nào cũng đều biết an phận trong hoàn cảnh đó, không bon chen đua đòi quá đáng.

Ðối với việc ăn, mặc và ở, tự thấy mình có đủ dùng và dư dã chút ít để thủ hậu mai sau, thì ta sẽ không tham cầu nhiều hơn nữa để sống an lạc, hạnh phúc ngay bây giờ và tại đây. Người đời thường tham muốn những gì? Tham muốn tiền của dồi dào, tham muốn sắc đẹp và muốn có nhiều người đẹp, tham muốn danh vọng địa vị cao, tham muốn ăn uống ngon hợp khẩu vị, và tham muốn ngủ nghỉ thoải mái.

Những sự tham muốn quá đáng, làm cho con người mất hết cả tự chủ, và chỉ còn là nô lệ cho những thèm muốn của mình mà thôi. Một khi đã bị lòng tham dục điều khiển, thì con người sẽ gây rất nhiều tội lỗi, dám làm những chuyện tàn ác dã man.

Lòng tham muốn quá độ, khiến cho con người bị tối mắt trước những sự cám dỗ vật chất mà rơi vào con đường tội lỗi. Chẳng hạn một kẻ không có năng lực, đạo đức mà muốn được giàu có nhanh, họ lợi dụng quyền thế, dùng những mưu mô gian xảo, đen tối, để đạt được mục đích của mình.

Trong hiện tại lòng tham muốn quá độ, sự chạy đuổi theo ngũ dục đã làm tổn hại cho mình và nhiều người khác, khi phước hết họa đến thì bị đọa lạc vào ba đường khổ, để phải chịu thiếu thốn cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần. 

Đam mê ngũ dục khiến con người sinh tâm tham ái, chấp thủ, muốn sở hữu cho riêng mình, mà không nghĩ đến lợi ích chung, cho nên dễ dàng bị sa đọa. Ngũ dục được triển khai rộng hơn đó là sắc thinh hương vị xúc pháp.

Trong kinh Phật dạy, thuở quá khứ có một đàn vượn sống theo bầy đàn đi ăn. Vượn chúa ra lệnh cho tất cả vượn con phải đi chung đàn, không được tách rời khỏi hàng ngũ sẽ dễ bị đám thợ săn rình, bẫy, bắt. Trong đó, có một vượn con vì ham ăn, nên bèn tách ra khỏi đàn, đi riêng lẻ một mình kiếm ăn.

Đi được một lúc thì thấy miếng mồi thơm ngon quá, nó liền dùng tay phải để chụp lấy, không ngờ đây là cái bẫy của người thợ săn đã gài chất nhựa xung quanh, nên nó bị dính một tay. Bởi dính tay này nên nó vội vàng lấy tay kia gỡ ra, nên bị dính cả hai tay. Kế đến, nó lấy chân sau gỡ và cũng bị dính, còn lại một chân, nó cố bươi để thoát thân, nhưng chất nhựa làm nó dính luôn cả hai tay và hai chân.

Vượn thấy hai tay, hai chân đã bị dính, nên cố gắng lấy đuôi ngoe ngoe, mong cứu gỡ, nào ngờ càng dính thêm. Không còn cách nào khác, nó đành lấy cái miệng quặp để gỡ ra, nên bị dính luôn hết tất cả. Hai tay, hai chân, đuôi, miệng, cả sáu thứ đều bị dính, hết cục cựa, quậy quọ gì hết.

Cuối cùng, con vượn vì chút mòi ngon mà bị dính sáu chỗ, nằm rên la trong tuyệt vọng khổ đau. Chú thợ săn khoái chí đến bắt vượn ta, bỏ vô giỏ, quảy về để chuẩn bị làm thịt, xơi tái.

Đức Phật mượn hình ảnh thí dụ này để chỉ dạy cho người xuất gia và tại gia phải biết nương thầy lành, bạn tốt để học đạo hiền Thánh, không nên tách rời đại chúng quá sớm khi mình chưa đủ đạo lực.

Cuộc sống ở thế gian này, ai cũng tham muốn được hưởng thụ năm món dục lạc, sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngọt và thân xúc chạm êm ái là nhu cầu cần thiết mà ai cũng muốn khát khao tìm kiếm, nhằm để thỏa mãn sự khoái lạc của mình.

Cũng như chú vượn kia vì quá tham lam, nên đã tự ý tách bầy sớm, hy vọng có nhiều miếng mồi ngon, cũng vậy con người vì tham muốn ngũ dục quá đáng mà sống trong đau khổ lầm mê, không có ngày thôi dứt.

Đức Phật dụ cho miếng mồi ngon là sáu trần sắc-thinh-hương-vị-xúc-pháp. Một tay bị dính rồi thì cả sáu bộ phận sẽ bị dính theo hết. Khi sáu căn dính với sáu trần rồi, thì người thợ săn xách đi đâu cũng phải chịu.

Tóm lại, người Phật tử chân chính phải nên sáng suốt chọn thầy lành bạn tối để nương tựa tu học, giống như con vượn nương theo đàn, sẽ được bảo hộ chặt chẽ. Người tu chúng ta cũng vậy, dù ăn uống có thiếu một chút cũng không sao; còn muốn ăn ngon, thưởng thức cao lương mỹ vị, nên dễ bị mắc bẫy ngũ dục cám dỗ.

Hằng ngày, chúng ta mắt đối với mọi hình ảnh sự vật không dính mắc, tai đối với âm thanh không chạy theo, mũi đối với mùi thơm-hôi không chê bai hay thích thú, miệng đối vị ưa thích-ghét bỏ, thân xúc chạm với vật êm ái dễ chịu không luyến tiếc, đó là chúng ta biết tu trong mọi hoàn cảnh. Nếu còn dính kẹt chúng ta sẽ bị phiền não khổ đau, ta muốn tự tại, giải thoát thì tâm không dính mắc mọi trần cảnh.

Hạnh phúc theo lời Phật dạy là sống, ăn uống, ngủ nghỉ, sinh hoạt, làm việc, thấy, nghe, hay biết, đóng góp, phục vụ mọi người, mà vẫn không tham đắm, dính mắc ta, người, chúng sinh.

Ai làm người cũng đều có mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, nó là sáu giác quan chủ lực của con người. Nếu ta biết sử dụng theo chiều hướng thượng, biết quay lại chính mình, làm chủ các giác quan, thì sẽ đóng góp lợi ích thiết thực cho mình và người khác. Ngược lại, các dục không thể làm thỏa mãn những tham muốn vô cùng tận của con người, nếu có chăng chỉ là sự thỏa mãn tạm thời, ngắn ngủi. Chính vì thế sự tham muốn, mong cầu quá đáng về các dục khiến cho con người khổ não nhiều hơn là an vui, hạnh phúc. Tất cả quý vị hãy nên chính chắn suy nghĩ, để làm hành trang tốt đẹp cho mình trong hiện tại và mai sau.

PHẬT DẠY NHÌN LẠI LỖI MÌNH ĐỂ TIẾN TU

Chân lý cuộc đời không thuộc về sự đúng sai, được mất, hơn thua, khen ngợi hay chỉ trích, mà thuộc về những người nào có hiểu biết chân chính, thấy và biết đúng như thật, sống vì mọi người với tinh thần trách nhiệm cao.

 

Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa. Chúng sinh thường có căn bệnh trầm kha, ưa tìm tòi nhìn ngó lỗi người. Để làm gì, để phê bình khen chê, đúng sai, được mất. Ít có mấy ai nhìn lại lỗi mình để tìm cách khắc phục và sửa đổi. Nhà chúng ta lúc nào cũng đầy rác rến, mà không lo dọn quét, thích cầm chổi đi quét nhà người khác nhất là những kẻ ngồi lê đôi mách, thích bàn tán chuyện thiên hạ.

 

Vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết, đó là căn bệnh thâm căn cố đế của con người. Ai cũng thích làm cảnh sát quốc tế để theo dõi rình rập bắt bớ. Tối ngày cứ tìm cách phạt người nầy, lại phạt tới người kia, mà mình thì dính nhiều tội lỗi, sao mình không tự phạt mình đi, vẫn tốt hơn là tìm cách phạt người!

 

Thái độ phê bình chỉ trích chê bai kẻ khác, đó là thái độ tối kỵ nhất của người Phật tử chân chính. Nếu chúng ta thật sự là người tu hành, thì ta chỉ nên nhìn ngó lại lỗi mình, để lo sửa đổi cho tốt.

 

Chúng ta là những người đang tu hành, dĩ nhiên là vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Chúng ta không nên có tâm chê bai hay hủy báng người tu hành chân chính, ta có quyền góp ý xây dựng trên tinh thần học hỏi một cách chân thành.

 

Có thể nói, tu hành là một quá trình lâu dài, kiên trì bền chí, khắc phục mọi khó khăn vì phải đi ngược lại dòng đời. Có nhiều người nói đi tu thời bây giờ sướng thấy bà, chúng ta hãy thử vô chùa ở chừng hai tuần đến một tháng đi, rồi ta sẽ có câu trả lời, đừng vội phán xét, đừng vội quơ đũa cả nắm, tội nghiệp lắm người ơi.

 

Trong một xã hội vàng thau lẫn lộn khó phân biệt được đâu là người chân tu thạc đức, đâu là người mặc áo cà sa mà tâm địa ác ôn, hiểm độc. Phật dạy: Chỉ có những con vi trùng đục khoét trên thân thể của con sư tử, mới làm con sư tử gục ngã.

Thật ra đúng và sai là hai phàm trù đối đãi, bàn tay năm ngón nhưng có dài ngắn khác nhau, tùy theo khả năng hiểu biết của con người mà có cái thấy sâu rộng hay hẹp hòi. Chúng ta khó có thể xác định rõ ràng giữa đúng và sai, vì nó vô cùng vi tế và sâu sắc, nên có những hiểu biết của ta, ở độ tuổi này thì đúng, mà bước qua độ tuổi khác thì sai.

Ta có thể thấy biết đúng như thật tất cả mọi hiện tượng sự vật đang hiện hữu, là do tâm mình có sự định tĩnh, sáng suốt không bị chi phối quá đáng bởi các tham muốn thấp hèn. Ta sẽ cảm nhận được mọi cảm xúc, nó đang là một thực tại nhiệm mầu mà không thấy ta người, được mất, hơn thua.

Việc xác định đúng sai chỉ trong tương đối mà thôi, ở buổi sáng thì đúng, buổi chiều thì sai, đối với hiện tại thì đúng, nhưng lát nữa thì sai; đối với người này thì đúng, mà đối với người kia thì sai, và cùng một vấn đề, tùy theo sự hiểu biết của mọi người mà đúng sai được thành lập ở một mức độ nào đó. Trong Kinh Pháp Cú Phật dạy:

                  Không nên nhìn lỗi người, 

                  Người làm hay không làm.

                  Nên nhìn lại chính mình, 

                  Có làm hay không làm.

Người Phật tử chân chính là không nên nhìn lỗi của người khác, vì khi nhìn thấy lỗi của người, thì lỗi của mình đã hiện ra, bởi tâm ganh ghét tật đố muốn vạch lá tìm sâu. Một khi chúng ta đã phát hiện ra sự khiếm khuyết của người khác, thì ngay chỗ khởi tâm động niệm đó, đã dấy lên phiền não rồi!

Tâm mình hay khởi phiền não cũng là vì trong lòng chúng ta chất chứa quá nhiều vấn đề phải quấy, tốt xấu, đúng sai, hơn thua và tị hiềm ghét bỏ. Nói mình tốt, người khác xấu, đó là tâm ganh ghét hơn thua, tất cả đều là phiền não, chúng ta có chịu thừa nhận hay không mà thôi.

Nguyên nhân gì khiến mình nhìn thấy lỗi của người khác? Đó là vì chúng ta có một cặp mắt quốc tế quá nhạy bén, vì sự chấp thân tâm này làm ngã. Do đó, điều cấm kỵ thứ nhất trong cửa thiền là: Không bao giờ được nhìn lỗi người khác, phải luôn luôn quay lại chính mình để thông suốt mọi thứ từ tâm thanh tịnh sáng suốt của mình.

Do sự thấy biết sai lầm, cho nên chúng ta mới tạo ra lỗi lầm cho người khác. Rồi cứ như thế, ta sẽ không ngừng nhìn thấy lỗi của người khác mà đánh mất chính mình. Nói chung, phiền não khởi lên không phải từ bên ngoài, mà là từ trong nội tâm của chúng ta có vấn đề quá nhạy cảm, vì tâm phân biệt ta, người, chúng sinh.

Khi chúng ta phát hiện ra những lỗi lầm của người khác, trước tiên ta phải nên can cảm thừa nhận lỗi lầm của mình, rồi phải quán xét tự thân, phải tự mình sám hối, như thế khả dĩ tâm ta sẽ lần hồi trong sáng trở lại, vì không bị phiền não che lấp.

Tại sao chúng ta hay nói lỗi lầm của người khác, mà không nói lỗi của chính mình, bởi vì tâm thị phi ở trong ta quá nhiều. Khi phát hiện ra vấn đề nhạy cảm của người khác, thì phiền não trong ta tự dấy lên làm mình bị dính mắc đủ thứ các điều tốt xấu.

Chúng ta vì có sự phân biệt ta, người, chúng sinh nên mới dễ dàng thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi chính mình. Có người lại nổi sân si lên, vì cho rằng mình đúng, người sai. Chúng ta có thể thấy người khác bây giờ tốt, hiện tại tốt, nhưng tới chiều tối lại có thể xấu đi thì sao? Bởi vì tâm sinh thì các pháp sinh, cho nên ta chỉ thường biết rõ ràng, nhìn thấy hình ảnh sự vật mà ta vẫn an nhiên bất động, vậy có gì lỗi hay không lỗi?

Khi chúng ta thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi mình thì tất nhiên ta sẽ nói xấu người đó và còn chê bai chỉ trích nữa, vậy là lỗi mình đã phát sinh thấy mình tốt người ta xấu, thành ra mình bị phiền não nhiễm ô.

Người Phật tử chân chính sống biết buông xả, không cố chấp chỉ quay bên trong quán xét tâm mình, nhìn thấy lỗi mình mà cố gắng sửa sai để cho tâm được thanh tịnh, nếu có ai chỉ lỗi cho mình thì mình nên chân thành cám ơn họ, vì họ là thiện hữu tri thức giúp ta sống tốt hơn.

Chỉ khi nào người khác nhờ ta chỉ lỗi dùm, thì ta mới nói. Vì khi đó ta nói ra người đó không có giận hờn mà còn rất vui vẻ, họ là người muốn sống tốt thật sự, nên mới khuyên ta chỉ lỗi dùm.

Hôm nay chúng ta thấy người này không vừa mắt, thấy kẻ khác đáng khinh ghét thì tự mình sinh ra phiền não, làm ảnh hưởng đến sự tu hành hành của chúng ta, chứ chẳng có lợi ích gì hết. Chúng ta khổ đau hay hạnh phúc, là từ nơi tâm thức mình, nếu phân biệt chấp trước dính mắc, thấy người sai ta đúng, thì tâm mình đã bị vẫn đục.  

Tóm lại, người biết nhìn lại lỗi mình là người có hiểu biết chân chính, là người biết thương yêu và tha thứ chính mình, nên sẵn sàng chuyển hóa tâm niệm ta, người, chúng sinh. Nhờ vậy, nhân quả xấu sẽ được thay đổi, chuyển xấu thành tốt, chuyển mê thành ngộ. Người sống được như vậy là người không làm khổ mình, và hại người khác. Người như vậy gọi là người biết tu.

Trong Pháp Bảo Đàn Kinh Lục Tổ nói: “người thật sự tu đạo thì không thấy lỗi thế gian”, thật là lời dạy quý báu, chúng ta nhất định phải ghi nhớ lời này, để làm bài học tiến tu. Vậy nên người thật sự tu học là biết cách tu sửa bản thân mình, không chỉ trích phê phán người khác.

Người biết lỗi mình thì tâm người đó là tâm giác ngộ, vì biết được sai mới sửa sai, đó là ta đang tu và đã tu, nếu ta thường xuyên tỉnh giác như thế, thì việc gì mà làm chẳng xong.

PHẬT DẠY LỢI ÍCH BỐ THÍ GIỮA CHO VÀ NHẬN

Bố thí và cúng dường hay giúp đỡ sẻ chia là hạnh nguyện cao cả của các vị Bồ-tát, người Phật tử chân chính noi theo gương hạnh người xưa mà tùy theo khả năng phát tâm hộ trì Tam bảo và làm từ thiện xã hội. Tuy nhiên, để đạt được sự bố thí và cúng dường đúng như  pháp là việc làm không dễ dàng, đối với kẻ cho và người nhận.

Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại giảng đường có nóc nhọn. Rồi Thế Tôn vào buổi đắp y, cầm bát đi đến trú xứ của gia chủ Ugga, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Gia chủ Ugga đi đến đảnh lễ, ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn:

Bạch Thế Tôn, con nghe như sau từ miệng Thế Tôn: “Ai cho vật khả ý thì nhận được điều khả ý”. Vì thế, con có nấu cháo từ hoa cây sàla và rất nhiều loại món ăn thật là khả ý; con có nhiều loại vải dệt từ Kàsi thật là khả ý. Mong Thế Tôn hãy nhận lấy vì lòng từ ái đối với chúng con.

Thế Tôn nhận lời và nói với Ugga bài kệ tùy hỷ này: “Ai cho vật khả ý, nhận được điều khả ý, đối với bậc Chánh trực, vui lòng đem bố thí, vải mặc và giường nằm, ăn uống các vật dụng, biết được bậc La hán, được ví là phước điền, nên các bậc Chân nhân, thí những  vật khó thí, được từ bỏ giải thoát, không làm tâm đắm trước, người thí vật khả ý, nhận được điều khả ý”.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Vua Munda, phần Cho các vật khả ý, VNCPHVN ấn hành 1996, tr. 382)

Người thí chủ thực hành bố thí và cúng dường trước hết phải xuất phát từ tấm lòng từ bi rộng lớn, trong lòng hân hoan, vui vẻ và hoàn toàn tự nguyện. Chúng ta phát tâm bố thí và cúng dường mục đích chính là muốn cho Tam bảo được trường tồn ở thế gian, để mọi người có nơi nương tựa và tu học.

Nhờ có tín tâm sâu, khi chúng ta bố thí cúng dường, giúp đỡ người khác không phải với tâm cống cao ngã mạn, mà vì đây là trách nhiệm chung của toàn xã hội, nên việc làm cao cả ấy sẽ không lệch hướng. Ta không thấy mình là kẻ ban ơn và người thọ ơn. Chính vì vậy “của cho không bằng cách cho”, do đó, chưa chắc người có nhiều tiền lắm của mà biết bố thí với tâm trong sạch.

Thực tế mình cho người tức là mình đang tích lũy phước cho mình, ta đang gầy dựng nền tảng giàu có trong hiện tại và mai sau. Chính vì thế, ngoài tấm lòng bao dung, độ lượng đối với tha nhân, người Phật tử chân chính thực hành bố thí với mục đích nhằm buông xả những tâm niệm tham lam, ích kỷ, bỏn sẻn, keo kiết để hoàn thiện chính mình.

Mặt khác, bố thí và cúng dường cũng là một pháp tu cho người Phật tử tại gia, khi làm việc cao cả này chúng ta phải hoan hỷ, khi đem niềm vui đến cho mọi người nhằm làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh. Đây là những điều cần thiết, để người Phật tử ý thức trách nhiệm mà cố gắng tu tập, nhằm thành tựu sự bố thí và cúng dường đúng như pháp.

Chúng ta, có thể sẵn sàng cho đi những tài sản vật chất mà không cầu đền đáp, là một việc khó làm đối với người còn đặt nặng lợi ích cá nhân quá nhiều. Càng khó khăn hơn đối với họ khi phải cho những vật quý tốt, tức những vật mà mình yêu thích. Phần nhiều chúng ta chỉ cho những đồ vật mình cảm thấy dư thừa, nhưng người “xả” được như vậy cũng là quý lắm rồi.

Trong cuộc sống hai người cùng làm một công việc bố thí như nhau,  thế nhưng có người càng thí lại càng giàu có và có người lại không được gì, thậm chí là thất bại nữa. Đối với những người không thành công, họ nghĩ rằng “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, như vậy là họ chưa có niềm tin sâu sắc đối với nhân quả. Chúng ta nên biết, nhân tố tiềm ẩn chi phối sự thành công hay thất bại của mỗi người chính là phước báo của chính họ, đã gieo tạo từ nhiều đời kiếp nên nhân quả nhãn tiền.

Người Phật tử chân chính, sẵn sàng ban tặng những gì mà người khác cần, kể cả những vật mình yêu thích thậm chí có thể dâng hiến cả thân mạng. Như vậy cho người là một nhiệm vụ, một nghĩa cử cao đẹp thiêng liêng. Nếu chúng ta dám cho những gì mình yêu thích, mình trân quý, mới thực sự là cách cho không có sở cầu.

Để đạt được cách cho cao cả như vậy, trước tiên chúng ta phải có trí tuệ thấy biết đúng như thật, thấu hiểu bản chất cuộc đời là vô thường đổi thay và không có cái ngã cố định. Chính tuệ giác vô ngã đã soi sáng cho việc bố thí còn phân biệt, để dần hồi tiến đến Bố thí Ba-la-mật, một sự ban tặng mà không có điều kiện hay mong cầu gì hết.

Sự thọ nhận càng nhiều chỉ mang nợ đàn na tín thí càng lớn, nếu  chúng ta không tạo ra công đức để hồi hướng cho thí chủ. Do đó, ngưòi thí chủ và người thọ thí phải thành tựu công đức tu hành để việc bố thí và cúng dường như pháp, đạt được lợi ích lớn, như lời Đức Phật đã dạy.

Trong kinh Phật dạy: Nếu hai người cùng tu tập với niềm vui cung kính đối với Tam bảo, có giới đức và trí tuệ ngang nhau, nhưng có sự chênh lệch về hạnh bố thí, người bố thí nhiều hơn sẽ gặt được kết quả phước báo đầy đủ, hơn người kia về tài sản vật chất và uy quyền thế lực. Sự vượt thắng này sẽ giúp cho người đó được mạnh khỏe,  sống thọ, nhan sắc xinh đẹp dễ nhìn, sống an lạc hạnh phúc, có quyền cao chức trọng và đó là ước mơ mong muốn của nhiều người.

Chính vì thế, người Phật tử ngoài việc tu tập Giới-Định-Tuệ để chuyển hóa phiền não tham-sân-si và còn phải có lòng từ bi giúp đỡ sẻ chia hay cúng dường Tam bảo. Người Phật tử tại gia tu tập bố thí để góp phần xây dựng con người văn minh, giàu đẹp, bền vững và lâu dài, để hoàn thiện chính mình.

Do vậy, người Phật tử sống và tu tập theo lời Phật dạy, trước tiên là phải thực hành bố thí và cúng dường, để hiện tại đảm bảo an sinh đời sống gia đình, đóng góp lợi ích xã hội và không phải lo lắng cơm áo gạo tiền, mà còn có thời gian làm phước và tu tập.

Do đó, thực hành cúng dường Tam bảo là điều cần thiết giúp cho chư Tăng, Ni có thời gian tu học để hoàn thiện chính mình mà giúp người cứu vật. Chư Tăng, Ni có trọng trách vô cùng lớn lao, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh, giúp mọi người tin sâu nhân quả, tin chính mình là chủ nhân bao điều họa phúc, tránh dữ làm lành và chịu trách nhiệm về hành vi tạo tác của mình.

Có rất nhiều cách gieo trồng phước đức, nếu ta biết bố thí đúng lúc, đúng chỗ, đúng nơi, đúng đối tượng thì phước đức sẽ không thể nghĩ bàn. Khi thực hành bố thí, dù là người nghèo khổ, ăn xin, ta cũng phải tôn trọng, thành tâm mới có phước báo to lớn. Nếu ta bố thí mà có thái độ coi thường, khinh rẽ hay mạt sát người, tuy vẫn có phước nhưng ta phải chịu quả báo ân oán hận thù về sau. Phước tuy được hưởng nhưng họa làm cho người ta đau khổ và họ sẽ tìm cách trả thù, khi có nhân duyên.

Muốn có sự sống tốt đẹp trong đời hiện tại, ta phải tu tập bố thí để làm hành trang cho mai sau. Tài sản, của cải vật chất, danh vọng, tiếng tăm, nhà cửa, tiền bạc, ruộng vườn ta sẽ không mang theo được gì khi nhắm mắt lìa đời, chỉ mang theo nghiệp tốt, xấu.

Do đó, quý Phật tử phải sáng suốt chọn lựa, thường xuyên gieo trồng phước đức để tạo nên nghiệp thiện lành làm tư lương, hành trang cho hiện tại và mai sau.

Đối với chư Tăng, Ni những người thọ thí, lại càng phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong việc tu tập của mình, để chuyển hóa phiền muộn khổ đau thành vô lượng trí tuê, từ bi mà sống đời bình yên, hạnh phúc. Nếu chúng ta không trau giồi, tu sửa thân tâm, đoạn trừ phiền não thì vật phẩm cúng dường của đàn na tín thí rất khó tiêu, có thể sẽ mang lông đội sừng để đền trả xứng đáng.

Đối với những người bất hạnh có hoàn cảnh khó khăn, khi nhận được món quà từ tay các nhà hão tâm, quý Phật tử, các vị hãy nên trân trọng, quý kính, và không nên ỷ lại. Để tỏ lòng thành kính đối với người giúp đỡ, ta phải biết ơn mà cố gắng siêng năng làm việc tinh cần, tiết kiệm, tiêu xài đúng mức.

Phật dạy: Nghèo là do không biết bố thí cúng dường hoặc giúp đỡ sẻ chia, gian tham trộm cướp lường gạt của người khác, ỷ lại cha mẹ và lười biếng, sống sa đọa phóng túng và không biết tiết kiệm.

Bố thí là một pháp tu quan trọng, rất phổ biến trong đời sống trong xã hội, và dễ thực hành cho hàng Phật tử, người có của thì bố thí vật chất, kẻ không tiền thì bố thí bằng tấm lòng và dùng thân này để công quả làm lợi ích cho người. Do vậy, cùng tu tập về bố thí nhưng tùy theo mục đích và tâm nguyện của mỗi người mà có kết quả, phước báo khác nhau.

Theo tuệ giác Thế Tôn, nếu chúng ta bố thí với tâm phân biệt và có điều kiện thì kết quả gặt được phước báo sẽ có giới hạn trong chừng mực nào đó. Ngược lại, người bố thí vì tình thương cao cả không điều kiện, thì phước báo sẽ vô cùng to lớn.

Vì thế, chúng ta muốn tu tập bố thí để đạt được lợi ích lớn và kết quả thù thắng thì tâm phải rộng lớn, không mong cầu, thấy khổ liền giúp mà không thấy mình là kẻ ban ơn, người thọ nhận và của để thí, thì phước báo vô lượng không thể nghĩ bàn.

Người Phật tử chân chính, tu tập hạnh bố thí từ ban đầu có tính toán phân biệt và cuối cùng là nỗ lực buông xả vô điều kiện, để vươn tới đỉnh cao bố thí Ba-la-mật. Người phát tâm bố thí Ba-la-mật hoàn toàn không có tác ý phân biệt về người cho, kẻ được nhận và vật để bố thí, thì sẽ thành tựu công đức viên mãn mà không thấy ta, người, chúng sinh.

Tóm lại, việc gieo trồng phước đức thông qua bố thí, cúng dường là cách thức chuyển hóa nghèo khó thành vô lượng phước đức, đồng thời cũng là phương tiện giúp mọi người sống thương yêu nhau bằng trái tim hiểu biết, với tinh thần“tốt đạo đẹp đời”.

Bồ-tát bố thí Ba-la-mật luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu cần thiết của chúng sinh, không phân biệt người thân hay kẻ thù. Bồ-tát sẵn sàng bố thí tất cả, không bao giờ có sự hối tiếc và có thể chịu khổ, chịu chết thay cho chúng sinh. Bố thí như thế mới gọi là bố thí Ba-la-mật.

Tại sao Bồ-tát thực hành bố thí Ba-la-mật? Bởi Bồ-tát là người đang trên đường tiến tới giác ngộ để thành Phật viên mãn, nên mỗi khi làm việc gì có lợi cho chúng sinh Bồ-tát đều phát nguyện và hồi hướng. Trong các hạnh bố thí, chỉ có bố thí Ba-la-mật là phước đức cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần.

Người mới phát tâm cầu làm Bồ-tát phải có hai điều kiện tất yếu là phát nguyện và hồi hướng. Phát nguyện là để giữ vững ý chí, lập trường của mình khi gặp những khó khăn, trở ngại. Phát là phát cái tâm làm các việc thiện lành, còn nguyện giống như một lời thề nguyền để ta ghi nhớ mà quyết tâm phấn đấu vượt qua, mỗi khi gặp chướng duyên nghịch cảnh.

Người Phật tử chân chính, mỗi khi làm được việc gì có lợi ích cho mình và người khác, đều hồi hướng hết cho tất cả chúng sinh được thừa hưởng. Chính vì vậy, phát nguyện và hồi hướng là việc làm cao cả, để Bồ-tát hướng đến bố thí Ba-la-mật và thành Phật viên mãn.

PHẬT DẠY NHÂN QUẢ TRANG NGHIÊM TỰ THÂN

Đạo Phật đã hướng dẫn cho chúng ta thấu hiểu lý nhân quả để mỗi người sống có trách nhiệm hơn về những hành vi tạo tác của mình từ thân, miệng, ý. Nếu trong cuộc sống, chúng ta hay làm các việc thiện lành tốt đẹp thì được hưởng phước báo cõi trời người, còn chúng ta làm điều xấu ác thì phải chịu quả khổ đau địa ngục, quỷ đói, súc sinh. Đó là quy luật tất yếu và sinh tồn của xã hội, không ai có quyền ban phước, giáng họa hay sắp đặt cho chúng ta cả.

 

Gieo nhân nào là gặt quả đó, chính đức Phật nhờ sự tu chứng mà thấy biết rõ ràng, con người là chủ nhân của bao điều họa phúc và chỉ dạy lại cho chúng ta, chứ không phải do suy luận, vu vơ huyền hoặc.

 

Nhân quả rất đa dạng và phức tạp, chúng ta là những phàm phu, không thể nào nhìn thấy hết tất cả tiến trình chi phối và diễn biến của nhân quả. Người Phật tử chân chính, phải thận trọng trong từng ý nghĩ lời nói, cho đến hành động trong từng phút giây… Ta phải thường xuyên xem xét, quán chiếu, soi sáng lại chính mình để không vấp phải lỗi lầm đáng tiếc.

 

Gieo nhân nào thì gặt quả nấy, nếu chúng ta muốn có phước báo thì phải gieo trồng phước đức, tích lũy phước, và thường xuyên vun bồi cội phước bằng suy nghĩ, lời nói và hành động thiện ích. Cầu khẩn van xin cầu nguyện suông, không giúp cho người Phật tử được những gì như mong muốn, chỉ có gieo nhân tốt mới gặt được quả tốt”.

 

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anà-Thapindika. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến đảnh lễ, Thế Tôn nói với gia chủ Anàtha-pindika đang ngồi một bên:

Có năm pháp này, này Gia chủ, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khó tìm được ở đời. Thế nào là năm? Tuổi thọ; dung sắc; an lạc; tiếng đồn tốt; cõi trời khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời.

 

Này Gia chủ, năm pháp này, khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời. Này Gia chủ, năm pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời này, Ta tuyên bố không phải do nhân cầu xin, không phải do nhân ước vọng mà có được.

Này Gia chủ, nếu năm pháp khả lạc, khả hỷ, khả ý khó tìm được ở đời này, do nhân cầu xin, do nhân ước vọng mà có được, thời ai ở đời này lại héo mòn vì một lẽ gì? Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có thọ mạng, không có thể do cầu xin thọ mạng hay tán thán để làm nhân đem lại thọ mạng. Vị Thánh đệ tử muốn có thọ mạng cần phải thực hành con đường dẫn đến thọ mạng. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến thọ mạng, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh được thọ mạng, vị ấy nhận lãnh được thọ mạng hoặc Chư Thiên, hoặc loài Người.

Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có dung sắc, không có thể do cầu xin dung sắc hay tán thán để làm nhân đem lại dung sắc. Vị Thánh đệ tử muốn có dung sắc cần phải thực hành con đường dẫn đến dung sắc. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến dung sắc, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh được dung sắc, vị ấy nhận lãnh được dung sắc hoặc Chư Thiên, hoặc loài Người.

Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có an lạc, không có thể do cầu xin an lạc hay tán thán để làm nhân đem đến an lạc. Vị Thánh đệ tử muốn có an lạc cần phải thực hành con đường dẫn đến an lạc. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến an lạc, sự thực hành ấy đưa đến vị ấy nhận lãnh được an lạc, vị ấy nhận lãnh được an lạc hoặc chư Thiên, hoặc loài Người.

Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có tiếng tốt, không có thể do cầu xin tiếng tốt hay tán thán để làm nhân đem đến tiếng tốt. Vị Thánh đệ tử muốn có tiếng tốt cần phải thực hành con đường dẫn đến tiếng tốt. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến tiếng tốt, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh được tiếng tốt, vị ấy nhận lãnh được tiếng tốt hoặc chư Thiên, hoặc loài Người

Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có được Thiên giới, không có do cầu xin Thiên giới hay tán thán để làm nhân đem đến Thiên giới. Vị thánh đệ tử muốn có Thiên giới cần phải thực hành con đường dẫn đến Thiên giới. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến Thiên giới, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh được Thiên giới, vị ấy nhận lãnh được Thiên giới.

(Kinh Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Vua Munda)

Sống trường thọ khỏe mạnh, nhan sắc xinh đẹp, an vui hạnh phúc, tiếng tốt đồn xa, sau khi hết đời sống này được tái sinh hưởng phước báo thù thắng cõi trời là mong ước chính yếu của con người. Ai cũng ước mơ mong muốn như vậy, nhiều người không biết thường van xin cầu nguyện trời, Phật ban cho mình được toại nguyện mà không biết gieo nhân tốt thì làm sao gặt quả như ý.

Suy nghĩ và cảm xúc của con người luôn thay đổi và chịu tác động nhanh chóng bởi các sự kiện xung quanh. Ví dụ, khi nhận được một thông tin tốt đẹp có lợi cho mình, thì lập tức ta có thái độ hoan hỷ vui vẻ, lạc quan. Ngược lại, nếu nhận được tin xấu, ngay khi ấy chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu, buồn phiền, bực bội và có thể nóng nảy với những người khác.

Theo luật nhân quả, thành công hay thất bại đều có nguyên nhân sâu xa của nó. Nếu chúng ta muốn có được nhiều kết quả tốt đẹp thì phải biết gieo nhân thiện ích giúp người, cứu vật.

Nhân sống trường thọ khỏe mạnh là không giết người, giết vật làm khổ chúng sinh. Chẳng hạn như các đấng mày râu muốn cho thân thể cường tráng khỏe mạnh, tinh thần thông minh, sáng suốt mà lại giết hại sinh vật uống rượu say sưa, thức cả đêm mà vui chơi hoan lạc, gây cái nhân bịnh hoạn thì thử hỏi làm sao được khỏe mạnh, sáng suốt và nhan sắc xinh đẹp được.

Ai muốn cho thân thể khỏe mạnh, tâm sáng suốt, dung nhan dễ nhìn thì phải sống có chừng mực, biết cách ăn uống điều độ, làm việc, vui chơi, giải trí, biết sắp xếp thời gian nghỉ ngơi, tịnh dưỡng đễ giữ thân tâm trong sạch, lành mạnh.

Còn các cô thiếu nữ đại diện cho phái đẹp, ai cũng muốn trẻ đẹp, tươi vui, vậy mà lúc nào cũng nhăn nhó, quạu quọ, buồn giận hoài, rồi sinh tâm ganh ghét, tật đố, tham chấp đủ thứ thì thử hỏi làm sao vui tươi, trẻ trung, yêu đời cho được.

Phái nữ muốn trẻ trung, đẹp đẽ, duyên dáng thì phải sống vui vẻ, lành mạnh, nhờ vui vẻ, hồn nhiên nên mới tươi tắn, mà đã vui thì ít ganh ghét, hờn giận, nhờ vậy mà giảm bớt phiền muộn, khổ đau. Vậy nếu có ai lỡ làm phiền một chút thì nên hoan hỷ bỏ qua, đó là ta biết tạo nhân vui vẻ, trẻ trung, yêu đời mà làm tròn bổn phận trong gia đình, và phục vụ tốt cho xã hội.

Bằng ngược lại, ta cứ buồn thương, giận ghét, hết phiền muộn người này lại ghét bỏ người kia, mà oán ghét, giận hờn thì lòng ta đâu có an ổn, nhẹ nhàng. Cho nên, ta ăn không ngon, ngủ không yên, đó là cái nhân dẫn đến thân bệnh hoạn, tiều tụy, hốc hác, và tâm hồn bị dằn vặt bởi bám víu vào những cái được mất, hơn thua, giận hờn nên sống trong đau khổ, lầm mê.

Muốn được sống an vui, hạnh phúc thì phải biết buông xả, không chấp trước dính mắc và nhẫn nhịn nhường mỗi khi có việc không hài lòng vừa ý, biết cảm thông và tha thứ, biết bao dung và độ lượng, không có tâm ganh ghét, tật đố hại người khác.

Muốn được danh tiếng tốt đồn xa, trước tiên phải có giới đức, tu tập thiền định và sẵn sàng bố thí cúng dường, giúp đỡ sẻ chia khi có nhân duyên.

Người Phật tử chân chính phát tâm giữ giới không sát sinh hại vật, không gian tham trộm cướp, sống chung thủy một vợ một chồng, không nói dối hại người và dùng các chất gây say sưa như rượu, xì ke ma túy và các chất độc hại khác. Nhờ giữ giới giúp chúng ta không sa đọa vào hố sâu tội lỗi để không làm tổn hại người, vật nên được các bậc hiền trí tán thán khen ngợi và mọi người mến thương yêu thích.

Thiền định giúp ta biết cách buông xả tham sân si và bình tĩnh sáng suốt trong việc đối nhân xử thế và biết cách vượt qua chướng duyên nghịch cảnh để làm mới lại chính mình.

Bố thí giúp ta phát triển tâm từ bi rộng lớn để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh của người khác. Nhờ vậy tiếng lành đồn xa, được mọi người yêu thích mến thương, bằng tình người trong cuộc sống.

Và cuối cùng sau khi chết được tái sinh vào các cõi trời để hưởng phước báo thù thắng, do gieo nhân tốt hiện đời nên gặt quả an vui hạnh phúc về hai phương diện vật chất lẫn tinh thần.

Nếu ta biết rõ ràng, gieo nhân ác sẽ đưa tới quả xấu thì chúng ta tìm cách tránh xa không nên làm, đừng muốn một đàng mà lại làm một nẻo. Thế nên, ta muốn được an vui, hạnh phúc thì ngay bây giờ, mình phải biết giữ giới, thiền định, bố thí và buông xả những tập nghiệp gây đau khổ cho người, vật.

Hiểu như vậy, chúng ta mới thấy việc tin sâu nhân quả, giúp chúng ta nhìn đúng lẽ thật mà được sống trường thọ, khỏe mạnh, hình tướng trang nghiêm dung sắc xinh đẹp, tiếng lành đồn xa và sau khi ra đi được tái sinh vào các cõi lành.

Đức Phật xác định rõ ràng: “Mọi người muốn gặt hái được kết quả tốt đẹp, không phải do nhân mơ ước và van xin cầu nguyện mà có được” năm món yêu thích kể trên. Nhân quả rất chính xác và công bằng khi hội đủ nhân duyên. Gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Muốn có phước báo thì phải làm phước, tích phước, vun bồi cội phước. Van xin cầu nguyện suông, không thể nào đem lại kết quả tốt đẹp, do trái ngược với luật nhân quả.

Cũng như đem hai chiếc bình, một bình đựng đá cuội và một bình đựng dầu đổ xuống hồ nước, dầu nhẹ thì nổi lên và đá nặng thì chìm nghĩm. Dù chúng ta cố gắng tập trung cầu nguyện cho đá nổi, và muốn cho dầu chìm cũng không thể được. Bản chất của đá thì nặng nên phải chìm, bản chất của dầu thì nhẹ hơn nước nên phải nổi.

Người đã tạo nghiệp thập ác mà muốn sinh về cõi lành thì không thể được, ngược lại người đã gieo trồng mười điều thiện dù có trăm ngàn người cầu cũng thể xuống địa ngục được, vì nhân quả rất công bằng và bình đẳng.

Cho nên, người Phật tử chân chính không nên van xin cầu nguyện suông, mà hãy hành động bằng việc làm tốt của mình. Người tin sâu lý nhân quả sẽ có tinh thần trách nhiệm cao, biết căn nhắc lựa chọn khi muốn làm một việc gì và tránh xa nhân xấu ác.

Nếu ta lỡ tạo nhân xấu rồi thì sẵn sàng can đảm chấp nhận quả xấu một cách gan dạ, không sợ sệt, không đổ thừa hay lẩn trốn. Vì không tin  nhân quả nên ta mới có thái độ tránh né, chối cãi, phủ nhận sự thật rồi tiếp tục làm tổn hại người khác.

Phật dạy: Tất cà mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này, nếu đem ra khảo sát thật kỹ, chúng ta sẽ thấy không một sự vật nào thoát ra ngoài lý nhân quả. “Thấy quả biết nhân, thấy nhân biết quả” là tinh thần thực tiễn rất khoa học, không mơ hồ, không thêu dệt hay ảo tưởng quá đáng.

 

Đạo Phật là đạo của con người, đạo Phật là đạo của tình thương, là đạo của tỉnh thức, vì đạo Phật luôn giúp cho con người giải quyết được mọi sự nên hư, tốt xấu, thành bại trong cuộc đời là do mình tạo lấy, nhờ vậy ta sẽ tránh ác làm lành, để sống an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

 

Hiểu và ứng dụng lý nhân quả vào trong đời sống hằng ngày, chúng ta sẽ tự tin nơi chính mình, không ỷ lại vào một đấng quyền năng nào có thể ban phước, giáng họa cho con người. Trong đời sống này, khổ hay vui đều do mình tạo lấy, mình làm lành được hưởng phước, người làm ác phải chịu khổ đau, ta không thể đổ thừa và quy trách nhiệm cho ai cả. Chính con người là thượng đế tối cao của con người. Con người có quyền quyết định mọi vấn dề trong cuộc sống và có quyền làm chủ mọi hành vi từ thân, miệng, ý.

 

Giáo lý nhà Phật từ thấp tới cao, từ đạo làm người cho đến đạo hiền Thánh đều dựa trên nền tảng của nhân quả, vì vậy trong cuộc sống của chúng ta ai không thấu hiểu lý nhân quả thì sự tu hành của mình khó mà đạt được kết quả viên mãn.

 

Vậy nhân quả là gì? Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả, tuy nhiên  nhân quả rất đa dạng và phức tạp. Có loại nhân quả gần, nghĩa là khi ta làm điều gì thì có kết quả liền trong hiện tại, không phải chờ đợi lâu xa. Như khi đang đói bụng, ta ăn cơm vào thì liền là no, ta gọi là nhân nào quả nấy.

 

Có những nhân nếu ta gieo trong hiện tại, thì một thời gian dài từ năm bẩy tháng cho đến vài ba năm mới cho ra kết quả. Còn có những nhân ta gieo tạo thì phải trải qua một đời, hai đời hoặc vô số kiếp về sau thì quả mới trổ ra. Và có điểm đặc biệt là khi chúng ta gieo nhân mà không có kết quả do thiếu những duyên phụ hoặc ta tu hành quá tinh tấn nên nhân xấu không đủ sức trổ quả.

 

Một ví dụ, ta có thể gieo ba thứ hạt giống cùng một thời gian như cây lúa, cây chuối, cây mít đồng thời ta chăm sóc kỹ càng nhưng kết quả cho ra không cùng một thời gian. Cây lúa khi gieo xuống thì từ ba tháng cho đến sáu tháng có kết quả, cây chuối phải từ sáu tháng đến một năm, còn cây mít ít nhất phải từ hai năm trở lên, đó là nhân quả thuận chiều theo nhân duyên. Nhưng có những nhân mà ta đã gieo lại không có kết quả, nửa chừng cây bị chết hoặc bị trường hợp rủi ro khác.

 

Chính vì vậy đạo Phật rất chú trọng đến vấn đề nhân quả nghiệp báo, nó là một nguyên lý giúp cho con người ý thức và chịu trách nhiệm về  những hành vi tạo tác của mình trong đời sống hiện tại.

 

Người Phật tử tại gia cần phải hiểu thấu lý nhân quả một cách tường tận rõ ràng, rồi lấy đó làm kim chỉ nam, làm phương châm tu hành để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ bằng trái tim hiểu biết.

 

PHẬT DẠY TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP

Từ lâu, chúng ta thường nghe nói gieo nhân nào thì chịu quả nấy, có nghĩa là ai tạo nhân gì thì phải thọ quả báo đúng như vậy, như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.

Nhưng, nếu trước kia khi chưa biết tu ta đã lỡ gây nhân xấu ác, thì bây giờ chúng ta tu có được lợi ích gì, vì nhân nào quả nấy? Tu là để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc, nếu gây nhân nào phải chịu quả nấy thì tu làm sao hết khổ? Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa đơn giản, thông thường thì sẽ thối Bồ-đề tâm, vì có tu cũng chẳng chuyển được quả xấu. Lý nhân quả của đạo Phật rất đa dạng và phức tạp, nhưng không cố định một chiều mà có thể thay đổi được, tùy theo khả năng tu của chúng ta.

Trong Kinh A Hàm Phật dạy: “Người gây nhân bất thiện, trước hoặc sau họ biết tu thân, tu giới, tu tâm thì quả sẽ đổi thay. Nếu người gây nhân bất thiện mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm thì gây nhân nào sẽ thọ quả nấy. Đó là nhân nào quả nấy và gây nhân mà biết chuyển nghiệp thì quả cũng đổi thay”.

Nói xong, Phật đưa ra một ví dụ để chứng minh nhân quả xấu có thể thay đổi được, một nắm muối nếu hòa tan trong ly nước lạnh thì ly nước ấy sẽ mặn không thể uống được. Cũng nắm muối đó, nếu hòa tan trong bình nước lớn có sức chứa khoảng hơn trăm lít, thì nước trong bình sẽ uống được, nhưng vị nước hơi mặn mặn. Và nếu nắm muối đó được hòa tan trong một ao nước lớn gấp năm mười lần bình kia, nước sẽ không còn mặn, chúng ta có thể dùng xài bình thường.

Nhân xấu ác là dụ cho vị mặn của nắm muối hòa tan trong ly nước nhỏ thì quả cũng mặn không giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong bình nước lớn hơn gấp trăm lần thì vị mặn sẽ bị loãng ra, nước có thể tạm dùng giải khát được. Nếu nhân mặn của mắm muối hòa tan trong ao nước lớn, thì nắm muối không thấm vào đâu, nước có thể dùng xài bình thường.

Cũng lại như thế, người mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm khi tạo nhân xấu ác thì trả quả ác nguyên vẹn dụ như nắm muối được hòa tan trong ly nước nhỏ, bởi vì lượng muối và nước tương đồng nên không giải khát được.

Nếu người biết tu thân, tu giới thì dụ như nắm muối tan trong bình nước lớn, tuy có chút vị mặn nhưng cũng có thể tạm dùng qua ngày được.

Còn nếu chúng ta biết tu thân, tu giới, tu tâm dụ như nắm muối được hòa tan trong ao nước to, bởi muối quá ít so với lượng nước quá nhiều, nên chúng ta có thể dùng xài bình thường.

Chính vì vậy, khi lỡ làm ác mà chúng ta biết tu thân, thì nhân quả xấu, sẽ được chuyển mà không thọ đúng như khi gieo nhân. Nếu khi gây nhân ác chúng ta biết tu thân, tu giới thì sẽ chuyển nghiệp thọ quả báo nhẹ hơn. Còn khi gây nhân ác mà biết tu thân, tu giới, tu tâm thì gần như chuyển quả xấu hoàn toàn. Cho nên tu là chuyển nghiệp, là chuyển hóa khổ đau thành an vui, hạnh phúc.

Nếu hiện tại mà chúng ta tu vẫn trả quả xấu như cũ, thì tu như thế có lợi ích gì? Cho nên chúng ta phải biết, tu có thể chuyển quả xấu, tuỳ theo khả năng tu nhiều hay ít mà quả sẽ thay đổi. Khi biết tu thì quả liền chuyển, không cố định như mọi người thường lầm tưởng số phận đã an bài, không thể thay đổi được. Vậy thế nào là tu thân, tu giới, tu tâm?

Tu thân là nơi thân này không làm các việc xấu ác, tất cả mọi việc xấu ác dù lớn hay nhỏ chúng ta đều phải tránh, còn việc gì có lợi ích cho nhiều người thì ta phải cố gắng làm, như vậy là ta biết tu thân. Tu thân chỉ đơn giản là như thế, ai cũng có thể tu được.

Còn tu giới là sao? Người Phật tử tại gia, sau khi thọ giới quy y rồi, Phật dạy phải giữ tối thiểu từ một giới cho đến năm giới:

1- Không sát sinh hại vật: Trước tiên là không được giết người, vì ai cũng tham sống sợ chết, nếu giết người thì mạng phải đền mạng theo luật pháp xã hội. Đó là lẽ công bằng về nhân quả giết hại.

Ngoài ra, chúng ta phải hạn chế tối đa đối với những con vật lớn như trâu bò heo chó gà vịt…. cho đến khi nào ta giữ được hoàn toàn, vì giới này chủ yếu là cấm người xuất gia, còn người tại gia chính yếu là không được giết người.

Giết hại sẽ thành tội bằng ba cách: Một là tự tay mình giết. Hai là xúi bảo người khác giết. Ba là hoan hỷ vui vẻ khi nghe thấy người khác giết hại. Như thế là phạm tội sát sinh hại vật. Vì tự tay chúng ta giết là thân tạo nghiệp xấu ác, xúi bảo người giết là miệng tạo nghiệp xấu ác, khi nghe thấy người khác giết, chúng ta sinh tâm vui mừng là ý tạo nghiệp ác, nên Phật chế giới để giúp quý Phật tử không phạm tội giết hại.

2- Không được giam tham trộm cướp lường gạt của người khác: Từ một cây kim cho tới ngọn cỏ nếu không được sự cho phép của người mà ta tự lấy là phạm tội trộm cướp. Trộm là lén lấy, cướp là công khai giành giựt lấy trước mặt mọi người. Cho nên trộm hay cướp giựt, hoặc lừa gạt để mà lấy, cho đến trốn thuế cũng đều gọi là trộm cướp.

3- Không tà dâm: Người Phật tử khi lớn khôn có quyền lấy vợ lấy chồng theo luật pháp nhà nước cho phép tuổi từ 18 trở lên, nếu dưới 18 tuổi mà tự ý lấy nhau là phạm luật sẽ bị tội, tùy theo mức độ nặng nhẹ mà có biện pháp xử lý thích hợp.

Nếu sau khi lập gia đình rồi mà mình còn đi ngoại tình với người khác là phạm tội tà dâm. Vì đó là nguyên nhân gây mất hạnh phúc gia đình người khác, làm cho gia đình tan vỡ, là nhân gây đau khổ cho mình và gia đình người, chính vì lòng từ bi thương xót chúng ta mà Phật cấm.

4- Không nói dối hại người: Nói dối có bốn trường hợp phạm tội.

Chuyện có nói không, chuyện không nói có, cốt để lừa gạt lấy tiền của người khác. Nói lời nặng nề hoặc mắng chửi, vu oan giá họa cho người. Dùng lời nói ngọt ngào để dụ dỗ người khác. Nói đâm thọc làm cho đôi bên bất hòa thù oán nhau, đến người này nói xấu người kia và ngược lại.

Đó là những trường hợp nói dối thì phạm tội theo luật nhân quả công bằng. Nếu chúng ta nói dối để giỡn chơi, hoặc để trấn an người đang bệnh  khổ, hoặc để cứu mạng người thì không phạm tội.

5- Không uống rượu say sưa dẫn đến mất lý trí hiếp dâm người là có tội: ngoài ra các thứ như á phiện, xì ke, ma túy đều không nên dùng, vì nó là  nhân sinh ra bệnh hoạn, bị nghiện không bỏ được, làm cho hao tài tốn của, hủy hoại tài sản một cách nhanh chóng, mất hết lý trí sáng suốt và có thể trong phúc chốc tạo tội trộm cắp hay cướp giựt của người khác để thỏa mãn cơn ghiền. Nhưng, nếu vì lý do bệnh tật, bác sĩ cho phép uống thuốc rượu để trị bệnh thì không phạm giới.

Phật dạy: Người Phât tử chân chính phải giữ gìn năm giới vì lòng từ bi, sợ chúng ta vi phạm thì bị quả báo xấu ác, làm khổ đau cho mình và người khác. Cho nên, nếu ai giữ tròn năm giới thì sẽ được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Đó là chúng ta biết tu giới.

Vậy, chúng ta tu tâm như thế nào?

Tâm ở đây có hai phần tâm vọng và tâm chơn. Tâm vọng là chỉ cho mọi ý niệm xấu ác như tham lam, sân hận, si mê, ganh ghét tật đố... Tu tâm có nghĩa là chuyển hóa những tâm miệm xấu ác trở về cái gốc ban đầu là tâm Phật như như.

Tham thì ai cũng có, và có nhiều loại như tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham ăn uống, tham ngủ nghỉ... Ăn uống là nhu cầu hằng ngày không thể thiếu của con người, nếu ăn dở quá chúng ta sẽ không vui, nếu ăn không no thì ta cũng không chịu, ăn thì muốn cho ngon miệng và cho no đủ. Ngủ thì phải ngủ cho đủ giấc, nếu bắt ta dậy sớm để làm việc thì cảm thấy bực bội khó chịu. Chính vì vậy, chúng ta lúc nào cũng kẹt trong vòng tham muốn quá đáng, đó là căn bệnh thâm căn cố đế của nhiều người. Tu tâm là chúng ta dẹp bỏ lòng tham lam, sân giận và si mê của mình.

Tuy nói là tu thân, tu giới, tu tâm để cho người tu được phần nào đỡ phần đó, chứ thật ra chủ yếu vẫn là tu tâm. Nếu tu tâm không khởi nghĩ làm việc ác thì miệng đâu nói lời khó nghe và thân sẽ không hành động hại người. Như vậy tu tâm vẫn là trên hết, vì tâm là chủ của bao điều họa phúc.

Cho nên nói nhân nào quả nấy là chỉ cho những người không chịu tu, vì họ chấp nhận số phận đã an bài nên càng tạo nghiệp xấu nhiều hơn, người biết tu thì sẽ thay đổi được nhân quả xấu, tùy theo khả năng tu cao hay thấp mà thôi.

Nếu người lỡ nghiện rượu say sưa hay mắng chửi đánh đập vợ con, vì yếu đuối mà không dám chừa bỏ nên cuối cùng bị tan nhà nát cửa, dẫn đến tù tội, do vi phạm luật hôn nhân gia đình. Người có ý chí khi lỡ nghiện rượu rồi được người khác khuyên nhủ, uống rượu có hại sức khỏe, hao tiền tốn của tinh thần không sáng suốt và làm cho vợ con khốn khổ, gia đình không hạnh phúc.

Khi nghe lời khuyên, họ chợt tỉnh và hiểu ra rằng, sự tác hại của uống rượu rất lớn lao mọt khi không làm chủ bản thân, nên từ đó bỏ rượu chè be bét và biết làm ăn đàng hoàng. Tuy lúc mới bỏ hơi khó chịu, hơi vật vã một chút, nhưng ta cố chịu một thời gian rồi sẽ qua, và sống bình thường thoải mái trở lại.

Chúng tôi xin đưa ra một ví dụ để mọi người dễ hiểu, thuở xưa anh Ngang hay chửi bới làm cho anh Nhẫn tức giận. Nhưng vì anh Nhẫn yếu thế hơn nên mới ôm giận trong lòng, mà chờ ngày trả thù. Sau đó anh Ngang hết thời làm ăn bị thất bại, anh Nhẫn lúc này làm ăn được khấm khá hơn trước và làm chủ một công ty nỗi tiếng.

Lúc này anh Nhẫn có cơ hội trả thù nên tìm cách mắng nhiếc hạ nhục anh Ngang trước mặt mọi người, tuy nhiên trong thời gian thất bại anh Ngang hồi tâm quay đầu về Phật pháp, nhờ vậy có chút công phu tu hành.

Anh Nhẫn lúc này cho người đến kiếm chuyện mắng chửi anh Ngang một cách thậm tệ, thiếu điều muốn vu oan giá họa, nhưng lúc này anh Ngang biết tu, nên nghe tiếng chửi như gió thoảng qua tai, không buồn phiền ai hết. Như vậy, nhân quả xấu nếu chúng ta biết tu tâm thì sẽ chuyển được nhân xấu khi trước, đó là một thực tế ít ai ngờ đến.

Ngày xưa nếu chúng ta tạo nghiệp ác, đáng lý ra phải trả bằng sự đánh đập, hay bị tù tội, hoặc bị tai nạn bất ngờ, nhưng nhờ biết tu nên chỉ bị mắng chửi hay bị mất mát chút ít tài sản.

Chúng ta hãy nên nhớ, tu là bỏ ác làm lành, khi bị chuyện mất mát đau thương đến với mình thì ta biết đó là nghiệp quá khứ còn rơi rớt lại, mà vững lòng tin can đảm chấp nhận chịu đựng, rồi chuyện gì cũng sẽ qua nhờ ta biết buông xả.

Cho nên khi phát tâm tu, nếu gặp người làm khó dễ, chúng ta không nên buồn giận mà phải còn khởi lòng từ bi thương xót họ nhiều hơn, như vậy là ta đã biết cách chuyển nghiệp xấu ác rồi, làm gì có chuyện cố định gieo nhân nào phải thọ quả nấy.

Khi gặp chướng duyên bên ngoài mà chúng ta biết chuyển hóa, không thọ nhận đó là ta biết tu và chuyển nghiệp xấu. Không phải tu là cầu nguyện suông, mà phải có người thử thách để có dịp coi lại mình đã làm chủ được bản thân chưa. Nếu thấy mình còn buồn giận nhiều, là biết ta tu chưa tiến được bao nhiêu.

Tinh thần nhân quả của đạo Phật rất đa dạng và phức tạp, vì nhân quả ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai không phải gây nhân nào chịu quả ấy như nhiều người thường lầm tưởng. Đối với người biết tu thì nhân quả sẽ thay đổi nhiều hay ít tùy theo khả năng tu tập của mỗi người. Cho nên Phật dạy: Tu là chuyển nghiệp phiền não khổ đau, thành an vui hạnh phúc.

Nếu ai biết giữ cho tâm mình được trong sạch, thì khi tham biết mình tham, khi giận biết mình giận, cho đến khi nào chúng ta thấy các tâm niệm xấu ác đã hết và cuối cùng ta xả luôn tâm niệm tốt, dù là niệm Phật hay Bồ-tát, ngay khi ấy thì tâm Phật hiện tiền.

Chúng ta phải nên nhớ bước đầu của tu tâm là buông xả niệm ác trước, kế đến là niệm thiện và trở lại pháp tu trung đạo là sống với tâm Phật sáng suốt mà thường biết rõ ràng, khi thấy chỉ là thấy, khi nghe chỉ là nghe, mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Đó là ta biết tu tâm, người chưa đủ sức thì phải tu thân, rồi tu giới và cuối cùng là buông xả hết tâm niệm tốt xấu, đúng sai, ta người mà sống với Phật tính sáng suốt của mình.

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

3.00

Tags

Không có tags cho bài viết này

Được quan tâm nhất

Previous
Next

Đăng nhập