Trần Gian Này Khổ Hay Vui?

Đã đọc: 6071           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Hiểu sâu sắc quy luật duyên sinh và nhân quả, con người sẽ hạn chế được rất nhiều nỗi khổ, niềm đau xảy ra cho mình và người khác. Nếu chúng ta bớt tham lam thì không có khổ của sự mong cầu quá đáng, bớt ái ngã thì không có khổ khi xa lìa người thân.

Đạo Phật nói cuộc đời là biển khổ mênh mông không có ngày thôi dứt, vì nhân loại lúc nào cũng đấu tranh giành giựt chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên để rồi giết hại lẫn nhau, lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu. Con người đau khổ bởi sinh già bệnh chết, tâm đau khổ vì phiền não tham sân si, mạn, nghi, ác kiến.

Trong gia đình khổ vì phải làm việc vất vả nhọc nhằn để lo cơm áo gạo tiền, rồi thương yêu xa lìa khổ, oán ghét mà gặp nhau hoài lại càng khổ hơn, rồi mong cầu mà không được cũng khổ, thân ốm yếu hoặc sung mãn quá cũng khổ.

Nghèo cùng với bao nỗi thiếu thốn khó khăn, khổ là lẽ đương nhiên nhưng người giàu sang phú quý vẫn có những nỗi khổ niềm đau riêng. Ngoài xã hội lại khổ vì đấu tranh, giành giựt, hơn thua, phải trái, cứ như thế oán giận thù hằn ngày càng thêm chồng chất, còn hoàn cảnh phải khổ về thiên tai, sóng thần, động đất, bão lụt, hạn hán, mất mùa, dịch bệnh tràn lan, vì sự ngu si mê muội của con người.

Chúng ta thường nghe người đời than thở: Trời ơi, tại sao tôi khổ quá vậy nè? Ông trời ngó xuống mà coi làm sao cho tôi hết khổ nè, trời ơi! Người đời thường trách đất kêu trời than khổ đủ thứ chuyện, vì nghèo khó, vì bệnh tật, vì thất nghiệp, vì thất tình, vì mất mát, vì chia lìa. Tuy nhiên, cũng có không ít người giàu có, khỏe mạnh, có sự nghiệp, có tình yêu, nhưng vẫn kêu khổ, khổ ơi là khổ! Người già than khổ đã đành, người trẻ cũng lại than khổ! Người ngu dốt than khổ, kẻ thông minh cũng than thở đủ thứ chuyện! Nói tóm lại, già trẻ lớn bé, mỗi người đều có nỗi khổ niềm đau riêng.

Khổ là sao?

 

Khổ là sự khó chịu, bất như ý, không toại nguyện, là trạng thái tâm lý trái ngược lại với vui vẻ, sung sướng, hạnh phúc, thoải mái, dễ chịu, hài lòng, lạc quan và thỏa mãn... Nỗi đau đớn, buồn phiền, lo lắng, sợ hãi, bất mãn, thất vọng, tuyệt vọng, đau nhức... đều được xem là khổ.

 

Chúng ta thường nghe nói "có thân là có bệnh", hay nói cho rõ ràng hơn "có thân phải khổ vì thân”, chính vì thế ta cũng đừng trách tại sao phải như thế, con người đều khốn khổ vì mang thân bệnh.

 

"Khổ vì thân" có hai loại chính: bệnh khổ và tai nạn khổ, còn vô số cái khổ khác cũng làm cho con người ta điên đảo từ chuyện nhức đầu, đau răng, cảm mạo cho đến những bệnh nan y do ảnh hưởng ô nhiễm của môi trường độc hại gây ra.

 

Như vậy, ai làm người cũng khổ vì thân hay bệnh khổ là điều tất yếu trên thế gian này. Nhưng, những cái khổ đó chưa quan trọng bằng cái khổ bởi vô minh trong nhiều đời gây ra, có nghĩa là không phân biệt được đúng sai, chánh tà, phải quấy, tốt xấu. 

 

Một người bình thường nhìn thấy người khiếm thị hoặc tật nguyền, họ nghĩ rằng nạn nhân chắc là thống khổ lắm, nếu nạn nhân đó bị bẩm sinh thì họ cũng có cảm giác bình thường như bao người bình thường khác về thân thể. Nếu người đang mù bổng nhiên được chữa trị, cặp mắt sáng lại thì họ có cảm giác sung sướng hơn người đang bình thường. 

 

Chính vì vậy một người đang sáng mắt và một bệnh nhân được chữa lành mắt sáng, cảm thọ của hai người khác nhau, là do sự tác động tâm lý mà có. Nếu thân vật lý không bị tác động bởi trạng thái tâm lý thì cái gọi là khổ của thân vật chất chưa hẳn là thật khổ.

 

Cuộc sống của chúng ta có quá nhiều nỗi khổ niềm đau, luôn luôn bám víu vào thân phận con người. Khổ về bản thân như đau ốm bệnh tật, già nua. Khổ vì người thân trong gia đình bị mất mát chia lìa. Khổ vì vợ chồng không cảm thông và tha thứ cho nhau nên dẫn đến ly dị. Khổ vì con cái bụi đời nghiện ngập hút sách bê tha hư hỏng. Khổ vì phải làm việc nhọc nhằn, vất vả để lo cho gia đình người thân: Như lo ăn, lo uống, lo mặc, lo chỗ ăn ở, lo nghèo giàu đủ thứ…

 

Khổ vì hoàn cảnh như chiến tranh, thiên tai lũ lụt, hạn hán, mất mùa, dịch bệnh. Khổ vì thi rớt, vì thất tình, vì của cải bị phá sản, vì thua bài bạc bán hết gia tài, vì bị giựt hụi mất hết một số tiền lớn .v..v. Luận về những nỗi khổ ở đời, thì bất cứ ai cũng có những nỗi khổ niềm đau của riêng mình. Thực khó mà kể ra cho hết được.

 

Khổ được biểu hiện qua phần thân và tâm. Cơ thể đau nhức là nỗi khổ ở thân này, chẳng hạn như cảm giác đau đớn do bệnh tật hay tai nạn, và cảm thấy khó chịu do nóng lạnh, đói khát. Tâm đau khổ như bất mãn, phiền muộn, buồn rầu, lo lắng, sợ hãi, bất an bởi những thứ không được hài lòng vừa ý.

TRÊN ĐỜI NÀY CÁI GÌ LÀ KHỔ NHẤT?

Khi Phật còn tại thế, đệ tử lớn là A Na Luật cùng 4 vị đồng tu mới ngồi lại thảo luận với nhau về đề tài: Trên đời này cái gì là khổ nhất?

 

Một thầy tỳ kheo nói: “Con người khổ nhất là do lòng tham dục phát sinh quá đáng, khi sự tham dục không được thỏa mãn, con người sẽ cảm thấy  khổ đau, nó có thể dằn dặc hành hạ mình ghê gớm, nhiều người chịu không nỗi phải quyên sinh tự tử”.

 

Thầy tỳ kheo khác lại nói: “Trong cuộc sống, khổ nhất là không được ăn uống no đủ, sự thèm khát trong thiếu thốn, làm cho con người ta khốn khổ không gì có thể so sánh được”.

 

Thầy thứ ba không chịu nên nói: “Con người khổ nhất là khi tức giận, oán thù một ai đó, mặt mày trông dữ tợn hiện tướng bốc lửa từ ánh mắt, ngay khi sân giận đó đã làm cho tâm khổ não bất an”.

 

Một thầy khác lại nói: “Con người khổ nhất là nỗi sợ hãi trước các loài cầm thú hoặc sự khủng bố của con người, không có một giây phút nào cảm thấy bình an”.

 

Đúng lúc ấy Phật trên đường hoằng hóa độ sinh, ghé lại thăm các đệ tử của mình, họ mới trình bày quan điểm của mỗi thầy “cái gì là khổ nhất”. Phật nghe xong mới nói: “Các con đều chưa nói được cái gốc của khổ, tất cả những điều các con nói chỉ đúng một phần thôi, giống như người mù sờ voi vậy, mỗi người đều chỉ nói đúng một phần.

 

Trong số các con, có người từng là chim bồ câu tái sinh, cho nên nói rằng tham dục là khổ; có người kiếp trước làm con chim ưng bị đói khát nên cho rằng sự đói khát là khổ, có người là rắn độc tái sinh nên nghĩ sân hận là khổ não, có người kiếp trước là thỏ nên luôn cảm thấy sợ hãi là khổ. Tất cả từ con người cho đến loài có tình thức đều phải chịu sự chi phối của sinh già bệnh chết, nên đau khổ vô cùng tận không luận là giàu nghèo hay sang hèn.

Hình ảnh quen thuộc hàng ngày của người nông dân khắp tất cả ba miền đất nước, ta thường bắt gặp những hình ảnh giản dị qua cuộc sống. Đi làm đồng về, người chồng dựng vội cái cày, cái cuốc, với bình trà xanh, trong khi bà vợ tất tả ném vội nắm thóc cho đàn gà, rồi bước vào chuồng heo để tẩy uế và tắm mát cho chúng.

Trong những vật nuôi trong nhà, trâu, bò, ngựa, heo, chó, mèo, gà, là những con vật không thể thiếu ở nông thôn. Họ lý giải chức năng của chúng thật chặt chẽ, rõ ràng. Con trâu, con bò cày ruộng, con ngựa kéo xe, con chó giữ nhà, con mèo bắt chuột, con gà chạy lăng xăng, bươi mỗ kiếm chút đồ thừa thải.

Ngày xưa, có gia đình nọ làm nghề nông, trong nhà có nuôi một con trâu, hai mẹ con nhà ngựa, một con chó, một đàn heo và cùng với đàn gà dăm ba chục con.

 

Mỗi ngày, trâu ra đồng cày bừa từ sáng sớm đến chiều tối mới về, còn chó ta chỉ việc nằm phè ở nhà dòm chừng trong ngoài trước sau. Trời còn chạng vạng tối tiếng gà gáy sáng đã báo thức mọi người dậy, để chuẩn bị cho công việc một ngày mới bắt đầu.

Một hôm, trâu đi cày về, thấy chó nằm dài trước cửa nhà, mắt nhắm lim dim trông thật nhàn hạ, thoải mái, sung sướng làm trâu ganh tị, tức tối, muốn điên lên, bèn nói lời mỉa mai rằng: “chú chó nhà mày thật hạnh phúc quá, ăn rồi chỉ đi loanh quanh, lẫn quẩn trong xó nhà, lúc nào làm biếng thì nằm phè ra đó. Mày thật là có phước nhất nhà này”.

Chó nhà ta nghe trâu nói lời hậm hực, nặng nhẹ mình thì buồn bã trong lòng, nghĩ rằng trâu tuy to xác nhưng không có chút trí tuệ nào, mới phát ra những lời lẽ so đo ganh tỵ như thế.

Chó bèn nói với trâu rằng: “này anh trâu ơi, anh không thể nào hiểu hết hoàn cảnh của tôi đâu, tôi nào có sung sướng hạnh phúc gì như anh tưởng. Anh tuy làm lụng vất vả, nhọc nhằn ngoài đồng ruộng, nhưng còn có thời gian để nghỉ ngơi. Còn tôi, tuy nằm canh cửa giữ nhà trông có vẻ nhàn hạ hơn anh, nhưng thật ra tôi rất mệt mỏi và căng thẳng lắm. Tôi tuy nằm lim dim mà trong lòng lúc nào cũng lo sợ phập phòng, cứ phải nơm nớp không yên vì sợ mất mát đồ đạc của ông bà chủ, không dám lơ là hay chểnh mảng một chút nào. Nếu ngủ quên hay sơ ý để xảy ra mất trộm, thì tôi khó mà sống được yên thân.

Đêm đêm, trong khi mọi người yên giấc ngủ ngon lành, thì tôi có được nghỉ ngơi gì đâu, tôi phải vểnh lỗ tai lớn ra để nghe ngóng, dòm ngó động tĩnh trước sau, đề phòng kẻ gian, hễ nghe có tiếng động gì thì phải sủa to lên để báo cho chủ nhà hay biết. Hôm nào, hai vợ chồng chủ nhà vui vẻ thì tôi được cho ăn no đủ một tí, khi hai người giận nhau hay buồn bực chuyện gì, họ đều trút đổ lên đầu tôi hết.

Họ đánh, họ đá, xua đuổi, chửi mắng tôi như là con chó ghẻ vậy đó. Mỗi khi gia đình, người thân của họ đến chơi mà tôi không biết, tôi sủa, họ chửi tôi là đồ ngu dốt, “bộ mày mắt đui hả? Bạn bè họ đến chơi thì không sao, còn bạn bè tôi đến chơi thì bị họ chửi rủa, đánh đập đuổi đi. Anh trâu à, anh thử suy nghĩ coi, anh và tôi ai sướng hơn ai?”.

Trâu nhà ta nghe nói vậy mới hiểu được hoàn cảnh khổ tâm của chó, nên trong lòng rất ăn năn và hối hận vô cùng, bởi những lời nói xổ sàng, trịch thượng của mình.

Trâu ta liền xin lỗi chó: “đúng là mày còn vất vả khổ sở hơn tao rất nhiều. Tao với mày tuy ở chung một nhà, mà chưa có một lần nào được trò chuyện tâm tình, nên mới hiểu lầm mà trách móc lẫn nhau. Bây giờ tao đã hiểu hết nỗi khổ niềm đau của mày rồi, tao nghe mày nói tao mới biết, cả hai chúng ta đều khổ cả, chẳng ai sung sướng gì đâu”.

Khi ấy, chó ta quay sang đàn gà đang chạy đùa tung tăng bươi móc tìm kiếm thức ăn mà ganh tỵ, đúng là lũ gà sướng thật vừa mới mở mắt ra, nó đã được bà chủ cho ăn bữa sáng bằng những hạt thóc được mẹ con nhà ngựa chở từ ngoài đồng về. Chó ta thèm chảy nước miếng thấy đàn gà vừa kiếm ăn, vừa đùa giỡn, anh ta vừa than thở, vừa ước ao, phải chi mình được sinh làm gà thì sướng biết mấy.

Chú gà trống đầu đàn nghe anh chó ước vậy, bèn quay sang nói rằng: Này anh chó, chúng tôi chả sung sướng gì đâu, tuy được ông bà chủ cho ăn và còn có nhiều thức ăn khác chung quanh sân vườn nhà. Nhưng mà chúng tôi cũng khổ lắm anh nhà chó ơi, ông chủ tôi nuôi gà trống để đi đá độ thỏa mãn thú tính tàn nhẫn, kích bác chúng tôi tàn sát nhau để bọn con người vui trong sự oán giận thù hằn của chúng tôi. Rồi con người nuôi gà để lấy trứng bán và ăn, lúc nào con người thèm khát thì chúng cắt cổ nhổ lông mần thịt để ăn uống vui chơi thỏa thích. Thật ra chúng tôi cũng khổ lắm anh chó ơi.

Trâu đang nghe lũ gà phân trần với chó, nó tự nghĩ rốt cuộc rồi con người nuôi các loài vật, mục đích chính là để gánh vác bớt công việc nặng nhọc cho con người và làm thức ăn nhằm bồi bổ thân này theo quan niệm trời sinh ra vạn vật, thật là quá tàn nhẫn?

Đang nghĩ vẫn vơ, trâu bỗng nghe tiếng chim hót ríu rít trên cành cây cao, nó nhìn lên thấy các chú chim vui đùa bên nhau mà hằng ước ao được như thế, rồi ngậm ngùi thương xót cho số phận của mình, chó và bọn gà, sao quá khổ sở nhọc nhằn, rồi tự than thở:

Bọn chim trời, cá nước thật là diễm phúc và sung sướng làm sao. Chúng có thể tự do, tự tại bay lượn, bơi lội đó đây mà không bị ngăn ngại, không bị ai giam cầm, quản thúc, không phải làm việc nhọc nhằn, vất vả, không phải chịu nỗi khổ, niềm đau của kiếp làm tôi mọi cho con người. Giá mà chúng ta, có được cuộc sống vui vẻ như các loài chim, cá thì vui sướng hạnh phúc biết chừng nào.

Khi ấy, một chú chim nghe lời trâu than vãn, bèn đáp lên lưng trâu mà nói rằng: “bác trâu ơi, bác đâu có biết, chúng cháu cũng chả sung sướng gì như bác nghĩ đâu. Tuy loài chim chúng cháu không phải trông nhà giữ cửa, không phải đi cày ruộng, không phải chịu cảnh tù túng bó buộc kèm kẹp của con người, nhưng chúng cháu cũng có nỗi khổ, niềm đau riêng của mình, bác trâu ạ.

Mạng sống chúng cháu luôn bị đe dọa từng ngày, chúng cháu lo sợ các chú chim lớn rình mò, chụp bắt đã đành, lại còn lo sợ những kẻ thợ săn có thể bắn chết chúng cháu bất cứ lúc nào không hay. Tổ của chúng cháu làm rất khó khăn, vất vả biết bao, chưa chắc đã ở được lâu ngày vì sự phá hoại của con người. Trứng chúng cháu sinh ra chưa kịp nở, thì đã bị con người lén lấy mất.

Loài người lúc nào cũng biết thương yêu, chiều chuộng con cái của mình, nhưng nào biết thương hại các loài vật đâu. Các chú, các bác chỉ bị hành hạ làm lụng khổ sở nhọc nhằn đôi chút, còn chúng cháu lúc nào cũng sống trong lo âu sợ hãi, vì loài người hay tìm cách tước đoạt mạng sống của chúng cháu nữa.

Các bác biết đó, đâu phải chết rồi là được yên thân, loài người tàn nhẫn hơn khi đem đi nhổ lông, vặt cánh, xẻ thịt, nấu nướng, làm đủ thứ các món thức ăn, thân thể chúng cháu bị tan nát rã rời. Loài người ỹ mạnh hiếp yếu, ỹ có trí khôn của mình nên mặc tình sát sinh, hại vật, nào có biết thương yêu, tôn trọng sự sống của muôn loài gì đâu.

Các chú, các bác có cái khổ của các chú, các bác, còn chúng cháu cũng có cái khổ của chúng cháu, sống mà cứ phập phòng nơm nớp lo sợ trong từng phút giây, sống được ngày nào thì mừng cho ngày đó. Thật ra, trên cõi đời này không có loài vật nào được sung sướng cả, nếu có cũng phải trả một giá rất đắc đối với loài người vô liêm sỉ đó”.

Bầy cá đang ở dưới nước, nãy giờ nghe bác trâu nói mình sung sướng, thoải mái quá, nên cũng không đồng ý mà vội vàng phân bua rằng: “Dạ, xin thưa với các bác, loài cá chúng con cũng không sung sướng hạnh phúc gì lắm đâu. Nhà cá chúng con thường bị loài người giăng lưới đánh bắt, mỗi lần bị sát hại chết đến cả hàng ngàn, hàng vạn con không sao kể hết tội lỗi của loài người.

Chúng con lúc nào cũng sống trong lo âu, sợ hãi. Loài người rất khôn ngoan và mưu ma chước quỷ. Nơi nào có chúng con ở là loài người dùng đủ mọi cách câu giăng, lưới bắt, tát cho bằng được. Cá lớn, cá nhỏ gì chúng đều lượm sạch ráo, chẳng tha con nào. Bắt bằng tay, bằng lưới không được thì loài người dùng điện chích, bỏ thuốc độc, để bắt cho được hết loài cá chúng con, các bác ạ”.

Rồi một chú ngựa con đang lui hui tìm chút cỏ non để cho qua cơn đói khát, bổng nhiên một mùi thơm phức, làm bao tử chú ngựa con cồn cào khó chịu, chú tò mò đến gần xem sự thể ra sao. Bầy heo đang nhốn nháo khi thấy con người mang thức ăn đến đổ vào máng, chúng tranh nhau táp phầm phập trông rất ngon lành, thoáng phút chốc các máng đều hết sạch, rồi mỗi con một chỗ nằm phè ra, ngủ say sưa.

 

Ngựa con nhìn thấy mà thèm chảy nước miếng, vừa buồn tủi, vừa giận trách loài người sao quá bất công, hai mẹ con ngựa làm lụng vất vả cả ngày mà chỉ ăn toàn cỏ khô, loài heo kia chẳng làm gì mà lại được ăn lúa mạch, bắp rang thơm phức.

 

Trong lòng bực bội, ngựa con tức tối về nhà tìm gặp ngựa mẹ hỏi cho ra chuyện mới được. “Mẹ ạ, sáng nay con vô tình đến chỗ nhà heo thấy chúng được ăn món ngon thượng vị, con nào cũng mập ú ù ra vẻ oai phong lẫm liệt, chẳng phải nhọc nhằn làm việc vất vả mà được ăn no đủ, tắm mát rồi nằm phè ra ngủ một cách ngon lành. Thật là sung sướng làm sao! Ước gì con cũng được như thế mẹ nhỉ”.

 

Nghe con mình nói như vậy, ngựa mẹ chẳng thèm trả lời mà bình thản, an nhiên gặm cỏ khô. Ngựa con ấm ức quá mới phân trần với ngựa mẹ, “mẹ à, sao loài người quá bất công để loài ngựa chúng ta phải nhọc nhằn gánh vác, chuyên chở hàng hóa, đưa người đón bạn, xông pha chiến trường, bảo vệ tổ quốc mà vào sanh ra tử, chịu lao khổ trăm bề, vậy mà thức ăn chỉ toàn cỏ khô và nước lã, chẳng công bằng tí nào. Loài heo chúng nó thật có phước quá, chúng chỉ ăn no rồi ngủ, ngủ dậy rồi ăn, chẳng phải làm gì cực nhọc mà thức ăn lại thơm ngon đáo để”.

 

Ngựa mẹ bảo, “con à, mỗi loài đều có phước báo riêng, con không nên vì thế mà than thân trách phận, chúng ta hãy chấp nhận cuộc sống hiện tại có gì ăn nấy, miễn sao tạm no đủ là được rồi, đừng vì muốn món ngon vật lạ mà khổ lụy trong hiện tại và mai sau.

 

Con muốn ăn loại thức ăn đó cũng không khó gì, nhưng con hãy ráng chờ thêm vài ngày nữa sẽ biết rõ được sự thật”. Tuy được nghe ngựa mẹ khuyên nhũ kiên nhẫn chờ đợi nhưng ngựa con vẫn còn tiếc nuối, vì nhớ lại hình ảnh ăn ngon, tắm mát, ngủ kỹ của nhà heo.

 

Vài ngày sau, bầy heo bị loài người trói gô lại tất cả, kêu la eng éc nghe thảm não vô cùng. Ngựa con nghe thấy bèn chạy đến xem sao. Thật là một cảnh tượng quá hãi hùng và khủng khiếp. Chú thấy một người đồ tể đi đến chỗ bầy heo đâm thẳng vào tim chúng làm máu chảy xối xả, kèm theo đó là những tiếng kêu la thảm thiết, đau thương.

 

Sau khi thọc huyết xong, họ đổ nước sôi lên khắp thân thể chúng rồi cạo lông nghe sồn sột, cuối cùng tất cả đều bị chặt đầu, mổ bụng, lột da xẻ thịt và cho lên xe chở đi.

 

Ngựa con bây giờ mới thức tỉnh liền nhanh chân bỏ chạy về nhà, vừa thấy mẹ chú ta liền nói, “mẹ à, giờ con đã hiểu ra rồi, con cám ơn mẹ rất nhiều”.

 

Ngựa mẹ bảo, “nghiệp duyên của chúng ta là ngựa thì mình phải có trách nhiệm vận chuyển hàng hóa, đưa đón con người, chuyên làm các việc nặng nhọc để tạo ra miếng ăn, sự sống cho loài người; chỉ chuyên tâm một điều làm việc nào biết việc đó. Loài ngựa chúng ta chấp nhận cuộc sống đạm bạc và rèn luyện trong gian khó, nếu sau này có sự cố gì ta còn có đủ khả năng để vượt qua. Con không thấy loài heo đó sao, chỉ vì ham ăn ngon, ngủ kỹ mà phải chịu quả khổ như vậy”.

 

Nếu nói về nhân quả thì loài heo trước kia đã từng gieo trồng phước đức, từng bố thí thức ăn thức uống cho nhân loại; nhưng đồng thời gieo nghiệp nhân giết hại do ngu si mê muội mà hiện đời hưởng phước báo ăn ngon, ngủ kỹ nhưng phải đoạ làm heo để bị giết hại trở lại.

 

Heo trong thời kỳ sơ khai lạc hậu, con người ta phải nuôi từ 6 tháng đến một năm rồi mới làm thịt. Ngày hôm nay công nghệ kỹ thuật tân tiến, heo chỉ nuôi hơn 3 tháng là có thể được đưa đến các lò mỗ.

 

Chúng ta thấy rõ ràng nhân quả rất công bằng, sòng phẳng, làm phước thì được hưởng phước, được ăn ngon ngủ kỹ mà không phải làm lụng nhọc nhằn, khổ sở; nhưng ngược lại vì nhân giết hại do ngu si, mê muội nên bị quả báo mạng sống ngắn ngủi và bị giết hại lại.

 

Con người vì không biết rõ thực tướng của vạn vật nên si mê chấp thân tâm làm ngã rồi dẫn đến chiếm hữu. Loài heo vì tham ăn ngon, ngủ kỹ nên mới bị đọa lạc như thế, loài ngựa tuy phải nhọc nhằn, cực khổ làm lụng vất vả, ăn uống đạm bạc, phải ra công vận chuyển giúp đỡ loài người có phương tiện sinh sống nhưng nhờ vậy chúng lại được tôi luyện.

 

Chúng được cho ăn món thượng hạng hằng ngày rồi nằm phè ra ngủ, thấy thế tưởng như ngon lành nhưng không ngờ đang gần kề cái chết mà không hay biết. Ăn ngon ngủ kỹ là căn bệnh trầm kha của nhiều người, đa số ai cũng thích như vậy từ chỗ tham ái chấp trước mà ra.

Trâu nghe chó, chim, gà, cá phân trần sự khổ não của chúng, cảm thấy thương hại cho các loài vật mà ngửa mặt lên trời, mới oán trách tạo hóa sao quá bất công, để các loài vật chúng ta phải chịu khổ đau thế này. Tại sao thượng đế lại tạo ra nỗi bất công lớn lao như thế, chỉ có con người là được sống sung sướng, hạnh phúc nhất trên cõi đời này mà thôi.

Nói như thế rồi trâu ta buồn bã bỏ đi vào chuồng, nằm suy nghĩ mông lung về thân phận của nó và các loài vật khác sao mà khốn khổ quá. Nó nghĩ mà tức giận thượng đế vô cùng. Tại sao ông ta quá bất công, tàn nhẫn, bất cứ loài vật nào cũng bị con người hiếp đáp, làm hại. Cho đến chúa tể sơn lâm hung dữ, ác độc lừng danh như loài cọp mà cũng bị loài người dùng trí khôn để khống chế. Trâu ta rống lên tiếng rống bi ai, não nuột: “Cuộc đời sao quá bất công, loài người được quyền ăn trên, ngồi trước, có tri thức, hiểu biết, mà tại sao tàn ác, nhẫn tâm đối xử tệ bạc với các loài vật thế này. Ấy vậy mà họ lại được ăn sung, mặc sướng, không phải chịu một sự đau khổ nào”.

Đang lúc đó, bỗng trâu nghe rõ ràng tiếng quăng chén, bát, đĩa, muỗng cùng nhiều thứ đồ đạc khác trong nhà vọng ra. Nó lắng tai nghe kỹ mới biết hai ông bà chủ đang lớn tiếng gây gỗ, cãi vã, chửi mắng lẫn nhau.

Tiếng ông chủ gào lên trong cơn giận dữ: “Trời ơi, hãy ngó xuống mà coi, sao tôi phải chịu nhọc nhằn khổ sở đến như thế này, làm người gì mà không bằng con trâu, con chó trong nhà nữa. Con trâu đi cày còn có được thời gian để nghỉ ngơi, còn tôi suốt tháng quanh năm phải bận bịu, đa đoan với nhiều công việc, nào là phải lo nhà cửa, vợ con, cơm ăn, áo mặc, tiền bạc, đám tiệc, hội hè, đình đám, đủ thứ, làm quần quật suốt cả đêm ngày mà không có lúc nào rảnh rỗi, nghỉ ngơi.

Tôi phải thức khuya, dậy sớm, đầu tắt mặt tối, làm lụng nhọc nhằn, vất vả khổ sở như vậy, là vì ai? Vậy mà bà vẫn không vừa ý, hài lòng, để cho tôi được yên thân một chút, hễ thấy mặt tôi là bà hạch sách, cằn nhằn, càm ràm, đủ thứ hết. Bà vừa phải thôi chứ, bà mà làm quá tôi sẽ cho cả nhà ra hết chuồng trâu mà ở, để cho vừa lòng hả dạ mấy người”.

Nghe ông chủ nhà nổi nóng, to tiếng quát tháo ầm ỉ lên, trâu ta bỗng giật mình, bất giác mà ngậm ngùi than thở rằng: “Té ra, cuộc sống trên cõi đời này đâu có ai hoàn toàn được sung sướng mà dám bảo đảm rằng mình không bao giờ nhọc nhằn, khổ sở đâu? Từ con người cho đến muôn loài  vật, ai cũng phải khổ hết, vì có thân này là có khổ”.

Câu chuyện trên là một bài học sâu sắc nói về giá trị sống của muôn loài vật muốn bảo tồn mạng sống phải chịu muôn vàn điều khổ đau. Trong cuộc sống, mỗi người đều có một hoàn cảnh, sự nghiệp và việc làm khác nhau. Từ người lãnh đạo đất nước cho đến thứ dân bần cùng đều phải làm việc để lo cơm áo, gạo tiền và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Người nắm cán cân công lý thì chịu trách nhiệm chung lo duy trì hài hòa bảo đảm đời sống an vui, hạnh phúc cho toàn dân. Binh sĩ lo bảo vệ biên cương, bờ cõi, an ninh quốc gia. Thương nhân lo kinh doanh, buôn bán. Nông dân và công nhân tích cực lao động, sản xuất. Tu sĩ lo gìn giữ đạo đức tâm linh để giúp nhân loại chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay hiện tại và cho cả tương lai.

Hạng người thấp kém thì hay trộm cướp, lường gạt của người khác, hút xách, đàn điếm, gây ra tệ nạn xã hội làm khổ cho nhiều người. Hạng có địa vị thì lợi dụng quyền cao chức trọng để được ăn trên ngồi trước, hưởng thụ xa xỉ quá đáng trong khi nhiều người còn quá thiếu thốn, khó khăn.

 

Nhân đam mê hưởng thụ quá đáng sẽ khiến con người ngày càng sa đọa, gieo đau khổ cho mình và người, giống như loài heo được ăn no ngủ kỹ rồi chờ ngày bị con người phanh da xẻ thịt đau khổ vô cùng. Kẻ ngu si chỉ biết hưởng thụ đam mê nhất thời mà phải chịu khổ triền miên không có ngày thôi dứt. Người trí vì lợi ích an vui lâu dài cho chính mình và tha nhân nên luôn sống đơn giản, muốn ít biết đủ để có cơ hội phục vụ và đóng góp cho con người nhiều hơn.

 

Tham có nghĩa là tham lam, ham muốn quá đáng như tham sống sợ chết, tham tiền tài, tham sắc đẹp, tham danh vọng, tham ăn ngon ngủ kỹ… Do chấp thân là thật nên tham lam mọi nhu cầu vật chất để phục vụ thân này.

 

Lòng tham con người được ví như giếng sâu không đáy, như cái hang không cùng nên không biết đến đâu là đủ. Khi không có thì tham muốn cho có, khi có rồi thì tham muốn cho thật nhiều, tham được thì càng thêm tham, tham không được thì sinh ra buồn phiền, giận dỗi, tìm cách trả thù dẫn đến tàn sát, giết hại lẫn nhau, gây đau thương và làm tổn hại cho nhiều người.

 

Quả thật, lòng tham con người vô cùng tận như giếng sâu không đáy, chúng ta có thể dò được đáy sông, đáy biển nhưng không thể đo lường lòng tham của con người vì nó không có bến bờ nhất định.

Chính vì thế, tu sĩ Phật giáo giữ vai trò rất quan trọng trong cuộc sống hiện tại. Họ không phải là những người lười biếng, ăn bám xã hội. Họ có trọng trách thiêng liêng, cao quý là giúp nhân loại chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Thế gian này, nếu con người sống không có nhân cách đạo đức tốt đẹp, không có luân thường đạo lý, thì xã hội sẽ là một bãi chiến trường đẫm máu, mà lịch sử loài người đã chứng minh thực tế rõ ràng. Từ mấy ngàn năm lịch sử, chiến tranh nhân loại xảy ra cũng vì lòng tham lam, ích kỷ của con người.

Đây là những câu chuyện ngụ ngôn mang tính triết lý sâu sắc về nền tảng nhân quả, từ nghiệp nhân si mê mà bị đọa lạc vào các loài súc sinh để trả quả khổ đau. Si là vô minh, là cái bất giác lầm lẫn không biết rõ sự thật nên thành ra có tham hay ham muốn quá độ. Do đó, si là cái khởi đầu bắt nhịp cầu cho tham lam, nóng giận bộc phát. Đúng ra, si là cái ngu tối thâm căn cố đế chẳng biết thế nào là đúng-sai, thật-giả.

Nhưng nếu trong cuộc sống, ai cũng có ý thức sống bằng trái tim yêu thương và hiểu biết, mà cùng nhau chia vui, sớt khổ, hay làm những việc thiện lành, để đem lại an vui, hạnh phúc cho nhân loại, thì thế gian này sẽ tốt đẹp biết chừng nào. Ngược lại, con người sẽ chỉ làm khổ nhau, vì tâm tham lam, ích kỷ, hẹp hòi; vì tâm si mê, ganh ghét, tật đố, sân hận, muốn bảo vệ quyền lợi cho chủ nghĩa cá nhân.

Đó là một lẽ thực trong cuộc sống hiện tại, nên Phật vì lòng từ bi, thương xót chúng sinh, mà khuyên nhủ chúng ta không nên giết hại, trộm cướp, tà dâm, nói dối hại người, và không dùng các chất độc hại, như rượu chè be bét, hút chích xì ke, ma túy, mà làm khổ đau cho nhau.

Song, nếu quán chiếu theo tuệ giác của Thế tôn, thì thế gian này khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. Khổ và vui như hai mặt lật úp của một bàn tay, đan xen, chồng chéo nhau như một mạng lưới vô hình giăng bủa khắp cuộc đời chúng ta, không một ai có thể thoát được.

Ngoại trừ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni và các chư vị đại Bồ tát, các Ngài đã vượt qua được mất, khen chê, tốt xấu lẫn khổ vui của cuộc đời, để thành tựu đạo quả giác ngộ, giải thoát giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi nhàm chán. Ngài đã tìm ra chân lý kiếp người, và biết cách làm chủ bản thân thoát khỏi mọi ràng buộc khổ đau.

Cuộc sống này người trẻ có những cái khổ của người trẻ, người già có những cái khổ của người già, người giàu có những cái khổ của người giàu, và người nghèo có những cái khổ của người nghèo. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều có những cái không được hài lòng, như ý. Ai cũng có những nỗi khổ về thân như nóng lạnh, bị muỗi mòng chích đốt.

Trong gia đình, con người khổ vì phải sinh, già, bệnh, chết. Ngoài xã hội, con người khổ vì đấu tranh, giành giựt miếng ăn để sống, và đủ thứ nỗi khổ, niềm đau đến với con người: yêu thương, xa lìa nên khổ; oán ghét mà gặp nhau hoài là khổ; mong cầu mọi việc mà không được vừa ý cũng khổ. Khổ là một sự thật của muôn loài chúng sinh. Vậy, chúng ta muốn vượt qua nỗi khổ niềm đau thì phải làm sao đây?

Có ai sống mà không lo lắng, không hối tiếc, không trông mong, không nhớ nhung, không sầu khổ, không nuối tiếc hay hy vọng một điều gì đó? Có ai sống mà không biết phiền muộn khổ đau, thất chí nản lòng, bi quan yếm thế, chán chường trong cô đơn tuyệt vọng? Có ai dám bảo đảm rằng ta hoàn toàn khỏe mạnh, thoải mái cả hai về mặt thể xác lẫn tinh thần? Chắc chắn là không có ai, ngoài trừ các vị đại Bồ tát và chư Phật thị hiện vào đời để giáo hóa chúng sinh.

Thế giới loài vật cũng có sự sống sinh hoạt song hành với loài người nên cũng bị vô minh chi phối. Loài vật chỉ sống theo quán tính, thói quen, không có sự nhận định, suy xét, tìm tòi, quán chiếu soi sáng như loài người bởi nghiệp si mê nhiều đời chiêu cảm.

 

Người ham hưởng thụ nhiều cho rằng chết là hết, không tin tội phước, nhân quả nghiệp báo sẽ tranh thủ tận hưởng khoái lạc trần gian bất chấp luân thường đạo lý, cuối cùng gây nhiều tội lỗi tày trời làm băng hoại đạo đức xã hội. Người bi quan yếm thế sẽ chán chường, chẳng muốn làm gì hết vì nghĩ có cố gắng cũng phí công vô ích, thà ăn không ngồi rồi còn sướng hơn.

 

Người mê tín khi nghe vậy cứ tưởng đấng sáng tạo đang trừng phạt con người nên càng cầu khẩn, van xin ban ân huệ, cuối cùng dẫn đến cuồng tín, si mê không biết phân biệt đúng sai. Người ăn không ngồi rồi, người đầu trộm đuôi cướp, người si mê nghiện ngập sẽ càng sa đoạ hơn khi tin vào những điều huyền hoặc vu vơ. Họ mặc tình ngang nhiên làm nhiều điều phi pháp để kiếm tìm sự hưởng thụ cho thỏa thích vì sợ sau khi chết sẽ làm ma ngáp ruồi. Tất cả những hạng người ấy đều phải chịu quả khổ đau vô cùng tận không có ngày thôi dứt vì quan niệm sai lầm.

 

Hiện tại những quả báo chung của các loài có tình thức như thiên tai, sóng thần, động đất, lũ lụt, hoả hoạn, chiến tranh dường như đã được sắp sẵn và đang xảy ra trên thế giới này. Chúng ta có thể biết được nhờ vào mạng lưới thông tin, báo chí hằng ngày; nhưng chúng không đồng loạt, khi thì chỗ này, khi thì chỗ kia, hậu quả từ nhân phá hoại sự sống lẫn nhau trên trái đất.

 

Riêng con người thì thông minh hơn, ác độc hơn, vì có hiểu biết hơn nên có thể giết hại tất cả các loài vật khác, thậm chí có thể giết hại luôn gia đình người thân của mình. Con người phát triển, mở mang tới đâu thì tàn hại và huỷ diệt thiên nhiên muôn loài vật tới đó. Giết hại con người thì mạng đền mạng hoặc chịu tù từ 10 năm cho đến chung thân, hơn thế nữa sẽ bị chi phối bởi luật nhân quả mà âm thầm nhiều kiếp bị chết yểu, bệnh hoạn và bị giết hại trở lại.

 

Giết hại con người thì quả báo nặng hơn các loài khác vì có cộng nghiệp người thân trả thù nên ảnh hưởng nhân quả rất lớn. Giết hại các động vật có tâm thức thì tuỳ theo mức độ cố ý hay vô tình mà thủ phạm phải chịu trả quả bị thương tật, chết chóc, hoặc có thể bị tai nạn chung với nhiều người như thiên tai, dịch bệnh và tai nạn giao thông… Rất nhiều nghiệp nhân khác làm hủy hoại trái đất để phục vụ nhu cầu cuộc sống cho con người như chặt phá cây rừng, khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi làm môi trường ô nhiễm; quả báo phải trả là tai hoạ chung của toàn nhân loại do nhân phá hủy sự sống mà ra.

 

Người con Phật với tinh thần từ bi, trí tuệ mỗi ngày hãy nên quán sát và xem xét từng hành động, lời nói, suy nghĩ của mình trong từng phút giây không lơ là, giải đãi; muốn ít biết đủ, không xan tham quá mức những nhu cầu hằng ngày.

 

Con người cần phải chủ động ngồi lại thương thuyết với nhau để cân bằng sinh thái của bầu vũ trụ bao la này, nếu không con người sẽ tự tiêu diệt lẫn nhau và sống trong oán giận thù hằn, bởi nhân đấu tranh giành giựt chiếm đoạt.

Sở dĩ con người và muôn loài vật phải chịu nhiều đau khổ trong đời, chính là do nhân ham muốn luyến ái dục lạc, mà chúng ta nỡ nhẫn tâm tàn sát, giết hại lẫn nhau. Loài vật vì ngu si, mê muội nên phải bị đọa lạc vào chỗ thấp hèn để trả quả xấu ác. Con người có phước hơn, vì có hiểu biết và nhận thức sáng suốt, nếu biết vận dụng theo chiều hướng thượng thì đem lại an vui, hạnh phúc cho tất cả chúng sinh; ngược lại, sẽ gieo đau thương, tang tóc cho muôn loài, thì phải chịu quả báu khổ đau, cùng cực.

Những nỗi khổ, niềm đau của muôn loài không bao giờ chấm dứt, vì nhân tương tàn, tương sát lẫn nhau. Cho nên, ta phải biết khôn ngoan, sáng suốt, lựa chọn con đường hướng thượng, để rèn luyện nhân cách đạo đức. Ta biết cách làm chủ bản thân mà vươn lên, vượt qua cạm bẫy cuộc đời, nhờ giữ gìn năm giới của nhà Phật: không giết hại, trộm cướp, lường gạt, tà dâm, nói dối, và dùng các chất kích thích như rượu, xì ke ma túy, để làm tổn hại cho nhân loại.

Khi chúng ta nhận biết cuộc đời là một trường đau khổ, và cái khổ sẽ tác động đến tất cả mọi người, từ vua chúa, quan quyền, cho đến dân đen, con đỏ. Những nỗi khổ, niềm đau trong kiếp người không biết bao giờ kể xiết, nó đeo đẳng chi phối đời sống của ta như bóng theo hình.

Người nghèo phải khổ vì dãi nắng dầm mưa, đầu bán cho trời, lưng bán cho đất, nợ nần chồng chất, con cái thất học, bệnh tật đau yếu, vợ chồng ly tán.

Người giàu phải khổ vì quyền cao chức trọng, sợ người tài giỏi hơn mình, luôn sống trong lo âu sợ hãi, sợ tiền tài bị mất mát, và nỗi khổ đau nhất là con cái bất hiếu, phá sản vì bê tha, nghiện ngập. Xét cho cùng, đã có thân này là có khổ; cho nên, ta cần phải cố gắng tu tâm dưỡng tánh, để biết cách làm chủ bản thân mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Đức Phật vì lòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.

Khổ là một sự thật. Phần lớn, mọi người tìm đến chùa học hỏi, tu tập đều do gặp hoàn cảnh trắc trở, khổ đau trong đời sống hằng ngày. Mà khổ từ đâu ra? Từ sự chấp trước thân tâm này làm ngã là ta, là tôi, là mình nên muốn chiếm hữu, rồi từ đó tham muốn quá đáng mà sinh ra các hệ lụy khổ đau.

 

KHỔ ĐAU KHI MỚI SINH RA

 

Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam trên hai ngàn năm nay, hầu như đã thấm nhuần trong lòng dân tộc về lẽ thật hư của cuộc đời. Chính là nhờ Phật giáo nói đúng lẽ thật, phù hợp với tinh thần khoa học hiện nay, giúp cho con người có nhận thức sáng suốt và hiểu biết đúng như thật, cho nên Phật giáo rất thực tế, không phải huyền hoặc.

 

Nhất là những người lớn tuổi không tìm hiểu đúng chánh pháp, do ảnh hưởng quá nhiều các tín ngưỡng dân gian, chính vì vậy mà một số người cho rằng đạo Phật là bi quan, yếm thế, chán chường. Đó chính là những nguyên nhân khiến cho Phật pháp đi đến suy tàn. Nếu chúng ta cứ để cái đà này như thế mãi, các thế hệ phật tử về sau, chắc chắn sẽ tránh xa đạo Phật, vì thấy đạo Phật không còn thích hợp với thời đại mới, với nền khoa học hiện đại.

 

Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu tám loại khổ qua cách nhìn của đạo Phật: sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, yêu thương xa lìa khổ, mong cầu không như ý khổ, oán ghét gặp nhau khổ, thân này thịnh hay suy cũng đều khổ.

 

Chúng tôi xin dẫn bài kinh đầu tiên Chuyển Pháp Luân, đức Phật dạy năm vị Tỳ-kheo trước kia đã từng theo Ngài tu khổ hạnh. Đó là bài kinh nói về Tứ diệu đế. Đây là bài kinh hết sức cụ thể, thực tế, không có gì khó hiểu hay huyền hoặc. Tứ diệu đế là bốn chân lý nhiệm mầu chắc thật, trong đó đế đầu tiên là Khổ đế. Nghe từ Khổ đế, mọi người đều vội vàng kết luận đạo Phật bi quan quá. 

 

Khổ đế, chữ “đế” nghĩa là chắc thật, không sai chạy. Như vậy cái khổ Phật đưa ra là một lẽ thật, không ai chối cãi được. Khổ có mấy thứ? Đầu tiên là khổ về thân. Thân này có sinh, già, bệnh, chết, bốn thứ đó Phật nói là khổ. Có người chưa chịu sanh là khổ, vì lúc mới lọt lòng mẹ có biết gì đâu mà khổ. Nói không biết gì hơi quá đáng, không biết, vậy chớ ai khóc? Biết khóc tức là có cảm giác khổ. Trăm đứa bé lọt lòng mẹ đều khóc, chứng tỏ chúng có cảm thọ khổ. Đó là khổ khi sinh. 

 

Như vậy đời sống của chúng ta thường gặp khổ nhiều hơn vui. Khi lọt lòng mẹ đã có cảm giác khổ, rồi trong cuộc sống kéo dài mấy mươi năm cũng khổ. Vì vậy Phật nói sinh khổ, chúng ta chối cãi được không? Thế nhưng nhiều người lại cứ tưởng như vui, đó là vui trong tưởng tượng thôi chớ không có thật. Vậy mà thiên hạ cứ bảo cuộc đời là hạnh phúc bởi vì nó có nhiều thú vui làm cho con người ta đam mê say đắm dính mắc vào đấy mà chịu muôn vàn sự khổ đau. Thực tế hạnh phúc thì quá ít, còn đau khổ thì quá ê chề. Đó là khổ thứ nhất, sinh khổ. 

 

Là nỗi khổ trong sự sinh ra. Loài người khi ở trong thai đã có tình thức. Do có tình thức nên có sự cử động cảm xúc. Khi mẹ ăn thức lạnh vào cảm thấy như ở trong giá băng; lúc ăn thức nóng vào cảm thấy như bị nung đốt. Thai nhi sống trong chỗ chật hẹp, tối tăm và nhơ nhớp, vừa lọt lòng đã kêu khóc oa oa. Rồi từ đó khi lạnh, nóng, đói, khát, muỗi, kiến cắn đốt, chỉ biết kêu khóc mà thôi. Huệ nhãn của Phật thấy rõ những chi tiết ấy, nên Ngài mới xác quyết rằng sinh là khổ. Sinh khổ  theo tuệ giác của Thế tôn có 5 loại: 

 

– Thọ thai: Lúc thần thức gá vào thai mẹ, ở trong bụng mẹ chật chội và dơ bẩn chịu nhiều bó buộc. 

– Chủng tử: Sau khi thần thức gá vào tinh trùng của cha và noãn cầu của mẹ, thân thể sẽ tùy theo hơi thở của mẹ mà tồn tại, không được tự do thoải mái bởi do nghiệp lực chiêu cảm. 

– Tăng trưởng: Thần thức, thân thể ở trong bụng mẹ, tăng trưởng mỗi ngày, dưới ruột non, trên ruột già, nằm ở giữa như ở tù sống nhờ thức ăn, thức uống của mẹ và sự hô hấp mà thai nhi phát triển theo từng giai đoạn. 

– Khi được sinh ra: Trải qua gần 10 tháng thân hình đã phát triển đầy đủ, đây là thời điểm người mẹ chuyển dạ để sinh thai nhi. Suốt thời gian dài nằm trong bụng mẹ, sự sống hoàn toàn nương vào mẹ, được mẹ nuôi dưỡng, nâng niu, che chở. Những khi thai nhi rời khỏi bụng mẹ, thân thể với da thịt non mềm của bé phải tiếp xúc môi trường mới với khí trời lạnh, nóng, gió, mưa, các vật dụng xúc chạm… sẽ cảm nhận đau buốt như bị châm chích. Bé đau nhưng chưa nói được mà chỉ biết khóc, vì thế chúng ta cần phải có thao tác nhẹ nhàng với em bé mới sinh ra.

– Chủng loại: Tức mỗi thai nhi đều có một hình tướng thân mạng nam hay nữ của mình trước khi được sinh ra bởi tướng mạo đầy đủ, xinh đẹp hay khiếm khuyết, xấu xí… 

 

Con người khổ trong sự sinh sống. Người ta khổ từ khi còn là bào thai trong bụng mẹ. Con phải nằm trong bụng mẹ chật hẹp, cũng là khổ. Mẹ phải mang nặng đẻ đau biết bao khó nhọc, đó là khổ. Sinh con ra rồi thì cha mẹ cũng khổ vì phải lo lắng cưu mang và cho ăn uống để duy trì mạng sống. Con người sống trên đời phải mưu kế sinh nhai, làm việc nhọc nhằn, vất vả nên cũng khổ.

Sự sinh sống của con người có hai phần khổ: Khổ trong lúc mới sinh ra và kế tiếp là khổ trong đời sống. Khổ trong lúc sinh. Người sinh và kẻ bị sinh đều khổ cả. Khi người mẹ mới có thai là đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn ọe, dã dượi, bất thần, mệt mỏi... Thai mỗi ngày mỗi lớn, thì người mẹ mỗi ngày mỗi thêm mệt mỏi, nặng nề, đi đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp.

Đến khi gần sinh, sự đau đớn hành hạ xác thân người mẹ không sao nói xiết, chỉ có những người từng làm mẹ mới cảm thông cho nỗi đau này. Dầu được thuận thai đi nữa, mẹ cũng phải chịu sự dơ uế cả tháng trời, yếu đuối nhiều tháng, vì tinh huyết hao mòn, ngũ tạng suy kém, nếu không có cha mẹ hai bên chắm sóc thì lại càng khỗ não hơn. Còn rủi bị nghịch thai, thì mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn trăm bề. Có khi sau một lần sinh bị giải phẩu, mẹ phải chịu tật nguyền suốt cả cuộc đời.  

Còn con, từ khi mới đầu thai cho đến lúc chào đời, cũng phải chịu nhiều điều khổ sở. Trải qua chín tháng mười ngày, con bị giam hãm trong khoảng tối tăm, chật hẹp, còn hơn cả lao tù ngục tối! Mẹ đói cơm, khát nước, thì con ở trong thai bào lỏng bỏng như bong bóng phập phều. Mẹ ăn no thì con bị ép như bồng bột bị đè dưới thớt cối, khó bề cựa quậy. Ðến kỳ sinh sản, thân con phải chen qua chỗ chật hẹp như bị đá ép bốn bể, nên khi vừa thoát ra ngoài, liền cất tiếng khóc vang: "khổ a! Khổ a!".

Khổ trong đời sống. Về phương diện vật chất hay tinh thần, đời sống đều có nhiều khổ sở.  Về vật chất, con người đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức uống, đồ mặc, nhà ở, thuốc men.

Để có được những nhu cầu cần thiết ấy, con người phải siêng năng làm việc vất vả nhọc nhằn, đổ mồi hôi, sôi nước mắt, mới mua được chén gạo, bát cơm, manh quần, tấm áo và các phương tiện sống khác. Về phương diện nhà ở, thì có những gia đình phải thuê phòng trọ ở tạm qua ngày, vì không có khả năng tạo dựng được một ngôi nhà nho nhỏ.  

Cuộc sống của con người chẳng phải đợi đến cảnh đói khát mới gọi khổ, ăn uống thất thường, thiếu thốn đủ mọi thứ cũng đã là khổ rồi. Đâu phải chỉ có những người nghèo hèn thiếu thốn khó khăn mới khổ đâu? Người giàu có sang trọng cũng vẫn khổ như thường. Muốn có tiền bạc vật chất dồi dào, tất nhiên họ phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, đầu tắt mặt tối trong công việc, đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có được.

Về phương diện tinh thần, đời người cũng có nhiều điều khổ tâm, có nhiều khi còn đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật chất. Tóm lại, về vật chất hay tinh thần, sự sống mang theo nhiều cái khổ. Sinh khổ là như thế bởi vì có nó sự tiếp nối theo quy luật nhân quả, nên đời người khổ là lẽ đương nhiên.

SỐNG TUỔI GIÀ KHỔ ĐAU NHIỀU HƠN

Sự khổ trong lúc tuổi già. Con người khi già yếu, mắt mờ, tai điếc, gối mỏi lưng còng, chân tay run rẫy, ăn không có cảm giác ngon miệng, ngủ không ngon giấc, trí nhớ giảm sút đáng kể, làn da khô nhăn, răng thường đau nhức, rụng bớt. Dù cho thanh niên cường tráng, hay thiếu nữ khỏe mạnh, theo thời gian rồi cũng phải đối đầu với cái tuổi già yếu này. Người tuổi già thường hay lú lẫn, đây là nỗi khổ niềm đau của người già.

Chúng ta hồi tưởng lại cuộc đời của đức Phật, có một lần đi ra khỏi cổng thành, thái tử thấy một người già ốm o gầy mòn, dung nhan tiều tụy, đi phải dùng gậy chống đỡ, vừa đi vừa thở hỗn hễn rất là đau khổ. Thái tử thấy cảnh người già như thế mới quán xét và chiêm nghiệm, rồi đây mình sẽ già nua, yếu ớt và cũng tàn tạ như vậy. Càng chiêm nghiệm, càng thấm thía sâu sắc, cảnh người già khốn khổ thái tử nghĩ ngay rồi mình cũng sẽ già khổ nên cảm thương họ nhiều hơn.

Chúng ta bây giờ thấy người già mà không biết soi xét lại chính mình để có sự cảm thông và thương tâm những người già nhiều hơn. Thấy người khác già thì chúng ta cũng sẽ già, từ đó ta có sự tôn trọng, kính mến, quan tâm giúp đỡ những người già nhiều hơn. Đồng thời chúng ta quyết tâm sống và tu tập, biết cách làm chủ bản thân để thoát khỏi sự chi phối khổ sở của tuổi già.

Phật dạy: sinh già bệnh chết khổ đó là một sự thật của kiếp người. Già là khổ. Vì sao già lại khổ? Hiểu biết nhận thức giảm sút, mắt mờ tai điếc, đi đứng lọng cọng, gối mõi lưng còng, ăn uống khó khăn…. già như vậy quả thật là khổ. Rồi sao nữa bệnh là khổ, quý vị nào có vào bệnh viện sẽ thấy từ em bé sơ sinh cho đến người già bệnh mà không đủ chỗ nằm thậm chí phải nằm ngoài hành lang.

 

Người già lại thường chậm chạp, luống cuống trong mọi sinh hoạt hằng ngày khi ăn uống, lúc đi đại tiểu tiện… và thường làm nhớp nhơ. Con cháu dù thân thương đến đâu cũng sanh nhàm chán, bực bội, xa lánh, sao nhãng bổn phận. Chính những hành động, thái độ thiếu hiểu biết, vô trách nhiệm của con cháu đã khiến người tuổi già chịu nhiều đau khổ.

 

Chỉ có những người con chí hiếu, thì dù ở vào hoàn cảnh nào cũng thương yêu, kính quí, chăm sóc chu toàn cho ông bà, cha mẹ. Quả thật tuổi già thật đáng buồn tủi, khổ sầu nếu không biết tu sửa. Thời thanh niên cường tráng đã qua, thời già nua suy yếu đến, mạng sống con người cứ rút ngắn theo thời gian và cuối cùng thể xác đi dần đến hư hoại. 

Có những người lớn tuổi già yếu rồi, nhưng khi ngồi với nhau nói toàn những chuyện quá khứ hào hùng của mình thuở trước như để khoe hay, khoe giỏi cho nên khi con cháu không đáp ứng nhu cầu cần thiết thì cau có, giận dỗi buồn phiền. Nhiều người bây giờ đã già mà vẫn không chịu biết mình đang già, nếu khéo nhìn lại, thấy mình đã già yếu.

Bây giờ chỉ dốc tâm tu tập, kiếm chút ít tư lương, tích tạo phước đức để ngày ra đi được an ổn, nhẹ nhàng. Chúng ta dám nhìn thẳng vào sự thật là đã biết cách học theo hạnh giác ngộ của đức Phật. Lúc còn trai tráng, thái tử đang là một người có đầy đủ tất cả quyền uy, thế lực, văn võ song toàn. Vậy mà khi thấy người già thì liền biết mình rồi cũng sẽ già nua và yếu ốm như người kia. Thấy rõ cuộc đời không có gì đáng để gọi là vui cho nên Ngài quyết chí xuất trần. Nhìn nhận, chiêm nghiệm và thấu tột được như vậy là chúng ta đã biết học theo cái nhìn của bậc giác ngộ.

Trong thực tế khi con người khi già rồi, các căn đều suy yếu, mắt mờ, tai lãng, lưng mỏi, chân run, ăn thấy kém ngon, ngủ không an giấc, trí nhớ chẳng còn minh mẫn, làn da khô nhăn, răng lần lần đau nhức chuyển rụng.

Lắm kẻ tuổi già lờ lẫn, khi ăn mặc, lúc đại tiểu đều nhớp nhơ, con cháu dù thương tiếc giúp đỡ, nhưng lâu ngày rồi cũng sanh nhàm chán muốn bỏ bê. Xét ra cái già thật không có gì là vui thú nếu chúng ta không biết tu tập chuyển hóa thì càng già, càng khổ hơn.

BỆNH HOẠN LÀM THÂN THỂ ĐAU NHỨC KHỔ

Là sự khổ đau trong cơn đau bệnh. Có thân là có bịnh, từ những loại bệnh nhẹ thuộc ngoại cảm, đến các chứng bịnh nặng thuộc nội thương. Trong cuộc thế, có rất nhiều người vướng phải những bệnh nan y như: ung thư, lao, cùi, tiểu đường, tai biến... Vướng vào những bệnh nan y, tự thân cảm thấy đau đớn, lại tốn kém, hoặc không có tiền chạy chữa lại càng khổ hơn. Sự khổ lụy không chỉ riêng mình, mà còn khiến cho gia đình người thân bị ảnh hưởng theo. Bệnh khổ có 2 loại: 

 

Thân bệnh: Thân bệnh là tất cả những chứng bệnh con người mắc phải, gánh chịu. những chứng bệnh này đều do tứ đại không điều hòa mà phát sanh, như địa đại không điều hòa, thì thân thể nặng nề; phong đại không điều hòa, thì thân thể bị tê cứng; thủy đại không điều hòa, thì thân thể bị phù thũng; hỏa đại không điều hòa, thì thân thể bị nóng bức.. 


Tâm bệnh: Trong lòng luôn ôm ấp những tâm lý khổ não, buồn thảm, bi ai, lo lắng bất an, sợ hãi, cô đơn trong tuyệt vọng...

 

Rồi một lần khác thấy một người bệnh đang rên đau, thái tử nghĩ, hóa ra con người ta cũng có khi phải bệnh đau như vậy! Cùng là thân người như nhau, nhưng người kia đang bị bệnh thì có lúc mình cũng phải bị bệnh như mọi người. Đã bệnh thì phải đớn đau, khổ sở trăm bề không có gì là vui hết. Từ đó thái tử thấy được sự tạm bợ của thân người và sự sống này không có gì bền chắc, ý chí xuất trần trong thái tử được nung nấu mạnh mẽ hơn.

 

Chúng ta thấy được như vậy thì không còn nhầm tưởng thấy mình khỏe mạnh mãi để sanh tâm ngã mạn, xem thường người khác. Đồng thời chúng ta sẽ cảm thông, thương yêu người bệnh và tìm cách để vượt lên, không bị bệnh hoạn khổ đau chi phối.

 

Từ đó chúng ta sẽ có tâm đồng cảm, thông cảm, thương yêu bệnh nhân, tôn trọng mọi người, không thờ ơ hay xem thường một ai. Chúng ta thấy người khác bệnh thì liền biết rồi mình cũng sẽ bệnh như mọi người. Người đó bệnh đau, lo sợ, hoang mang thì đến lúc chúng ta bệnh, cũng có những nỗi đau và tâm trạng giống như họ vậy thôi. 

 

Thấy người khác bệnh, biết mình rồi cũng sẽ bệnh. Từ đó thấy rõ thân này mong manh, giả tạm, không chắc thật, nên ta không bám víu dính mắc. Khi chúng ta không bám víu thân này, cảnh sống này thì các mê lầm, khổ não, rắc rối khác sẽ không có ra. Đồng thời, chúng ta sẽ cảm thông, thương yêu, tôn trọng người bệnh, từ đó thiện căn được tăng trưởng và giảm sự chấp ngã về thân này.

CHẾT LÀ NỖI KHỔ LỚN LAO NÊN AI CŨNG SỢ

Thứ tư là chết khổ. Như chúng ta thấy người thân khi sắp lâm chung đau đớn quằn quại rất thống khổ. Đó là chưa kể thần thức hôn mê, người sắp chết thấy những cảnh giới gì đó hiện ra, lòng họ hoảng sợ, kêu gào than khóc, thật là thảm thương.

 

Ai cũng tham sống sợ chết muốn sống dai, sống già, sống thọ cho nên nhiều người tìm cách để luyện trường sanh bất tử nhưng cuối cùng rồi ai cũng phải chết. Và chết là một sự thật không tha bất cứ một ai, dù là đức Phật cũng phải xả thọ mạng này khi hết duyên đời. Mình muốn sống hoài mà không được, cho nên nếu ai không biết tu gần chết rất khổ sở vì không biết mình sẽ đi về đâu.

 

Mọi người đều muốn sống an vui, chết nhẹ nhàng, nhưng việc ấy rất khó toại nguyện, mà phần nhiều thân thể con người luôn bị bịnh khổ hành hạ đau đớn cho đến khi chết. Thân đã bị bệnh khổ như thế, tâm lại càng hãi hùng, lo sợ, tham tiếc tài sản của cải mình tạo ra, luyến tiếc vợ con trước khi nhắm mắt lìa đời nên lại càng khốn khổ hơn. Chết, quả thật là rất khổ nên ai cũng sợ. Chết khổ có 2 loại: 

 

Cơn bệnh kéo lâu dài, mạng sống hết phải chết. Chết do duyên bên ngoài đưa đến bất đắc kỳ tử: Gặp chuyện không may bị người giết hại hoặc bị tai nạn mà chết, bị chết nước, lửa thiêu... vì chiến tranh loạn lạc mà chết. 

Khi đi ra bốn cửa thành, thái tử thấy một người chết. Thấy vậy, thái tử liền nhìn lại và nhận ra rằng, người ấy chết rồi đến lúc mình cũng sẽ chết. Càng thấy rõ sự tạm bợ của kiếp người, chí xuất trần của thái tử càng nung nấu mãnh liệt hơn.

Mới ngày nào đây còn liệt liệt, oanh oanh, sao bây giờ chỉ còn lại một tấm thân tàn ma dại, nằm bất động, ai làm gì cũng không biết. Chúng ta bây giờ tận mắt chứng kiến cảnh người chết, chúng ta mới thấy tấm thân này quá mỏng manh, kiếp người quá ngắn ngủi, cõi đời thật phù du, giả tạm.

Nếu chúng ta thấy rõ được sự mong manh của kiếp sống con người, thấy được khoảng thời gian sống và chết kề cận một bên thì chúng ta sẽ tỉnh giác mạnh hơn, không bao giờ có sự tranh cãi nhau nữa. Tranh cãi, giận dữ là do người kia không tự làm chủ được chính họ. Chính khi đang giận dữ họ cũng rất khổ sở chứ không sung sướng gì. Mình là người tỉnh táo làm chủ được mới thấy rõ nên thông cảm và thương họ, tội nghiệp cho người ta. Thấy được như vậy thì chúng ta sẽ thương được người hại mình, không tạo nghiệp khổ đau.

Phật nói thân hiện tại của chúng ta đây, mang tính chất đau khổ từ lúc mới sinh, cho đến khi trưởng thành rồi già, bệnh, chết đều phải trải qua nhiều thống khổ. Đó là một lẽ thật. Mới nghe người ta thấy đạo Phật như bi quan, nhưng thực tế đạo Phật rất lạc quan và yêu đời. Tại vì đạo Phật nói rõ lẽ thật của cuộc đời, để cho mọi người không lầm lẫn, biết cách làm chủ bản thân trên những khổ vui đó.

Như một ai đó, đang gánh một gánh nặng suốt một chặng đường dài lâu quá cảm thấy mỏi mệt, đuối sức nếu lúc đó để gánh nặng xuống vui hay khổ? Chắc chắn là vui. Còn gánh nặng trên vai thì khổ, để xuống hết nặng là vui. Sau khi biết khổ rồi mới thấy vui, chớ cái vui ấy không ngoài sự khổ. Cũng chính vì thế, đạo Phật nói rõ nguyên nhân của sự khổ đau để chúng ta biết cách chuyển hóa tiêu trừ, khi đó khổ hết thì vui đến.

                             BỐN NỖI KHỔ TINH THẦN

YÊU THƯƠNG XA LÌA KHỔ

Kế đến còn bốn thứ khổ về tâm nữa, tổng cộng vừa thân tâm là tám thứ. Nếu kể tiếp theo thì thứ năm là “yêu thương xa lìa khổ”: khổ do thương mến nhau mà phải bị mất mát, bị xa lìa. Trong cái tình yêu thương giữa vợ chồng, con cái, anh em đang mặn nồng, thắm thiết mà bị chia ly, thì thật không có gì đau đớn hơn. Sự chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt.  

 

Sanh ly khổ: Một gia đình đang sống trong cảnh đàm ấm vui vầy, bỗng bì hoàn cảnh bắt buộc, hay vì một tai họa thình lình xảy đến, như giặc giã, bão lụt, hỏa hoạn... làm cho kẻ ở đầu này trông đợi, người ở góc kia nhớ chờ. Thật đau lòng xót dạ!

Điều này trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc, ta càng thấy rõ. Biết bao thanh niên xa gia đình người thân dấn thân nơi chiến trận chết chóc đau thương không ngày gặp mặt. Người ở nhớ thương, kẻ đi sầu khổ não nề ... Ái nhiều thì khổ nhiều, nếu không có ái thì khổ không thành. Bởi vì đâu phải ai đi xa mình cũng khổ, chỉ người mình thương yêu nếu đi xa ta mới khổ đau trong nhung nhớ. Khổ này gốc từ tham ái mà ra. Do khao khát, mong muốn được sống gần người mình thương yêu mà phải xa lìa cho nên khổ. Ðó là cái khổ của "Sinh ly".  

Chết vĩnh biệt khổ: Nhưng mặc dù xa cách nhau người sống còn có ngày gặp gỡ; chứ chết rồi bao thuở được vum vầy! Chính vì vậy, đứng trước cảnh chết chóc đau thương, kẻ ở người đi thương tiếc ngậm ngùi. Do đó, lâm phải cảnh tử biệt này, có người đã xót thương rầu rĩ đến quên ăn, bỏ ngủ, có người đau đớn, khổ sở cho đến tuyệt vọng muốn chết theo người quá cố.  

Trong bốn hiện tượng của vô thường; sinh, già, bệnh, chết thì "chết" là cái làm cho mọi người lo lắng sợ hãi nhất. Những người không được may mắn nên bị bịnh nan y như ung thư, bịnh hủi, sida sống thêm một ngày là khổ thêm một ngày, thế mà những người bạc phước ấy cũng vẫn muốn sống đời mà thôi.  

 

Chúng ta thấy một người bệnh khi hấp hối bị hành hạ xác thân đau đớn trong khổ sở rồi mới biết cái chết là đáng sợ. Người sắp chết, mệt mỏi thở không ra hơi, méo miệng, uốn mình, giăng tay, bẻ chân... Chúng ta thử rờ vào người chết, thì thấy lạnh ngắt như đồng, thân thể cứng đơ như khúc gỗ.

 

Con người đang trong cảnh thương yêu mặn nồng, chẳng ai muốn xa lìa nhưng hoàn cảnh trớ trêu kẻ ở người đi trong nỗi nhớ niềm thương! Cái khổ phải biệt ly đối với hai người thương yêu nhau như thế nào, thì cái khổi phải hội ngộ đối với hai người ghét nhau cũng như thế ấy.  

 

OÁN GHÉT MÀ GẶP NHAU HOÀI CÀNG KHỔ HƠN

 

Thứ sáu là “oán ghét mà gặp nhau hoài khổ”. Ngược lại với mến thương là oán ghét. Người mình ghét mà cứ hiện diện trước mặt hoài, ta rất bực bội khó chịu, muốn họ đi đâu cho khuất mắt. Nhưng ngặt nỗi, trên đời này người mình thương thì cứ phải chịu xa lìa, còn kẻ mình ghét thường hay gặp gỡ. Cái khổ oán ghét này gốc từ sân hận mà ra. Do sân hận nên chúng ta rất khổ sở khi làm việc chung với người mà mình oán ghét.

 

Chưa nói đến trường hợp những người xa lạ, ngay trong gia đình bà con quyến thuộc, giữa vợ chồng, anh em, khi vì một lý do gì đó, sanh ra bất hòa với nhau, cũng đủ khó chịu rồi. Muốn lánh mặt nhau, mà mỗi khi đi ra đi vào lại phải gặp nhau mãi! Quyết không nói chuyện với nhau, mà nhiều khi bắt buộc nín không được, phải nói ra với sự ngượng ngùng khó chịu.

 

Oán tắng hội khổ, tức là đối với những người mình không ưa thích hay ghét cay ghét đắng, muốn tránh cho khuất mắt mà không thể tránh được, vì phải làm việc và sống chung với nhau. Trong cuộc đời ai cũng có người mến thương ưa thích, nhưng cũng có người thù hằn ghét bỏ vì một lý do nào đó.

 

Ngược lại với thương yêu là sự thù hằn, ghét bỏ. Không có gì đau khổ bằng thù ghét mà gặp nhau hoài. Thương và ghét là hai vế đối nghịch nhau, đã thương thì không ghét, đã ghét thì không thương; nhưng vì ta hay ích kỷ, hẹp hòi, nên khi thương không được thì sinh ra thù hằn, ghét bỏ, và từ sự ganh ghét đó mà mình có thể hãm hại người kia bằng mọi cách.  

 

Thù ghét sẽ làm cho ta xấu xí, khổ đau hơn, vì tâm niệm ích kỷ, oán giận, hờn mát trong lòng, nên lúc nào cũng mong muốn người ấy bị hại, bị khổ, bị mất mát, bị đau thương, thậm chí còn muốn người đó mau chết đi càng sớm càng tốt.

 

Khi ta thù ghét ai, trước tiên ta khổ trước, vì thái độ bực tức không bằng lòng với hiện tại. Người kia chưa khổ, nhưng ta đã tự tàn phá sắc đẹp của mình, thậm chí có khi ta không giằng được cơn nóng giận, nên đánh đập, hành hạ người thân, vì không biết cảm thông và tha thứ. Ta cứ muốn người kia như bản sao của mình, khác đi một chút thì mình không chịu, mình bám víu, chấp trước, thậm chí nhiều khi mình còn ngoan cố, ép buộc người kia phải làm theo.

 

Ta bây giờ đâu phải như đứa trẻ khi còn tấm bé, ta đang lớn khôn và trưởng thành, nên khi mất mát hay bị tổn thất vấn đề nào đó, ta phải biết bình tĩnh để suy xét, nhận định. Nhờ vậy, mình không bị mê mờ bởi thói quen ích kỷ, hẹp hòi mà sinh ra thù ghét.

 

Thế giới con người do không có tình thương chân thật, nên lúc nào cũng oán giận, thù hằn, ghét bỏ nhau mà sinh ra chiến tranh, binh đao, tàn sát, giết hại lẫn nhau không thương tiếc. Có khi ta nhân danh đấng thần linh thượng đế để trừng phạt thiên hạ, tạo ra biết bao nỗi khổ niềm đau, làm tổn hại cho nhau.

 

Vì ta thương yêu trong ích kỷ, hẹp hòi do không có hiểu biết, nên mình dễ dàng hành hạ, đánh đập người thân khi không làm chủ được cơn sân hận. Ai có tâm niệm thù ghét như thế sẽ không bao giờ tìm được sự an lạc nội tâm, vì trong lòng lúc nào cũng chất chứa bao phiền muộn, đau khổ.

 

Khi ta thương yêu, quý trọng lẫn nhau một cách chân tình, tình thương đó có sự bù đắp lâu dài, nên mình tìm cách bảo vệ và gìn giữ chúng, đến khi cảm thấy bị người phụ bạc, ruồng bỏ, tìm đến người bạn khác, mình cảm thấy bơ vơ, lạc lỏng giữa chợ đời yêu thương, nên tiếc nuối, khóc lóc, hờn giận và cuối cùng dẫn đến thù hằn, ghét bỏ.

 

Một khi ai đã ôm cảm xúc đó vào lòng, thì giống như một lưỡi dao bén đang từ từ cứa vào thân thể, làm ta thất vọng, đau khổ đến tột cùng. Ta không còn sáng suốt nữa mà điên cuồng trong vô vọng. Nếu đã dùng hết cách mà không chuyển hóa được cảm xúc thù ghét, ta phải biết rằng, mình đang rơi vào hố sâu của ngục tù tội lỗi.

 

Ai dại gì phải chịu như thế trong khi ta có trái tim biết yêu thương, hiểu biết, trái tim tha thứ, biết cảm thông. Ta chỉ nhớ, biết mình như thế thì bao nhiêu cảm xúc oán giận, thù hằn, ghét bỏ không có chỗ ẩn núp. Như ta đã biết, mình là chủ nhân của bao điều họa phúc, mình có trái tim hoàn hảo và đẹp nhất, tại sao phải tự trói buộc lấy nhau vì tâm niệm thù ghét đó, để làm cho gia đình, người thân, bè bạn không có cơ hội gần gũi, sống yêu thương nhau.

 

Một khi đã thù ghét nhau rồi thì thế giới bao la sẽ trở thành một góc trời đen tối, nhỏ hẹp. Gặp một người mà ta hằng oán ghét bấy lâu nay muốn tránh xa mãi lại cũng không sao tránh được. Hoàn cảnh này nếu nằm trong gia đình người thân thì lại càng thống khổ hơn nữa.

 

Thương và ghét là hai điều kiện có thể làm cho con người khổ đau hay hạnh phúc, thương quá sinh nhớ nhung bi lụy cũng khổ, ghét quá mà ngày nào cũng gặp càng khổ hơn. Đúng ra ta rất khó thương một người chưa từng thương mình, có khi họ thù ghét mình và đã làm cho mình đau khổ. Thương yêu là bản chất của con người, nhưng đa số chỉ thương yêu trong sự ích kỷ, hẹp hòi và có điều kiện, nên không bao giờ có lòng khoan dung, độ lượng, cảm thông và tha thứ. Chính vì sự thương yêu hẹp hòi đó mà dẫn đến ghen tuông, ganh ghét rồi làm khổ cho nhau.

 

Trong cuộc sống, khi con người không có tình yêu thương chân thật với nhau, mà chỉ sống trong căm ghét, hận thù, thì thế gian này sẽ là bãi chiến trường đẫm máu, vì ai cũng muốn tranh danh, đoạt lợi, mà tìm cách hủy diệt lẫn nhau.

 

Ai nắm được chiếc chìa khóa của sự yêu thương và ghét bỏ nhờ biết tin sâu nhân quả, tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc, sống thành thật, biết sẻ chia và quý kính, tôn trọng lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống, thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc.

 

MONG CẦU KHÔNG ĐƯỢC NHƯ Ý KHỔ

 

Thứ bảy là “mong muốn mà không được như ý khổ”. Những gì mình muốn mà không được thì khổ. Ví dụ đi thi mong muốn được đậu, mà lỡ rớt thì sao? - Khổ quá. Ngoài việc thi cử ra, còn bao nhiêu thứ cầu mong khác nữa. Như trong công việc làm ăn, trong tình cảm… nhiều người muốn tự vận vì cầu mong mà không được toại nguyện.

 

Con người khổ khi không được toại nguyện, như ý do tham muốn, khao khát quá đáng những nhu cầu cần có của bản thân. Chẳng hạn như lúc đói thì muốn có cái ăn cái mặc đầy đủ, lúc no lại muốn giàu sang phú quý có kẻ hầu người hạ.

 

Ngoài ra còn có những nỗi khổ trong cuộc sống. Ở đời nếu được những việc như ý thì người ta vui, không như ý thì buồn, buồn tức là khổ. Mỗi người chúng ta thử nhìn lại cuộc đời mình xem được nhiều điều như ý hay  bất hạnh khổ đau? Người có diễm phúc thì điều bất như ý ít hơn, nhưng tất cả đều có gặp việc bất như ý. Đã bất như ý thì khổ hay vui? Đương nhiên là khổ. 

 

Con người chịu khổ khi phải tiếp xúc với những thứ mà không thích hoặc oán ghét. Người ta ở đời, hễ hy vọng càng nhiều thì thất vọng càng lắm. Bất luận trong một vấn đề gì, số người được toại nguyện thì quá hiếm hoi, mà kẻ bất như ý, thì không sao kể xiết. Muốn được kết quả tốt đẹp, người ta phải vận dụng không biết bao nhiêu năng lực, lao tâm, tổn trí, mất ăn, bỏ ngủ, chỉ mong sao cho chóng đến ngày thành công. Thế rồi, chẳng may những điều mong ước ấy không thành, sự đau khổ không biết đâu là bờ bến. Dưới đây, xin nêu lên vài thí dụ về những thất vọng mà người đời thường gặp nhiều nhất. 

 

Thất vọng vì công danh: Trong đời, danh vọng thường là một miếng mồi ngon mà phần đông người đời ưa thích. Nhưng miếng mồi ấy, phải đâu dễ giành giật được? Không nói gì đến những kẻ nhảy dù, muốn làm quan tắt, nên phần nhiều hay thất bại, chỉ nói đến trường hợp những kẻ mong cầu danh vọng một cách chánh đáng, bằng năng lực, tài trí, học hỏi của mình. Ðối với những hạng người này, cũng phải nếm bao mùi thất bại, cuối cùng may ra mới được thành công.

Thất vọng vì phú quý: Số người thất vọng vì công danh đã nhiều. Nhưng số người thất vọng vì phú quý cũng không phải ít. Muốn cho mau giàu, nhiều người tìm mưu này chước nọ để lừa phỉnh người ta; nhưng rồi mưu gian chước lận đỗ bể ra, tài sản bị tịch thu, bản thân bị tù tội, gia quyến bị nhục nhã theo, thực là khổ!  

Thất vọng vì tình duyên: Tình duyên cũng là một điều làm cho bao người phải điêu đứng, khổ sở. Trong trường tình ái, thử hỏi đã mấy ai được toại nguyện? Nhan nhãn trên báo chí hằng ngày, những câu chuyện tình duyên trắc trở đưa đến sự quyên sinh, thật không sao kể xiết. Ðấy là "Cầu không được cho nên khổ".

THÂN NĂM ẤM KHÔNG HÒA HỢP KHỔ

Điều thứ tám là ngũ ấm xí thạnh khổ, tức sự khổ về năm ấm hưng thịnh. Năm ấm là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc ấm thuộc về thân, bốn ấm kia thuộc về tâm hay còn gọi là phần tinh thần.

Điều thứ tám này bao quát bảy món khổ trước: thân thì sanh, già, bịnh, chết, đói, khát, nóng, lạnh, vất vả nhọc nhằn; tâm thì buồn giận,  thương ghét, phải quấu, tốt xấu, đúng sai, trăm điều phiền lụy.

Khổ do thân năm ấm này chung hợp lại. Vì sự chung hợp này được kết nối bởi các nhân duyên có khuynh hướng trái nghịch, bên trong luôn mâu thuẫn, chống trái nhau. Vì vậy mà khổ. Nhiều người còn trẻ nghe nói thân này khổ không tin, vì họ nghĩ đến tương lai hạnh phúc, làm sao khổ được? Có người nói rằng khi nào xúc chạm phải những điều trái ý mới khổ, nếu xúc chạm những điều như ý thì đâu có khổ. 

Phật nói thân này là gốc của khổ. Tại sao? Tại vì thân này vô thường đổi thay nên rồi ai cũng sẽ già, bệnh và cuối cùng là chết. Quý Phật tử khi ba mươi tuổi ít ai nhớ rằng mình sẽ già chết, mà cứ nhớ hồi còn mười tám, hai mươi.

Phật nói thân này biến hoại vô thường cho nên khổ, chớ không có cái vui lâu dài. Thật ra Phật dạy khổ không có nghĩa để chúng ta ôm ấp nỗi khổ đó suốt đời. Phật nói khổ để mình biết rõ nguyên nhân để tìm cách chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Khổ không phải tự dưng mà có, chính tập đế là những cội gốc của phiền não, là tập nhân tạo thành nên quả khổ. Cội gốc phiền não đó còn được gọi là căn bản phiền não. Có sáu thứ: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Sáu thứ này là nhân tạo thành quả khổ cho con người. Nếu ai diệt hết sáu thứ đó sẽ hết quả khổ.

Cho đến ngã mạn tức thấy ta cao, ta quan trọng. Do thấy như thế nên khi sắp mất rất khổ. Bây giờ nếu thấy ta là hư giả, tạm bợ thì có phách lối với ai không, thân này sắp hoại có khổ không? Sở dĩ chúng ta khinh người là vì thấy mình cao quí quá, quan trọng quá. Bây giờ thấy mình là tạm bợ, giả dối thì đâu có gì quan trọng. Không trọng mình nên đâu có khinh người. Rõ ràng chỉ cần chúng ta có một chút trí tuệ thấy đúng như thật, thì khổ về sinh già bệnh chết từ từ sẽ giảm bớt. 

Nếu lý giải bằng trí tuệ thì thật thân này không có gì quan trọng hết. Chẳng qua chỉ là một nhóm nhân duyên tụ hội lại chớ có gì đâu. Nhiều người thường vỗ ngực xưng tôi, nhưng hỏi cái gì là tôi thì trả lời không chạy. Nếu da thịt là tôi thì khi nó bệnh bác sĩ mổ bỏ đi, cái tôi đó thành gì? Chỉ cần da thịt có vết thương hôi thối, lúc đó mình quí hay muốn bỏ? Khi còn lành lặn ta thấy quí, khi nó hư hoại xem không ra gì, bỏ đi không chút thương tiếc. Rõ ràng cái ta không phải những gì mình đang mang đây. 

Lúc nào mình cũng thấy cái ngã là quí là thật nên khổ vì nó. Nếu chúng ta biết cái ngã không thật, không quí thì bỏ nó một cách dễ dàng, không đau khổ tí nào hết. Còn ngã mạn vì thân là còn đau khổ, hết ngã mạn mới hết đau khổ. Đó là năm ấm xí thạnh khổ.

Con người vì lòng ham muốn quá mức như giếng sâu không đáy, khi chưa được thì muốn cho bằng được, khi được rồi thì lại sanh nhàm chám muốn tìm thứ khác. Người biết tiết chế được lòng tham thì cuộc sống an nhàn và thảnh thơi không bị cuộc sống ràng buộc.

 

Từ nghiệp nhân ngu si mê muội, mà nhân loại đã tạo ra từ vô thủy kiếp đến nay nếu chúng ta không có duyên và may mắn gặp được thầy lành bạn tốt thì cuộc đời của ta có thể rơi vào ngõ cụt, đó là một sự thật.

 

Do si mê, tham đắm chấp thân-tâm làm ngã, từ đó muốn chiếm hữu về mình nên suy nghĩ, hành động sai lầm, thấy có ta, người và muôn loài, muôn vật nên bám chấp vào đó. Ý là đầu dây mối nhợ của phiền não, nó thường hay suy tư, nghĩ ngợi nên gọi là ý nghĩ; nó hay nhớ nghĩ về quá khứ hoặc hiện tại gọi là ý niệm; nó hay tưởng tượng, mơ mộng hão huyền nên gọi là ý tưởng và nó có công năng phân biệt, hiểu biết nên gọi là ý thức.

 

Do phân biệt, hiểu biết sai lầm nên ý thức không rõ được thực tướng của các pháp là vô ngã, không chủ thể cố định, từ đó sinh ra thấy biết sai lầm mà chấp ta, người, chúng sinh. Sự bám víu vào “cái ta” rồi đến “cái của ta” như vợ ta, con ta, nhà ta, tài sản của ta, đất nước của ta. Dưới cái nhìn của người thế gian như thế đâu có gì sai quấy, thế gian này nếu không bám víu vào “cái ta” và “của ta” thì con người sẽ sống ra sao?

 

Vì cuộc sống này như vậy nên chúng ta không thể làm khác được, còn sự sống là còn có tham muốn, nhưng ta phải tham muốn thế nào cho phải lẽ. Ở đây Phật vì lòng từ bi chỉ cho ta biết thân-tâm này không thật ngã để mọi người bớt luyến ái, chấp trước mà làm khổ cho nhau. Thật ra, đã làm người khó có ai muốn ít biết đủ, chỉ một bề mong cầu được nhiều mà không bao giờ nhàm chán. Tham muốn càng nhiều thì tội lỗi càng phát sinh, càng gây ân oán, hận thù cho nhau không có ngày thôi dứt.

 

Do vô minh mà sinh ra vọng động. Do có vọng động mà sinh ra vọng thức. Do có vọng thức mà sinh ra phân biệt có đủ thứ ta, người, chúng sinh. Do có sự phân biệt ta người, mà sinh ra xúc chạm. Do có sự xúc chạm mà sinh ra cảm thọ. Do có cảm thọ mà sinh ra tham ái, luyến tiếc, và từ đó bám víu, dính mắc vào sự hiện hữu của nó, nên sống chết, khổ não, ưu sầu, buồn lo đủ thứ.

Chữ sân trong Hán cổ biểu hiện một môi trường sống, như khi con người cảm thấy không hài lòng, vừa ý, bực tức, xung đột, bất bình dẫn đến mâu thuẫn đối kháng, gây hận thù và làm khổ đau cho nhau. Sự tức giận của con người có nhiều cấp độ khác nhau, như nói lời mỉa mai, cay cú, hằn học, mắng chửi, giận dữ, quát tháo, hờn mát, oán thù, đánh đập, chửi bới, hù dọa, triệt tiêu và hủy diệt nhau.

Sân hận là âm Hán Việt, là từ ngữ chỉ chung cho loại phiền não có tính cách bốc lửa. Sân có nghĩa là nóng giận, mỗi khi có sự việc bất bình không được hài lòng, vừa ý là nó bộc phát mạnh ra bên ngoài. Hận có nghĩa là hờn mát âm ỉ sôi sục bên trong, nói cho đủ là giận hờn.

Một khi con người sân hận, cộng với giận hờn mà không đủ khả năng hóa giải, thì lâu ngày trở thành thù ghét, do đó lúc nào cũng muốn tìm cách trả thù hay rửa hận. Giận là lời nói tắt của từ nóng giận, hờn là từ nói tắt của chữ hờn mát, gọp chung lại là giận hờn.

Sân hận có nghĩa là giận hờn. Khi chúng ta giận hờn ai đó mà cứ ghìm mãi trong lòng thì lâu ngày trở nên thù hằn, ghét bỏ, âm ỉ tìm cách trả thù thích đáng, khi có cơ hội là ra tay liền. Giận hờn là một thói quen xấu có tính cách hại người, hại vật, dù nặng hay nhẹ thì chắc chắn cũng làm tổn hại đến những người xung quanh. 

Không phải ai khi đã thức tỉnh chỉ một lúc là các tập khí, thói quen xấu dứt trừ được hết. Kết quả còn tùy theo sự huân tập tật xấu nhiều hay ít của mỗi người.

Trong khi đó, Phật dạy thân này do bốn chất đất, nước, gió, lửa hòa hợp lại mà thành, nên không có gì là thực thể cố định cả. Cái được gọi là ta, là của ta, nó cũng không thật, ai chấp vào đó thì sinh ra luyến ái, bám víu mà lầm tưởng là thật ta, nên mới chấp ngã rồi từ đó sinh ra chiếm hữu, ai nghĩ và làm như vậy tức là người vô minh nên lúc nào cũng sống trong đau khổ lầm mê.

 

Còn tâm suy tư nghĩ tưởng, hết nhớ chuyện này đến nhớ chuyện kia, không lúc nào dừng nghĩ. Khi thì nghĩ tốt, lúc thì nghĩ xấu, có khi thì hiền như nai tơ, có lúc thì lại dữ như cọp sói. Như người có chút ít công phu do kiên trì, bền bỉ, biết cách buông xả vọng niệm, nên có khi ngưng bặt mọi suy nghĩ.


Từ cái thấy thân kiến là cái thấy sai lầm về thân, tức chấp vào sự hiện hữu của cơ thể con người là tôi, là của tôi, nên từ đó bắt đầu chiếm hữu. Ai đụng đến cái tôi này thì có sự phản kháng mãnh liệt, do đó dấy khởi phiền não tham sân si, mà dẫn đến tranh đấu giành phần thắng lợi về cho riêng mình để loại trừ lẫn nhau.

 

Quan niệm về thân kiến này sẽ trường tồn mãi mãi và chỉ có hai con đường để ta chọn lựa, một là lên thiên đàng hưởng phước báo tối cao, hai là xuống địa ngục chịu khổ đau lâu dài. Đó là cái thấy sai lầm do không có sự thể nghiệm thực tế, không có sự trải nghiệm bản thân, mà làm cho con người mất hết quyền làm chủ chính mình trong cuộc sống hiện tại.

 

Biên kiến là cái thấy một bên, nghĩa là có một linh hồn bất tử sống đời không thay đổi, tức là thường còn mãi mãi và quan niệm chết là hết, tức là không còn gì nữa, chỉ có một đời sống hiện tại mà thôi. Linh hồn bất tử là cái hồn sáng không bao giờ mất, nói như vậy có phù hợp với chân lý hay không?

 

Thường thì con người thế gian lấy bản ngã làm tâm điểm, nhân danh đấng thần linh thượng đế, để tạo ra sự bất công và muốn chiếm hữu, nên đã gây ra nhiều tội lỗi cho muôn loài vật.

 

Tất cả những điều này là do cái thấy biết sai lầm của một số người thế gian, họ lạm dụng sự thiếu hiểu biết của nhân sinh mà áp đặt số mệnh, để con người phải chấp nhận phục tùng một cách mù quáng như một tín đồ, mà không có quyền góp ý xây dựng trên tinh thần yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ, sẻ chia, để cùng nhau sống với trái tim hiểu biết.

 

Ý thức được khổ đau do sự si mê chấp ngã gây ra, mà con người đành lòng nhẫn tâm giết hại lẫn nhau để bảo tồn cái thân vô thường bại hoại này. Chúng ta thử lắng dừng tâm tư một chút, để nhìn thấy rõ cuộc đời là một dòng trôi chảy biến thiên, không dừng hẳn ở một phút giây nào, không đứng mãi một vị trí nào.

 

Quan niệm cố giữ và chiếm hữu, là nguyên nhân của sự thấy biết sai lầm do sự si mê chấp ngã mà ra. Thân này rồi cũng phải già nua mà chúng ta muốn trẻ mãi không già, thân này bệnh hoạn đau nhức mà chúng ta muốn sống hoài không bệnh, thân này thở ra mà không còn thở vào thì coi như bị ngủm cù đeo mà chúng ta muốn sống hoài không chết. Một sự thật quá rõ ràng mà ít ai nhìn thấy, chúng ta thử quán chiếu cuộc đời này với những cái có hình tướng, coi nó có mãi trường tồn hay không.

 

Thân này sinh già bệnh chết, mà chúng ta muốn nó không già bệnh chết làm sao được? Chúng ta thường xuyên quán chiếu về thân như thế và luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người khi có nhân duyên, nhờ vậy những tâm niệm tham sân si dần dần rơi rụng bớt theo thời gian cho đến khi, ý không còn suy nghĩ xấu nữa mà hay làm các điều thiện lành và không bám víu vào việc làm tốt đó, thì thành tựu viên mãn công hạnh Bồ tát.

 

Tám cái khổ đó không phải tự có mà do các thứ bệnh sinh ra. Bệnh tham, bệnh sân, bệnh si, bệnh mạn, bệnh nghi, bệnh ác kiến. Riêng nghi có chia ra hai thứ: một, nghi do phân vân không quyết đoán điều hay lẽ thật, cái nghi này làm chướng ngại việc tu; hai, trong nhà thiền thường dùng câu “đa nghi đa ngộ”, nghĩa là nghi nhiều ngộ nhiều. Tại sao? - Vì cái nghi của nhà thiền là nghi để phăng tìm. Do phăng tìm mới sáng lên, còn cứ một bề nghe sao hay vậy, không thắc mắc gì cả thì không bao giờ hiểu thấu đáo được. Cho nên nói đa nghi đa ngộ. Cái nghi này là nghi tốt, giúp cho chúng ta tiến trên con đường tu. 

Cuối cùng là bệnh ác kiến. Đây là bệnh rất trầm trọng. Chữ kiến là nhận định, chữ ác là sai lầm. Khi nhận định và thấy biết sai lầm, ta lại cố chấp nhận định của mình là đúng thì trở thành ác, gây ra tội lỗi. Vì nhận định sai lầm mà cố chấp vào đó sẽ dẫn đến dám làm những điều tai họa cho nhân loại. Do đó ác kiến là cái nguy hiểm nhất. Song ở thế gian lại có nhiều ác kiến. 

Ví dụ chúng ta nghĩ tu là được vui, được sinh về các cõi lành hoặc được giải thoát, vì thế cứ tu cho mình mà không nghĩ tới những người chung quanh như cha mẹ,  anh em v.v... Không cần biết tới mọi chuyện trong sinh hoạt hằng ngày. Ai sao mặc, miễn ta yên ổn tu là được. Nếu có người khuyên bảo, nhắc nhở trách nhiệm, liền đổ quạu bảo Ma vương phá không cho tu. Nghĩ vì mình nhiều quá nên càng tu mọi người chung quanh càng chán mình. Bởi họ thấy ta ích kỷ. Tu mà để cho người ta phiền hà khó chịu cũng là cố chấp. Cho nên ác kiến cũng là một trở ngại trên đường tu của chúng ta. 

Phật gọi sáu thứ bệnh đó là sáu thứ phiền não căn bản. Nếu dẹp sạch sáu thứ này mới được an vui thật sự. Như vậy Phật nói khổ không phải để chúng ta chịu khổ, mà nói khổ để chúng ta biết cách chuyển hóa hết gốc khổ đau, thì được an vui hạnh phúc.

Cho nên mới có đế thứ ba là Diệt đế, nghĩa là diệt sạch hết nhân khổ. Khi hết khổ, Phật nói hết khổ chớ không nói vui. Tại sao? Thường thường chúng ta cứ mắc kẹt trên từ ngữ đối đãi khổ vui. Nhưng sự thật hết khổ là vui rồi, vì cái vui này trong tỉnh giác nên thấy biết đúng như thật.

Chúng ta nên biết khổ vốn không tự có mà do nhân tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến mới có. Nếu những nhân làm cho mình khổ diệt hết thì chúng ta sẽ an vui hạnh phúc. Phật dạy ngay nơi thân này sẵn có tánh sáng suốt thanh tịnh mà hằng chiếu soi muôn sự vật. Chúng ta muốn tánh sáng suốt thanh tịnh hiển bày thì phải chuyển hóa tâm phiền não tham sân si.

Chính bản thân mình phải tự gạn lọc những nhân xấu ác gây ra đau khổ khi chúng ta chuyển hóa hết nhân đau khổ thì tự nhiên được an vui tự tại.                         Diệt hết các nhân khổ gọi là diệt đế tức hết khổ.

Đạo đế là những phương tiện, những cách thức để chúng ta ứng dụng tiêu diệt các nhân khổ theo lời Phật dạy. Như vậy bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật rất cụ thể, rất thực tế, không có gì gọi xa rời thế gian. Đó là vấn đề cần được nêu lên để chúng ta thấy rõ cái gì thực, cái gì hư mà tìm cách gạn lọc và tu tập.

Người học Phật phải thấy rõ chủ yếu của đạo Phật là giúp mọi người thoát khỏi khổ đau trong luân hồi sống chết. Muốn cứu khổ thì phải chỉ cái khổ cho người ta thấy, kế đó ta chỉ rõ nhân gây ra đau khổ để tiêu diệt nó. Nhân đau khổ hết thì quả đau khổ cũng hết theo. Muốn thế phải có phương pháp cụ thể, ứng dụng một cách thiết thực, chớ không phải cầu nguyện suông mà được.

Hiểu sâu sắc quy luật duyên sinh và nhân quả, con người sẽ hạn chế được rất nhiều nỗi khổ, niềm đau xảy ra cho mình và người khác. Nếu chúng ta bớt tham lam thì không có khổ của sự mong cầu quá đáng, bớt ái ngã thì không có khổ khi xa lìa người thân.

Đức Phật rất thực tế, cụ thể, không viển vông mơ hồ. Chúng ta tu theo Phật không bao giờ tin suông. Khi nào xét thấy rõ ràng, nhân quả tương ưng như thế ta mới tin và làm theo. Ví dụ Phật dạy tám cái khổ trên là do sáu nhân phiền não căn bản mà có.

Thật ra thân và tâm có mối tương quan mật thiết với nhau, do đó những nỗi khổ ở thân sẽ dẫn đến những nỗi khổ ở tâm và ngược lại, những nỗi khổ ở tâm cũng dẫn đến những nỗi khổ ở thân. Ví dụ, khi thân đau nhức thì tâm trạng khó chịu, bực bội, dễ sinh nóng giận. Khi tâm âu lo, buồn phiền, căng thẳng thì cơ thể uể oải, mệt mỏi, ăn không ngon, ngủ không yên.

 

Tuy nhiên có thể nói đau đớn là những gì khó chịu nơi thân và nỗi khổ là những gì khó chịu nơi tâm. Bởi vì có nhiều trường hợp có đau nhưng không  khổ, hoặc chỉ khổ chút ít thôi. Điều này còn tùy thuộc vào sự tu tập của mọi người, ai hiểu đạo chỉ đau ở thân chứ không khổ ở tâm.

 

Như người lớn vô tình bị đứt tay chỉ có đau chứ không có khổ, nhưng trẻ em đứt tay thì có cả nỗi khổ niềm đau. Những vị tu hành có định lực và  tuệ giác, có sự quán chiếu thâm sâu thì những nỗi khổ niềm đau không chi phối được người đó.

 

Cuộc sống này có rất nhiều nỗi khổ niềm đau, do chúng ta tham ái và chấp ngã mà ra. Càng coi trọng bãn ngã, càng tham muốn nhiều thì nỗi khổ niềm đau sẽ có cơ hội phát sinh. Nhất là những người có sắc đẹp, hình tướng dung mạo dễ coi, họ sẽ đau khổ nhiều khi bị người khác coi thường khinh chê.

 

Nỗi khổ niềm đau cũng dễ bị khuếch đại, làm tăng thêm sự chấp ngã do cái “tưởng” của con người. Tưởng là tri giác, hồi ức, nhớ lại những gì mình thấy nghe hay biết. Ví dụ một người bệnh không đến nỗi nào, nhưng cứ nghĩ mình bị bệnh nan y nên ngày đêm lo sợ, khiến cho anh ăn không ngon, ngủ không yên, tinh thần mệt mỏi, bệnh tật càng trở nên trầm trọng. Tất cả đều do “tưởng” mà ra. Khi chúng ta rõ biết cuộc đời vui ít khổ nhiều là do lòng tham muốn quá đáng, chúng ta sẽ biết cách tiết chế dục vọng bằng phương pháp "muốn ít biết đủ".

 

NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN CÁC SỰ KHỔ ĐAU           

 

Khi chúng ta nói về khổ đau, đa phần người ta rất dễ đồng ý, nhưng khi nói đến nguyên nhân của đau khổ, ngay cả người Phật tử đôi khi cũng khó có được sự nhất quán cái gì là nguyên nhân của đau khổ.

Đức Phật nói cuộc đời là bể khổ theo cái vòng lẫn quẫn của nhân quả thiện ác, tốt xấu đan xen chằng chịt, cho nên nước mắt chúng sinh do khổ đau đem tích chứa lại còn nhiều hơn nước trong bốn biển. Cái khổ là một sự thực hiển nhiên, đã làm người thì ai cũng phải chịu đau khổ ít hay nhiều. Dầu giàu nghèo sang hèn ai cũng có cái khổ riêng của mình nhưng người đời ít ai dám nhìn nhận vào bản chất thật của nó.

Tựu trung cái tâm lý chung của người đời là sợ đau khổ và sợ cả sự nghĩ đến đau khổ, luôn luôn có thái độ lẫn tránh, che đậy hay muốn quên đi bằng cách ẩn mình trong những vui thú nhất thời. Do đó, người đời ít khi muốn bàn đến đau khổ, vì ai cũng muốn sống trong sự vui tươi và ai cũng mong cầu hạnh phúc.

Cái nguyên nhân chính là dục tức là lòng ham muốn không có giới hạn như biển sâu không đáy. Con người khổ vì ham muốn sống đời không chết nên cố luyện trường sanh bất tử, ham muốn chiếm đoạt, ham muốn khoái lạc về vật chất lẫn tinh thần, ham muốn tình cảm, nói tóm lại con người ham muốn đủ thứ hết dù phải rơi vào vòng tội lỗi.

Khi tham muốn được rồi lại muốn nhiều thêm nữa, muốn mà không được thì sinh ra sân hận tìm cách trả thù. Con người khi thiếu thốn quá cho rằng đó là khổ, bởi thiếu thốn nên ta mong muốn có được đầy đủ, nhưng mong muốn mà không được như ý là khổ, được rồi lại mất càng khổ hơn, mọi đau khổ ở đời đều do nguyên nhân chính là dục.

Thân xác chúng ta luôn luôn có những nhu cầu cần được thoả mãn như: ăn no, mặc ấm, ngủ nghỉ thoải mái, vui chơi giải trí nhà cao cửa rộng là những điều kiện mà ta cho là hạnh phúc, rồi đến các nhu cầu sinh hoạt khác như hưởng thụ khoái lạc, danh vọng, chức tước và quyền lực.

Khi chúng ta mưu cầu tìm kiếm hạnh phúc cá nhân, tất nhiên ta phải đụng chạm đến nhiều người khác cũng đang tìm như ta vậy. Sự ham muốn quá đáng làm cho ta mù quáng, do đó chúng ta chỉ muốn hưởng thụ trên sự đau khổ của kẻ khác.

Đức Phật ví sự vui khổ ở đời cũng như những cảm giác khó chịu của người gánh nặng. Khi chúng ta đổi vai đang gánh nặng thì sẽ cảm thấy dễ chịu và vai có gánh thấy nặng nề khó chịu, ta cứ thế mà đổi vai qua lại để có được một chút dễ chịu.

Do đó nên biết cái vui lúc nào cũng đi liền với cái khổ, chỉ khi nào chúng ta bỏ gánh nặng xuống hoàn toàn thì mới chấm dứt hẳn cảm giác khổ vui. Bỏ gánh xuống nghĩa là chúng ta đã chuyển hóa được tham muốn, tức là chúng ta đã tự tại, giải thoát vậy. "Chiến thắng mười vạn quân còn dễ hơn chiến thắng lòng mình, chúng ta tự thắng được mình là chiến công oanh liệt nhất."

Khi còn nhỏ lúc 8 tuổi có một lần đi xem lễ hạ điền tức lễ cày ruộng đầu năm, thái tử ngồi dưới tán cây nhìn các nông dân cày ruộng. Khi đất bị cày lên, đủ thứ loại côn trùng tìm cách chạy trốn trong hoảng loạn, chim chóc thấy thế sà xuống gắp ăn. Rồi phía trên cao những con chim lớn hơn đang canh chụp bắt các con chim đó.

Nhìn thấy cảnh tượng chúng ăn nuốt lẫn nhau theo quy luật lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu, ngay khi ấy thái tử cảm nhận được quy luật sống chết của muôn loài vật. Con này sống và tồn tại là từ sự chết chóc đau thương của con vật kia. Con này được sống thì con kia phải ra đi trong oằn oại đau đớn vô cùng. Và tương tự như thế, với sự sống của con người biết bao nhiêu loài vật khác phải chịu đau thương chết chóc để cho nhân loại được tồn tại.

Ngày xưa, chưa có quan niệm ăn chay. Nhưng khi thấy cảnh các loài vật ăn nuốt lẫn nhau theo nguyên lý lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu thì thái tử đã thấy thương tâm, bởi sự sống của chính mình mà làm khổ đau chúng sinh khác. Bây giờ tinh thần ăn chay đã được lan rộng khắp cả thế giới, rất nhiều người thích ăn chay vì tu tập, vì từ bi, vì thương xót, vì giảm bệnh, vì ý thức sự khổ đau khi làm tổn hại các loài vật. Tuy nhiên thế gian này đại đa số con người vẫn không chấp nhận việc ăn chay, vì họ quan niệm rằng vật dưỡng nhân.

Nếu sự thật “vật phải dưỡng nhân”, có nghĩa con vật được sinh ra để phục vụ con người, để bồi bổ sức khỏe cho mình thì chúng ta tội gì phải ăn chay lạt đạm bạc. Cái hiểu biết và nhìn nhận như thế là chưa có sự đồng cảm với muôn loài vật, là sự tham lam, ích kỷ của con người không có lòng từ bi thương xót chúng sinh.

Ngày xưa khi thái tử còn nhỏ mà thấy các loài chim ăn côn trùng là đã thương tâm rồi, bởi vì trong Ngài đã có tâm từ bi rộng lớn thương yêu bình đẳng tất cả chúng sinh. Chúng ta nở lòng nào đi cắt cổ mỗ họng chiên xào nấu nướng những con vật mà mình không hề biết đến sự đau đớn tột cùng của nó, rồi còn biện luận rằng “vật dưỡng nhân”. 

Nếu thực sự các loài vật được sinh ra để nuôi dưỡng chúng ta thì con gà, con vịt, con cá, con heo, con bò, con trâu... nó sẽ tự nguyện đến mời chúng ta làm thịt nó để ăn? Hay là chúng ta vì ham ăn ngon nên bắt các loài vật để làm thịt thì nó kêu la thất thanh trong hoảng sợ? Con người quá khôn ngoan thông minh và lanh lợi, con vật dù lớn tới đâu cũng bị con người khống chế rồi bắt giết. Khi chúng ta rượt bắt thì nó hoảng sợ và chạy trốn? Sợ tức là sợ đau đớn, sợ bị giết, sợ chết chóc. Loài vật nó không sẵn sàng để cho mình làm thịt, nhưng chúng ta vì tham ăn món ngon vật lạ, nên phải giết nó để mà ăn rồi đổ thừa vật dưỡng nhân.

Chúng ta khi có tu tập sẽ thấy rõ cái vòng lẫn quẫn của sự giết hại nhau là do không có hiểu biết, không có lương tâm, không có tính người và không có lòng từ bi đối với muôn loài vật. Chúng ta không nên vì tẩm bổ cho mình mà để cho các loài vật phải chịu khổ đau. Nghĩ được như vậy thì lòng từ bi của mình được phát triển, cho nên chúng ta ăn chay là để tăng trưởng lòng từ bi. Ngoài ra, nếu chúng ta không giết hại thì không mắc nợ mạng sống, không bị bệnh tật hiểm nghèo hành hạ đau đớn, không bị sáu căn khiếm khuyết hoặc chết yểu.

Ngày xưa khi chúng ta chưa biết ăn chay vì quan niệm sai lầm “vật dưỡng nhân”, quý Phật tử có thể giết heo, mổ trâu, làm gà, làm vịt, làm cá chim đủ loại... Hôm nay chúng ta đủ duyên đi chùa thực tập hạnh buông xả, phát triển lòng từ bi cho nên ta ăn chay, sống đời hiền thiện để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Ngày xưa người phụ nữ lo việc nội trợ bếp núc trong nhà nên giết hại đủ thứ các loài vật lớn nhỏ để phục vụ cho cha mẹ chồng con. Ngày hôm nay nhờ gặp Phật pháp chúng ta mới biết tu tĩnh, ăn chay, thực tập hạnh buông xả lâu ngày được thuần thục, chúng ta cảm nhận được bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Bây giờ chúng ta tu tập đã thuần thục mới thấy, ăn chay sẽ làm cho tâm trí của chúng ta ngày càng thêm sáng suốt nên phân biệt được đúng sai, phải quấy, chánh tà… Khi tâm từ tăng trưởng, thì chắc chắn chúng ta sẽ được sống vui tươi an ổn, không sợ oán thù vay trả.

Như vậy, khi chúng ta ăn chay, nhìn thấy khuôn mặt hiền từ, thân tướng trang nghiêm, trong lòng cảm thấy an ổn nhẹ nhàng. Còn khi chúng ta ăn mặn thì các chất tanh hôi đó nó làm cho mình thêm si mê, tham lam và ân hận nên dễ dàng nóng nảy mất tự chủ mà làm tổn hại người khác.

Tương lai của chúng ta luôn là sự kết tinh với hiện tại, ngay tại đây và bây giờ ta được bình yên, hạnh phúc thì tương lai cũng sẽ hưởng được nhân quả tốt. Khi rơi vào trạng thái khổ đau quá lớn, ta hay trách móc người thân yêu, để rồi gặm nhấm nỗi đau mà than thân trách phận chứ không tự tìm ra lối thoát. Ta tự chấp nhận mình là kẻ khổ đau nhất trên đời này, chứ không chịu cho ai kéo mình thoát khỏi vực thẳm đen tối ấy.         

Khi còn nhỏ dại và không đủ nhận thức sáng suốt thì em bé dễ hờn dễ khóc, nhưng chỉ cần người khác vỗ về đôi chút là em bé trở lại trạng thái bình thường. Vậy nên ta muốn có ánh sáng bình minh, muốn vượt thoát cơn khổ đau tuyệt vọng thì ta phải làm mới lại chính mình, bằng cách làm chủ bản thân từ thân miệng ý. Cây khô mọc theo triền núi một khi đã sống rồi thì dù có phong ba bão táp cũng không thể làm nghiêng ngã được. Ta cần phải sống lại con người chân thật thuở ban đầu như trẻ thơ hồn nhiên suốt năm tháng khi còn nhỏ.    

Nếu biết nhìn sâu vào nội tâm ta sẽ cảm ơn những ai đã từng làm cho mình dày dò đau khổ vì nhờ họ mà ta mới biết rõ năng lực trong ta còn yếu kém mà cố gắng tu tập chuyển hoá nhiều hơn. Và chính nhờ những nỗi đau ấy mà cho năng lực của ta càng thêm thâm hậu, vì ta đã ý thức sâu sắc về giá trị của cuộc đời mà quyết tâm làm mới lại chính mình, bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Ta hãy tin chắc rằng mọi thứ trên đời này đều vô thường, cái gì rồi cũng sẽ đổi thay, và ta sẽ không còn tuyệt vọng nữa, bởi vì trong ta đã có chất liệu của tình thương.

Thế gian này với vô vàn nỗi khổ niềm đau, mỗi người khổ mỗi cách, có người khổ vì thiếu thốn đói rét, có người khổ vì không gia đình người thân, có người khổ vì gia đình không hạnh phúc, ai cũng khổ, khó có ai được niềm vui trọn vẹn cả. Vậy mà Phật nói cuộc đời là khổ thì chúng ta lại nói đạo Phật bi quan, yếm thế. Rõ ràng con người luôn chối bỏ sự thật, chạy trốn sự thật và không chấp nhận sự thật. Chúng ta thử nghiệm lại trên thế gian này, từ người giàu sang cho tới người nghèo khó, có ai mà không khổ đâu, có ai được sống hoàn toàn vui vẻ, hạnh phúc?

Khổ đau không phải tự nhiên đến, mà tại chúng ta tạo nghiệp si mê lầm lẫn do thiếu sáng suốt vì thấy biết sai lầm. Có người nghe Phật dạy đời là khổ, thân là vô thường, vạn vật đều biến chuyển đổi thay .v.v. cho rằng Phật bi quan. Nhưng, khi chúng ta thấy được lẽ thật đó sẽ bớt chấp trước dính mắc vào cuộc sống tạm bợ vô thường, chính nhờ vậy mà ta biết cách chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

 

Chúng ta phải dám nhìn nhận sự thật mới thấy thân tâm này là vô thường tạm bợ nên bớt tham đắm luyến ái mà tạo ra nỗi khổ niềm đau cho mình và người. Chúng ta hãy thường xuyên quán chiếu như vậy nên thấy rõ mạng sống trong hơi thở là giảm bớt tham muốn quá đáng.

 

Vậy mà chúng ta cứ cắm đầu lo hết việc này đến việc khác, còn việc làm sao để gạn lọc thân tâm cho được trong sáng, tốt đẹp bớt tham sân si thì ta ít quan tâm tới. Phần nhiều Phật tử đi chùa học Phật, chỉ muốn tu để đời sau được sung sướng hơn, đẹp đẽ hơn, nhiều của cải vật chất hơn, chớ không muốn được giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.

Nhân quả báo ứng theo ta như bóng với hình, nổi khổ niềm đau sẽ theo ta từ đời này cho đến kiếp khác không có ngày thôi dứt, chính vì sự sống của mình mà chúng ta phải giết hại các loài vật. Cho nên có cuộc sống là có khổ đau, thái tử khi còn nhỏ đã thấy rõ ràng tất cả các loài có tình thức đều phải chịu như thế.

CUỘC ĐỜI CÓ THẬT SỰ KHỔ ĐAU HAY KHÔNG?

Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọ và nhận thức của mỗi người. Nguyên nhân của sự đau khổ do bản thân mình gây ra hay tác động bởi hoàn cảnh xã hội, nhưng khổ đau có nguồn gốc từ sự tưởng tượng của con người.

Người đã thật sự giác ngộ chỉ khổ thân chứ không khổ tâm. Bởi vì thân và tâm có mối tương quan mật thiết với nhau, do đó những nỗi khổ ở thân sẽ tác động đến nỗi khổ ở tâm nếu không biết tu. Như thân đau nhức thì tâm trạng cảm thấy khó chịu, bực bội, dễ sinh ra nóng giận và hờn mát. Khi tâm chúng ta buồn phiền, lo lắng quá mức thì cơ thể uể oải, mệt mỏi, ăn không ngon, ngủ không yên.

 

Thông thường người ta hay dùng từ “khổ đau” để chỉ chung cho nỗi khổ niềm đau qua thân vật chất và tinh thần. Tuy nhiên chúng ta có thể biết rõ đau nhức là những gì khó chịu nơi thân và nỗi khổ tâm là ray rức, bực bội, tức tối và buồn phiền.

 

Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả. Thực ra người nghèo có nỗi khổ của người nghèo, mà người giàu cũng có nỗi khổ của người giàu. Người nghèo vì không chấp nhận cái nghèo, oán ghét cái nghèo, muốn giàu mà không được cho nên họ khổ. Người giàu muốn giàu thêm do lòng tham lam, nhưng khi giàu có rồi lo sợ đủ thứ, sợ mất mát, sợ hao hụt, sợ trộm cắp, sợ bị phá sản, sợ người khác lợi dụng nên khổ. So ra, người giàu có nhiều nỗi khổ hơn vì phải tìm cách gìn giữ và phát triển thêm.

 

Nhiều người hay than rằng sao tôi cực khổ quá vậy, họ gộp chung cực với khổ trở lại thành một. Trong khi bản thân của sự cực nhọc chưa chắc đã là khổ. Chỉ vì ta phân biệt tính toán quá nhiều, rồi ta kháng cự lại nó, ta muốn mình không phải vất vả nhiều nhưng vẫn có đầy đủ mọi thứ như những người giàu có, nên ta khổ.

 

Có những người làm công tác cứu hộ, họ biết lao vào lửa dữ, chui xuống lòng đất hay đi ngang qua lằn tên mũi đạn sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng, nhưng vì trách nhiệm, vì tình thương mà họ không hề xem đó là nỗi khổ niềm đau chỉ mong làm sao cứu người. Và điều mà ta thường than thở với nhau nhiều nhất đó là đau khổ, hễ đau là phải khổ, như là một sự thật không thể thay đổi được từ xưa cho đến nay.

 

Cho nên thay vì than van “khổ quá” thì chúng ta hãy nên tìm ra nguyên nhân vì sao chúng ta đau khổ. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng ta không phải là một cá thể tồn tại biệt lập, mà ta phải luôn chịu sự tác động tương quan của chung quanh, từ bạn bè, gia đình đến xã hội và cả thế giới với muôn loài vật.

 

Đối với những mất mát quá lớn tất nhiên ta phải cần có thời gian mới chấp nhận và điều hòa trở lại bình thường được. Có nhiều người hay than vãn trời mưa cũng khổ, nắng quá lại than nóng khó chịu, kẹt xe cũng khổ, bị lỗi hẹn cũng khổ, thức ăn không vừa miệng cũng khổ, được nhiều người thương cũng khổ… Chúng ta hay đổ thừa hoàn cảnh. Không ai có thể làm cho ta khổ được nếu ta biết được nguyên nhân của nó bằng hiểu biết đúng đắn.

 

Ngoài ra, chúng ta hãy nên thường xuyên luyện tập cho mình cách đối mặt với khó khăn, không trốn tránh cuộc sống và cũng đừng quá cầu mong sự an toàn, để rèn luyện sức kham nhẫn của ta. Những đứa trẻ lớn lên trong môi trường được gia đình, người thân bảo bọc quá đầy đủ, muốn gì được nấy, sẽ dễ dàng vấp ngã trước biến động của cuộc đời.

 

Đúng, khổ đau là một thực tại không ai có thể chối cãi được, nhưng tính chất của nó vốn không cố định. Suy cho cùng, ta cần phải biết ơn khổ đau. Bởi khổ đau vừa giúp ta ý thức được cái gì là hạnh phúc, vừa giúp khả năng chịu đựng trong ta lớn mạnh, để ta có thể phát huy hết khả năng sẳn có nơi chính mình.

 

Nếu chúng ta không bị lạc đường trong đêm tối vô minh, ta sẽ khó biết mình sợ hãi đến mức nào, nếu không bị người khác xúc phạm ta sẽ khó biết mình nóng giận nhiều ai ít. Thông qua những chướng duyên nghịch cảnh của sự sống, ta mới thấy rõ những nỗi khổ niềm đau đã tìm ẩn sẵn bên ta bởi do cố chấp thân tâm này làm ngã.

 

a-Khổ khổ 

 

Nghĩa là khổ vì làm việc nhọc nhằn vất vả, khổ vì đói khát lạnh nóng, khổ vì bệnh tật, tai nạn, khổ vì chiến tranh, thiên tai, lũ lụt…. Đây là mức độ khổ thông thường mà ai cũng có thể cảm nhận được.

 

Khổ là chữ nói tắt, nói đầy đủ là chữ khổ đế, do dịch nghĩa chữ Dukkha mà ra. Nghĩa là khó chịu đựng, khó kham nhẫn. Nói rộng là những cái gì làm cho mình khó chịu, mình đau đớn như: ốm đau, đói khát, buồn rầu, lo lắng, sợ hãi v.v.. Ðế là một sự thật vững chắc, đúng đắn. 

 

Khổ đế, là sự thật đúng đắn vững chắc, sự thật nầy nó rõ ràng, minh bạch không ai có thể chối cãi được. Sau đây, chúng ta hãy nghe đức Phật giải bày một cách tường tận, sâu sắc, tỉ mỉ về sự khổ đau của con người.

 

Theo lời Phật dạy sự khổ ở thế gian, thì vô cùng tận, có thể phân loại ra làm ba thứ khổ hay tám thứ khổ.

 

Cái khổ này chồng chất lên cái khổ kia, bản thân đã là đau khổ, mà hoàn cảnh chung quanh ta lại còn vô số các sự khổ khác cứ đè nặng trên đôi vai của con người gọi là "Khổ khổ". Đã là chúng sinh tức loài có tình thức, thì đương nhiên phải chịu nhiều khổ ải trong cuộc sống. Hơn nữa, cái thân ấy cũng không bền chắc lâu dài, mà trái lại rất mong manh, vì thở ra mà không thở vào coi như mạng sống đã chấm dứt. Chúng ta khát nước năm bảy ngày, ngạt thở độ năm ba phút, đứt một mạch máu, bị tai nạn bất đắc kỳ tử là mạng sống chấm dứt rồi chuyển sang đời khác.

 

Đã là chúng sinh tất nhiên còn nhiều cái khổ khác chất chồng lên chúng ta, không sao tránh khỏi được như: bệnh tật, đói khát, bão lụt, hỏa hoạn, chiến tranh, áp bức, sưu cao thuế nặng v.v... Chính vì thế nên gọi là "khổ khổ".

 

b-Hoại khổ

 

Tất cả mọi hiện tượng từ con người cho đến muôn loài vật trong bầu vũ vũ bao la này đều bị vô thường chi phối, con người thì sinh già bệnh chết không thể tồn tại mãi được cho nên khổ.

 

Con người dù có sức mạnh bao nhiêu, quyền thế địa vị cao cả, giàu có sang trọng thậm chí một số người luyện trường sanh bất tử nhưng cuối cùng rồi ai cũng phải chết.

 

c-Hành khổ

 

Nghĩa là khổ vì duyên sinh, tức trạng thái khổ ở kiếp này mà còn là nền tảng cho đau khổ trong kiếp sau. Cái khổ này nối tiếp nhau kéo từ đời này sang đời khác không có ngày thôi dứt bởi do con người ngu si, mê muội chấp thân tâm này làm ngã nên mới chiếm hữu và bám víu.

 

Về phương diện vật chất, ta bị ngoại cảnh, thời gian chi phối, biến hoại và hủy diệt còn về phương diện tinh thần, ta cũng không hề làm chủ bản thân, tự do tự tại được. Tâm tư ta thường bị vẫn đục bởi những dục vọng tham muốn thấp hèn, luôn lôi kéo và chi phối ta trong từng phút giây.

 

Tư tưởng ta luôn thay đổi biến chuyển hết nghĩ cái này đến suy tính cái kia nó cứ lăng xăng từ chuyện này sang chuyện khác, như khỉ vượn chuyền cành, không bao giờ dừng nghỉ.

 

Nếu xét sâu xa hơn nữa, ta thấy trong mỗi ý nghĩ, cử chỉ hành động của chúng ta. Ta giận, ta thương, ta ghét, ta muốn thứ này, ta thích thứ kia, phần nhiều do thói quen chấp trước cho rằng cái hay suy tư nghĩ tưởng là ta. Tóm lại, ta không được tự do, ta bị chi phối bởi những ý tưởng, dục vọng, và sự tham muốn quá đáng đó là "Hành khổ".

 

Có rất nhiều loại nỗi khổ niềm đau, nhưng chúng xuất hiện và tồn tại lâu hay mau là do sự tham ái và chấp ngã mà ra. Càng chấp ngã nặng nề thì càng tham ái và bám víu vào đó mà có nhiều nỗi khổ niềm đau. Nhất là những người có nhan sắc xinh đẹp, dễ thương họ sẽ luyến ái bám chấp vào vẻ đẹp của thân thể, chính vì thế họ sẽ đau khổ gấp nhiều lần so với người bình thường.

 

Ai tham lam luyến ái nhiều thì sẽ rất sợ chết, họ lo lắng sợ hãi mỗi khi bị bệnh tật hoặc tai nạn. Người Phật tử chân chính thấm nhuần lời Phật dạy hiểu rõ thân tâm và hoàn cảnh mọi thứ đều duyên sinh, vô ngã, vô thường, không gì bền chắc và lâu dài, nên vui vẻ không tiếc nuối khi mình lâm trọng bệnh hoặc lúc sắp từ giã cõi đời.   

 

Nỗi khổ niềm đau cũng dễ bị khuếch đại, làm gia tăng thêm bởi do sự “tưởng tượng quá mức” của con người. Tưởng tượng nhớ lại hình dung về những gì mình đã thấy nghe. Như một người bệnh không đến nỗi nào, nhưng vì sợ chết nên ngày đêm lo sợ, khiến cho người đó ăn không ngon, ngủ không yên, tinh thần mệt mỏi, bệnh tật càng trở nên trầm trọng hơn. Tất cả đều do sự “tưởng tượng” của con người mà ra.

 

Nỗi khổ do thiếu thốn về vật chất, hoặc sự vất vả nhọc nhằn thì ít, mà nỗi khổ niềm đau càng lớn là do tâm so sánh phân biệt, bởi nhận thức sai lầm, do chấp ngã thân tâm này là thật, do tưởng tượng như vậy ta càng thêm khổ não, bất an.          

 

Chúng ta sống ở hoàn cảnh nào thì phải nương theo hoàn cảnh đó, người muốn ít biết đủ không tham cầu quá đáng sẽ chẳng phải lo sợ gì cả. Khi ta có xe đạp thì đi xe đạp, có xe máy thì đi xe máy, nếu không có xe thì đi bộ, cũng chẳng sao.

 

Chúng ta hay tiếc nuối tưởng nhớ về quá khứ, chúng ta hay mong cầu mơ tưởng đến tương lai, mà không biết bằng lòng với những gì đã có trong hiện tại. Vì quá khứ đã đi qua, còn tương lai thì chưa đến vậy mà ta cứ tiếc nuối và hy vọng cho nên khổ. Sướng khổ nhiều hay ít là do tâm, tức là sự khổ về tinh thần.

 



 

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập