Đạo Phật Ngày Nay

Tinh Hoa Của Đức Đạt Lai Lạt Ma

Đức Đạt Lai Lạt Ma hướng đến cộng đồng toàn cầu với một tầm nhìn mang tính chuyển hóa, thế tục và dễ tiếp cận với tất cả mọi người. Bản chất những lời dạy của ngài nằm ở những phương pháp rèn luyện tâm trí mạnh mẽ và một trí tuệ kết hợp sâu sắc lòng từ bi, được nuôi dưỡng từ những hiểu biết sâu sắc về các mô hình liên kết, tất yếu dẫn đến một ý thức chủ động về trách nhiệm toàn cầu. Những lời dạy này chạm đến những sợi dây liên kết mạnh mẽ giữa các cá nhân và tiếp thêm sinh lực cho nhân loại chung của chúng ta.

Contents

Lời Tựa. 3

Viễn Tượng. 7

CHƯƠNG 1- NHỮNG TỪ NGỮ CHÂN THÀNH.. 8

CHƯƠNG 2: TÌM KIẾM HẠNH PHÚC CỦA CON NGƯỜI 10

CHƯƠNG 3: GIA ĐÌNH TOÀN CẦU CỦA CHÚNG TA.. 18

CHƯƠNG 4: LÒNG TỪ BI 22

CHƯƠNG 5: TRÁCH NHIỆM CHUNG.. 31

Những Viễn Cảnh Của Phật GIáo. 36

CHƯƠNG 6: GIỚI THIỆU.. 37

CHƯƠNG 7: ĐẶT NỀN TẢNG CHO CÔNG VIỆC.. 47

CHƯƠNG 8: ĐỨC PHẬT CHƯƠNG TÁM... 64

CHƯƠNG 9: TỨ DIỆU ĐẾ (Bốn Chân Lý Cao Quý). 70

CHƯƠNG 10: NGHIỆP.. 79

CHƯƠNG 11: LÝ TƯỞNG BỒ TÁT.. 87

CHƯƠNG 12: SỰ PHỤ THUỘC LẪN NHAU.. 98

CHƯƠNG 13: DUYÊN SINH.. 107

CHƯƠNG 14: TỈNH THỨC VỀ CÁI CHẾT.. 113

Thực Hành. 124

CHƯƠNG 15: TẠO RA VIỄN CẢNH CHO THỰC HÀNH.. 125

CHƯƠNG 16: QUY Y TAM BẢO.. 134

CHƯƠNG 17: HÀNH THIỀN, SỰ KHỞI ĐẦU.. 136

CHƯƠNG 18: CHUYỂN HÓA TÂM QUA THIỀN TẬP.. 142

CHƯƠNG 19: MÔI TRƯỜNG/ BIỂU TƯỢNG/ TƯ THẾ/ HÍT THỞ... 150

CHƯƠNG 20: BẢN CHẤT CỦA TÂM... 156

CHƯƠNG 21: THỰC HÀNH ĐỊNH AN TRỤ.. 162

CHƯƠNG 22: PHÁT TÂM GIÁC NGỘ (tâm bồ đề). 168

CHƯƠNG 23: TÁM BÀI KỆ LUYỆN TÂM... 175

CHƯƠNG 24: THIỀN VỀ TÁNH KHÔNG.. 182

CHƯƠNG 25: MẬT TÔNG YOGA BỔN TÔN.. 187

CHƯƠNG 26: NƯƠNG TỰA VÀO MỘT VỊ THẦY TÂM LINH.. 194

Thế Giới Trong Hòa Hợp. 210

CHƯƠNG 27: ĐẠO ĐỨC VÀ XÃ HỘI 211

CHƯƠNG 28: KHOA HỌC VÀ TÂM LINH.. 225

CHƯƠNG 29: QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO VỀ TỰ NHIÊN.. 230

CHƯƠNG 30: MỘT NGUYỆN ƯỚC CHO SỰ HÒA HỢP (GIỮA NHỮNG TÔN GIÁO). 232

CHƯƠNG 31: QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO VỀ GIÁO LÝ CỦA CHÚA GIÊ-SU.. 236

CÂY CHE CHỞ TƯƠNG THUỘC.. 243

QUỸ TRÁCH NHIỆM TOÀN CẦU.. 248


 

Lời Tựa

Quỹ Trách nhiệm Toàn cầu rất vinh dự, trân trọng và hân hạnh được giới thiệu tuyển tập các bài viết mở đầu này của một trong những bậc thầy tâm linh và triết gia vĩ đại của thời đại chúng ta, Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV.

Dựa trên sự rèn luyện và cam kết chủ yếu của ngài đối với truyền thống Gelupa, Đại thừa Phật giáo Tây Tạng, tuyển tập này về cơ bản cung cấp những lời dạy, hiểu biết sâu sắc và quan điểm của Đức Đạt Lai Lạt Ma về Phật giáo; sự giao thoa của Phật giáo với các truyền thống khác; việc vun đắp các giá trị đạo đức phổ quát và mưu cầu hạnh phúc.

Đức Đạt Lai Lạt Ma hướng đến cộng đồng toàn cầu với một tầm nhìn mang tính chuyển hóa, thế tục và dễ tiếp cận với tất cả mọi người. Bản chất những lời dạy của ngài nằm ở những phương pháp rèn luyện tâm trí mạnh mẽ và một trí tuệ kết hợp sâu sắc lòng từ bi, được nuôi dưỡng từ những hiểu biết sâu sắc về các mô hình liên kết, tất yếu dẫn đến một ý thức chủ động về trách nhiệm toàn cầu. Những lời dạy này chạm đến những sợi dây liên kết mạnh mẽ giữa các cá nhân và tiếp thêm sinh lực cho nhân loại chung của chúng ta.

Phật quả không phải là đặc quyền riêng của Đức Phật lịch sử, mà là trạng thái tuệ giác và khả năng tiếp cận với tất cả mọi người. Mặc dù Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ tự nhận mình là một "nhà sư Phật giáo bình thường", hàng triệu tín đồ của ngài, cả người Tây Tạng lẫn các dân tộc khác, đều coi ngài là một "Phật sống", một hóa thân của Đức Quán Thế Âm từ bi, hóa thân thứ mười bốn của dòng dõi Đức Đạt Lai Lạt Ma, các vị Bồ Tát chọn tái sinh để lãnh đạo thế tục cho người Tây Tạng, phụng sự và truyền dạy cho toàn thể nhân loại.

Được gán cho những phẩm chất của một vị Phật, Đức Đạt Lai Lạt Ma không bắt buộc phải đóng vai trò nuôi dưỡng hình ảnh mà ngài phải phụng sự. Mọi người đồng cảm với ngài bởi vì ngài là một con người sâu sắc và nhanh chóng thừa nhận rằng mình sai lầm, và hành trình tìm kiếm của riêng ngài là một hành trình dài mới chỉ bắt đầu. Ngài không ngần ngại, vì vẻ bề ngoài, thừa nhận rằng ngài trải qua những cảm xúc hàng ngày như tức giận, hay đôi khi khi nhìn thấy một người phụ nữ xinh đẹp, ngài phải tự nhắc nhở mình rằng mình là một nhà sư.

Những phương pháp và trí tuệ mà Đức Đạt Lai Lạt Ma truyền dạy không chỉ dựa trên thẩm quyền kinh điển mà còn dựa trên lòng nhiệt huyết, sự sáng suốt và sức mạnh chỉ có thể đến khi trí tuệ tích lũy mang theo thẩm quyền hùng hồn và niềm tin của kinh nghiệm sống, niềm tin và logic. Cho đến ngày nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma, dù là bậc thầy Phật giáo lỗi lạc, vẫn tiếp tục thực hành cá nhân nghiêm ngặt hàng ngày và tiếp nhận những giáo lý mới về truyền thống và kỹ thuật từ các lạt ma và bậc thầy khác, những giáo lý chỉ có thể và phải được truyền lại thông qua truyền khẩu cá nhân. Chính sự khiêm nhường mạnh mẽ và chân thành đã thúc đẩy ngài không ngừng tìm kiếm sự hoàn hảo và thấu hiểu bản chất thật sự của thực tại, xuyên thấu mọi ảo tưởng. Bản thân ngài liên tục dấn thân và phát triển trong chính những thực hành mà ngài truyền dạy. Bởi vì ngài cởi mở với việc sống và thừa nhận những cảm xúc và trải nghiệm trần tục hơn của chính mình, ngài có thể đồng cảm và kết nối tốt hơn với chúng ta, những người đang chìm sâu trong ảo tưởng luân hồi.

Ngài kết hợp lý trí, chủ nghĩa nhân văn và truyền thống tôn giáo làm nền tảng cho những phản ứng đạo đức trước những thách thức lớn lao của thế kỷ này. Bản thân ngài đã tìm cách học hỏi, và Phật giáo cũng học hỏi, từ những khám phá hiện đại của khoa học và thông qua sự tiếp xúc gần gũi hơn với các truyền thống tín ngưỡng khác về cách thức cùng nhau, một sự hiểu biết sâu sắc hơn về bản chất tối hậu của thực tại và chân lý tối hậu (nếu có) có thể xuất hiện. Mục tiêu phổ quát là vun đắp hạnh phúc thật sự lâu dài cho tất cả chúng sinh.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã lập luận rằng tôn giáo phải sẵn sàng điều chỉnh hiểu biết và giả định của mình nếu chủ nghĩa kinh nghiệm và các công cụ khoa học chứng minh một số huyền thoại và giả định của nó là sai. Nếu trên không hoặc trong không gian nhiếp ảnh chứng minh rằng Núi Meru không tồn tại trên trái đất này, chúng ta phải chấp nhận điều đó. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là nếu khoa học không thể chứng thực điều gì đó, chẳng hạn như nguyên lý luân hồi, thì nó là sai. Nếu Kinh Thánh gợi lên một ý niệm chủ động hơn về sự phục vụ so với khái niệm Bồ tát trong Phật giáo, thì Phật giáo thật sự có thể học hỏi từ đó và tôn vinh nó như Ngài đã làm. Đức Đạt Lai Lạt Ma tham gia một cuộc đối thoại kéo dài một tuần mỗi năm với các nhà khoa học lỗi lạc trên khắp thế giới để học hỏi, và để họ học hỏi từ Ngài. Ngài đã đưa việc nghiên cứu khoa học vào chương trình giảng dạy của các nhà sư. Ngài và các nhà sư của mình thường xuyên trao đổi chuyên sâu với các tín đồ của các tôn giáo khác, bao gồm các chuyến viếng thăm các địa điểm hành hương của họ và thử nghiệm một số phương pháp thực hành của họ.

Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nhấn mạnh rằng với tư cách là một vị thầy, lời nói của Ngài không phải là tuyệt đối, con đường của Ngài không phải là duy nhất. Theo truyền thống của chính Đức Phật, Ngài không khuyến khích việc chính thức cải đạo sang Phật giáo trừ khi việc đó được cân nhắc kỹ lưỡng, được thúc đẩy sâu sắc bởi một sự thôi thúc nội tâm hoặc mệnh lệnh dựa trên lý trí và trực giác, tốt nhất là được hướng dẫn bởi sự phán đoán của một bậc thầy đã chứng ngộ, và điều đó cũng chỉ khi dường như không có lựa chọn nào khác thật sự và cảm nhận được. Ngài khuyến khích chúng ta học hỏi từ Phật giáo và thực hành những nguyên tắc mà chúng ta thấy hấp dẫn mà không nhất thiết phải trở thành Phật tử.

Đức Đạt Lai Lạt Ma khuyên rằng việc quy phục bất kỳ vị thầy nào, kể cả chính Ngài, phải tuân theo sự xem xét kỹ lưỡng của vị thầy và sự cân nhắc kỹ lưỡng của học trò. Người tu tập không thể/không được thoái thác trách nhiệm. Vị thầy không nhất thiết phải là hiện thân của sự hoàn hảo. Ngài mang hình hài con người. Giáo lý phải đáp ứng được những đòi hỏi của logic, lý trí và lẽ thường trước khi được chấp nhận và thực hành. Chỉ trong những giai đoạn cao nhất của thực hành, quán đảnh và truyền thừa, sau khi vị thầy và người tu tập đã thực sự kiểm chứng và đánh giá lẫn nhau, thường là qua nhiều kiếp sống, thì sự quy phục thực sự và sự gắn kết sâu sắc giữa hai bên mới diễn ra. Nghiệp của thầy và trò, hay đúng hơn là guru và chela, khi đó được đan xen vào nhau và trở thành một mối quan hệ thực sự thiêng liêng.

Phật giáo thường được coi là một triết lý phủ định u ám, khắc khổ. Đức Đạt Lai Lạt Ma, hiện thân cho những khát vọng cao cả nhất của đạo Phật, là một minh chứng sống động cho triết lý về một cuộc sống hành động trọn vẹn và vui tươi. Khuôn mặt luôn tươi cười của Ngài và tiếng cười sâu lắng, truyền cảm là những lời dạy đầy sức thuyết phục nhất của Ngài. Đức Thánh Thiện hiếm khi chính thức ngồi xuống viết. "Các bài viết" của Ngài luôn là những bản chép lại đã được biên tập từ những lời dạy truyền miệng, thường được dịch đồng thời sang nhiều ngôn ngữ, sau đó được chép lại và biên tập cho các ấn phẩm như tuyển tập này. Đức Thánh Thiện thường giảng dạy và nói về những ý tưởng phức tạp hơn bằng tiếng Tây Tạng, thường xuyên sử dụng thứ mà Ngài mô tả là "tiếng Anh bập bẹ của tôi" khi Ngài cảm thấy cần thiết lập mối quan hệ trực tiếp hơn với thính giả, hoặc đôi khi khi Ngài cảm thấy người dịch đã bỏ lỡ một sắc thái quan trọng. Trong nhiều thập kỷ, đặc biệt là trong những năm đầu của cuộc đời hoạt động công khai hơn của Ngài, vai trò này đã được đảm nhiệm bởi một số biên tập viên và dịch giả khác nhau, do đó ngôn ngữ và nhịp điệu trong các bài viết của Ngài thường có vẻ khác biệt với nhau. Cuối cùng, không gì thay thế được sự hiện diện trực tiếp của một bậc thầy vĩ đại. Đức Thánh Thiện giao tiếp và tác động đến những người có đặc ân được hiện diện trực tiếp với Ngài ở nhiều cấp độ và theo những cách mà không ngôn từ nào có thể diễn tả được.

Chúng tôi xin giới thiệu tuyển tập này để giúp người đọc tìm thấy sự đồng cảm thật sự với những tác động tích cực của việc lắng nghe một bậc thầy còn sống.

Cuốn sách này tôn vinh và tưởng nhớ một trong những hiện thân vĩ đại của tiềm năng con người để trở thành một con người đích thực, nhân dịp chúng ta kỷ niệm 70 năm ngày Ngài thị hiện trên cõi đời này vào ngày 6 tháng 7 năm 2005.

Rajiv Mehrotra
Ủy viên, Thư ký
Quỹ Trách nhiệm Toàn cầu của Đức Đạt Lai Lạt Ma
Tháng 7 năm 2005

Viễn Tượng

CHƯƠNG 1- NHỮNG TỪ NGỮ CHÂN THÀNH

Lời cầu nguyện được đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng sáng tác, Vinh Danh và Nguyện Cầu Tam bảo Đại Bi: Đức Phật, Giáo Huấn, và Cộng Đồng Tâm Linh.

***

Ô chư Phật, chư Bồ tát và các hàng đệ tử của quá khứ, hiện tại và tương lai.
Có phẩm cách phi thường tuyệt diệu
Không thể đo lường như biển cả bao la
Những người đang quán sát chúng sinh
Như đứa con duy nhất không ai giúp đỡ
Xin thương tưởng lời nguyện cầu chân thành của chúng con.
Lời Phật dạy xua tan khổ đau cho trần thế
Hiển hiện và tự tỏa ánh hòa bình
Nguyện giáo nghĩa hiển dương lan tỏa phồn thịnh và hạnh phúc khắp cả thế giới này
Ô những người thủ trì giáo pháp và những ai thực hành thành tựu
Nguyện cho sự thực hành mười điều lành đức hạnh của các ngài chiếu soi
Những chúng sinh phước bạc bị đọa đày với khổ đau không bao giờ ngưng nghĩ bị che lấp hoàn toàn không dứt bởi những hành vi tiêu cực dữ dội vô cùng
Nguyện cho tất cả những sự sợ hãi từ chiến tranh không thể chịu đựng,đói khát, và bệnh tât được yên bình.
Để thở tự do trong đại dương của hạnh phúc và cát tường.
Và riêng cho những người hiếu đạo trên vùng đất tuyết’, qua nhiều ý nghĩa khác nhau, bị tàn hại một cách nhẫn tâm bởi lũ người tàn ác bên màn đen tối.
Nguyện từ ái để năng lực từ bi hưng khởi
Để nhanh chóng đẩy lui nước mắt và máu tuôn tràn.
Những kẻ nhẫn tâm tàn ác đó, đối tượng của từ bi,
Nổi điên cuồng vì ám ảnh của tai ương
Cố tình tàn hại kẽ khác và chính họ
Nguyện cho họ đạt được con mắt của từ bi
Thông suốt những gì phải được làm và không nên làm
Và tồn tại trong vinh quang của của hữu nghị và yêu thương.
Tâm nguyện này xin cho sự tự do hoàn toàn của Tây tạng
Điều được đợi chờ suốt cả thời gian dài
Được thanh thoát tự nhiên toại nguyện
Nguyện chóng được điều may mắn để mừng vui
Lễ hội hạnh phúc tinh thần với lệ thường trần thế
Ô đấng hộ vệ Quán Tự Tại, từ bi thương xót cho
Những ai đó đang chịu đựng vô vàn gian khổ
Hoàn toàn hy hiến cuộc sống thật đáng yêu, thân thể và tài vật, vì lợi ích của giáo nghĩa, hành giả, dân tộc và quốc gia.
Vì vậy, đấng hộ vệ Quán Tự Tại đã phát lời nguyện rộng sâu
Trước chư Phật, chư Bồ tát,
Để hoàn toàn hộ trì non nước Tuyết
Nguyện cho quả lành của những lời cầu nguyện này xuất hiện nhanh bởi sự thâm sâu của tương thuộc tính không và hình thể tương liên.
Kết hợp với năng lực của từ bi vĩ đại
trong ba ngôi tôn quý và những Từ ngữ của chân lý
Và qua năng lực của quy luật không sai chạy của hành động và kết quả
Xin cho lời cầu nguyện chân thành này không bị trở ngại và nhanh chóng toại nguyện.


 

***

 

CHƯƠNG 2: TÌM KIẾM HẠNH PHÚC CỦA CON NGƯỜI

 


Tôi là một người tương đối mới đến với thế giới hiện đại. Mặc dù tôi đào thóat khỏi quê hương tôi lâu rồi từ năm 1959, và mặc dù đời sống của tôi từ lúc đó như một người tị nạn tại Ấn Độ đã đưa tôi tiếp xúc gần hơn với xã hội đương thời, nhiều năm của tôi phần lớn bị cắt rời khỏi những thực tế của thế kỷ hai mươi. Điều này là bởi vì tôi được chỉ định như Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tôi đã trở thành tu sĩ vào lúc rất sớm. Nó cũng phản chiếu sự kiện rằng những người Tây Tạng đã chọn lựa – một cách sai lầm theo tôi thấy – duy trì sự cô lập phía sau những rặng núi cao vốn bị tách rời xứ sở chúng tôi với thế giới còn lại. Tuy nhiên, ngày nay, tôi đã du hành rất nhiều, và đó cũng là may mắn của tôi khi được gặp những người mới mẻ một cách liên tục.

Hơn thế nữa, những con người của tất cả mọi tầng lớp của cuộc sống đến gặp tôi. Rất nhiều – đặc biệt những người cố gắng thực hiện một nổ lực để du lịch đến vùng đồi núi Ấn Độ ở Dharamsala nơi tôi sống lưu vong đến để tìm kiếm điều gì đó. Giữa những người này là những người bị bệnh ung thư và AIDS. Rồi thì, dĩ nhiên, là những đồng bào Tây Tạng với những câu chuyện khốn khó và khổ đau. Bất hạnh thay, nhiều người có những mong ước không thực tế, cho rằng tôi có năng lực để chữa bệnh hay tôi có thể ban cho một loại phước lành nào đó. Nhưng tôi chỉ là một con người bình thường. Điều tốt nhất mà tôi có thể làm là cố gắng để giúp đở họ bằng việc chia sẻ trong sự khổ đau của họ.

Về phần tôi, việc gặp gở với vô số người khắp thế giới và từ mọi tấng lớp của cuộc sống nhắc nhở tôi về căn bản giống nhau của chúng ta như những con người. Thực tế, càng thấy thế giới nhiều hơn, thì càng trở nên rõ ràng hơn rằng bất chấp hoàn cảnh chúng ta là gì, cho dù chúng ta giàu hay nghèo, có học vấn hay không, chủng tộc, giới tính, tôn giáo này hay kia, thì tất cả chúng ta đều khao khát được hạnh phúc và không muốn khổ đau. Mọi mục tiêu của hành động chúng ta, trong ý nghĩa của cả cuộc đời chúng ta, chúng ta lựa chọn để sống như thế nào trong phạm trù của những giới hạn bắt buộc bởi những hoàn cảnh của chúng ta, có thể được thấy như câu trả lời của chúng ta đến câu hỏi lớn đối diện tất cả chúng ta: “Làm sao tôi được hạnh phúc?”

Chúng ta kiên trì trong nhu cầu lớn cho hạnh phúc, dường như đối với tôi, là bằng hy vọng. Chúng ta biết, ngay cả nếu chúng ta không thừa nhận nó, thì không thể có gì bảo đảm cho một đời sống hạnh phúc hơn, tốt đẹp hơn là cuộc sống mà chúng ta có hiện tại. Như một thành ngữ cổ của Tây Tạng nói, “Cuộc sống kế hay ngày mai – chúng ta không bao giờ chắc chắn điều nào đến trước.” Nhưng chúng ta hy vọng để tiếp tục sống. Chúng ta hy vọng rằng qua hành động này hay nọ chúng ta có thể mang đến hạnh phúc. Mọi thứ chúng ta làm không chỉ như những cá nhân mà cũng trên cấp độ của xã hội, có thể được thấy trong dạng thức nguyện vọng căn bản này. Thực tế, nó là một điều được tất cả mọi chúng sanh chia sẻ. Khát vọng hay xu hướng hạnh phúc và không bị khổ đau được biết là không giới hạn. Đó là bản chất của chúng ta. Như thế ấy, không cần biện minh và được xác thực bởi sự kiện đơn giản là chúng ta muốn điều này một cách tự nhiên và đúng đắn.

Và điều này là chính xác với những gì chúng ta thấy trong xứ sở của chúng ta cả giàu và nghèo. Mọi nơi, bằng mọi phương tiện không thể tưởng tượng được, mọi người đang cố gắng để cải thiện đời sống của họ. Tuy nhiên một cách lạ lùng, ấn tượng của tôi là những người đang sống trong những xứ vật chất phát triển, đối với tất cả kỷ nghệ của họ, thì trong những cách nào đó kém hài lòng, ít hạnh phúc và một số khổ sở hơn những người sống ở những nước kém phát triển hơn. Thực tế, nếu chúng ta so sánh người giàu với người nghèo, thì thường thấy rằng những người không có gì, trong thực tế ít băn khoăn lo lắng hơn, mặc dù họ bệnh tật với những đau đớn khổ sở của thân thể. Đối với những người giàu, trong khi số ít biết sử dụng sự giàu có của họ một cách thông minh, phải nói là, không sống trong sự xa hoa mà biết chia sẻ nó với những người cần thiết – nhiều người không làm như vậy. Họ bị nhiễm quá nhiều với ý tưởng đòi hỏi hơn nữa rằng họ không có chỗ cho điều gì khác trong cuộc sống của họ. Trong sự miệt mài của họ, thì họ thật sự đánh mất giấc mơ của hạnh phúc, vốn với sự giàu có cung cấp. Như một kết quả, họ liên tục bị dày vò, bị giằng co giữa nghi ngờ về những gì có thể xảy ra và hy vọng có thêm nữa, và nổi khổ đau bệnh tật tinh thần và cảm xúc – mặc dù bên ngoài họ trông có vẻ hoàn toàn thành công và cuộc sống thoải mái. Điều này cho thấy rằng cả bởi cấp độ cao và bởi những quấy rầy phổ biến giữa những người ở những xứ phát triển vật chất về băn khoăn, bất toại, chán nản, không chắc chắn và căng thẳng. Hơn thế nữa, sự đau khổ nội tại này rõ ràng bị nối kết với sự lớn mạnh mơ hồ của những gì cấu thành một cách đạo đức và nền tảng của chúng là gì.

Tôi thường được nhắc lại nghịch lý này khi tôi ra ngoại quốc. Nó thường xảy ra khi tôi đến một xứ sở mới, ban đầu mọi thứ dường rất hài lòng, rất xinh đẹp. Mọi người tôi gặp gở rất thân mật. Không có gì để phàn nàn. Nhưng sau đó, ngày qua ngày khi tôi lắng nghe, tôi đã nghe những rắc rối của con người, sự quan tâm và lo lắng của họ. Ở dưới bề mặt, rất nhiều người cảm thấy không dễ dàng và không hài lòng với cuộc sống của họ. Họ trải nghiệm cảm giác cô lập; rồi theo đó là căng thẳng. Kết quả là không khí rắc rối như vậy vốn là một đặc trưng của thế giới phát triển.

Nghịch lý này nhờ đó nội tại – hay chúng ta có thể nói một cách tâm lý và cảm xúc – đau khổ thì rất thường thấy giữa sự dồi dào vật chất rõ ràng hiện hữu khắp nhiều nước phương Tây. Thực tế, nó cũng rất rộng rãi mà chúng ta có thể tự hỏi có điều gì đó trong nền văn hóa phương Tây vốn đưa đến những người sống ở đó đến những loại khổ đau như vậy. Điều này tôi nghi ngờ. Rất nhiều yếu tố đã liên hệ. Một cách rõ ràng, tự sự phát triển vật chất đóng một vai trò hoạt động. Nhưng chúng ta cũng có thể nêu ra sự đô thị hóa gia tăng của xã hội hiện đại, nơi mà những sự tập trung cao độ của những con người sống gần gũi với nhau. Trong phạm vi này, cho rằng ở nơi sự lệ thuộc của chúng ta với nhau để hổ trợ nhau, thì ngày nay, bất cứ nơi nào có thể, thì chúng ta có xu hướng nương tựa máy móc và những sự phục vụ. Trái lại trước đây, những người nông dân sẽ kêu gọi tất cả những thành viên trong gia đình để giúp đở với việc thu hoạch, ngày nay chỉ đơn giản là gọi những công ty làm việc ấy. Chúng ta thấy cuộc sống hiện đại được tổ chức như vậy vì thế nó chỉ đòi hỏi sự lệ thuộc rõ ràng tối thiểu có thể với những người khác. Khát vọng phổ quát nhiều hơn hay ít hơn dường như đối với mọi người là sở hữu ngôi nhà của chính họ, chiếc xe của chính họ, máy tính của chính họ và v.v…nhằm để như là độc lập như có thể. Điều này là tự nhiên và có thể hiểu được. Chúng ta cũng có thể chỉ ra sự gia tăng việc tự quản - tự do ý - chí mà mọi người thích thú như một kết quả tiến bộ trong khoa học và kỷ thuật. Trong thực tế, có thể là ngày nay chúng ta độc lập hơn bao giờ hết. Nhưng với những sự phát triển này, cũng phát sinh một cảm giác rằng tương lai của tôi sẽ không lệ thuộc vào hàng xóm của tôi mà đúng hơn là nghề nghiệp của tôi, nhất là, chủ nhân của tôi. Điều này hóa ra là khuyến khích chúng ta cho rằng những người khác không quan trọng cho hạnh phúc của tôi, hạnh phúc của họ là không quan trọng đối với tôi.

Trong cái nhìn của tôi, thì chúng ta đã tạo nên một xã hội mà trong đó chúng ta thấy ngày càng khó hơn để biểu lộ tình cảm căn bản cho nhau. Thay cho cảm nhận cộng đồng và quan hệ, thứ mà chúng ta thấy một sự trấn an như vậy của những xã hội giàu có (và nói chung là nông thôn), chúng ta thấy một cấp độ cao của cô độc và xa lánh. Mặc dù thật sự là hàng triệu người sống gần gũi với nhau, nhưng dường như rằng nhiều người, đặc biệt trong những người già, không có ai để nói chuyện ngoài những con thú của họ. Xã hội kỷ nghệ hiện đại thường làm tôi chú ý giống như là một bộ máy khổng lồ tự đẩy tới. Thay vì con người phụ trách, thì mỗi cá nhân là một thành phần nhỏ bé, không đáng kể không có lựa chọn nào khác hơn là chuyển động khi bộ máy chuyển động.

Rõ ràng, lý do quan trọng cho sự hết lòng của xã hội hiện đại với tiến trình vật chất là sự rất thành công của khoa học và kỷ thuật. Bây giờ, điều kỳ diệu về những hình thức này của nổ lực con người là chúng mang đến sự hài lòng ngay tức thời. Không như sự cầu nguyện, các kết quả phần lớn là không thấy – nếu thật sự việc cầu nguyện hoàn toàn có tác dụng. Và chúng ta ấn tượng bởi những kết quả. Điều gì bình thường hơn? Bất hạnh thay, sự tận tâm này khuyến khích chúng ta cho rằng những chìa khóa cho sự hạnh phúc là sự cát tường vật chất về một mặt và năng lực được trao bởi kiến thức về mặt khác. Và trong khi rõ ràng rằng với bất cứ người nào với tư tưởng thành thục này rằng chìa khóa cho sự hạnh phúc là sự cát tường về vật chất thì không thể tự mang đến hạnh phúc cho chúng ta, điều tiếp theo thì càng tệ hơn. Nhưng sự thật là, kiến thức không thôi không thể cung ứng hạnh phúc vốn xuất hiện từ sự phát triển nội tại chứ không liên hệ đến những nhân tố ngoại tại. Thực tế, mặc dù kiến thức rất chi tiết và đặc thù của những hiện tượng ngoại tại là một thành tựu vô biên, nhưng sự thúc đẩy để giảm thiểu, thu hẹp để theo đuổi nó, còn lâu mới mang lại hạnh phúc cho chúng ta có thể thật sự là nguy hiểm. Nó có thể làm cho chúng ta xa rời thực tế rộng lớn hơn của kinh nghiệm con người, và trong đặc thù, sự lệ thuộc của chúng ta với những người khác.

Chúng ta cũng cần nhận ra những gì xảy ra khi chúng ta lệ thuộc quá nhiều vào những thành tựu ngoại tại của khoa học. Thí dụ, như ảnh hưởng của những sự suy đồi tôn giáo, có sự gia tăng bối rối liên quan đến vấn đề chúng ta điều khiển mình trong cuộc sống như thế nào. Trong quá khứ, tôn giáo và đạo đức hòa quyện vào nhau. Bây giờ, nhiều người, tin tưởng rằng khoa học đã “bác bỏ” tôn giáo, cho nên họ càng kiêu ngạo hơn rằng bởi vì không có những bằng chứng cuối cùng nào cho bất cứ thẩm quyền của tâm linh nào, thì đạo đức tự nó phải là một vấn đề ưu tiên của cá nhân. Và trái lại trong quá khứ, những nhà khoa học và triết học cảm thấy một nhu cầu thúc ép để tìm ra những nền tảng cụ thể mà trên đó thiết lập những luật lệ bất biến và những lẽ thật tuyệt đối, thì bây giờ loại tìm kiếm như vậy là vô ích. Như một kết quả, chúng ta thấy một sự đảo ngược hoàn toàn, hướng đến cực đoan đối kháng, nơi mà không có gì tuyệt đối tồn tại nữa, nơi mà thực tại tự nó bị đặt câu hỏi. Điều này chỉ dẫn đến hổn loạn.

Nói như vậy, tôi không có ý phê phán nổ lực của khoa học. Tôi đã biết rất nhiều từ việc chạm trán với những nhà khoa học, và tôi thấy không có trở ngại gì để dấn thân trong việc đối thoại với họ ngay cả khi quan điểm của họ là một thứ chủ nghĩa vật chất. Thực tế, cho đến khi mà tôi có thể nhớ, thì tôi đã rất hào hứng bởi cái nhìn sâu sắc của khoa học. Như một đứa trẻ, có một thời khi mà tôi đúng là quan tâm hơn trong việc tìm hiểu về cơ cấu của một máy chiếu phim cũ mà tôi thấy trong kho của cung điện mùa hè của Đạt Lai Lạt Ma hơn là những bài học tôn giáo và học thuật. Sự quan tâm của tôi đúng hơn là chúng ta có thể bỏ qua những giới hạn của khoa học. Trong việc thay thế tôn giáo như là nguồn cuối cùng của kiến thức trong sự đánh giá thông thường, thì khoa học bắt đầu nhìn tự nó hơi giống như một loại tôn giáo khác.Với điều này đi đến một hiểm họa tương tự trên phần của một điều gì đó của những môn đồ của nó của một niềm tin mù quáng trong những nguyên lý của nó, và, một cách tương ứng, không bao dung những quan điểm loại trừ lẫn nhau. Tuy nhiên, sự hất cẳng tôn giáo đã xảy ra là không có gì ngạc nhiên cho những thành tựu ngoại lệ của khoa học. Ai mà không ấn tượng về năng lực của chúng ta đã đưa con người đặt chân lên mặt trăng? Nhưng vấn đề tồn tại rằng, thí dụ nếu chúng ta đi đến một nhà khoa học nguyên tử và nói, “tôi đang đối diện một vấn đề khó xử, tôi nên làm gì?” người ấy có thể chỉ lắc đầu và đề nghị chúng ta tìm nơi nào khác cho câu trả lời. Nói một cách tổng quát, một nhà khoa học có một vị trí không hơn gì một luật sư trong trường hợp này. Vì trong khi cả khoa học và luật học có thể giúp chúng ta dự báo trước hậu quả có thể có trong các hành động của chúng ta, nhưng không thể nói vấn đề chúng ta phải làm thế nào trong một ý nghĩa đạo đức. Hơn thế nữa, chúng ta cần nhận ra những giới hạn của khoa học trong chính câu hỏi. Thí dụ, mặc dù chúng ta đã nhận thấy ý thức con người hàng thiên niên kỷ, và mặc dù nó đã là chủ đề của sự thẩm tra suốt chiểu dài của lịch sử, mặc cho những nổ lực tối đa của các nhà khoa học thì họ vẫn không thấu hiểu nó thật sự là gì, hay tại sao nó tồn tại, nó thể hiện chức năng như thế nào, hay bản chất cơ bản của nó là gì. Khoa học không thể nói với chúng ta nguyên nhân căn bản của ý thức là gì, cũng không thể nói những ảnh hưởng của nó là gì. Dĩ nhiên, ý thức thuộc về loại hiện tượng không có hình tướng, vật chất hay màu sắc. Nó không dễ bị khảo sát bởi những phương tiện ngoại tại. Nhưng điều này không có nghĩa là những thứ như vậy không tồn tại, chỉ đơn thuần khoa học thì không thể tìm thấy chúng.

Do vậy, chúng ta có nên từ bỏ những thẩm tra của khoa học trên cơ sở đã làm chúng ta thất vọng không? Chắc chắc là không. Cũng không có nghĩa là tôi cho rằng mục tiêu cho sự thịnh vượng vì tất cả chúng ta là vô giá trị. Do bởi bản chất của tất cả chúng ta, những kinh nghiệm thân thể và vật lý đóng một vai trò ưu thắng trong đời sống của chúng ta. Những thành tựu của khoa học và kỷ thuật rõ ràng phản chiếu mong muốn của chúng ta đạt được một sự tồn tại tốt đẹp hơn và thoải mái hơn. Điều này là rất tốt. Ai mà không vổ tay ca ngợi cho nhiều tiến bộ của y dược hiện đại?

Cùng lúc, tôi nghĩ thật chân thành rằng những thành viên của những cộng đồng thôn dã truyền thống nào đó thật sự hưởng thụ sự hòa hợp lớn hơn và tĩnh lặng hơn với cư ngụ trong những thành phố hiện đại của chúng ta. Thí dụ, trong vùng Spiti ở bắc Ấn Độ, vẫn duy trì phong tục cho những cư dân địa phương là không khóa cửa nhà của họ khi đi ra ngoài. Họ nghĩ rằng một khách viếng thăm thấy nhà trống vắng sẽ đi vào và tự làm thức ăn trong khi chờ đợi gia đình trở về. Điều như vậy cũng từng tồn tại trong thời xưa ở Tây Tạng. Điều này không nói rằng không tội phạm trong những vùng như vậy. Như trong trường hợp của Tây Tạng bị chiếm đóng, những thứ như vậy dĩ nhiên xảy ra thỉnh thoảng. Nhưng khi họ làm như vậy, người ta sẽ cau mày trong ngạc nhiên. Nó là một sự kiện hiếm hoi và bất thường. Với sự đô thị hóa đã đi đến sự bất hòa hợp.

Tuy nhiên, chúng ta phải thật cẩn thận không lý tưởng hóa những cung cách sống xưa cũ. Trình độ hợp tác cao mà chúng ta thấy trong những cộng đồng thôn dã kém phát triển có thể là những nơi dựa trên nhu cầu nhiều hơn là thiện chí. Người ta nhận ra nó như một giải pháp thay thế cho khó khăn lớn hơn. Và sự toại nguyện mà chúng ta nhận thức có thể có nhiều để làm với sự không biết. Những người này có thể không nhận hay tưởng tượng rằng có bất cứ cung cách sống nào khác của cuộc sống là có thể. Nếu họ biết, rất có thể họ nắm lấy nó một cách hăng hái. Sự thử thách mà chúng ta đối diện do đó là việc tìm ra một phương pháp nào đó để hưởng thụ cùng cấp độ hòa hợp và tĩnh lặng như những cộng đồng truyền thống hơn đó trong khi hoàn toàn lợi lạc với những sự phát triển vật chất của thế giới như chúng ta thấy nó vào lúc bình minh của thiên niên kỷ mới. Bằng khác hơn nó hàm ý rằng những cộng đồng này không nên cố gắng ngay cả cải thiện tiêu chuẩn đời sống của họ. Tuy nhiên, tôi hoàn toàn chắc chắn rằng, thí dụ, đại đa số người du mục Tây Tạng sẽ rất vui mừng để có quần áo giữ nhiệt mới nhất cho mùa đông, nhiên liệu không khói để nấu ăn, những lợi ích của thuốc men hiện đại và những máy truyền hình di động trong những căn lều của họ. Và tôi là một người sẽ không mong phủ nhận những thứ này của họ. Xã hội hiện đại, với tất cả những lợi ích và nhược điểm của nó, đã nổi bật lên trong bối cảnh của vô số nguyên nhân và điều kiện. Cho rằng chỉ đơn thuần bằng việc từ bỏ tiến trình vật chất thì chúng ta có thể vượt qua tất cả những rắc rối của thời đại sẽ là thiển cận. Như vậy sẽ bỏ qua những nguyên nhân tiềm tàng của chúng. Bên cạnh đó, vẫn có nhiều điều tích cực trong thế giới hiện đại.

Có vô số người trong những nước phát triển nhất rất năng động trong sự quan tâm của họ cho người khác. Gần nhà hơn, tôi nghĩ về lòng ân cần tử tế lớn lao mà những người Tây Tạng tị nạn được cho thấy bởi những người mà tài nguyên cá nhân cũng rất giới hạn. Thí dụ, những trẻ em Tây Tạng đã lợi lạc không kể xiết từ những đóng góp vô ngã của những giáo viên Ấn Độ, nhiều người buộc phải sống dưới những điều kiện khó khăn xa nhà của họ. Trên mức độ rộng hơn, chúng ta cũng có thể quan tâm đến nhận thức ngày càng lớn mạnh về những quyền con người cơ bản khắp mọi nơi trên thế giới. Điều này cho thấy một sự phát triển rất tích cực trong cái nhìn của tôi. Cung cách mà trong ấy mà cộng đồng quốc tế đáp ứng chung đến những thảm họa thiên nhiên với sự giúp đở tức thời cũng là một đặc trưng tuyệt vời của thế giới hiện đại. Sự thừa nhận gia tăng rằng chúng ta không bao giờ có thể tiếp tục ngược đãi môi trường tự thiên nhiên của chúng ta mà không đối diện với những hậu quả nghiêm trọng như một nguyên nhân cho hy vọng. Hơn thế nữa, tôi tin rằng, việc cảm ơn rộng rãi cho sự đối thoại hiện đại, con người chắc chắn chấp nhận hơn cho sự đa dạng hiện tại. Và những tiêu chuẩn của trình độ học vấn và giáo dục khắp thế giới nói chung là cao hơn trước đây. Những phát triển tích cực như vậy tôi xem như là một biểu hiện của những gì con người có thể làm được.

Mới đây, tôi đã có cơ hội để gặp Mẹ của Nữ Hoàng Anh Quốc. Bà đã là một nhân vật quen thuộc suốt cuộc đời tôi, cho nên điều này đã cho tôi một niềm vui lớn. Nhưng điều hào hứng là được nghe ý kiến của bà, như một phụ nữ già của chính thế kỷ hai mươi, là người ta đã trở nên tỉnh thức hơn về những người khác hơn là khi bà ta còn trẻ. Trong những ngày đó, bà nói, người ta quan tâm chính yếu trong xứ sở của họ, trái lại ngày nay có nhiều quan tâm cho những cư dân của các quốc gia khác. Khi tôi hỏi bà rằng bà có lạc quan về tương lai không, thì bà đã trả lời một cách khẳng định không chút do dự.

Tuy nhiên, không giống như những khổ đau của bệnh tật, tuổi già và sự chết, không rắc rối nào trên đây là bởi tự nhiên không tránh khỏi. Chúng cũng không phải do thiếu kiến thức. Khi chúng ta suy nghĩ một cách cẩn thận, thì chúng ta thấy rằng tất cả chúng là vấn nạn đạo đức. Mỗi thứ trong chúng phản chiếu sự thấu hiểu của chúng ta về những gì đúng và sai, về những gì tích cực và những gì tiêu cực, về những gì thích đáng và không thích đáng. Nhưng vượt qua điều này thì chúng ta có thể chỉ đến điều gì đó căn bản hơn: sự quên lãng về những gì chúng ta gọi là không gian bên trong chúng ta.

Tôi muốn nói gì qua điều này? Theo sự thấu hiểu của tôi, sự nhấn mạnh quá mức về những thành tựu vật chất của chúng ta phản chiếu một sự kiêu hảnh tiềm tàng rằng, những gì nó có thể mua có thể bằng tự chính nó, cung cấp chúng ta với tất cả sự hài lòng mà chúng ta yêu cầu. Tuy thế tự nhiên, thì sự hài lòng của thành tựu vật chất có thể cung ứng cho chúng ta sẽ bị giới hạn với trình độ của cảm giác. Nếu đúng là con người chúng ta không khác với thú vật, thì điều này sẽ tốt thôi. Tuy nhiên, chủng loại của chúng ta là phức tạp – trong đặc thù, sự kiện rằng những suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta cũng như sự tưởng tượng và năng lực phê bình – rõ ràng rằng những nhu cầu của chúng ta vượt lên trên cảm giác đơn thuần. Sự phổ biến của băn khoăn, căng thẳng, bối rối, không chắc chắn và chán nản trong những người mà nhu cầu căn bản của họ đã gặp là một biểu thị rõ ràng cho điều này. Những rắc rối của chúng ta, cả những trải nghiệm ngoại tại – chẳng hạn như chiến tranh, tội ác và bạo động và những thứ chúng ta kinh nghiệm bên trong – những khổ đau cảm xúc và tâm lý – là không thể giải quyết cho đến khi chúng ta nói về sự quên lãng tiềm tàng này. Đó là tại sao những vận động lớn của một trăm năm qua và hơn nữa – dân chủ, giải phóng, chủ nghĩa xã hội – tất cả đều thất bại để đem lại lợi ích chung mà đáng lẻ chúng phải cung ứng, mặc dù có rất nhiều ý tưởng tuyệt vời. Một cuộc cách mạng được kêu gọi, một cách chắc chắn. Nhưng không phải là một cuộc cách mạng chính trị, kinh tế hay cả một cuộc cách mạng kỷ thuật. Chúng ta đã có đủ kinh nghiệm về những thứ này trong suốt thế kỷ trước để biết rằng một sự tiếp cận ngoại tại sẽ không đủ. Điều tôi đề xuất là một cuộc cách mạng tâm linh.

***

Ẩn tâm lộ, Friday, October 15, 2021


 

CHƯƠNG 3: GIA ĐÌNH TOÀN CẦU CỦA CHÚNG TA


***

Khi tôi gặp mọi người ở những vùng khác nhau trên thế giới, tôi luôn luôn nhắc nhở rằng tất cả chúng ta là giống nhau một cách căn bản: Tất cả chúng ta là những con người. Có thể chúng ta có áo quần khác nhau, làn da chúng ta có màu khác nhau hay chúng ta nói những ngôn ngữ khác nhau. Đó chỉ là trên bề mặt. Nhưng một cách căn bản, chúng ta là những con người giống nhau. Đó là điều ràng buộc chúng ta với nhau. Đó là điều làm cho chúng ta có thể thấu hiểu nhau và phát triển tình bạn cùng sự thân mật.

Vì tất cả chúng ta cùng chia sẻ hành tinh Trái đất nhỏ bé này, chúng ta phải học cách sống hòa thuận và yên bình với nhau và với thiên nhiên. Đó không chỉ là một giấc mơ mà là một điều cần thiết. Chúng ta phụ thuộc vào nhau theo nhiều cách đến nỗi chúng ta không thể tiếp tục sống trong những cộng đồng biệt lập và phớt lờ những gì đang diễn ra bên ngoài những cộng đồng đó. Chúng ta cần giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn và chúng ta phải chia sẻ những điều may mắn mà chúng ta đang tận hưởng. Tôi nói với bạn như một con người khác; như một nhà sư giản dị. Nếu bạn thấy những gì tôi nói hữu ích, thì tôi hy vọng bạn sẽ cố gắng thực hành.

Việc nhận ra rằng tất cả chúng ta về cơ bản đều là những con người giống nhau, những người tìm kiếm hạnh phúc và cố gắng tránh đau khổ, thì rất hữu ích trong việc phát triển ý thức về tình anh chị em; một cảm giác ấm áp của tình thương yêu và lòng từ bi đối với người khác. Điều này, đến lượt nó, là điều cần thiết nếu chúng ta muốn tồn tại trong thế giới ngày càng thu hẹp mà chúng ta đang sống. Bởi vì nếu mỗi chúng ta ích kỷ chỉ theo đuổi những gì chúng ta tin là vì lợi ích của riêng mình, mà không quan tâm đến
nhu cầu của người khác, chúng ta không chỉ có thể gây hại cho người khác mà còn cho chính mình. Sự thật này đã trở nên rất rõ ràng trong suốt thế kỷ này.

Chúng ta biết rằng, ví dụ, việc tiến hành một cuộc chiến tranh hạt nhân ngày nay sẽ là một hình thức tự sát; hoặc bằng cách gây ô nhiễm không khí hoặc đại dương, để đạt được một số lợi ích ngắn hạn, chúng ta đang phá hủy chính nền tảng cho sự tồn tại của mình. Do đó, khi các cá nhân và quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, chúng ta không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phát triển cái mà tôi gọi là ý thức trách nhiệm chung.

Ngày nay, chúng ta thật sự là một gia đình toàn cầu. Những gì xảy ra ở một nơi nào trên thế giới có thể ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. Tất nhiên, điều này không chỉ đúng với những điều tiêu cực xảy ra mà còn đúng với những diễn biến tích cực.

Chúng ta không chỉ biết những gì xảy ra ở nơi khác, nhờ công nghệ truyền thông hiện đại phi thường, mà chúng ta còn bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những sự kiện xảy ra ở xa. Chúng ta cảm thấy buồn khi trẻ em chết đói ở Đông Phi. Tương tự như vậy, chúng ta cảm thấy vui mừng khi một gia đình đoàn tụ sau nhiều thập kỷ bị chia cắt bởi Bức tường Berlin. Mùa màng và vật nuôi của chúng ta bị ô nhiễm và sức khỏe cũng như sinh kế của chúng ta bị đe dọa khi một tai nạn hạt nhân xảy ra cách xa hàng dặm ở một quốc gia khác. An ninh của chúng ta được tăng cường khi hòa bình xảy ra giữa các bên tham chiến ở các châu lục khác.

Nhưng chiến tranh hay hòa bình; sự hủy diệt hay bảo vệ thiên nhiên; sự vi phạm hay thúc đẩy nhân quyền và quyền tự do dân chủ; đói nghèo hay sung túc về vật chất; sự thiếu hụt các giá trị đạo đức và tinh thần hoặc sự tồn tại và phát triển của chúng; và sự sụp đổ hay phát triển của sự hiểu biết của con người không phải là những hiện tượng riêng biệt có thể được phân tích và giải quyết độc lập với nhau. Trên thực tế, chúng có mối liên hệ rất chặt chẽ ở mọi cấp độ và cần được tiếp cận với sự hiểu biết đó.

Hòa bình, theo nghĩa là không có chiến tranh, không có nhiều giá trị đối với một người đang chết đói hoặc chết lạnh. Nó sẽ không xóa bỏ nỗi đau bị tra tấn mà một tù nhân lương tâm phải chịu. Nó không an ủi những người đã mất đi người thân yêu của họ trong trận lũ lụt do nạn phá rừng vô nghĩa gây ra-ở một quốc gia láng giềng. Hòa bình chỉ có thể tồn tại khi quyền con người được tôn trọng, khi người dân được ấm no và khi cá nhân và quốc gia được tự do. Hòa bình thật sự với bản thân và với thế giới xung quanh chúng ta chỉ có thể đạt được thông qua sự phát triển của hòa bình tinh thần. Các hiện tượng khác được đề cập ở trên cũng có mối quan hệ tương tự. Vì vậy, ví dụ, chúng ta thấy rằng một môi trường sạch sẽ, sự giàu có hoặc nền dân chủ không có ý nghĩa gì nhiều trước chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh hạt nhân, và sự phát triển vật chất không đủ để đảm bảo hạnh phúc của con người.

Tiến bộ vật chất tất nhiên là quan trọng đối với sự tiến bộ của con người. Ở Tây Tạng, chúng tôi đã dành quá ít sự quan tâm đến phát triển công nghệ và kinh tế, và ngày nay chúng tôi nhận ra rằng đây là một sai lầm. Đồng thời, phát triển vật chất mà không phát triển tinh thần cũng có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng. Ở một số quốc gia, người ta quá chú ý đến những thứ bên ngoài và rất ít coi trọng sự phát triển bên trong. Tôi tin rằng cả hai đều quan trọng và phải được phát triển song song để đạt được sự cân bằng tốt giữa chúng. Người Tây Tạng luôn được du khách nước ngoài mô tả là những người hạnh phúc, vui vẻ. Đây là một phần bản sắc dân tộc của chúng tôi, được hình thành từ các giá trị văn hóa và tôn giáo nhấn mạnh tầm quan trọng của sự bình yên trong tâm hồn thông qua việc tạo ra tình yêu thương và lòng tốt đối với tất cả các chúng sinh khác, cả con người và động vật.

Bình yên nội tâm là chìa khóa: Nếu bạn có sự bình yên nội tâm, các vấn đề bên ngoài
sẽ không ảnh hưởng đến cảm giác bình yên và tĩnh lặng sâu sắc của bạn. Trong trạng thái tinh thần đó, bạn có thể xử lý các tình huống một cách bình tĩnh và lý trí, đồng thời vẫn giữ được hạnh phúc bên trong. Điều đó rất quan trọng. Nếu không có sự bình yên nội tâm này, cho dù cuộc sống vật chất của bạn có thoải mái đến đâu, bạn vẫn có thể lo lắng, bối rối hoặc không vui vì hoàn cảnh.

Do đó, rõ ràng là điều rất quan trọng là phải hiểu mối quan hệ giữa những hiện tượng này và các hiện tượng khác, đồng thời tiếp cận và cố gắng giải quyết các vấn đề theo cách cân bằng, cân nhắc đến những khía cạnh khác nhau này. Tất nhiên là không dễ dàng. Nhưng sẽ chẳng có lợi ích gì khi cố gắng giải quyết một vấn đề nếu việc đó lại tạo ra một vấn đề mới nghiêm trọng không kém. Vì vậy, thật sự chúng ta không có lựa chọn nào khác: Chúng ta phải phát triển ý thức
trách nhiệm chung không chỉ theo nghĩa địa lý mà còn liên quan đến các vấn đề khác nhau mà hành tinh của chúng ta đang phải đối mặt.

Trách nhiệm không chỉ nằm ở các nhà lãnh đạo của đất nước chúng ta hoặc những người được bổ nhiệm hoặc bầu ra để làm một công việc cụ thể. Trách nhiệm nằm ở mỗi cá nhân chúng ta. Ví dụ, hòa bình bắt đầu từ bên trong mỗi người chúng ta. Khi chúng ta có được sự bình yên nội tâm, chúng ta có thể hòa bình với những người xung quanh. Khi cộng đồng của chúng ta ở trong trạng thái hòa bình, chúng ta có thể chia sẻ sự bình yên đó với các cộng đồng lân cận, v.v. Khi chúng ta cảm thấy yêu thương và tử tế với người khác, điều đó không chỉ khiến người khác cảm thấy được yêu thương và quan tâm mà còn giúp chúng ta phát triển hạnh phúc và sự bình yên nội tâm. Và có những cách mà chúng ta có thể có ý thức làm việc để phát triển tình yêu thương và lòng tốt. Đối với một số người trong chúng ta, cách hiệu quả nhất để làm như vậy là thông qua thực hành tôn giáo. Đối với những người khác, đó có thể là các thực hành phi tôn giáo. Điều quan trọng là mỗi chúng ta đều nỗ lực chân thành để thực hiện trách nhiệm của mình đối với nhau và đối với môi trường tự nhiên mà chúng ta đang sống một cách nghiêm túc.

Lý trí, lòng dũng cảm, sự quyết tâm và khát vọng tự do không thể dập tắt cuối cùng có thể chiến thắng. Trong cuộc đấu tranh giữa các thế lực chiến tranh, bạo lực và áp bức một bên, và hòa bình, lý trí và tự do bên kia, thì những thứ sau đang chiếm ưu thế. Nhận thức này khiến chúng tôi, những người Tây Tạng, tràn đầy hy vọng rằng một ngày nào đó chúng tôi cũng sẽ lại được tự do./.



 

CHƯƠNG 4: LÒNG TỪ BI

***

Tôi nghĩ rằng mỗi con người đều có bản năng của cái "Tôi". Chúng ta không thể giải thích tại sao cảm giác đó lại tồn tại, nhưng nó tồn tại. Cùng với nó là mong muốn hạnh phúc và mong muốn vượt qua đau khổ. Điều này hoàn toàn hợp lý, chúng ta có quyền tự nhiên để đạt được nhiều hạnh phúc nhất có thể và chúng ta cũng có quyền vượt qua đau khổ.

Toàn bộ lịch sử loài người đã phát triển dựa trên cảm giác này. Trên thực tế, nó không chỉ giới hạn ở con người; theo quan điểm của Phật giáo, ngay cả loài côn trùng nhỏ nhất cũng có cảm giác này và theo khả năng của mình, chúng đang cố gắng đạt được một chút hạnh phúc và tránh những tình huống không vui.

Tuy nhiên, có một số khác biệt lớn giữa con người và các loài động vật khác. Chúng bắt nguồn từ trí thông minh của con người. Nhờ trí thông minh, chúng ta tiến bộ hơn nhiều và có khả năng lớn hơn. Chúng ta có thể suy nghĩ xa hơn nhiều về tương lai và trí nhớ của chúng ta đủ mạnh để đưa chúng ta trở lại nhiều năm trước. Hơn nữa, chúng ta có truyền thống truyền miệng và văn bản nhắc nhở chúng ta về các sự kiện cách đây nhiều thế kỷ. Bây giờ, nhờ các phương pháp khoa học, chúng ta thậm chí có thể kiểm tra các sự kiện đã xảy ra hàng triệu năm trước.

Vì vậy, trí thông minh của chúng ta khiến chúng ta rất thông minh, nhưng đồng thời, chính xác là vì thực tế đó, chúng ta cũng có nhiều hoài nghi và ngờ vực hơn, và do đó có nhiều nỗi sợ hãi hơn. Tôi nghĩ rằng trí tưởng tượng về nỗi sợ hãi phát triển hơn nhiều ở con người so với các loài động vật khác. Ngoài ra, nhiều xung đột
trong gia đình loài người và trong chính gia đình của một người, chưa kể đến những xung đột trong cộng đồng và giữa các quốc gia, cũng như những xung đột nội bộ trong mỗi cá nhân, tất cả các xung đột và mâu thuẫn đều phát sinh từ những ý tưởng và quan điểm khác nhau mà trí thông minh của chúng ta mang lại. Thật không may, đôi khi trí thông minh có thể tạo ra trạng thái tinh thần khá bất hạnh. Theo nghĩa này, nó trở thành một nguồn đau khổ khác của con người. Tuy nhiên, đồng thời, tôi nghĩ rằng cuối cùng trí thông minh là công cụ mà chúng ta có thể vượt qua tất cả những xung đột và khác biệt này.

Theo quan điểm này, trong số tất cả các loài động vật khác nhau trên hành tinh, con người là loài gây rắc rối lớn nhất. Rõ ràng là vậy. Tôi tưởng tượng rằng nếu không còn con người trên hành tinh này nữa, thì bản thân hành tinh này sẽ an toàn hơn! Chắc chắn hàng triệu con cá, gà và các loài động vật nhỏ khác có thể được hưởng một số loại giải phóng thật sự!

Do đó, điều quan trọng là trí thông minh của con người phải được sử dụng theo cách xây dựng. Đó là chìa khóa. Nếu chúng ta sử dụng đúng khả năng của nó, thì không chỉ con người sẽ ít gây hại cho nhau hơn, và cho hành tinh này, mà cả những cá nhân cũng sẽ hạnh phúc hơn trong chính họ. Điều đó nằm trong tay chúng ta. Việc chúng ta sử dụng trí thông minh của mình theo cách đúng đắn hay sai lầm là tùy thuộc vào chúng ta. Không ai có thể áp đặt các giá trị của họ lên chúng ta. Làm thế nào chúng ta có thể học cách sử dụng khả năng của mình một cách xây dựng? Trước tiên, chúng ta cần nhận ra bản chất của mình và sau đó, nếu chúng ta có quyết tâm, thì sẽ có khả năng thật sự để chuyển hóa trái tim con người.

Trên cơ sở này, hôm nay tôi sẽ nói về cách một con người có thể tìm thấy hạnh phúc như một cá nhân, bởi vì tôi tin rằng cá nhân là chìa khóa cho tất cả những điều còn lại. Để thay đổi xảy ra trong bất kỳ cộng đồng nào, sáng kiến ​​phải đến từ cá nhân. Nếu cá nhân có thể trở thành một người tốt, điềm tĩnh, an bình, điều này tự động mang lại bầu không khí tích cực cho gia đình xung quanh người ấy. Khi cha mẹ là những người ấm áp, thanh bình và điềm tĩnh, nói chung, con cái của họ cũng sẽ phát triển thái độ và hành vi đó.

Cách thái độ của chúng ta hoạt động là như vậy mà nó thường bị làm phiền bởi các yếu tố bên ngoài, vì vậy một mặt của vấn đề là loại bỏ sự tồn tại của rắc rối chung quanh bạn.
Môi trường, nghĩa là hoàn cảnh xung quanh, là một yếu tố rất quan trọng để thiết lập trạng thái tinh thần vui vẻ. Tuy nhiên, quan trọng hơn nữa là mặt khác của vấn đề, đó là thái độ tinh thần của chính bạn.

Hoàn cảnh xung quanh có thể không thân thiện, thậm chí có thể thù địch, nhưng nếu thái độ tinh thần bên trong của bạn đúng đắn, thì hoàn cảnh đó sẽ không làm xáo trộn sự bình yên bên trong của bạn. Mặt khác, nếu thái độ của bạn không đúng đắn, thì ngay cả khi bạn được bao quanh bởi những người bạn tốt và những tiện nghi tốt nhất, bạn cũng không thể hạnh phúc. Đây là lý do tại sao thái độ tinh thần quan trọng hơn các điều kiện bên ngoài. Mặc dù vậy, đối với tôi, có vẻ như nhiều người quan tâm nhiều hơn đến các điều kiện bên ngoài của họ và bỏ bê thái độ tinh thần bên trong. Tôi đề xuất rằng chúng ta nên chú ý nhiều hơn đến các phẩm chất bên trong của mình.

Có một số phẩm chất quan trọng đối với sự bình yên của tinh thần, nhưng từ kinh nghiệm ít ỏi của mình, tôi tin rằng một trong những yếu tố quan trọng nhất là lòng từ bi và tình cảm của con người, một cảm giác quan tâm.

Hãy để tôi giải thích ý nghĩa của lòng tử bi. Thông thường, khái niệm về lòng từ bi hoặc tình yêu thương của chúng ta đề cập đến cảm giác gần gũi mà chúng ta có với bạn bè và những người thân yêu. Đôi khi lòng tử bi cũng mang theo cảm giác thương hại. Điều này là sai, bất kỳ tình yêu thương hay lòng tử bi nào đòi hỏi phải coi thường người khác đều không phải là lòng từ bi thật sự. Để trở nên chân thành, lòng từ bi phải dựa trên sự tôn trọng người khác và nhận ra rằng người khác cũng có quyền được hạnh phúc và vượt qua đau khổ giống như bạn. Trên cơ sở này, vì bạn có thể thấy rằng người khác đang đau khổ, bạn phát triển một cảm giác quan tâm thật sự đến họ.

Đối với sự gần gũi mà chúng ta cảm thấy đối với bạn bè của mình, điều này thường giống như sự gắn bó hơn là lòng từ bi. Lòng tử bi thật sự phải không thiên vị. Nếu chúng ta chỉ cảm thấy gần gũi với bạn bè của mình, chứ không phải với kẻ thù của mình, hoặc với vô số người mà chúng ta không biết và những người mà chúng ta thờ ơ, thì lòng tử bi của chúng ta chỉ là một phần hoặc thiên vị.

Lòng tử bi cũng mang lại cho chúng ta một sức mạnh nội tâm nhất định. Một khi nó được phát triển, nó tự nhiên mở ra một cánh cửa bên trong, qua đó chúng ta có thể giao tiếp với những người đồng loại khác, và thậm chí với những chúng sinh khác,
một cách dễ dàng, và từ trái tim. Mặt khác, nếu bạn cảm thấy căm ghét và ác cảm với người khác, họ có thể cũng cảm thấy như vậy với bạn, và kết quả là sự nghi ngờ và sợ hãi sẽ tự động tạo ra khoảng cách giữa bạn và khiến giao tiếp trở nên khó khăn. Khi đó, bạn sẽ cảm thấy cô đơn và bị cô lập.

Lòng tử bi tự nhiên tạo ra bầu không khí tích cực, và kết quả là bạn cảm thấy bình yên và mãn nguyện. Bất cứ nơi nào có một người từ bi sống, thì luôn có bầu không khí dễ chịu. Ngay cả chó và chim cũng dễ dàng tiếp cận người đó. Gần năm mươi năm trước, tôi từng nuôi một số loài chim trong Cung điện Mùa hè Norbulinga, ở Lhasa. Trong số đó có một con két nhỏ. Vào thời điểm đó, tôi có một người hầu lớn tuổi có vẻ ngoài hơi không thân thiện, ông có đôi mắt rất tròn và nghiêm nghị - nhưng ông luôn cho con két này ăn hạt, v.v. Vì vậy, bất cứ khi nào người hầu xuất hiện, chỉ cần tiếng bước chân hoặc tiếng ho của ông là con két sẽ tỏ ra phấn khích. Người hầu có cách cư xử cực kỳ thân thiện với con chim nhỏ đó, và con két cũng có phản ứng đáng kinh ngạc với ông. Có một vài lần tôi cho nó ăn hạt nhưng nó không bao giờ tỏ ra thân thiện với tôi, vì vậy tôi bắt đầu chọc nó bằng một cây gậy, hy vọng nó có thể phản ứng khác; kết quả hoàn toàn tiêu cực. Tôi đã dùng nhiều lực hơn con chim, vì vậy nó phản ứng tương ứng.

Do đó, nếu bạn muốn có một người bạn thật sự, trước tiên bạn phải tạo ra một bầu không khí tích cực xung quanh mình. Suy cho cùng, chúng ta là tạo vật xã hội và bạn bè rất quan trọng. Làm thế nào bạn có thể mang lại nụ cười trên khuôn mặt của mọi người? Nếu bạn vẫn cứng nhắc và nghi ngờ, điều đó rất khó. Có lẽ nếu bạn có quyền lực hoặc tiền bạc, một số người có thể tặng bạn một nụ cười giả tạo, nhưng một nụ cười thật sự chỉ đến từ lòng tử bi.

Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để phát triển lòng tử bi. Trên thực tế, chúng ta có thật sự có thể phát triển lòng tử bi không thiên vị này không? Câu trả lời của tôi là chúng ta chắc chắn có thể. Tôi tin rằng bản chất con người là nhẹ nhàng và nhân hậu, mặc dù nhiều người, cả trong quá khứ và hiện tại, đều nghĩ rằng bản chất con người về cơ bản là hung hăng. Chúng ta hãy cùng xem xét điểm này.

Vào thời điểm thụ thai, và khi chúng ta còn trong bụng mẹ, trạng thái tinh thần từ bi và bình yên của mẹ là một trạng thái rất tích cực
yếu tố cho sự phát triển của chúng ta. Nếu tâm trí của người mẹ rất kích động, điều đó có hại cho chúng ta. Và đó chỉ là sự khởi đầu của cuộc sống! Ngay cả trạng thái tinh thần của cha mẹ khi thụ thai cũng rất quan trọng. Ví dụ, nếu một đứa trẻ được thụ thai thông qua hiếp dâm, thì đứa trẻ sẽ không được mong muốn, đó là một điều khủng khiếp. Để thụ thai diễn ra đúng cách, nó phải xuất phát từ tình yêu chân thành và sự tôn trọng lẫn nhau, chứ không chỉ là đam mê điên cuồng. Chỉ có một mối tình thoáng qua là không đủ, hai đối tác phải hiểu rõ nhau và tôn trọng nhau như những con người, và đây là nền tảng cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Hơn nữa, bản thân hôn nhân phải là trọn đời, hoặc ít nhất là phải lâu dài. Cuộc sống nên bắt đầu đúng cách từ một tình huống như vậy.

Sau đó, theo khoa học y tế, trong vài tuần sau khi sinh, não của trẻ vẫn đang phát triển. Trong thời gian đó, các chuyên gia khẳng định rằng sự tiếp xúc vật lý là yếu tố quan trọng cho sự phát triển thích hợp của não. Chỉ riêng điều này đã cho thấy rằng sự phát triển của cơ thể chúng ta đòi hỏi tình cảm của người khác.

Sau khi sinh, một trong những hành động đầu tiên của người mẹ là cho con sữa, và từ phía đứa trẻ là bú sửa mẹ. Sữa thường được coi là biểu tượng của lòng tử bi. Theo truyền thống, nếu không có sữa, đứa trẻ không thể sống sót. Thông qua quá trình bú sữa, sự gần gũi giữa mẹ và con xuất hiện. Nếu không có sự gần gũi đó, đứa trẻ sẽ không tìm đến bầu sữa của mẹ, và nếu người mẹ không thích đứa trẻ, sữa của bà có thể không tự nhiên chảy ra. Vì vậy, sữa đi kèm với tình cảm. Điều này có nghĩa là hành động đầu tiên trong cuộc đời chúng ta, hành động bú sữa, là biểu tượng của tình cảm. Tôi luôn nhớ điều này khi đến nhà thờ và thấy Đức Mẹ Maria bế Chúa Jesus khi còn là một đứa trẻ nhỏ; đối với tôi, đó là biểu tượng của tình yêu và tình cảm.

Người ta thấy rằng những đứa trẻ lớn lên trong những ngôi nhà có tình yêu và tình cảm sẽ phát triển thể chất khỏe mạnh hơn và học tập tốt hơn ở trường. Ngược lại, những đứa trẻ thiếu tình cảm của con người sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc phát triển thể chất và tinh thần. Những đứa trẻ này cũng thấy khó thể hiện tình cảm khi lớn lên, đó là một bi kịch lớn.

Bây giờ chúng ta hãy xem xét khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời khi chết. Ngay cả khi chết, mặc dù người hấp hối không còn được hưởng nhiều lợi ích từ bạn bè, nhưng nếu được bạn bè vây quanh, tâm trí họ có thể bình tĩnh hơn. Do đó, trong suốt cuộc đời, từ lúc bắt đầu cho đến khi chết, tình cảm con người đóng vai trò rất quan trọng.

Một thái độ trìu mến không chỉ khiến tâm trí thanh thản và bình tĩnh hơn mà còn ảnh hưởng tích cực đến cơ thể chúng ta. Mặt khác, lòng căm thù, ghen tị và sợ hãi làm đảo lộn sự bình yên của tâm trí, khiến chúng ta bồn chồn và ảnh hưởng tiêu cực đến cơ thể. Ngay cả cơ thể chúng ta cũng cần sự bình yên của tâm trí và không thích hợp với sự bồn chồn. Điều này cho thấy rằng sự trân trọng sự bình yên của tâm trí nằm trong máu chúng ta.

Do đó, mặc dù một số người có thể không đồng ý, tôi cảm thấy rằng mặc dù bản chất hung hăng của chúng ta là một phần của cuộc sống, nhưng sức mạnh chủ đạo của cuộc sống là tình cảm con người. Đây là lý do tại sao có thể củng cố lòng tốt cơ bản vốn là bản chất con người của chúng ta.

Chúng ta cũng có thể tiếp cận tầm quan trọng của lòng tử bi thông qua lý luận thông minh. Nếu tôi giúp đỡ người khác và thể hiện sự quan tâm đến họ, thì bản thân tôi sẽ được hưởng lợi từ điều đó. Tuy nhiên, nếu tôi làm hại người khác, cuối cùng tôi sẽ gặp rắc rối. Tôi thường nói đùa, nửa chân thành nửa nghiêm túc, rằng nếu chúng ta muốn thật sự ích kỷ thì chúng ta nên ích kỷ một cách khôn ngoan thay vì ích kỷ một cách ngu ngốc. Trí thông minh của chúng ta có thể giúp điều chỉnh thái độ của chúng ta theo hướng này. Nếu chúng ta sử dụng nó một cách tốt, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về cách chúng ta có thể hoàn thành lợi ích cá nhân của mình bằng cách sống một cách từ bi. Thậm chí có thể lập luận rằng từ bi cuối cùng là ích kỷ.

Trong bối cảnh này, tôi không nghĩ rằng ích kỷ là sai. Yêu bản thân là điều cốt yếu. Nếu chúng ta không yêu bản thân mình, làm sao chúng ta có thể yêu người khác? Có vẻ như khi một số người nói về lòng từ bi, họ có quan niệm rằng nó bao hàm sự coi thường hoàn toàn đối với lợi ích của bản thân và hy sinh lợi ích của mình. Điều này không đúng. Trên thực tế, tình yêu đích thực trước tiên phải hướng đến bản thân mình.

Có hai ý nghĩa khác nhau về bản thân. Người ta không ngần ngại trong việc
làm hại người khác, và điều đó là tiêu cực và dẫn đến rắc rối. Điều còn lại dựa trên sự quyết tâm, ý chí và sự tự tin, và ý thức về cái tôi là rất cần thiết. Nếu không có nó, làm sao chúng ta có thể phát triển sự tự tin mà chúng ta cần để thực hiện bất kỳ nhiệm vụ nào trong cuộc sống? Tương tự như vậy, cũng có hai loại ham muốn. Tuy nhiên, lòng căm thù luôn tiêu cực và phá hoại sự hòa hợp.

Làm sao chúng ta có thể giảm bớt lòng căm thù? Lòng căm thù thường đi trước sự tức giận. Sự tức giận phát sinh như một cảm xúc phản ứng và dần dần phát triển thành cảm giác căm thù. Cách tiếp cận khéo léo ở đây là trước tiên phải biết rằng sự tức giận là tiêu cực. Mọi người thường nghĩ rằng vì sự tức giận là một phần của chúng ta, cho nên tốt hơn là nên thể hiện nó, nhưng tôi nghĩ điều này là sai lầm. Bạn có thể có những bất bình hoặc oán giận do quá khứ của mình và bằng cách thể hiện sự tức giận, bạn có thể giải quyết được chúng. Điều đó hoàn toàn có thể. Tuy nhiên, thông thường, tốt hơn là bạn nên kiểm soát cơn tức giận của mình, và sau đó dần dần, qua từng năm, nó sẽ giảm dần. Theo kinh nghiệm của tôi, cách này hiệu quả nhất khi bạn cho rằng tức giận là tiêu cực và tốt hơn là không nên cảm thấy tức giận. Bản thân quan điểm đó sẽ tạo nên sự khác biệt.

Bất cứ khi nào cơn tức giận sắp ập đến, bạn có thể rèn luyện bản thân để nhìn nhận đối tượng tức giận của mình theo một cách khác. Bất kỳ người hoặc hoàn cảnh nào gây ra cơn tức giận về cơ bản đều mang tính tương đối; nhìn từ một góc độ, nó khiến bạn tức giận, nhưng nhìn từ góc độ khác, bạn có thể khám phá ra một số điều tốt đẹp trong đó. Ví dụ, chúng tôi đã mất nước và trở thành người tị nạn. Nếu nhìn vào hoàn cảnh của mình từ góc độ đó, chúng tôi có thể cảm thấy thất vọng và buồn bã, nhưng cùng một sự kiện đó đã tạo ra những cơ hội mới - gặp gỡ những người khác từ các truyền thống tôn giáo khác nhau, v.v. Phát triển một cách nhìn nhận linh hoạt hơn về mọi thứ giúp chúng ta nuôi dưỡng thái độ tinh thần cân bằng hơn. Đây là một phương pháp.

Ví dụ, có những tình huống khác mà bạn có thể bị bệnh và bạn càng nghĩ về căn bệnh của mình thì sự thất vọng của bạn càng trở nên tồi tệ hơn. Trong trường hợp như vậy, sẽ rất hữu ích nếu so sánh tình hình của bạn với tình huống xấu nhất liên quan đến bệnh tật của bạn, hoặc với những gì sẽ xảy ra nếu bạn mắc phải căn bệnh nghiêm trọng hơn, v.v. Trong
cách này, bạn có thể tự an ủi mình bằng cách nhận ra rằng mọi chuyện có thể tệ hơn nhiều. Một lần nữa, bạn rèn luyện bản thân để nhìn nhận tính tương đối của hành động của mình, bạn so sánh nó với thứ gì đó tệ hơn nhiều, điều này sẽ ngay lập tức làm giảm sự thất vọng của bạn.

Tương tự, nếu khó khăn xuất hiện, chúng có vẻ to lớn khi bạn nhìn kỹ, nhưng nếu bạn tiếp cận cùng một vấn đề từ góc độ rộng hơn, nó sẽ nhỏ hơn. Với những phương pháp này và bằng cách phát triển một cái nhìn rộng hơn, bạn có thể giảm bớt sự thất vọng của mình bất cứ khi nào bạn gặp phải vấn đề. Bạn có thể thấy rằng cần phải nỗ lực liên tục, nhưng nếu bạn áp dụng theo cách này, thì mặt tức giận của bạn sẽ giảm đi. Trong khi đó, bạn củng cố mặt từ bi của mình và tăng tiềm năng tốt của mình. Bằng cách kết hợp hai cách tiếp cận này, một người tiêu cực có thể được chuyển đổi thành một người tử tế. Đây là phương pháp chúng ta sử dụng để tạo ra sự chuyển đổi đó.

Ngoài ra, nếu bạn có đức tin tôn giáo, nó có thể hữu ích trong việc mở rộng những phẩm chất này. Ví dụ, Phúc âm dạy chúng ta phải đưa cái má kia, điều này cho thấy rõ ràng việc thực hành lòng khoan dung. Đối với tôi, thông điệp chính của Phúc âm là tình yêu thương đối với đồng loại, và lý do chúng ta nên phát triển điều này là vì chúng ta yêu Chúa. Tôi hiểu điều này theo nghĩa là có tình yêu thương vô hạn. Những lời dạy tôn giáo như vậy rất mạnh mẽ để tăng cường và mở rộng những phẩm chất tốt đẹp của chúng ta. Cách tiếp cận của Phật giáo đưa ra một phương pháp rất rõ ràng. Đầu tiên, chúng ta cố gắng coi tất cả chúng sinh đều bình đẳng. Sau đó, chúng ta coi rằng cuộc sống của tất cả chúng sinh đều quý giá như chính cuộc sống của chúng ta, và thông qua đó, chúng ta phát triển ý thức quan tâm đến người khác.

Còn trường hợp của một người không có đức tin tôn giáo thì sao? Việc chúng ta có theo một tôn giáo hay không là vấn đề quyền cá nhân. Có thể quản lý mà không cần tôn giáo, và trong một số trường hợp, điều đó có thể khiến cuộc sống đơn giản hơn! Nhưng khi bạn không còn hứng thú với tôn giáo nữa, bạn không nên bỏ qua giá trị của những phẩm chất tốt đẹp của con người. Miễn là chúng ta là con người và là thành viên của xã hội loài người, chúng ta cần lòng tử bi của con người. Nếu không có lòng từ bi bạn không thể hạnh phúc. Vì tất cả chúng ta đều muốn được hạnh phúc và để
có gia đình và bạn bè hạnh phúc, chúng ta phải phát triển lòng tử bi và tình cảm. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng có hai cấp độ tâm linh, một cấp độ có đức tin tôn giáo và một cấp độ không có. Với cấp độ sau, chúng ta chỉ cần cố gắng trở thành một người có trái tim ấm áp.

Chúng ta cũng nên nhớ rằng một khi chúng ta nuôi dưỡng thái độ từ bi, thì bất bạo động sẽ tự động đến. Bất bạo động không phải là một từ ngữ ngoại giao, mà là lòng từ bi trong hành động. Nếu bạn có lòng căm thù trong tim, thì rất thường xuyên hành động của bạn sẽ là bạo lực, trong khi nếu bạn có lòng từ bi trong tim, thì hành động của bạn sẽ là bất bạo động.

Như tôi đã nói trước đó, chừng nào con người còn tồn tại trên trái đất này thì sẽ luôn có bất đồng quan điểm và xung đột. Chúng ta có thể coi đó là điều hiển nhiên. Nếu chúng ta sử dụng bạo lực để giảm bất đồng quan điểm và xung đột, thì chúng ta phải mong đợi bạo lực mỗi ngày và tôi nghĩ rằng kết quả của điều này là khủng khiếp. Hơn nữa, thực tế là không thể loại bỏ bất đồng quan điểm thông qua bạo lực. Bạo lực chỉ mang lại nhiều sự oán giận và bất mãn hơn nữa.

Ngược lại, bất bạo động có nghĩa là đối thoại, có nghĩa là sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Và đối thoại có nghĩa là thỏa hiệp, lắng nghe quan điểm của người khác và tôn trọng quyền của người khác, theo tinh thần hòa giải. Không ai là người chiến thắng 100% và không ai là kẻ thua cuộc 100%. Đó là cách thực tế. Trên thực tế, đó là cách duy nhất. Ngày nay, khi thế giới ngày càng nhỏ lại, khái niệm "chúng ta" và "họ" gần như đã lỗi thời. Nếu lợi ích của chúng ta tồn tại độc lập với lợi ích của người khác, thì có thể có một người chiến thắng hoàn toàn và một kẻ thua cuộc hoàn toàn, nhưng vì trên thực tế, tất cả chúng ta đều phụ thuộc vào nhau, nên lợi ích của chúng ta và lợi ích của người khác có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Vậy làm sao bạn có thể giành được chiến thắng 100%? Điều đó là không thể. Bạn phải chia sẻ, một nửa, hoặc nếu có thể thì 60 phần trăm cho bên này và 40 phần trăm cho bên kia! Nếu không có cách tiếp cận này, hòa giải là không thể.

Thực tế của thế giới ngày nay có nghĩa là chúng ta cần học cách suy nghĩ theo cách này. Đây là cơ sở cho cách tiếp cận của riêng tôi, cách tiếp cận "trung đạo". Người Tây Tạng sẽ không thể giành được chiến thắng 100 phần trăm, cho dù chúng tôi thích hay không thì
số phận của Tây Tạng phụ thuộc rất nhiều vào Trung Hoa. Do thế trong tinh thần hòa giải, tôi ủng hộ việc chia sẻ những quan tâm, nên tiến trình chân thành là có thể. Thỏa hiệp là cách duy nhất. Qua những phương tiện bất bạo động, chúng ta có thể chia sẻ những quan điểm, cảm xúc và quyền lợi và trong cách này chúng ta có thể giải quyết các vấn đề.

Tôi thỉnh thoảng gọi thế kỷ XX là thế kỷ đổ máu, và thế kỷ của chiến tranh. Suốt thế kỷ này có nhiều xung đột hơn, nhiều máu đổ hơn, nhiều vũ khí hơn bao giờ hết. Bây giờ, trên cơ sở hậu quả mà tất cả chúng ta đã có trong thế kỷ này, và về những gì chúng ta đã học được, tôi nghĩ chúng ta nên hướng đến thế kỷ tiếp theo là thế kỷ của đối thoại. Nguyên tắc bất bạo động nên được thực hành ở khắp mọi nơi. Điều này không thể đạt được chỉ bằng cách ngồi đây và cầu nguyện. Nó có nghĩa là làm việc và nỗ lực, và phải nỗ lực hơn./.



 

CHƯƠNG 5: TRÁCH NHIỆM CHUNG



Tôi luôn tin rằng con người chúng ta về cơ bản đều giống nhau về mặt tinh thần, cảm xúc và thể chất.

Tôi muốn làm rõ, tuy nhiên có lẽ cũng cảnh báo bạn rằng bạn không nên kỳ vọng quá nhiều. Không có phép lạ nào cả. Tôi rất hoài nghi về những điều như vậy. Sẽ rất nguy hiểm nếu mọi người đến nghe tôi nói chuyện và tin rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma có một loại năng lực chữa bệnh nào đó, chẳng hạn. Bản thân tôi cũng nghi ngờ những người tự nhận mình có năng lực chữa bệnh. Cách đây một thời gian, tại một cuộc tụ họp lớn ở Anh, tôi đã nói như vậy. Lúc đó, tôi đã nói với khán giả rằng nếu có một người chữa bệnh thật sự ngoài kia, tôi muốn cho người đó thấy vấn đề về da của tôi. Đôi khi, gãi ngứa có thể khá dễ chịu, nhưng như bậc thầy Phật giáo Ấn Độ Long Thọ đã nói, "Thà không bị ngứa còn hơn là có niềm vui khi gãi". Dù sao thì cho đến nay, tôi chưa từng gặp một người như vậy. Tuy nhiên, nếu bạn ở đây chỉ vì tò mò, thì điều đó hoàn toàn ổn thôi. Tôi rất vui khi có cơ hội được nói chuyện với các bạn và cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của tôi đối với những người đã tổ chức sự kiện này.

Điều cơ bản là mọi người đều muốn có một cuộc sống hạnh phúc, thành công. Đây không chỉ là mục tiêu của chúng ta mà còn là quyền hợp pháp của chúng ta. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để chúng ta đạt được cuộc sống hạnh phúc này? Tuy nhiên, khi sự phát triển về vật chất và tinh thần được kết hợp, chúng ta có thể đạt được mục tiêu của mình là một cuộc sống hạnh phúc. Do đó, trong khi tập trung vào sự phát triển về vật chất, điều cần thiết là chúng ta cũng phải chú ý đến các giá trị bên trong.
Khi tôi sử dụng từ "tâm linh", tôi không nhất thiết có ý nói đến niềm tin tôn giáo. Rõ ràng là có hai cấp độ tâm linh - sự hòa hợp với đức tin tôn giáo và sự hòa hợp không có đức tin. Rõ ràng, một cá nhân có thể xoay xở để sống một cuộc sống có ý nghĩa mà không cần đức tin tôn giáo, nhưng bạn không thể là một người hạnh phúc nếu không có tâm linh về các giá trị cơ bản của con người. Miễn là chúng ta vẫn là con người, thì không có cách nào chúng ta có thể bỏ qua điều này.

Những giá trị cơ bản của con người là gì? Có hai cấp độ. Ở một cấp độ, có ý thức quan tâm đến nhau, chia sẻ với nhau ý thức về sự thống nhất đến từ việc coi tất cả mọi người là anh chị em trong một gia đình nhân loại duy nhất, mang lại sự tôn trọng, khoan dung và kỷ luật tự giác. Chúng ta thậm chí còn tìm thấy một số phẩm chất này trong thế giới động vật. Tuy nhiên, ở một cấp độ khác, vì trí thông minh của con người và sự hiểu biết về hậu quả sâu rộng, chúng ta có thể cố tình tăng cường một số phẩm chất nhất định và cố gắng kiềm chế những phẩm chất khác. Theo cách này, con người trở nên tinh vi hơn nhiều so với động vật.

Con người và động vật đều có cùng mong muốn cơ bản về hạnh phúc hoặc sự thỏa mãn. Đây là điều chung của tất cả các loài có tri giác. Tuy nhiên, điều độc đáo ở chúng ta là trí thông minh. Mong muốn đạt được hạnh phúc, khoái lạc và sự thỏa mãn chủ yếu thông qua năm giác quan không phải là điều chỉ có ở con người, không có nhiều điểm phân biệt chúng ta với động vật về mặt này. Tuy nhiên, điều phân biệt chúng ta với động vật là khả năng sử dụng năng lực thông minh của mình trong hành trình thực hiện mong muốn tự nhiên là được hạnh phúc và vượt qua đau khổ. Chính khả năng phán đoán giữa hậu quả dài hạn và ngắn hạn của hành vi và hành động của chúng ta mới thật sự phân biệt chúng ta với động vật; sử dụng đúng đắn những phẩm chất độc đáo của con người là điều chứng minh chúng ta là con người thật sự.

Một yếu tố quan trọng khác là có hai loại đau đớn và khoái cảm - đau đớn và khoái cảm ở cấp độ thể chất hoặc giác quan và ở cấp độ tinh thần. Nếu chúng ta xem xét cuộc sống hàng ngày của mình, chúng ta sẽ thấy rõ rằng chúng ta có thể chế ngự nỗi đau về thể xác về mặt tinh thần. Khi chúng ta hạnh phúc và bình tĩnh, chúng ta có thể dễ dàng bỏ qua sự khó chịu về thể xác, chẳng hạn như đau đớn và cảm giác không thoải mái. Tuy nhiên, khi chúng ta không vui hoặc bối rối, thì
ngay cả những yếu tố bên ngoài tốt nhất, chẳng hạn như bạn đồng hành tốt, tiền bạc và danh vọng, cũng không thể làm chúng ta hạnh phúc. Điều này cho thấy rằng bất kể trải nghiệm giác quan của chúng ta có mạnh mẽ đến đâu, chúng cũng không thể lấn át trạng thái tinh thần của chúng ta; trải nghiệm tinh thần vượt trội hơn trải nghiệm vật lý. Trong lĩnh vực tinh thần của hạnh phúc và đau khổ hoặc đau đớn và khoái lạc này, ứng dụng trí thông minh của con người đóng một vai trò có ảnh hưởng to lớn.

Bản thân sự thông minh của con người là trung tính; nó chỉ là một công cụ có thể được sử dụng theo cách phá hoại hoặc xây dựng. Ví dụ, nhiều đau khổ của chúng ta xuất hiện do sức mạnh của trí tưởng tượng và khả năng suy nghĩ về tương lai của chúng ta, điều này có thể tạo ra sự nghi ngờ, kỳ vọng, thất vọng và sợ hãi. Động vật không có những vấn đề này. Nếu một con vật tìm thấy thức ăn và nơi trú ẩn tốt và không có sự xáo trộn tức thời, nó có thể tồn tại khá yên bình, nhưng ngay cả khi chúng ta, con người, được ăn uống đầy đủ và được bao quanh bởi những người bạn đồng hành tốt, âm nhạc hay, v.v., thì sự tinh tế và kỳ vọng của chúng ta không cho phép chúng ta thư giãn. Nói cách khác, sự thông minh của con người là nguồn gốc của lo lắng và các vấn đề. Sự bất hạnh phát sinh từ trí tưởng tượng quá mức không thể giải quyết bằng phương tiện vật chất.

Do đó, sự thông minh của con người có thể có ảnh hưởng rất lớn theo hướng tiêu cực hoặc tích cực. Yếu tố chính để hướng sự thông minh tích cực hơn là có thái độ tinh thần đúng đắn. Để có một cuộc sống hạnh phúc, những ngày vui vẻ và những đêm vui vẻ, điều cực kỳ quan trọng là kết hợp trí thông minh của con người với các giá trị cơ bản của con người. Nếu tâm chúng ta thanh thản, cởi mở và bình tĩnh trong ngày, những giấc mơ của chúng ta sẽ phản ánh những trải nghiệm này và trở nên hạnh phúc. Nếu trong ngày chúng ta trải qua nỗi sợ hãi, bồn chồn và nghi ngờ, chúng ta sẽ tiếp tục gặp rắc rối trong giấc mơ của mình. Do đó, để có được hạnh phúc 24 giờ một ngày, chúng ta phải có thái độ tinh thần đúng đắn.

Thay vì nghĩ về tiền bạc và vật chất mỗi phút trong ngày, chúng ta nên chú ý nhiều hơn đến thế giới bên trong của mình. Thật thú vị khi tự hỏi bản thân những câu hỏi như "Tôi là ai?" và "Cái tôi của tôi ở đâu?" Thông thường, chúng ta coi cái "Tôi" của mình là điều hiển nhiên. Chúng ta cảm thấy rằng bên trong chúng ta có một cái gì đó vững chắc và độc lập, là chủ nhân của tâm, cơ thể và của cải của chúng ta,nếu chúng ta suy ngẫm và xem xét cái gọi là bản ngã quyền năng và quý giá này thật sự nằm ở đâu, thì nó sẽ tỏ ra khá hữu ích. Chúng ta cũng nên hỏi "Tâm là gì? Nó ở đâu?" bởi vì năng lực lớn nhất của mọi lực lượng gây nhiễu loạn là những cảm xúc tiêu cực. Khi những cảm xúc tiêu cực này phát triển đầy đủ, chúng ta trở thành nô lệ của chúng, như thể điên rồ. Do đó, khi những cảm xúc tiêu cực nảy sinh, việc tìm hiểu “Tất cả những điều này đến từ đâu” là rất hữu ích?

Yếu tố chính trong việc phát triển và tăng cường các giá trị cơ bản của con người - ý thức quan tâm và chia sẻ với nhau - chính là tình cảm của con người, cảm giác gần gũi với nhau. Khoa học y khoa cũng dạy chúng ta rằng cảm xúc đóng vai trò rất quan trọng đối với sức khỏe. Ví dụ, sợ hãi và thù hận rất có hại cho chúng ta. Ngoài ra, khi những cảm xúc tiêu cực nảy sinh mạnh mẽ, một số bộ phận nhất định trong não của chúng ta sẽ bị chặn lại và trí thông minh của chúng ta không thể hoạt động bình thường. Chúng ta cũng có thể thấy từ kinh nghiệm hàng ngày của mình rằng những cảm xúc tiêu cực mạnh mẽ có thể khiến chúng ta khó chịu và căng thẳng, dẫn đến các vấn đề về tiêu hóa và giấc ngủ, khiến một số người trong chúng ta phải dùng đến thuốc an thần, thuốc ngủ, rượu hoặc các loại thuốc khác.

Hơn nữa, khi một số cảm xúc tiêu cực phát triển, chúng có thể làm mất cân bằng tự nhiên của cơ thể, dẫn đến huyết áp cao và các loại bệnh khác. Một nhà nghiên cứu y khoa đã trình bày dữ liệu tại một hội nghị cho thấy những người thường xuyên sử dụng các từ như "tôi", về “tôi" và "của tôi" có nguy cơ đau tim cao hơn. Vì vậy, có vẻ như nếu bạn muốn lên cơn đau tim, bạn nên lặp lại những từ này như một câu thần chú và luôn nói "Tôi, tôi, tôi, tôi, tôi.”

Nếu chúng ta nghĩ về bản thân mình là rất quý giá và tuyệt đối, toàn bộ sự tập trung tinh thần của chúng ta trở nên rất hẹp hòi và hạn chế, thậm chí những vấn đề nhỏ cũng có vẻ không thể chịu đựng được. Người hưởng lợi thật sự của việc thực hành lòng từ bi và việc quan tâm cho người khác chính là tự bản thân mình. Chúng ta có thể có ấn tượng rằng những người hưởng lợi chính của việc thực hành lòng từ bi là những người ở phía nhận; rằng việc thực hành lòng từ bi chỉ có liên quan đến những người quan tâm đến người khác và không liên quan đến những người không quan tâm, vì lợi ích chính của nó là dành cho người khác. Đây là một sai lầm. Lợi ích tức thời
của việc thực hành lòng từ bi thật sự được người thực hành trải nghiệm.

Bởi vì tâm chúng ta rộng mở và chúng ta cảm thấy thoải mái hơn khi nghĩ về nhân loại và phúc lợi của người khác, nếu chúng ta có thể tạo ra thái độ tinh thần này, bất cứ khi nào gặp ai đó, chúng ta sẽ cảm thấy rằng đây là một người anh chị em khác và sẽ có thể giao tiếp dễ dàng ngay lập tức. Khi chúng ta chỉ nghĩ về bản thân mình, cánh cửa bên trong của chúng ta vẫn đóng và chúng ta thấy rất khó để giao tiếp với những người đồng loại.

Tôi là một nhà sư Phật giáo bảy mươi tuổi và trong vài tháng nữa tôi sẽ bảy mươi mốt tuổi. Phần lớn cuộc đời tôi không hạnh phúc. Hầu hết mọi người đã biết về những trải nghiệm khó khăn của tôi. Khi tôi mười lăm tuổi, tôi đã mất tự do; ở tuổi hai mươi bốn, tôi đã mất đất nước. Bây giờ, bốn mươi mốt năm đã trôi qua kể từ khi tôi trở thành người tị nạn và tin tức từ quê hương tôi luôn rất buồn. Tuy nhiên, bên trong, trạng thái tinh thần của tôi có vẻ khá bình yên. Tin xấu có xu hướng vào tai này và ra tai kia; không có nhiều thứ đọng lại trong tâm tôi. Kết quả là sự bình yên trong tâm tôi không bị xáo trộn quá nhiều.

Không phải vì tôi là một người đặc biệt. Tôi nói đùa với những người bạn Trung Hoa của tôi về thuật ngữ tiếng Hoa là hoạt Phật (huo-fo), có nghĩa là "Phật sống". Bản thân thuật ngữ này rất nguy hiểm; nó hoàn toàn sai. Từ tiếng Tây Tạng là "lạt ma"; trong tiếng Phạn, nó là "đạo sư". Không có dấu hiệu nào của "Phật sống" trong những từ này, vì vậy tôi không biết người Trung Hoa lấy chữ"Phật sống" từ đâu ra. Dù sao thì, cho dù mọi người gọi tôi là Phật sống, Thánh Vương hay trong một số trường hợp, là ác quỷ hay phản cách mạng, thì điều đó cũng không quan trọng. Thực tế là tôi chỉ là một con người; một nhà sư Phật giáo giản dị. Không có sự khác biệt nào giữa chúng ta, và theo kinh nghiệm của riêng tôi, nếu chúng ta chú ý nhiều hơn đến thế giới nội tâm của mình thì cuộc sống của chúng ta có thể hạnh phúc hơn. Bạn có thể đạt được nhiều điều khi sống trong một xã hội phát triển về mặt vật chất, nhưng nếu ngoài ra, bạn chú ý nhiều hơn đến thế giới nội tâm của mình, cuộc sống của bạn sẽ trở nên phong phú và trọn vẹn hơn nhiều.

Bằng cách rèn luyện tâm trí, chúng ta có thể trở nên thanh thản hơn. Điều này sẽ mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội hơn để tạo ra những gia đình và cộng đồng con người hòa bình, nền tảng của hòa bình thế giới. Với sức mạnh nội tại, chúng ta có thể đối mặt với các vấn đề ở cấp độ gia đình, xã hội và thậm chí toàn cầu theo cách thực tế hơn. Bất bạo động không có nghĩa là thụ động. Chúng ta cần giải quyết các vấn đề thông qua đối thoại với tinh thần hòa giải. Đây là ý nghĩa thật sự của bất bạo động và là nguồn gốc của hòa bình thế giới.

Cách tiếp cận này cũng có thể rất hữu ích trong sinh thái học. Chúng ta luôn nghe về một môi trường tốt hơn, hòa bình thế giới, bất bạo động, v.v., nhưng những mục tiêu như vậy không đạt được thông qua việc áp dụng các quy định hoặc nghị quyết của Liên hợp quốc; mà cần có sự chuyển đổi của từng cá nhân. Khi chúng ta đã xây dựng được một xã hội hòa bình, trong đó các vấn đề được đàm phán thông qua đối thoại, chúng ta có thể nghiêm túc nghĩ đến phi quân sự hóa - đầu tiên là ở cấp độ quốc gia; sau đó là cấp độ khu vực; và cuối cùng là cấp độ toàn cầu. Tuy nhiên, sẽ rất khó để đạt được những điều này trừ khi bản thân các cá nhân trải qua sự thay đổi trong tâm trí của chính họ./.

CHƯƠNG 6: GIỚI THIỆU


***

Nghiên cứu giáo lý Phật giáo cũng giống như xây dựng trên tâm vậy. Công việc này không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng một số khía cạnh của nó khiến nó bớt khó khăn hơn. Ví dụ, chúng ta không cần tiền bạc, nhân công, kỹ thuật viên hay công nghệ. Mọi thứ chúng ta cần đều đã có sẵn, trong tâm chúng ta. Do thế, với nỗ lực và nhận thức đúng đắn, thì sự phát triển về mặt tinh thần có thể dễ dàng.

Đôi khi tôi cảm thấy hơi do dự khi truyền bá giáo lý Phật giáo ở phương Tây, vì tôi nghĩ rằng mọi người nên ở trong truyền thống tôn giáo của riêng mình thì tốt hơn và an toàn hơn. Nhưng trong số hàng triệu người sống ở phương Tây, tất nhiên sẽ có một số người thấy cách tiếp cận của Phật giáo hiệu quả hoặc phù hợp hơn. Ngay cả trong số người Tây Tạng, cũng có những người theo đạo Hồi thay vì Phật giáo. Tuy nhiên, nếu bạn chọn Phật giáo làm tôn giáo của mình, bạn vẫn phải duy trì sự trân trọng đối với các truyền thống tôn giáo lớn khác. Ngay cả khi chúng không còn hiệu quả với bạn nữa, hàng triệu người khác đã nhận được lợi ích to lớn từ chúng trong quá khứ và vẫn tiếp tục như vậy. Do đó, điều quan trọng là bạn phải tôn trọng tất cả.

Mặc dù tôi là người giải thích các văn bản mà chúng ta sẽ học ở đây, bạn không nhất thiết phải coi tôi là người thầy tâm linh của mình. Thay vào đó, bạn có thể ghi nhớ những lời giải thích của tôi bằng cách liên hệ với tôi nhiều hơn như một người bạn tâm linh hoặc đồng nghiệp. Hơn nữa, đừng chỉ tin vào những gì tôi nói mà không cần phải bàn cãi, nhưng hãy dùng nó làm cơ sở cho sự phản ánh cá nhân và theo cách đó, phát triển sự hiểu biết của bạn về Phật Pháp.

Bất cứ khi nào chúng ta tham gia giảng dạy, nghiên cứu hoặc lắng nghe Phật Pháp, điều rất quan trọng là phải đảm bảo rằng chúng ta áp dụng động cơ và thái độ đúng đắn trong trái tim và tâm của mình. Chúng ta làm điều này bằng cách quy y Tam Bảo (Phật, Pháp và Tăng) và khẳng định lại sự phát sinh tâm giác ngộ (ý định vị tha) của mình thông qua việc đọc ba lần câu kệ sau:

Con quy y cho đến khi giác ngộ
Trong Đức Phật, Pháp và Tăng
Bằng tiềm năng tích cực mà con tạo ra
Thông qua việc nghiên cứu những lời dạy này,
Nguyện con đạt được quả vị Phật vì lợi ích của tất cả mọi người.


Cũng theo truyền thống, khi bắt đầu một buổi giảng dạy, chúng ta sẽ đọc những câu kệ chào mừng Đức Phật, chẳng hạn như những câu kệ hiện hữu trong văn bản của Long Thọ Căn Bản Trung đạo. Ở phần kết của văn bản này, có một câu kệ nói rằng, "Tôi kính lễ Đức Phật đã chỉ ra con đường làm lắng dịu mọi đau khổ" Đức Phật đã trình bày con đường làm lắng dịu mọi an lạc theo cách sau đây.

Vì những đau khổ mà tất cả chúng ta đều muốn tránh là kết quả của những quan điểm về thế giới một cách sai lầm cơ bản, nên cách chúng ta loại bỏ chúng là bằng cách trau dồi sự hiểu biết đúng đắn về bản chất của thực tại. Do đó, trong câu kệ này, Long Thọ kính lễ Đức Phật đã chỉ ra con đường chỉ cho chúng ta cách vun trồng sự hiểu biết đúng đắn về bản chất của thực tại.

Mục Đích Của Thực Hành Pháp

Mục đích của giáo Pháp là gì? Cũng giống như các truyền thống tâm linh khác, Phật pháp là một công cụ để rèn luyện tâm, một điều mà chúng ta dùng để cố gắng giải quyết những vấn đề mà tất cả chúng ta đều gặp phải; những vấn đề chủ yếu bắt nguồn từ cấp độ tinh thần. Những năng lượng cảm xúc tiêu cực tạo ra sự bất ổn về tinh thần, chẳng hạn như bất hạnh, sợ hãi, nghi ngờ, thất vọng, v.v.: những trạng thái tinh thần tiêu cực này sau đó khiến chúng ta tham gia vào các hoạt động tiêu cực, đến lượt chúng lại mang đến cho chúng ta nhiều vấn nạn và đau khổ hơn. Thực hành Phật Pháp là một cách giải quyết những vấn đề này, dù là lâu dài hay tức thời. Nói cách khác, giáo Pháp bảo vệ chúng ta khỏi những đau khổ không mong muốn.

Phật pháp có nghĩa là mang lại nguyên tắc và tĩnh lặng bên trong tâm chúng ta. Do đó, khi chúng ta nói về việc chuyển hóa tâm và phát triển những phẩm chất bên trong, cách duy nhất chúng ta có thể làm được điều này là sử dụng chính tâm. Không có cách nào khác mà chúng ta có thể sử dụng để mang lại sự thay đổi như vậy. Vì vậy, chúng ta nên nhận ra rằng phần lớn những điều chúng ta không mong muốn, những sự kiện không mong muốn, bất hạnh và đau khổ thực sự xảy ra do cách nhìn nhận sai lầm về thế giới và những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực của chúng ta. Những tâm tiêu cực này tạo ra cả sự bất hạnh ngay lập tức và đau khổ trong tương lai.

Đằng sau tất cả những điều này là sự thiếu hiểu biết cơ bản, một cách nhận thức thực tại sai lầm về cơ bản. Trong Phật giáo, điều này được gọi là "tự bám chấp", hoặc "chấp vào sự tồn tại của bản thân". Vì đây là trường hợp, nên cách để loại bỏ các khía cạnh tiêu cực của tâm và đau khổ mà chúng tạo ra là nhìn thấu vọng tưởng của các quá trình tinh thần này và trau dồi sự đối trị của chúng - trí tuệ là sự hiểu biết đúng đắn về bản chất cuối cùng của thực tại. Thông qua việc nuôi dưỡng sự hiểu biết này và áp dụng nó như một phương thuốc giải độc, chúng ta sẽ có thể xua tan đau khổ và những sự kiện không mong muốn trong cuộc sống của mình.

Để thành công trong việc này, trước tiên chúng ta phải nhận ra khía cạnh tiêu cực và tích cực của tâm là gì và có thể phân biệt chúng. Khi chúng ta phát triển được sự hiểu biết rõ ràng về các khía cạnh tiêu cực của tâm và tiềm năng hủy hoại của chúng, thì lòng mong muốn tránh xa chúng sẽ tự nhiên nảy sinh trong chúng ta. Tương tự như vậy, khi chúng ta nhận ra các khía cạnh tích cực của tâm và lợi ích tiềm tàng của chúng, chúng ta sẽ tự nhiên khao khát đạt được và nâng cao những phẩm chất tinh thần này. Sự chuyển đổi như vậy của tâm không thể bị áp đặt từ bên ngoài mà chỉ xảy ra trên cơ sở chấp nhận tự nguyện và sự nhiệt tình lớn lao được truyền cảm hứng từ nhận thức rõ ràng về những lợi ích sẽ đạt được.

Thời gian luôn chuyển động, từng phút từng giây. Khi thời gian trôi qua, cuộc sống của chúng ta cũng vậy. Không ai có thể ngăn chặn chuyển động này. Tuy nhiên, có một điều nằm trong tay chúng ta, đó là liệu chúng ta có lãng phí thời gian mà mình có hay không; liệu chúng ta có sử dụng nó theo cách tiêu cực hay theo cách xây dựng. Thời gian trôi qua mà chúng ta sống cuộc sống của mình là như nhau đối với tất cả chúng ta và cũng có sự bình đẳng cơ bản giữa những người trong chúng ta là một phần của thời gian này. Sự khác biệt nằm ở trạng thái tinh thần và động lực của chúng ta.

Động lực thích hợp không đến chỉ đơn giản bằng cách chúng ta nhận thức rằng một loại động lực là đúng và một loại khác là sai. Chỉ nhận thức thôi thì không thay đổi được động lực. Nó đòi hỏi nỗ lực. Nếu chúng ta nỗ lực một cách khôn ngoan, chúng ta sẽ đạt được kết quả tích cực, mong muốn, nhưng nỗ lực không khôn ngoan giống như tự hành hạ bản thân. Do đó, chúng ta cần biết cách hành động.

Vấn đề sử dụng nỗ lực một cách khôn ngoan này rất quan trọng. Ví dụ, ngay cả sự phát triển bên ngoài, chẳng hạn như xây dựng một tòa nhà, cũng đòi hỏi rất nhiều sự siêng năng và cẩn thận. Bạn cần phải tính đến vị trí chính xác của tòa nhà, sự phù hợp của môi trường, khí hậu, v.v. Sau khi tính đến tất cả các yếu tố đó, bạn có thể xây dựng một công trình đáng tin cậy và phù hợp.

Tương tự như vậy, khi bạn nỗ lực trong lĩnh vực trải nghiệm tinh thần, điều quan trọng là trước tiên phải có sự hiểu biết cơ bản về bản chất của tâm, suy nghĩ và cảm xúc, đồng thời phải tính đến sự phức tạp của tình trạng thân thể của con người và cách nó tương tác với môi trường xung quanh.

Do đó, điều quan trọng là bạn phải có kiến ​​thức rộng và toàn diện về mọi thứ để bạn không phải nỗ lực hết mình theo đuổi mục tiêu một cách mù quáng chỉ dựa trên một điểm duy nhất. Đó không phải là cách của người thông minh, mà là cách của người khôn ngoan. Cách của người thông tuệ là nỗ lực dựa trên kiến ​​thức rộng hơn nhiều.

Trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng, có hơn một trăm tập kinh Kangyur (Cam Châu Nhĩ) được cho là của chính Đức Phật và hơn hai trăm tập Tengyur (Đan Châu Nhĩ) - bộ sưu tập các bài bình luận có thẩm quyền do các bậc thầy Ấn Độ như Long Thọ và Vô Trước viết. Nếu bạn chắt lọc ý nghĩa của tất cả các kinh này và các bài bình luận của chúng và đưa chúng vào thực hành của mình, bạn sẽ đạt được những bước tiến to lớn về mặt chứng ngộ và tiến bộ tâm linh, nhưng nếu bạn coi tất cả những tác phẩm văn học vĩ đại này chỉ đơn giản là một đối tượng tôn kính và thay vào đó tìm kiếm một số văn bản nhỏ hơn để dựa vào thực hành của mình, thì mặc dù bạn sẽ nhận được một số lợi ích, nhưng tiến bộ tâm linh của bạn sẽ không lớn như vậy.

Hiểu Biết Về Trí Tuệ Và Kinh Nghiệm

Điều quan trọng là phải có khả năng phân biệt giữa hai cấp độ hiểu biết. Một là cấp độ tri thức nông cạn, trong đó trên cơ sở đọc, nghiên cứu hoặc lắng nghe giáo lý, chúng ta phân biệt giữa các phẩm chất tiêu cực và tích cực của tâm và nhận ra bản chất và nguồn gốc của chúng. Cấp độ còn lại là cấp độ sâu hơn, kinh nghiệm, trong đó chúng ta thực sự nuôi dưỡng và tạo ra những phẩm chất tích cực bên trong chính mình.

Mặc dù có thể khó khăn để phát triển sự hiểu biết về mặt trí tuệ đối với một số chủ đề nhất định, nhưng nhìn chung, điều này dễ dàng hơn vì nó có thể được nuôi dưỡng chỉ bằng cách đọc văn bản hoặc lắng nghe các bài giảng. Sự hiểu biết theo kinh nghiệm khó phát triển hơn nhiều vì nó chỉ xuất hiện như một kết quả của quá trình thực hành liên tục. Ở cấp độ kinh nghiệm, sự hiểu biết của bạn cũng đi kèm với một thành phần cảm xúc mạnh mẽ; sự hiểu biết của bạn về cơ bản là một trải nghiệm được cảm nhận.

Vì sự hiểu biết theo kinh nghiệm do đó đi kèm với những cảm xúc mạnh mẽ, bạn có thể thấy rằng mặc dù nhiều cảm xúc mang tính hủy hoại, nhưng cũng có những trạng thái cảm xúc tích cực. Trên thực tế, con người không thể tồn tại nếu không có cảm xúc. Cảm xúc là một phần không thể thiếu của con người-nếu không có nó, sẽ không có cơ sở cho cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng nhiều vấn nạn và xung đột của chúng ta đều liên quan đến những cảm xúc mạnh mẽ. Khi một số cảm xúc nhất định nảy sinh trong trái tim và tâm của chúng ta, chúng tạo ra sự xáo trộn ngay lập tức, không chỉ tạm thời mà còn có thể dẫn đến hậu quả tiêu cực lâu dài, đặc biệt là khi chúng ta tương tác với người khác.

Tuy nhiên, khi các loại cảm xúc khác nảy sinh, chúng ngay lập tức tạo ra cảm giác mạnh mẽ và can đảm, tạo ra bầu không khí tích cực hơn nói chung và dẫn đến hậu quả tích cực lâu dài, bao gồm cả sức khỏe của chúng ta. Gác sang một bên câu hỏi về thực hành tâm linh trong lúc này, chúng ta có thể thấy rằng ngay cả từ góc độ của cuộc sống thường ngày, cũng có những cảm xúc hủy hoại và những cảm xúc mang tính xây dựng.

Thuật ngữ tiếng Tây Tạng cho giáo Pháp là “cho”, có nghĩa đen là "thay đổi" hoặc "mang lại sự chuyển đổi". Khi chúng ta nói về việc chuyển hóa tâm, chúng ta đang đề cập đến nhiệm vụ làm giảm sức mạnh của những suy nghĩ và cảm xúc hủy hoại trong khi phát triển sức mạnh của những suy nghĩ và cảm xúc mang tính xây dựng và có lợi. Theo cách này, thông qua việc thực hành Pháp, chúng ta chuyển hóa tâm thức vô kỷ luật của mình thành tâm thức có kỷ luật.

Nền Tảng Cho Sự Chuyển Hóa

Làm sao chúng ta biết rằng có thể chuyển hóa tâm của mình? Có hai nền tảng cho điều này. Một là luật cơ bản về vô thường; rằng mọi thứ và sự kiện đều phải chịu sự chuyển hóa và thay đổi. Nếu chúng ta xem xét điều này sâu sắc hơn, chúng ta sẽ nhận ra rằng ở mọi khoảnh khắc, mọi thứ tồn tại đều đang trải qua một quá trình thay đổi. Mặc dù, ví dụ, chúng ta nói về con người của ngày hôm qua là hiện hữu không thay đổi ngày hôm nay, nhưng tất cả chúng ta đều nhận thức ở cấp độ thô, cấp độ kinh nghiệm về các quy luật của vô thường; rằng, ví dụ, ngay cả trái đất mà chúng ta đang sống một ngày nào đó cũng sẽ kết thúc.

Nếu mọi vật và sự kiện không có bản chất thay đổi từng khoảnh khắc, chúng ta sẽ không thể giải thích được cách biến đổi diễn ra theo thời gian. Khi chúng ta thu hẹp những khoảng thời gian lớn thành những khoảng thời gian rất ngắn, chúng ta có thể nhận ra rằng mọi vật thật sự đang thay đổi từng khoảnh khắc. Công nghệ hiện đại giúp chúng ta thấy được một số thay đổi này. Ví dụ, sự phát triển của một sinh vật có thể được quan sát qua kính hiển vi. Ngoài ra, ở cấp độ lý thuyết vi tế, một số quan sát nhất định chỉ ra bản chất cực kỳ năng động của thực tại vật lý.

Bản chất tạm thời và vô thường của thực tại này không được hiểu theo nghĩa là một thứ gì đó xuất hiện, tồn tại trong một thời gian rồi ngừng tồn tại. Đó không phải là ý nghĩa của vô thường ở cấp độ vi tế. Vô thường vi tế ám chỉ thực tế là ngay khi mọi vật và sự kiện xuất hiện, chúng đã có bản chất vô thường; ngay khi chúng xuất hiện, quá trình tan rã của chúng đã bắt đầu. Khi một thứ gì đó xuất hiện từ nguyên nhân và điều kiện của nó, thì hạt giống của sự chấm dứt của nó cũng được sinh ra cùng với nó. Không phải là một cái gì đó xuất hiện và sau đó một yếu tố hoặc điều kiện thứ ba gây ra sự tan rã của nó. Đó không phải là cách hiểu về vô thường. Vô thường có nghĩa là ngay khi một cái gì đó xuất hiện, nó đã bắt đầu phân rã.

Nếu bạn giới hạn sự hiểu biết của mình về vô thường trong sự liên tục của một cái gì đó, bạn sẽ chỉ hiểu được vô thường thô. Bạn sẽ cảm thấy rằng khi một số nguyên nhân và điều kiện nhất định tạo ra một cái gì đó, nó vẫn không thay đổi miễn là các yếu tố duy trì sự tồn tại của nó vẫn không thay đổi, và chỉ bắt đầu tan rã khi nó gặp phải hoàn cảnh bất lợi. Đây là vô thường thô.

Tuy nhiên, nếu bạn đào sâu sự hiểu biết của mình về vô thường bằng cách tiếp cận nó ở cấp độ vi tế, sự thay đổi từng khoảnh khắc mà tất cả các hiện tượng phải trải qua, bạn sẽ nhận ra rằng ngay khi một cái gì đó xuất hiện, sự chấm dứt của nó cũng đã bắt đầu.

Lúc đầu, bạn có thể cảm thấy rằng sự xuất hiện và sự chấm dứt là những quá trình mâu thuẫn, nhưng khi bạn đào sâu sự hiểu biết của mình đứng trước sự vô thường, bạn sẽ nhận ra rằng sự xuất hiện (sinh) và sự chấm dứt (tử) theo một nghĩa nào đó là đồng thời. Do đó, nền tảng luật vô thường (bản chất tạm thời của mọi hiện tượng) cung cấp cho chúng ta một cơ sở cho khả năng chuyển hóa tâm của chúng ta.

Tiền đề thứ hai cho khả năng chuyển hóa tâm trí của chúng ta là lập luận rằng chúng ta có thể nhận thức được trong thực tế của thế giới vật lý bên ngoài, nơi chúng ta thấy rằng một số thứ xung đột với những thứ khác. Chúng ta có thể gọi đây là định luật mâu thuẫn. Ví dụ, nóng và lạnh, tối và sáng, v.v. là những năng lực đối nghịch, tăng cường cái này tự động làm giảm cái kia. Trong một số trường hợp, đây là một quá trình dần dần, trong những trường hợp khác, là tức thời. Ví dụ, khi bạn bật đèn, thì bóng tối trong một căn phòng sẽ ngay lập tức bị xua tan.

Nếu bạn nhìn vào thế giới tinh thần của những suy nghĩ và cảm xúc theo cùng một cách, bạn sẽ lại thấy nhiều năng lực đối nghịch, theo đó khi bạn khuyến khích và phát triển một số loại cảm xúc nhất định, những loại cảm xúc mâu thuẫn với chúng sẽ tự động giảm cường độ. Sự thật tự nhiên này của ý thức chúng ta, nơi các lực đối lập mâu thuẫn với nhau, cung cấp một tiền đề khác cho khả năng thay đổi và chuyển đổi.

Khi chúng ta lấy hai loại suy nghĩ hoặc cảm xúc trực tiếp đối lập với nhau, câu hỏi đặt ra là loại nào phản ánh trạng thái thật sự của các vấn đề và loại nào là cách liên hệ sai lầm với thế giới? Câu trả lời là những suy nghĩ và cảm xúc có nền tảng vững chắc trong kinh nghiệm và lý trí là những suy nghĩ và cảm xúc có chân lý, trong khi những suy nghĩ và cảm xúc mâu thuẫn với cách mọi thứ tồn tại, bất kể chúng có mạnh mẽ đến đâu tại bất kỳ thời điểm nào, thực tế là không ổn định. Vì chúng không có nền tảng hợp lý trong kinh nghiệm và lý trí, nên chúng không có nền tảng vững chắc.

Ngoài ra, nếu chúng ta lấy hai loại cảm xúc trực tiếp đối lập với nhau và xem xét chúng để xem điều gì phân biệt chúng với nhau, một đặc điểm khác mà chúng ta nhận thấy là chúng khác nhau về tác động lâu dài của chúng.

Có một số loại cảm xúc mang lại cho chúng ta sự nhẹ nhõm hoặc thỏa mãn tạm thời, nhưng khi chúng ta xem xét chúng bằng khả năng thông minh của mình, sự sáng suốt cho phép chúng ta đánh giá giữa lợi ích dài hạn và ngắn hạn - chúng ta thấy rằng về lâu dài chúng mang tính hủy hoại và tổn hại; chúng không thể được hỗ trợ bởi lý trí hoặc sự hiểu biết sâu sắc. Ngay khi ánh sáng trí tuệ chiếu vào những cảm xúc hủy hoại, chúng không còn được hỗ trợ nữa.

Tuy nhiên, có những loại cảm xúc khác, có vẻ hơi đáng lo ngại vào thời điểm đó nhưng thật sự có lợi ích lâu dài và do vậy, được củng cố bởi lý trí và hiểu biết sâu sắc, được hỗ trợ bởi trí thông minh. Do đó, cảm xúc tích cực cuối cùng mạnh mẽ hơn cảm xúc tiêu cực vì tiềm năng phát triển của chúng lớn hơn.

Hai tiền đề này - các quy luật vô thường và mâu thuẫn - cho phép chúng ta thấy khả năng mang lại sự chuyển đổi bên trong chính mình.

Điều Tra Bản Chất Của Thực Tại

Tất cả những điều này cho thấy tầm quan trọng của việc có kiến ​​thức sâu sắc hơn về bản chất của tâm và các khía cạnh và chức năng khác nhau của nó nói chung, và bản chất và sự phức tạp của cảm xúc nói riêng. Ngoài ra, vì chúng ta nhận ra rằng nhiều vấn đề của chúng ta phát sinh từ cách nhận thức và liên hệ với thế giới về cơ bản là sai lầm, nên điều quan trọng là chúng ta phải có khả năng xem xét liệu nhận thức của mình có phù hợp với bản chất thật sự của thực tại hay không. Hiểu được bản chất thật sự của thực tại là rất quan trọng, vì nhận thức của chúng ta về thực tại nằm ở cốt lõi cách chúng ta liên hệ với thế giới. Tuy nhiên, thực tại ở đây không chỉ có nghĩa là những sự kiện trực tiếp tức thời trong trải nghiệm và môi trường của chúng ta mà là toàn bộ phạm vi của thực tại, bởi vì nhiều suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta phát sinh không chỉ là kết quả của môi trường vật lý trực tiếp mà còn từ những ý tưởng trừu tượng.

Do đó, trong giáo lý của Đức Phật, chúng ta thấy rất nhiều cuộc thảo luận về bản chất của thực tại dưới dạng mười tám thành phần, mười hai nguồn, năm uẩn, v.v. và cách nó liên quan đến hành trình tầm cầu giác ngộ của người thực hành. Nếu con đường Phật giáo chỉ đơn giản là một vấn đề về niềm tin và việc vun đắp lòng sùng kính sâu sắc đối với Đức Phật, thì sẽ không cần thiết để ngài giải thích bản chất của thực tại theo các thuật ngữ kỹ thuật và phức tạp. Theo quan điểm này, thế thì giáo lý của Đức Phật có thể được mô tả như một cuộc khám phá bản chất của thực tại.

Cũng giống như các nguyên tắc khoa học đặt trọng tâm rất lớn vào nhu cầu khách quan của nhà khoa học, thì Phật giáo cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xem xét bản chất của thực tại từ quan điểm khách quan. Bạn không thể duy trì một quan điểm đơn giản chỉ vì bạn thích hoặc vì nó phù hợp với các định kiến ​​siêu hình hoặc thiên kiến ​​cảm tình đã định sẵn của bạn. Nếu quan điểm của bạn về thực tại chỉ dựa trên tưởng tượng hoặc phỏng đoán thì bạn sẽ không thể vun đắp quan điểm đó ở cấp độ vô hạn.

Khi bạn tham gia vào con đường Phật giáo để khám phá về bản chất của thực tại, về cơ bản có hai khả năng hoạt động trong tâm bạn. Một là khả năng thẩm tra, điều này đặt thực tại vào vị trí của bạn để phân tích. Trong ngôn ngữ Phật giáo, điều này được mô tả là "trí", hay “tuệ giác” (sự hiểu biết sâu sắc). Sau đó là khả năng "phương pháp" hoặc "phương tiện khéo léo", là khả năng cho phép bạn đào sâu lòng dũng cảm và lòng khoan dung của mình, và tạo ra động lực mạnh mẽ giúp bạn duy trì hành trình tâm linh của mình.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Thiện, Ngài đã nói rằng tất cả các hiện tượng đều chịu sự biến đổi liên tục của vô thường. Có phải bản chất thuần khiết vô ngại của tâm cũng chịu sự biến đổi liên tục của vô thường? Có phải bản chất của tâm này cũng có sinh và chết không?

Đức Thánh Thiện: Khi chúng ta nói về bản chất của misil trong bối cảnh Phật giáo, chúng ta phải hiểu rằng nó có thể được hiểu trong hai cấp độ khác nhau - cấp độ thực tại tối thượng, nơi bản chất của tâm được hiểu theo nghĩa là sự trống rỗng của sự tồn tại cố hữu, và cấp độ tương đối hoặc thông thường, chỉ đơn thuần là phẩm chất của sự hiểu biết và trải nghiệm trong sáng.

Nếu câu hỏi của bạn liên quan đến bản chất thông thường của tâm, thì cũng giống như bản thân tâm trải qua một quá trình thay đổi và do đó, bản chất của tâm cũng vậy. Điều này đã chỉ ra rằng bản chất của tâm là một hiện tượng vô thường. Tuy nhiên, nếu bạn đang hỏi về sự trống rỗng hay tính không của tâm, thì chúng ta cần xem xét rằng mặc dù tính không của tâm không phải là một hiện tượng tạm thời, tức là không chịu sự chi phối của các nguyên nhân và điều kiện, nhưng nó không thể được đặt ra độc lập với một đối tượng nhất định.

Nói cách khác, sự trống rỗng của tâm không thể tồn tại độc lập với chính tâm. Sự trống rỗng của tâm không gì khác hơn là sự thiếu vắng hoàn toàn của sự tồn tại nội tại hoặc cố hữu. Do đó, khi các trạng thái tâm khác nhau đến và đi, những trường hợp mới của sự trống rỗng của tâm cũng xảy ra./.


 

CHƯƠNG 7: ĐẶT NỀN TẢNG CHO CÔNG VIỆC

***

Cần Phải Cải Cách Tâm Chúng Ta

Tại sao chúng ta tụ họp ở đây hôm nay? Không phải để kinh doanh, không phải để tham dự một buổi trình diễn hay biểu diễn. Điều cốt yếu của ngày hôm nay là lắng nghe một bài diễn thuyết của Phật giáo. Với mục đích gì? Để cải cách tâm. Chúng ta phải cải tạo điều gì trong tâm?

Nhìn chung, trong số tất cả các loài động vật trải nghiệm tự mình là "cái tôi", việc tránh đau khổ và mong muốn được vui vẻ là hoàn toàn tự nhiên. Tất cả các loài động vật, mỗi loài có thể, đều cố gắng hết sức để tránh đau khổ và đạt được hạnh phúc. Tất cả các loài động vật, ngay cả những loài nhỏ nhất, đều tìm cách tránh đau khổ và tìm kiếm hạnh phúc, và theo cách này, mỗi loài đều tiến lên trong cuộc đấu tranh sinh tồn của mình.

Khi giáo lý nhà Phật đề cập đến "tất cả chúng sinh hữu tình", rõ ràng họ muốn nói đến tất cả những chúng sinh từ chối đau khổ và mong muốn an lạc. Trong khi đó, khả năng phân biệt thiện và ác ở con người lớn hơn nhiều so với các loài động vật khác. Tôi nghĩ đây là lý do tại sao, trong xã hội loài người, nơi mà sự phân định tâm linh có sức mạnh nhất, đức tin tôn giáo đã xuất hiện. Các tầm nhìn, triết lý và lý thuyết tâm linh đều được sinh ra trong xã hội loài người.

Sức mạnh phân biệt của con người được hỗ trợ bởi nhiều công nghệ và khoa học của chúng ta, nhưng chính vì mong muốn được hạnh phúc và không phải chịu đau khổ nên sự phân biệt của chúng ta thật sự được sử dụng. Tuy nhiên, mỗi lần sự phân biệt
được sử dụng, thì chính việc sử dụng nó tạo ra vô số vấn nạn và khổ đau.

Tôi nói ở đây về những gì mọi người có thể thấy trên hành tinh này. Tôi không nói gì về chư thiên, rồng và thần ăn hương thơm (càn thát bà). Với ba cõi, sáu loài hoặc bốn loại chúng sinh mà kinh luận Phật giáo nói đến, mọi thứ thậm chí hơn thế nữa. Có nhiều chúng sinh khác nữa, tất cả đều được phú cho khả năng phân biệt. Tóm lại, sự phân biệt của con người là một điều tốt đẹp và rất mạnh mẽ, nhưng luôn sẵn sàng bảo đảm cho chúng ta thêm một chút khồ đau.

Khi động vật có bụng no và nhiệt độ phù hợp với chúng, chúng thư giãn và trở nên yên tĩnh. Chúng ta, con người, có tất cả các hoàn cảnh bên ngoài thuận lợi cho chúng ta, nhưng chính vì hy vọng và sự hiểu biết của chúng ta, nên chúng ta thường thấy mình ở trong sự bất mãn lớn nhất. Mỗi sự phân biệt của con người đều phải can thiệp, mặc dù khác nhau đối với mỗi người chúng ta, chúng ta lại thấy rằng sự khó chịu của chúng ta là dữ dội nhất, và hy vọng và sự hiểu biết là dồi dào nhất. Nhưng đây không phải là tất cả. Trên hành tinh này, sinh vật hủy diệt nhất, xét cho cùng, là con người. Ta gần như có thể nói rằng nếu con người không tồn tại, sẽ có nhiều hòa bình hơn và môi trường sẽ tốt hơn.

Nếu con người không tồn tại, cá và vô số loài động vật khác có cảm giác vui sướng và đau khổ sẽ không phải chịu đựng khi bị con người khai thác. Đối với những kẻ khai thác động vật, cuộc sống của động vật không có cùng giá trị như cuộc sống của con người. Một số người cho rằng nếu con người không tồn tại, sẽ có ít động vật hơn nhiều - nếu không có con người, động vật sẽ chỉ ăn thịt lẫn nhau! Nhưng đây không phải là một loại cân bằng tự nhiên sao? Nếu chúng ta nghĩ về điều đó, liệu có tốt hơn không khi mong muốn sự biến mất của con người?

Tuy nhiên, tất cả các sinh vật sống, bất kể loại nào, đều yêu thương lẫn nhau. Vì vậy, con người yêu thương lẫn nhau và có thể quan tâm đến người khác. Sự quan tâm của chúng ta có được từ sự phân biệt của chúng ta, vốn là vấn đề chúng ta có thể phát triển cảm nhận lòng từ bi của chúng ta như thế nào. Nhưng liệu chỉ có con người mới có khả năng này? Trong số tất cả các loài động vật, lòng vị tha, dù có hạn chế, mang lại lợi ích. Tuy nhiên, trong số các loài động vật xã hội, lòng từ bi vô hạn là đặc quyền của riêng con người. Một con thú sẽ gặp khó khăn lớn, vô phương đối với điều đó.

Hoặc chúng ta có thể tiếp cận vấn đề từ phía bên kia. Cuộc sống, chính sự tồn tại của chúng ta, không dành cho sự hủy diệt. Liệu toàn bộ cuộc sống của chúng ta có thể bị thu hẹp lại thành một sự tồn tại dành cho sự hủy diệt không? Hoàn toàn không! Chúng ta không tồn tại để hủy diệt, cũng như chúng ta tồn tại vì bất cứ lý do nào đó, hơn là để đau khổ! Vậy thì bạn không thấy rằng cuộc sống của chúng ta có mang tính xây dựng hay hủy diệt là nằm trong tay chúng ta sao?

Nếu chúng ta có thể được ban tặng khả năng phân biệt thật sự và có thể vây quanh mình bằng những người bạn trung thành, chúng ta sẽ có một cuộc sống có ý nghĩa to lớn: Nó sẽ mang tính xây dựng. Thế thì điều quan trọng đối với chúng ta là phải cải biến tâm chúng ta bằng cách xem xét nó một cách chi tiết. Chúng ta nên phát triển lòng tốt và tính hữu ích của nó bằng cách giảm bớt những khía cạnh có hại của nó. Đó không phải là điều cốt yếu sao?

Chắc chắn, người ta có thể hỏi chúng ta muốn nói gì khi nói đến "tốt" và "xấu". Khổ đau chỉ một cái gì đó "xấu", một cái gì đó không mong muốn. Khổ đau là nguồn gốc của sự khó chịu. Chúng ta mong muốn hạnh phúc; khi đó, hạnh phúc sẽ là "điều tốt" của chúng ta. Chúng ta phân biệt tác động tốt và xấu, những tác động dễ chịu và những tác động không dễ chịu, bằng cách xem xét kết quả tương ứng của chúng. "Xấu" là nguyên nhân của đau khổ, và "tốt" là nguyên nhân của hạnh phúc và những gì thật sự hữu ích. Khi chúng ta đã cải thiện tâm trí, những suy nghĩ tiêu cực của chúng ta sẽ giảm đi và những suy nghĩ tích cực của chúng ta sẽ tăng lên. Khi đó, chúng ta sẽ ngày càng ít phải chịu đựng "điều xấu" hơn, và ngày càng phát triển hơn trong "điều tốt".

* Bình Yên Trong Tâm Trí Và Hạnh Phúc

Trở nên giàu có và nổi tiếng: Đó có thật sự là mục tiêu thiết yếu của cuộc sống con người không? Tiền bạc rất quan trọng. Một "cái tên" nói chung cũng hữu ích. Nhưng trong số những người có tiền, một cái tên và tài sản - chẳng hạn như của cải lớn - chúng ta đã thấy nhiều người chìm đắm trong rắc rối và lo lắng. Ngược lại, những người khác không có tên tuổi cũng như danh tiếng, họ có vẻ thật sự bất hạnh về mặt vật chất, nhưng tâm họ có vẻ thoải mái, Một số người không gặp vấn đề về tiền bạc nhưng luôn phải uống thuốc. Một số khác, ngay cả khi không có mọi tiện nghi vật chất, vẫn cảm thấy khỏe mạnh về thể chất mà không cần phải uống thuốc.

Bí quyết của họ là gì? Khi sự bình yên ngự trị trong tâm , người ta luôn hạnh phúc, ngay cả khi điều kiện bên ngoài không lý tưởng. Sức khỏe cơ thể, nhưng không có sự bình yên trong tâm thì không thể có hạnh phúc, thậm chí không thể đạt được những điều kiện tốt nhất.

Vậy thì bí quyết này ở đâu? Nó nằm trong sự bình yên trong tâm của chúng ta. Liệu sự bình yên trong tâm có đến khi chúng ta mong muốn không? Điều này rất khó xảy ra. Chỉ mong muốn biết được sự bình yên trong tâm không thể đảm bảo được sự bình yên đó. Bạn biết rằng người ta không kiếm được tiền chỉ bằng cách mong muốn có được nó. Người ta phải làm việc để có được nó. Cũng giống như vậy, sự bình yên là tài sản của tâm, và tài sản này, sự giàu có này, không thể có được chỉ bằng cách mong muốn nó. Hãy đến một cửa hàng lớn ở Paris, hoặc thậm chí ở New York. Không ai bán cho bạn sự bình yên trong tâm.

Một số cộng đồng tôn giáo tuyên bố rằng tôn giáo của họ cho phép người ta đạt được sự bình yên trong tâm ngay lập tức. Nhưng làm sao có thể như vậy được? Tất nhiên là tôi chỉ biết những gì tôi đã học, nhưng khi tôi được bảo rằng có thể đạt được sự an lạc nhất định trong chốc lát, tôi trở nên hoài nghi. Điều đó giống như việc yêu cầu bác sĩ tiêm cho bạn một mũi thuốc an lạc. Tôi nghĩ bác sĩ sẽ bật cười.

* Nguồn Gốc Của Giáo Pháp

Đây, bây giờ, là cách tôi thường giải thích về nguồn gốc của giáo Pháp.

Tại thành phố linh thiêng Ba
La Nại (Benares), vị Thầy, tràn đầy lòng tốt, chuyên gia về các phương pháp thiện xảo và tràn đầy lòng đại từ bi, đã thuyết giảng giáo Pháp lần đầu tiên. Ngài đã chuyển bánh xe Pháp và dạy Tứ Diệu Đế cho Năm hành giả khổ hạnh thánh thiện. Và thế là Phật giáo bắt đầu.

Như tất cả các bạn đều biết, lời giải thích thông thường là có hai cỗ xe của Phật giáo, Tiểu thừa và Đại thừa, tức là Thanh văn thừa và Độc Giác thừa [Tiểu thừa] và Bồ tát thừa [Đại thừa]. Đại thừa lần lượt được chia thành Đại thừa Kinh điển và Đại thừa Mật điển, Hệ thống Tứ diệu đế, hình thành nên cấu trúc niềm tin cơ bản của tất cả Phật tử, tất yếu tuân theo sự phân chia này thành hai thừa.

Thực hành theo con đường như được dạy trong các văn bản của Tiểu thừa tạo thành nền tảng cho giáo lý của Đức Phật. Nếu không có nền tảng này, sẽ rất khó để một cỗ xe "đại thừa" xuất hiện. Khi, trong Phật giáo, các tín đồ của Đại thừa cho rằng giáo lý nào đấy thấp kém hơn vì nó thuộc về Tiểu thừa, hoặc các tín đồ của Tiểu thừa nghi ngờ rằng Đại thừa thật sự xuất phát từ Đức Phật, họ đang đưa ra những phán xét này từ bản chất của Phật giáo, và đây là một thiếu sót nghiêm trọng. Nếu không có các thực hành liên quan đến Tứ Diệu Đế, hoặc con đường của ba mươi bảy phẩm trợ đạo Bồ đề được dạy trong các văn bản của Tiểu thừa, thì không thể thật sự thực hành tinh thần Giác ngộ của Đại thừa, đó là lòng nhân từ và bi mẫn. Ý tôi là lòng đại bi.

Những định kiến tương tự đã xảy ra ở Tây Tạng giữa Đại thừa của Mật tông và Đại thừa của Siêu việt (sáu ba la mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ). Những người thành thạo về các siêu việt không có thiện cảm với các mật tông. Về phần mình, những người thông thạo các mật tông hầu như không tôn trọng Đại thừa của Siêu việt, đặc biệt là khi nói đến kỷ luật. Định kiến này là một khiếm khuyết và một lỗi lầm.

Do đó, các cấp độ của các thừa là Tiểu thừa, Đại thừa Siêu việt và Đại thừa Mật tông. Thành quả của các thừa khiêm tốn hơn dễ dàng đạt được bằng cách tuân theo các thực hành của họ. Tuy nhiên, nếu không thành thạo những thực hành "thấp" này, thì không thể đạt được quả của các thừa cao hơn. Tại sao? Bởi vì những thừa thấp này là nền tảng mà các thừa lớn hơn hình thành. Trong số những lời dạy của Đức Phật được bảo tồn toàn vẹn của chúng ở Tây Tạng, Xứ Tuyết, chúng ta tìm thấy những thực hành của Thừa Thấp và các Đại thừa, bao gồm cả tập hợp các tantra. Đối với tôi, đây là một sự thật quan trọng.

Ba Chu Kỳ Giáo Lý Của Đức Phật ( Ba Lần Chuyển Pháp Luân)

Trong các hệ thống triết học của Đại thừa, những gì Đức Phật dạy trong các văn bản của Tiểu thừa tiến triển theo chiều rộng và chiều sâu. Ví dụ, các văn bản của Tiểu thừa chỉ liên quan đến người hướng dẫn của chúng ta là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong phần đầu cuộc đời, người ta nói rằng ngài là một người bình thường và là một vị Bồ tát. Sau đó, người ta nói rằng, trên Toà Kim Cang (ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ), ngài đã thực hiện con đường giao thoa (một thời khắc quá độ); và ngài đã trở thành một vị Phật thật sự và hoàn hảo khi ngài xuất hiện từ sự quán chiếu giống như kim cương này, hay con đường chấm dứt (diệt đế). Những văn bản này dạy rằng chỉ trong phần thứ hai của cuộc đời, ngài mới là một vị Phật. Dù điều này có thể là gì, ở đây chỉ đơn giản là vấn đề về cái được gọi là thị hiện thân tối cao, chứ không phải các thân thể khác của Đức Phật. Trong Đại thừa, hệ thống ba hoặc bốn thân của Đức Phật chiếm ưu thế.

Trong Đại thừa siêu việt, Đức Phật dạy hệ thống bốn thân. Ngài giải thích cách bốn thân được chứng ngộ trong các mật tông. Tương tự như vậy, khi Ngài dạy các cách thức hoặc con đường khác nhau, và các thiền định phù hợp với từng cách thức, Đức Phật không giới hạn mình vào con đường của ba mươi bảy phẩm trợ đạo Bồ đề, và đặc biệt không giới hạn mình vào con đường của sự không tồn tại của tự ngã cá nhân.

Khi khoảnh khắc của Đại thừa đã đến, thì chu kỳ của sự vô ngã phổ quát đã đạt được chiều rộng của nó. Tất cả các lý thuyết, chẳng hạn như hệ thống của mười địa [của Bồ tát] đã liên tục mở rộng kể từ đó. Trong Đại thừa siêu việt, Đức Phật đã dạy cách thực hành của sáu ba la mật và tuyên bố rằng con đường phải được thực hiện bằng cách kết hợp phương pháp và kiến thức. Trong các mật tông, một điều cực kỳ vi tế được dạy: sự hợp nhất phi thường của thực hành và kiến thức (hay của phương pháp và trí tuệ).

Và như vậy, một khi ngài đã đào sâu và mở rộng những lời dạy của mình về Tứ Diệu Đế, Đức Phật đã chuyển bánh xe [lần II] của giáo Pháp trung gian, tức Đại Thừa, trên đỉnh Linh Thứu. Sau đó, Ngài đã tuyên thuyết các kinh của Trí Tuệ Siêu Việt (Bát Nhã Ba La Mật). Trong các kinh này, Đức Phật đã chú ý tỉ mỉ chân lý cao quý về sự chấm dứt đau khổ (diệt đế) mà Ngài đã dạy cùng với ba chân lý khác tại Benares (Ba La Nại). Trong chu kỳ thứ ba của giáo lý của mình, Ngài đã dạy nhiều kinh khác nhau, giống như các kinh chính được nêu rõ trong “Sự Tương Tục Không Gì Hơn”(Continuity Unexcelled,) chẳng hạn như Kinh về Tiềm năng của Đức Phật, chỉ đề cập đến ánh sáng tự nhiên trong sáng của tâm (linh quang).

Nói tóm lại, thật phù hợp khi, với quan điểm về sự hiểu biết trí tuệ tối thượng, chân lý của con đường, hay còn gọi là trí tuệ siêu việt, được thể hiện. Từ đó trở đi, tâm có thể đạt đến trạng thái tối thượng hoàn toàn thoát khỏi hai chướng ngại (phiền não chướng và sở tri chướng). Và tại thời điểm của chu kỳ giáo lý cuối cùng [lần III], khi ngài tuyên bố các văn bản như các kinh điển chính mà “Sự Tương Tục Không Gì Hơn” (Continuity Unexcelled) dựa trên, Đức Phật đã dạy về điểm tối thượng của linh quang như bản chất của tâm. Đây là ý nghĩa thật sự của loại văn bản này, mặc dù một số kinh điển của chu kỳ cuối cùng sử dụng ngôn ngữ khác.

Những gì Đức Phật đã dạy đầu tiên được tìm thấy ở đây rõ ràng hơn và sâu sắc hơn. Sau đó, trong Đại thừa Mật Tông, ngài đã dạy những điều phi thường như thực hành sống động về "linh quang của tâm". Thật vậy, đây là dịp ngài dạy những điều này ở độ sâu và sự bao la tột cùng của chúng. Chẳng phải việc đào sâu và mở rộng những gì ngài đã dạy lúc đầu chỉ là sự lộng lẫy và tinh tế tự nhiên sao? Không. Nếu Đức Phật giới hạn bản thân mình trong những lời dạy đầu tiên, ngài sẽ phạm phải sai lầm và những lời dạy của ngài sẽ đi ngược lại logic.

Tôi nhắc lại: Những lời dạy sau này của Đức Phật sâu sắc và rõ ràng hơn lời dạy đầu tiên. Những "sự đào sâu" và làm sáng tỏ này chẳng phải chỉ là cách thức lạc đề thôi sao? Một sự hào nhoáng không thể thiếu được sao? Tôi nghĩ là không, vì giáo lý của Đức Phật không bao giờ có thể được rút gọn thành giáo lý đầu tiên của Ngài.

Giáo Lý Về Ý Nghĩa Tạm Thời
(Kinh Bất Liễu Nghĩa) Và Ý Nghĩa Quyết Định (Kinh Liễu Nghĩa)

Chúng ta hãy làm rõ. Người ta không đánh giá tính chất quyết định hay tạm thời của một lời tuyên bố của Đức Phật dựa trên cơ sở chỉ là cách diễn đạt của nó - chữ viết, Về cơ bản, ý nghĩa của nó là tinh thần của nó - phải được xem xét. Vì vậy, chúng ta sẽ đặt tên "kinh có ý nghĩa quyết định" cho các văn bản đưa ra thực tại tuyệt đối. Những văn bản có nội dung phải được diễn giải khi đó sẽ là kinh có ý nghĩa tạm thời.

Vậy ý nghĩa quyết định và ý nghĩa tạm thời có nghĩa là gì? Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối, được giải thích, lần lượt tuân theo ý nghĩa quyết định và ý nghĩa tạm thời . Chúng ta coi ý nghĩa quyết định là chân lý tuyệt đối, và chân lý tuyệt đối là phương thức tối thượng của mọi thứ. Cấu trúc tối thượng này, là chân lý tuyệt đối, được gọi là như vậy, vì vậy chân lý tuyệt đối chỉ định thực tại tối thượng của mọi thứ, bất kể nó là gì. Khi không còn có thể được rút ra ở bất kỳ nơi nào khác, người ta có thể nói về một điều tuyệt đối, tối thượng. Đó là ý nghĩa quyết định của những lời của Đức Phật. Vì vậy, danh xưng "kinh có ý nghĩa quyết định" sẽ gắn liền với kinh đưa ra chân lý tuyệt đối này trước hết.

Chân lý tương đối và các văn bản có ý nghĩa tạm thời, trình bày sự phong phú và đa dạng của hàng ngàn lẻ một sự biến đổi của một diện mạo rực rỡ nhất. Tuy nhiên, điều này không được nhầm lẫn với phương thức tối thượng của mỗi thứ. Người ta có thể hiểu những chân lý tương đối này theo nghĩa đen. Ví dụ, tinh thần Giác ngộ, tức là lòng từ ái và bi mẫn , hoặc thật sự là nhân quả nghiệp báo, tất cả những điều này phải được hiểu theo nghĩa đen.

Và như vậy, dựa trên nền tảng của những giáo lý đầu tiên, những giáo lý tiếp theo trở nên rõ ràng hơn và rộng rãi hơn. Bây giờ chúng ta khám phá ra những điều sâu sắc và rộng lớn hơn. Đây là sự cao cả vĩ đại của những văn bản này. Chúng ta không thể nói rằng những giáo lý này cực kỳ cao cả chỉ vì chúng khác với những gì đã tồn tại, mà đúng hơn là vì chúng sâu sắc và đa dạng hơn. Chúng được xử lý theo toàn bộ chiều rộng của chúng, như chúng ta đã thấy.

→ Phương Pháp Và Kiến Thức

Bây giờ chúng ta hãy xem xét các phương pháp. Sự phân chia thành Đại thừa và Tiểu thừa, và trong Đại thừa thành kinh thừa và mật thừa, là một cách để hiểu các phương pháp. Trong Tiểu thừa của Thanh văn và Độc Giác Phật, thực hành chính của lòng từ bi chắc chắn không phải là không có sức mạnh, nhưng nó chỉ đòi hỏi một người không làm hại người khác và phải giúp đỡ họ. Ngược lại, trong Đại thừa, cam kết thực hiện hạnh phúc của tất cả chúng sinh và xóa bỏ đau khổ của họ ngụ ý một mong muốn về sự toàn tri cần thiết để hoàn thành ý định này. Vì vậy, sự phân biệt thành Đại thừa và Tiểu thừa chỉ theo sự vĩ đại hay nhỏ bé của tư tưởng.

Chúng ta hãy chuyển sang sự khác biệt giữa kinh thừa và mật thừa.

Các học giả đều có cách riêng để giải thích sự khác biệt này, nhưng về cơ bản, sự khác biệt giữa các khía cạnh khác nhau của con đường - phương pháp để hoàn thành Phật quả tạo nên sự khác biệt này.

Theo quan điểm của kiến thức, hiện tại chúng ta nghe giải thích rằng Phật tử có bốn hệ thống triết học. Cũng như tư tưởng mở rộng về phương pháp, về kiến ​​thức, nó đi sâu hơn. Ví dụ, bốn hệ thống triết học của Phật giáo thừa nhận tính không có thật. Bây giờ, trong khi tính không có thật này có cùng ý nghĩa trong tâm của Tỳ Bà Sa (Vaibhäshikas) và Kinh Lượng Bộ (Sautrantikas), thì điều này không đúng với Trung Quán (Madhyamikas) và Duy Thức (Chittamatrins). Những người sau không giới hạn mình vào tính không có thật của cá nhân (nhân vô ngã) mà dạy về tính không có thật của mọi hiện tượng (pháp vô ngã).

Sự khác biệt giữa Trung Quán và Duy Thức liên quan đến tính không có thật của mọi hiện tượng là một vấn đề vi tế.

Và lý luận phân tích cho phép chúng ta nhận ra chiều sâu đạt được của hai hệ thống triết học này. Nhưng sẽ sai khi nói rằng Đức Phật chỉ đưa ra những lời dạy sau này, sâu sắc hơn nhiều so với những lời dạy trước. Tại sao? Bởi vì cả những lời dạy sau và trước đều xuất phát từ Ngài. Và vì chúng có chung sự phát xuất từ Đức Phật, nên một số này không thể tốt hơn những thứ khác.


Người ta có thể dễ dàng đạt được sự chắc chắn về những chân lý này bằng cách xem xét chúng một cách hợp lý, mà không khiến tự thân dễ bị phản đối phát sinh từ lý luận phân tích không? Ví dụ, bảo vệ sự không thật của bản ngã cá nhân (nhân vô ngã) mà không nói về sự không có thật của sự vật ( pháp vô ngã) hoặc khẳng định rằng mọi thứ thật sự tồn tại, rằng chủ thể và khách thể không trống rỗng và mọi thứ đều có thật - đây là điều mà lý trí có thể làm mất hiệu lực.

Nếu một số luận đề không bất khả xâm phạm đối với lý luận của các hệ thống cao hơn, nếu chúng tuân theo logic, thì cần phải diễn giải văn bản mà chúng xuất hiện là lời của Đức Phật và đặt chúng vào trong số những tuyên bố về ý nghĩa tạm thời (bất liễu nghĩa) mà Ngài đã tuyên bố với một ý định chính xác. Những giáo lý sâu sắc (những giáo lý mô tả sự trống rỗng phổ quát), được giải thích, là hợp lý đến mức không có lý luận nào có thể làm mất hiệu lực của chúng.

Trong tất cả các tuyên bố của Đấng Đạo Sư, người ta có thể tìm thấy nhiều điểm có vẻ mâu thuẫn hoặc thực tế. Tuy nhiên, tất cả chúng đều được cùng một Đạo Sư tuyên bố. Làm sao có thể như vậy được? Bậc Thầy đã điều chỉnh chúng cho phù hợp với các thể chất và nguyện vọng khác nhau của các đệ tử của mình. Trong trường hợp này, tôi thấy có lợi khi biết chắc chắn rằng những lời dạy đầy đủ và khác biệt này thật sự hữu ích cho nhiều thể trạng và nguyện vọng khác nhau.

Sự Cần Thiết Của Tứ Diệu Đế

Nhưng chúng ta hãy đi đến lời giải thích về hệ thống Tứ Diệu Đế. Trước tiên, chúng ta phải định nghĩa chúng, sau đó chỉ ra tầm quan trọng của chúng và cuối cùng thực hành chúng trên con đường chúng truyền cảm hứng. Điều này tương đương với việc nói rằng chúng phải được hiểu từ bên trong. Bây giờ, sự phân biệt thành bốn chân lý tuân theo sự đào sâu quan điểm của chúng ta. Sau đó, chúng ta sẽ phân tích chúng bằng cách tìm cách xem mệnh đề nào (trong chính lời tuyên bố về Tứ Diệu Đế) không phải là bất khả xâm phạm đối với lý trí và mệnh đề nào sẽ được chứng minh bằng lý trí.

Nếu tôi nói rằng Tứ Diệu Đế là đúng vì chúng đã do Đức Phật đưa ra, tôi sẽ gặp vấn đề mà chúng ta vừa thấy. Người ta không thể quyết định rằng một số quan điểm triết học do Đức Phật dạy là đúng và một số khác thì không. Ở cấp độ này, sự phân biệt thành đúng và sai chỉ có thể xuất phát từ lý luận phân tích.

Tôi muốn nhấn mạnh vào điểm này. Logic phủ nhận mọi thứ không tồn tại trong thực tế và chỉ là sản phẩm của tinh thần. Trên thực tế, khi người ta coi một vật thể không có thật là thực tế, thì thực tế là nhược điểm đối với lý luận. Và những gì được giải thích trên cơ sở thực tế này phải được tìm kiếm bằng lý luận về sự tồn tại thật sự của vật thể đang xét. Bởi vì vật thể này bị phủ nhận, nên không thể có bất kỳ thứ gì thật sự tồn tại trên cơ sở của vật thể này.

Vì vậy, logic phủ nhận các lý thuyết được xây dựng trên luận đề về sự tồn tại thật sự. Chúng ta muốn nói gì khi nói về tính không thể bác bỏ bằng lý luận? Chúng ta muốn nói đến một thứ thật sự tồn tại, một thứ cơ bản phải được biết như nó vốn có, một thứ mà logic không thể bác bỏ. Không biết một thứ như thế nào là thứ này có thể tạo ra những khái niệm yếu kém vô dụng không đứng vững trước lý luận. Sau đó, điều quan trọng là phải thiết lập chế độ thật sự (chân lý tuyệt đối) của mọi đối tượng. Kiến thức về chế độ thật sự này tạo thành cơ sở để người ta có thể giải thích điều gì nên chấp nhận và từ chối bằng cách tham chiếu đến đối tượng này điều gì không nên chấp nhận.

Thế thì , chúng ta hãy đến với Tứ diệu đế do Đức Phật dạy. Khổ đau là điều chúng ta không muốn, và nó phải bị đẩy lùi. Để loại bỏ khổ đau, người ta phải loại bỏ nguyên nhân của nó. Một khi nguyên nhân này bị loại bỏ, người ta nhất thiết phải thoát khỏi khổ đau. Đây chắc chắn là cách mọi thứ nên được giải thích, và tôi không nghi ngờ gì về điều đó.

Vậy thì, nếu chúng ta tự hỏi liệu có thể loại bỏ nguồn gốc của khổ đau hay không, thì chúng ta phải đào sâu hơn nữa và suy nghĩ sâu sắc hơn. Để biết chắc chắn điều gì chúng ta nên chấp nhận và từ chối, điều quan trọng là phải biết bản chất thật sự của nguyên nhân gây ra khổ đau.

Hai Chân Lý Cơ Bản

Trong số những người theo đạo Phật, tất cả các trường phái, bắt đầu từ Tỳ bà Sa (Vaibhäshikas), đều cho rằng có hai cấp độ chân lý. Tuy nhiên, liên quan đến những điểm cốt yếu của việc thực hành hai chân lý, chúng ta sẽ tham khảo một cách tổng quát các hệ thống triết học của Đại thừa, và đặc biệt là các văn bản của Trung đạo.

Trong số các văn bản của Trung đạo, lý thuyết về hai chân lý được bảo vệ bởi Long Thọ và những hậu duệ tinh thần của ngài là Phật Hộ (Buddhapalita), Nguyệt Xứng (Chandrakirti) và Tịch Thiên (Shantideva) tỏ ra rất sâu sắc. Do đó, cần phải hiểu trạng thái cơ bản của sự vật trên cơ sở giải thích về hai chân lý này khi chúng được Bồ tát tuyệt vời Long Thọ và những người kế thừa của ngài trình bày.

Để giải thích hai chân lý, chúng ta phải thêm từ "cơ bản". Hai chân lý, mô tả trạng thái thật sự cơ bản của sự vật, không phải là sự sáng tạo của nghiệp chúng sinh bình thường, hoặc những khám phá sau khi đạt đến quả vị Phật, mà là thứ mà người ta mang trong mình.

Trong bối cảnh của ý nghĩa tạm thời (bất liễu nghĩa) và ý nghĩa xác định (liễu nghĩa) của những lời tuyên bố của Đức Phật, chúng ta đã thấy rằng các văn bản có ý nghĩa xác định thể hiện chân lý tuyệt đối (chân đế), tính không, và các văn bản có ý nghĩa tạm thời liên quan đến chân lý tương đối (thế đế). Vậy thì, chúng ta định nghĩa hai chân lý như thế nào? Các lý thuyết giới hạn ở các chức năng hoạt động trên cấp độ đơn thuần của những hiện tướng không cho phép phân tích để đạt được trạng thái lâu dài của chúng, hoặc kiểu thức thật sự của chúng.

Ở cấp độ của những hiện tướng đơn thuần, người ta tìm thấy nhiều đối tượng - tóm lại, toàn bộ quang phổ nhận thức chỉ định các đối tượng của sáu giác quan, tức là hình dạng (sắc), tiếng động (thanh), mùi (hương), vị (vị), kết cấu (xúc) và hiện tượng có thể hiểu được (pháp). Nó cũng không phải là vấn đề về thứ gì đó mà người ta tìm thấy bằng cách tìm kiếm khi người ta không thỏa mãn với hiện tướng đơn thuần. Dưới khía cạnh của sự xuất hiện đơn thuần, chúng ta phân biệt một trạng thái tối hậu và một trạng thái nhất thời. Tình huống tạm thời là trạng thái tạm thời rõ ràng hoặc thông thường: Những gì tâm tìm thấy ở đó được coi là chân lý tương đối (thế đế).

Bây giờ, khi một người đã nghiên cứu hoặc tìm kiếm, điều gì có thể là trạng thái bền vững, tuyệt đối, hoặc bản chất của tất cả những điều đa dạng này, mà không giới hạn bản thân vào hiện tướng của chúng - khi, không thỏa mãn với vẻ bề ngoài đơn thuần, một người tìm kiếm trạng thái bền vững của chúng, điều mà người đó tìm thấy là ý nghĩa cuối cùng của từng điều này. Người ta nói về "ý nghĩa được tìm thấy bằng lý luận phân tích về chân lý cuối cùng của các hiện tượng". Và vì vậy, những gì lý luận phân tích về điều cuối cùng khám phá ra không gì khác ngoài chân lý tuyệt đối (chân đế) và những gì lý luận phân tích về điều thông thường khám phá ra là chân lý tương đối (thế đế).

Những định kiến sai lầm thường dẫn đến hư vô. Ý thức sai lầm tin rằng những gì không có, và những gì không có thì có, và niềm tin này xuất phát từ sâu thẳm của con người. Ý thức sai lầm không chỉ tự khinh mình mà còn bị bóp méo. Bây giờ, ý thức méo mó không thể hoàn thành bất cứ điều gì mang tính xây dựng, dù là trong giáo Pháp hay trong thế giới phàm tục. Sau đó, điều quan trọng là phải thiết lập chế độ thật sự của mọi thứ. Cuộc tìm kiếm chế độ thật sự của mọi thứ tồn tại này giống như cuộc tìm kiếm được thực hiện tại các trường đại học.

Dưới sự bảo trợ của Prasangika Chandrakirti, những người theo Trung đạo tuyên bố rằng không có gì thật sự tồn tại, rằng không có gì có bản thể trong chính nó, rằng không có hiện tượng nào tự tồn tại riêng lẻ. Những tuyên bố này cho phép theo nhiều cách khác nhau để kìm nén những cảm xúc tiêu cực.

Người ta có thể đọc trong Hai chân lý của Trung đạo những lời của bậc thầy
Độc lập biện chứng phái Trí Tạng (Svatantrika Jnanagarbha):

Nếu mọi thứ như chúng xuất hiện,
Không cần thiết phải phân tích chúng.


Bạn, ở dưới đó: Những hình bóng khác nhau của bạn xuất hiện với tôi theo cùng một cách như những hình dạng của chúng tôi ở đây phải xuất hiện với bạn. Mọi thứ thật sự như chúng xuất hiện với chúng tôi. Và khi chúng xuất hiện với chúng tôi, chúng tuân theo chế độ thông thường của chúng. Vậy thì, đây là mức độ tồn tại của chúng ở cấp độ thông thường. Không thể phân tích chúng, nhưng sự tồn tại khách quan của chúng xuất hiện như một sự tồn tại
được quy cho một danh xưng thông thường cụ thể phù hợp với chúng. Vậy thì mọi thứ đều như chúng xuất hiện, và không cần thiết phải phân tích chúng.

Kiểu tồn tại khách quan của mọi thứ như chúng xuất hiện này khó có thể là một tiên đề xuất phát từ nhận thức của một ý thức lành mạnh. Vậy thì liệu có thể có một phương thức phi thường theo một phương thức khác không? Không, Trí
Tạng nói. Sau đó, ngài tiếp tục, những gì xuất hiện với chúng ta thực sự tồn tại. Điều ngài đang cố nói là, khi chúng ta xem xét một đối tượng như nó xuất hiện, thì có hai khả năng tự xuất hiện: Hoặc là đối tượng đó tốt và hấp dẫn, và tâm di chuyển đến gần và gặp nó, hoặc là nó đáng ghét, và tâm rút lui. Khi một cái gì đó tốt hay xấu xuất hiện và tồn tại một cách khách quan, thì có thể có hai chuyển động: tiếp cận với điều mong muốn và rút lui khỏi điều không mong muốn. Đối với Trí Tạng (Jnanagarbha), không có cảm xúc tiêu cực nào ở đây. Những chuyển động này của tâm trí không phải là sự bóp méo.

Đối với Phật Hộ
(Buddhapalita) Nguyệt Xứng (Chandrakirti), chính khả năng khẳng định rằng những sự xuất hiện của các đối tượng này thật sự tồn tại là không chính xác. Họ nói rằng không có gì xuất hiện với chúng ta như thực tế. Những gì xuất hiện với chúng ta dường như tồn tại một cách khách quan vì chúng ta quen coi nó như vậy, nhưng nó không phải như nó xuất hiện. Do đó, sự tồn tại khách quan được thể hiện trong các đối tượng của sáu thức của chúng ta, nhưng những đối tượng này hầu như không giống như chúng xuất hiện. Chắc chắn, chúng ta thấy rõ rằng chúng ở đó, nhưng chúng không thật sự như chúng ta nhận thức chúng.

Một cái gì đó tốt xuất hiện, chúng ta tiếp cận nó; một cái gì đó xấu, chúng ta rút lui khỏi nó. Bản thân điều này, theo Prasangikas, là sự bùng phát của những cảm xúc tiêu cực, sự gắn bó và lòng căm thù. Đối với Svatantrikas và các hệ thống thấp hơn, những chuyển động của tâm này phù hợp với các đối tượng của họ, và nhóm này không thấy ý thức méo mó hay cảm xúc tiêu cực nào ở đây. Lưu ý rằng, ở cấp độ thông thường, những cảm xúc tiêu cực được phân loại là thô hoặc tinh tế theo các thực tại được đánh giá là hấp dẫn hay ghê tởm. Định nghĩa của
Độc Lập Biện Chứng Phái (Prasangikas) về những cảm xúc tiêu cực cho phép người ta xác định những cảm xúc tinh tế hơn. Nhưng sau đó, làm sao người ta có thể quyết định rằng một cái gì đó tồn tại hay không, khi nó xuất hiện? Đối với điều này, người ta phải tuân theo lý luận của Trung Đạo.

Nếu đối tượng như nó xuất hiện, chắc chắn nó sẽ phải được tìm thấy ở cuối quá trình lý luận phân tích. Bất kỳ đối tượng nào của sáu thức xuất hiện trong tâm trí, nó được nhận thức như thể nó tồn tại một cách khách quan. Nếu nó thật sự như nó xuất hiện, chúng ta nhất thiết sẽ tìm thấy nó khi chúng ta tìm kiếm nó. Nếu cuộc tìm kiếm này không thành công, chúng ta sẽ có bằng chứng rằng đối tượng không tồn tại một cách khách quan. Lý luận sẽ làm mất hiệu lực sự tồn tại khách quan của nó bằng cách chứng minh rằng nó không tồn tại một cách khách quan. Khi đó, sai lầm sẽ bao gồm việc nhận thức đối tượng như thể nó có một sự tồn tại khách quan. Vì nó không thật sự tồn tại như vậy. Khi chúng ta biết rằng mọi thứ không thật sự như chúng xuất hiện, chúng ta chỉ cần làm quen với sự thừa nhận này để sức mạnh của những cảm xúc tiêu cực vi tế giảm thiểu.

Cách thiết lập chế độ thật sự của các hiện tượng, tức là tính không của chúng, khi đó sẽ vi tế hoặc thô thiển. Đó là vấn đề của một cái gì đó đi sâu hơn nữa, và trạng thái cuối cùng của nó, được hình thành trong các văn bản của Trung Quán, hoàn toàn không thể bị lý luận làm mất giá trị. Chính điều mà lý luận chứng minh khi nói đến bản chất tối hậu - lời giải thích này về chân lý chấm dứt hay diệt đế theo Trung đạo - vậy thì, chúng ta phải tập trung vào điều gì.

Có vẻ như bốn hệ thống triết học của Phật giáo đều nhất trí về chân lý cao quý chấm dứt. Trong Trung Quán (Madhyamika), và chính xác hơn là
Độc Lập Biện Chứng Phái, cách tiếp cận chân lý này trả lời cho một nhu cầu cực kỳ sâu sắc. Do đó, về mặt sự khác biệt về tính vi tế trong tầm nhìn triết học, người ta cũng sẽ quan sát thấy sự khác biệt về tính khả thi khi tiến hành xác định những cảm xúc tiêu cực, tạo nên chân lý về nguồn gốc của đau khổ. Nếu chúng ta có thể thiết lập sự khác biệt này giữa những cảm xúc tiêu cực là nguồn gốc của đau khổ, thì chân lý về đau khổ cũng sẽ vi tế hoặc thô thiển. Chân lý về sự chấm dứt hay diệt đế, chỉ sự cạn kiệt của đau khổ (khổ đế) và nguồn gốc của đau khổ (tập đế), được xem xét theo cách này, cũng sẽ vi tế hoặc thô thiển.

Vì luận đề về tính không có thể vi tế hoặc thô thiển, khi chúng ta biết được các nguyên lý của tính không vi tế, chúng ta quan sát thấy sự khác biệt về tính vi tế trong các luận đề này về tính không và trong cách thức nhận thức của nó. Về điểm cốt yếu này, có nhiều cách khác nhau để xác định chân lý của sự chấm dứt (diệt đế), đó chính là bản chất của sự trống rỗng. Bên cạnh đó, nhận thức méo mó về sự trống rỗng làm nảy sinh một lý thuyết về những cảm xúc tiêu cực vi tế mà từ đó sinh ra một chân lý vi tế của sự đau khổ (khổ đế). Vì vậy, đó là sự khác biệt về chiều sâu trong cách tiếp cận sự trống rỗng dẫn đến những cách khác nhau để đưa ra các nguyên tắc của Tứ Diệu Đế. Do đó, để hiểu được sự trình bày chi tiết về Tứ Diệu Đế, cần phải biết chính xác hệ thống của hai chân lý cơ bản (nhị đế). Tương tự như vậy, cần phải biết lý thuyết tinh tế của hai chân lý.

"Trang Nghiêm
Thực Chứng Hoàn Hảo" của Vô Trước đề cập đến các hướng dẫn về thiền tập của tinh thần Giác ngộ. Tiếp theo là lời giải thích về hai chân lý là các nguyên tắc của Tứ diệu đế liên quan đến hai chân lý và cuối cùng là ba nơi nương tựa (Phật, Pháp và Tăng đoàn (Cộng đồng)] liên quan đến Tứ diệu đế. Mối quan hệ giữa hai chân lý cơ bản (nhị đế) và Tứ diệu đế, và mối quan hệ giữa Tứ diệu đế và ba nơi nương tựa (tam bảo), được đề cập rất chi tiết trong "Giải thích về các bài kệ của Trung đạo" của Nguyệt Xứng.

*Nhận ra rằng chúng ta có thể chấm dứt đau khổ của mình

Tứ diệu đế được tạo ra như thế nào? Điều mà người ta không mong muốn là đau khổ. Điều mà người ta mong muốn là an lạc. Điều không mong muốn, đau khổ, phụ thuộc vào nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên). Điều mong muốn, an lạc, cũng xuất phát từ nguyên nhân và điều kiện. An lạc ở đây, hay sự khỏe mạnh, không chỉ chỉ những cảm giác dễ chịu mà còn là hạnh phúc lâu dài, thoát khỏi mọi đau khổ; nhưng hạnh phúc này cũng phụ thuộc vào nguyên nhân và hoàn cảnh.

Khổ đau là điều chúng ta không muốn và là điều chúng ta tìm cách loại bỏ. Nguyên nhân và kết quả của đau khổ tạo thành một tập hợp, và những nguyên nhân và kết quả của hạnh phúc lâu dài, vì chúng là những thứ phải được tạo ra, tạo thành một tập hợp khác.

Vô Trước , học trò của Di Lặc (Maitreya), đề xuất phép loại suy sau. Chúng ta hãy nói rằng cơn đau của một căn bệnh mà chúng ta biết đại diện cho sự thật của đau khổ
(khổ đế); rằng vi khuẩn cung cấp sự thật về nguồn gốc của đau khổ (Tập đế), rằng sự giải thoát khỏi căn bệnh nhờ loại bỏ vi khuẩn đại diện cho sự thật của sự chấm dứt (diệt đế); và rằng, cuối cùng, thuốc cung cấp để đánh bại vi khuẩn đại diện cho sự thật của con đường (đạo đế).

Khi chúng ta không nhận ra rằng chúng ta đã bị bệnh ngay từ đầu, chúng ta không thể nhận ra mình bị bệnh nữa. Người bị bệnh trước tiên phải có ý thức về điều đó. Một số người bị bệnh tuyên bố không bị bệnh, và hoàn toàn không thể bắt họ uống thuốc. Và vì vậy, người ta phải nhận ra rằng mình bị bệnh. Và vì vậy, khi dạy Tứ Diệu Đế, Đức Phật tuyên bố rằng cần phải đạt đến ý thức về đau khổ.

Khi nhận ra đau khổ, chúng ta tự nhủ rằng chúng ta không muốn gì ở căn bệnh này và rằng chúng ta thật sự đau khổ. Sau đó, chúng ta tìm kiếm nguyên nhân của căn bệnh và khi nhận ra nó, chúng ta hiểu rằng chúng ta đã bị bệnh vì một lý do nào đó, trong một số hoàn cảnh nhất định và rằng nó có thể được điều trị. Chúng ta thậm chí có thể tự nhủ rằng mình sẽ sớm bình phục.

Về mặt thực hành Tứ Diệu Đế, ngài tuyên bố rằng cần phải

Nhận ra đau khổ.
Loại bỏ nguồn gốc của nó.
Mang đến sự chấm dứt của nó.
Thiền tập về con đường.


"Cái tôi" là gì hay “bản ngã” là gì?

Người phải nhận ra đau khổ, loại bỏ nguồn gốc của nó và mang đến con đường giống như thế nào? Người "muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ" này, "cái tôi" này, cái tôi này, phải được xem xét trong toàn bộ chiều sâu của người đó. Cái mà chúng ta gọi là "cái tôi", "cái tôi" hoặc "cá nhân" là những gì tồn tại từ kiếp này sang kiếp khác, để ghi nhận các văn bản của Ấn Độ không phải Phật giáo vốn cho rằng phải có một thực thể hay hữu thể tồn tại đã đến từ kiếp này sang kiếp khác và sẽ ra đi cho kiếp sau. Nhưng khi người ta không nhận được điều gì đó một thực thể hay hữu thể không đến từ kiếp trước sẽ khởi hành cho kiếp sau, người ta buộc phải đặt ra một bản ngã, một "cái tôi" hay một thực thể khác với năm uẩn. Một số người theo thuyết bản ngã (hay atma) cho rằng bản ngã khác với các tập hợp uẩn.

Do đó, để giới hạn bản thân chúng ta trong khuôn khổ của một cuộc sống duy nhất, thì chúng ta cần thiết liên quan đến các tập hợp uẩn của mình. Ta có thể nói: Tôi nhỏ bé ít nhất là đối với vị đạo sư của tôi, ví dụ, hoặc đối với những người chăm sóc tôi; khi đó tôi còn trẻ; tất cả đều trải qua giai đoạn trưởng thành; khi đó tóc tôi chuyển sang màu xám; và rồi đã trắng; khi đó tôi rụng răng và bây giờ tôi nhăn nheo. Khi nói ám chỉ về cơ thể cũ kỷ của mình, "Tôi đã già rồi “, có vẻ như đối với tôi, thì cần phải có một chữ "tôi " ngay từ khoảnh khắc đầu tiên của cuộc đời.

Sau đó, một số nhà bênh vực cho thuyết bản ngã giải thích rằng bản ngã khác với các tập hợp uẩn và có thứ gì đó giống như một cái "Tôi" tồn tại ngay từ phút đầu tiên của sự sống. Để giải thích mọi thứ theo kiến ​​thức sinh học hiện tại, chúng ta chắc chắn biết rằng các hạt cấu thành nên cơ thể thay đổi từng khoảnh khắc. Theo quan điểm này, thì các tập hợp là sự thay đổi rõ ràng. Chúng ta phải nghĩ rằng, sau đó, nếu một người có một cái “tôi" ngay từ đầu của cuộc sống này, thì nó chắc chắn sẽ khác với các uẩn. Nếu một cái tôi khác với các uẩn, thì khi một người đã hiểu về các uẩn - nói cách khác, thì thân thể và tâm sẽ phải có một cái gì đó còn lại sau khi cơ thể và tâm đã tách rời khỏi nhau. Nhưng vì không có gì khác để tìm thấy, nên không có uẩn nào ngoài bản ngã.

Bản ngã khác với các uẩn, chúng ta nghe giải thích. Nó phải bất biến và vĩnh cữu, duy nhất và độc lập. Trong trường hợp này, cái “tôi" của tuổi ấu thơ và cái “tôi" của tuổi già tạo thành một cái gì đó không thể phân loại, nhưng theo dấu trên các chuyển động của các uẩn và rồi thì có một bản chất thay đổi. Do đó, tất cả các Phật tử đều đồng ý rằng không có thứ gì như cá nhân tồn tại dưới dạng có thực chất, vĩnh cữu, duy nhất và độc lập này./.


 

CHƯƠNG 8: ĐỨC PHẬT CHƯƠNG TÁM

***


Là con người, chúng ta may mắn có khả năng đạt được những mục tiêu này. Trạng thái giác ngộ mà chúng ta tìm kiếm là sự giải thoát khỏi gánh nặng của những cảm xúc phiền não. Bản chất nội tại của tâm là trong sáng; những cảm xúc phiền não làm phiền nó chỉ là những khiếm khuyết tạm thời. Tuy nhiên, chúng ta không thể loại bỏ những cảm xúc tiêu cực bằng cách loại bỏ một số tế bào não. Ngay cả công nghệ phẫu thuật tiên tiến nhất cũng không thể thực hiện nhiệm vụ này. Nó chỉ có thể đạt được bằng cách chuyển hóa tâm.

Phật giáo dạy rằng tâm là nguyên nhân chính khiến chúng ta tái sinh trong vòng luân hồi. Nhưng tâm cũng là yếu tố chính cho phép chúng ta đạt được sự giải thoát khỏi vòng sinh tử này. Sự giải thoát này đạt được bằng cách kiểm soát những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực và bằng cách thúc đẩy và phát triển những suy nghĩ và cảm xúc tích cực. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng nhiệm vụ này đòi hỏi nhiều năm kiên trì và thực hành chăm chỉ. Chúng ta không thể mong đợi kết quả ngay lập tức. Hãy nghĩ đến tất cả những bậc thầy vĩ đại trong quá khứ. Họ sẵn sàng đối mặt với khó khăn to lớn trong hành trình tìm kiếm sự giác ngộ tâm linh. Câu chuyện về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một trong những ví dụ tốt nhất về điều này.

Được thúc đẩy bởi lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thị hiện cách đây hơn hai nghìn năm trăm năm ở Ấn Độ. Ngài đã sinh ra như một hoàng tử. Ngay từ khi còn là một đứa trẻ, ngài đã trưởng thành về cả kiến thức và lòng từ bi. Ngài thấy rằng theo bản chất, tất cả chúng ta đều muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ. Đau khổ không phải là điều luôn luôn đến từ bên ngoài. Nó không chỉ liên quan đến các vấn đề như nạn đói và hạn hán, nếu đúng như vậy, chúng ta có thể tự bảo vệ mình khỏi đau khổ, ví dụ, bằng cách tích trữ thực phẩm. Nhưng những đau khổ như bệnh tật, lão hóa và cái chết là những vấn đề liên quan đến bản chất tồn tại của chúng ta, và chúng ta không thể vượt qua chúng bằng các điều kiện bên ngoài. Hơn nữa, chúng ta có bên trong mình một tâm bất thuần hóa, dễ mắc phải đủ loại vấn đề. Nó bị ảnh hưởng bởi những suy nghĩ tiêu cực như nghi ngờ và tức giận. Miễn là tâm chúng ta bị bao vây bởi vô số những suy nghĩ tiêu cực này, ngay cả khi chúng ta có quần áo mềm mại, thoải mái và thức ăn ngon để ăn, chúng sẽ không giải quyết được vấn đề của chúng ta. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã quan sát tất cả những vấn đề này và ngài đã suy ngẫm về bản chất tồn tại của chính mình. Ngài thấy rằng tất cả con người đều phải chịu đau khổ, và ngài thấy rằng chúng ta trải qua sự bất hạnh này là do trạng thái tâm không được kỷ luật của chúng ta. Ngài thấy rằng tâm chúng ta quá hoang dã đến nỗi chúng ta thường không thể ngủ vào ban đêm. Đối mặt với vô số đau khổ và vấn đề này, ngài đủ thông tuệ để hỏi liệu có phương pháp nào để vượt qua những vấn đề này không.

Ngài quyết định rằng sống cuộc sống của một hoàng tử trong cung điện không phải là cách để loại bỏ đau khổ. Nếu có, thì đó là một trở ngại. Vì vậy, ngài đã từ bỏ mọi tiện nghi trong cung điện, bao gồm cả sự đồng hành của vợ và con trai, và bắt đầu cuộc sống vô gia cư. Trong quá trình tìm kiếm, ngài đã tham khảo ý kiến của nhiều đạo sư và lắng nghe hướng dẫn của họ. Ngài thấy rằng lời dạy của họ có ích, nhưng chúng không đưa ra giải pháp cuối cùng cho vấn đề làm thế nào để loại bỏ đau khổ. Ngài đã thực hiện sáu năm khổ hạnh nghiêm ngặt. Bằng cách từ bỏ mọi tiện nghi mà ngài đã được hưởng khi còn là hoàng tử và tham gia vào quá trình khổ hạnh nghiêm ngặt, ngài đã có thể củng cố sự hiểu biết thiền định của mình. Ngồi dưới gốc cây bồ đề, ngài đã vượt qua các thế lực cản trở và đạt được giác ngộ. Sau đó, ngài bắt đầu giảng dạy, chuyển bánh xe giáo lý, dựa trên kinh nghiệm và sự chứng ngộ của chính mình.

Khi chúng ta nói về Đức Phật, chúng ta không nói về một người đã là Đức Phật ngay từ đầu. Ngài bắt đầu giống như chúng ta. Ngài là một chúng sinh bình thường đã chứng kiến những đau khổ giống như chúng ta: sinh, già, bệnh tật và cái chết. Ngài có nhiều suy nghĩ và cảm xúc khác nhau, cảm xúc vui vẻ và cảm xúc đau đớn, giống như chúng ta. Nhưng nhờ vào sự thực hành tâm linh mạnh mẽ và toàn diện của mình, ngài đã có thể đạt được nhiều cấp độ khác nhau của con đường tâm linh, đỉnh cao là sự giác ngộ.

Chúng ta nên coi ngài như một tấm gương. Chúng ta đã bước vào cuộc sống này như những con người tự do và may mắn, và mặc dù chúng ta phải chịu nhiều đau khổ khác nhau, chúng ta vẫn sở hữu trí thông minh của con người. Chúng ta có sự tỉnh thức phân biệt. Chúng ta đã gặp được giáo lý sâu sắc và rộng lớn của Đức Phật và hơn thế nữa, chúng ta có khả năng hiểu được giáo lý đó. Từ thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho đến ngày nay, các hành giả Phật giáo đã lấy ngài và những bậc thầy cao cả sau này làm nguồn cảm hứng của họ.

Mặc dù chúng ta được sinh ra là những người bình thường, chúng ta phải cố gắng sử dụng cơ hội quý giá này trước khi chết để đạt được sự chứng ngộ chắc chắn về Pháp, giáo lý của Đức Phật. Nếu chúng ta có thể làm được điều đó, chúng ta sẽ không phải sợ chết. Một người tu hành giỏi có thể chết thanh thản mà không hối tiếc vì tiềm năng con người của họ đã được hoàn thiện. Mặt khác, nếu là con người, chúng ta không thể để lại bất kỳ dấu ấn tích cực nào trong tâm và chỉ tích lũy những hoạt động tiêu cực, thì tiềm năng con người của chúng ta sẽ bị lãng phí. Chịu trách nhiệm cho nỗi đau và sự hủy diệt của con người và các chúng sinh khác giống như một thế lực tà ác hơn là một con người. Do đó, hãy làm cho cuộc sống con người này trở nên có giá trị, chứ không phải một thứ gì đó mang tính hủy diệt.

Trên thế giới này, đôi khi con người tiến hành chiến tranh dưới danh nghĩa tôn giáo. Điều này xảy ra khi chúng ta coi tôn giáo chỉ là một nhãn hiệu nhưng không thật sự đưa ý nghĩa của nó vào thực hành. Thực hành tâm linh là thứ để rèn luyện tâm trí hỗn loạn của chúng ta. Nếu chúng ta để bản thân bị dẫn dắt bởi những suy nghĩ tiêu cực, không bao giờ nỗ lực chuyển hóa chúng và chúng ta sử dụng giáo Pháp để củng cố lòng kiêu hãnh của mình, thì điều đó có thể trở thành nguyên nhân gây ra chiến tranh. Mặt khác, nếu chúng ta sử dụng thực hành tâm linh để chuyển hóa tâm trí của mình, thì sẽ không có cơ hội nào để nó trở thành nguyên nhân gây ra xung đột.

Quá nhiều người chỉ nói giáo Pháp trên đầu môi. Thay vì chúng ta sử dụng giáo Pháp để tiêu diệt những suy nghĩ tiêu cực của họ, thì coi giáo Pháp như một vật sở hữu và chính họ là chủ sở hữu. Họ sử dụng giáo Pháp để tiến hành chiến tranh và cho các hoạt động phá hoại khác. Cho dù chúng ta có tuyên bố là người theo đạo Phật, Ấn Độ giáo, Thiên chúa giáo, Do Thái giáo hay Hồi giáo, chúng ta không nên chỉ thỏa mãn với nhãn hiệu đó. Điều quan trọng là phải trích xuất thông điệp chứa đựng trong các truyền thống tôn giáo khác nhau này và sử dụng nó để chuyển hóa tâm trí vô nguyên tắc của chúng ta. Tóm lại, là Phật tử, chúng ta nên noi gương Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Đôi khi khi tôi suy ngẫm về cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tôi cảm thấy bất an. Mặc dù giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có thể được diễn giải ở nhiều cấp độ khác nhau, nhưng theo ghi chép lịch sử, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã trải qua sáu năm tu tập gian khổ. Điều này cho thấy tâm trí không thể được chuyển hóa chỉ bằng cách ngủ, thư giãn và tận hưởng mọi tiện nghi của cuộc sống. Điều này cho thấy chúng ta chỉ có thể đạt được giác ngộ thông qua việc làm việc chăm chỉ và trải qua khó khăn trong một thời gian dài. Không dễ để đạt được tất cả các cấp độ và sự chứng ngộ tâm linh trong một thời gian ngắn mà không cần nỗ lực. Ngay cả Đức Phật, người đề xướng giáo lý mà chúng ta đang theo, cũng không muốn trải qua những khó khăn như vậy. Vậy thì, làm sao chúng ta có thể mong đợi đạt được những đỉnh cao tâm linh và giác ngộ chỉ bằng cách thực hiện một số cái gọi là thực hành và có thời gian thư giãn? Nếu chúng ta đọc những câu chuyện về các bậc thầy tâm linh vĩ đại trong quá khứ, chúng ta thấy rằng họ đã đạt được sự giác ngộ tâm linh thông qua rất nhiều thiền tập, sự cô độc và thực hành. Họ không đi tắt đón đầu.

Nếu chúng ta thật sự quy y Đức Phật từ sâu thẳm trái tim mình, chúng ta nhất định phải coi Ngài là tấm gương. Khi nói đến việc nỗ lực và trải qua khó khăn, điều quan trọng là phải biết cách thực hiện. Không phải là chúng ta có thể đạt được giác ngộ chỉ bằng cách trải qua khó khăn và nỗ lực. Trong truyền thống Phật giáo, chúng ta cần niềm tin và sự tận tụy, nhưng chúng phải đi kèm với trí tuệ và sự thông minh. Tất nhiên, chúng ta có thể đạt được sự phát triển tâm linh nhất định thông qua sự tận tụy và niềm tin, nhưng để đạt được niết bàn và giác ngộ cũng cần phải có trí tuệ.

Để nuôi dưỡng những phẩm chất tích cực mà chúng ta hiện không có và để củng cố và phát triển những gì chúng ta đã vun đắp, điều quan trọng là phải thông hiểu các cấp độ khác nhau của trí tuệ. Điều quan trọng là có thể tập trung trí tuệ và sự thông minh của chúng ta vào đúng chủ đề. Nếu một người có sự thông minh lớn bị tước mất cơ hội, người ấy sẽ không thể tập trung trí thông minh của mình vào đúng chủ đề. Để phát triển trí tuệ, chúng ta cần tìm cơ hội để áp dụng sự thông minh của mình vào một khía cạnh phù hợp của giáo lý. Do đó, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không chỉ yêu cầu chúng ta phải có niềm tin vào Ngài. Ngài không giải quyết mọi vấn đề của chúng ta bằng cách nói rằng, "Hãy có niềm tin vào ta". Ngài bắt đầu bằng cách giảng dạy Tứ Diệu Đế, trên cơ sở đó Ngài đưa ra nhiều cấp độ giảng dạy khác nhau, vạch ra các giai đoạn của con đường cần tuân theo.

Ngay cả bộ sưu tập những lời dạy của Đức Phật được dịch sang tiếng Tây Tạng cũng chứa hơn 108 tập, minh họa cho việc Ngài đã giảng dạy rộng rãi như thế nào. Bên cạnh đó, còn có nhiều lời dạy của Đức Phật không được dịch sang tiếng Tây Tạng. Niềm tin và trí tuệ đích thực là thành quả của việc học tập đúng đắn. Chúng ta nên cố gắng thông hiểu và thực hành những lời dạy này, chúng sẽ giúp chúng ta phát triển trí tuệ, được hỗ trợ bởi việc thực hành lòng từ bi. Dần dần chúng ta sẽ có thể rèn luyện tâm trí của mình. Trong triết học Phật giáo, chúng ta không tin rằng mọi thứ được tạo ra hoặc thúc đẩy bởi một số yếu tố bên ngoài. Chúng ta cũng không tin rằng mọi thứ phát sinh từ những nguyên nhân thường còn. Chúng ta liên hệ những trải nghiệm về hạnh phúc và đau khổ cùng nguyên nhân của chúng với hành động của chính mình. Và chất lượng hành động của chúng ta phụ thuộc vào trạng thái tâm trí của chúng ta cho dù nó có được rèn luyện hay không.

Các vấn đề và đau khổ phát sinh do trạng thái tâm trí không được rèn luyện. Do đó, hạnh phúc của chính chúng ta thật sự nằm trong tay chúng ta. Trách nhiệm nằm trên vai chúng ta; chúng ta không thể mong đợi ai đó chỉ đơn giản mang lại hạnh phúc cho chúng ta. Cách để trải nghiệm hạnh phúc là xác định nguyên nhân của nó và vun đắp chúng, xác định nguyên nhân của đau khổ và loại bỏ chúng. Nếu chúng ta biết điều gì cần thực hành và điều gì cần từ bỏ, chúng ta sẽ tự nhiên gặp được niềm vui.

Gốc rễ của đau khổ là sự vô minh, ở đây có nghĩa là sự thấu hiểu sai lầm về tự ngã. Tất cả muôn vàn đau khổ phát sinh vì quan niệm sai lầm này, sự hiểu biết sai lầm này. Do đó, khi nói rằng Đức Phật đã loại bỏ mọi quan điểm sai lầm vì lòng từ bi, có nghĩa là Ngài có lòng từ bi để làm việc vì lợi ích tốt nhất của tất cả chúng sinh. Để mang lại lợi ích cho chúng sinh, Ngài đã ban bố nhiều cấp độ giáo lý khác nhau không có quan điểm sai lầm và tư tưởng tiêu cực. Do đó, những ai tuân theo những giáo lý này, bằng cách hiểu quan điểm đúng đắn và đưa nó vào thực hành, sẽ có thể loại bỏ đau khổ. Chúng ta kính lễ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì Ngài đã ban bố những giáo lý cao siêu như vậy.

Đức Phật là đối tượng quy y đáng tin cậy vì ban đầu Ngài đã phát triển lòng từ bi và sau đó dành toàn bộ cuộc đời để tạo ra, trau dồi và nuôi dưỡng lòng từ bi. Trong cuộc sống bình thường cũng vậy, một người cụ thể có đáng tin cậy hay không phụ thuộc vào việc người đó có lòng từ bi hay không. Nếu một người thiếu lòng từ bi, chúng ta khó có thể dựa vào họ, ngay cả khi họ thông minh và có trình độ học vấn cao. Chỉ có trình độ học vấn thôi là không đủ; phẩm chất cơ bản khiến mọi người hữu ích với chúng sinh khác là lòng từ bi. Nếu một người có lòng từ bi hoặc thể hiện một tâm ước muốn mang lại lợi ích cho chúng sinh khác, chúng ta có thể tự tin giao phó bản thân cho họ. Phẩm chất quan trọng nhất của Đức Phật là tâm mong muốn mang lại lợi ích cho chúng sinh khác - lòng từ bi. Vì Ngài đã phát triển những phẩm chất tích cực đó trong chính mình, nên Ngài có sức mạnh và khả năng giải thích tầm quan trọng của chúng. Chúng ta có thể giao phó bản thân cho một vị thầy như vậy vì Ngài có kinh nghiệm về những phẩm chất này.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đề xướng ra Đạo Phật , là một hành giả hiệu quả, một người không thể sai lầm, người mà chúng ta có thể tin tưởng một cách an toàn. Tuy nhiên, chỉ Ngài không thể sai lầm thôi thì chưa đủ; chúng ta nên biết cách noi theo tấm gương của Ngài. Chúng ta cần biết cách loại bỏ con đường sai lầm và cách tu tập cũng như noi theo những con đường tích cực. Ngay cả khi không có kinh nghiệm trực tiếp về những lời dạy này, nếu chúng ta chỉ cần hiểu một chút về những điều đó, chúng ta sẽ ở vị thế tốt hơn để đối mặt với đau khổ và vấn đề khi chúng ta gặp phải chúng.

Chúng ta có thể tưởng tượng rằng khi hai cá nhân gặp phải cùng một vấn đề, tùy thuộc vào việc họ có hiểu biết về con đường tâm linh hay không, thái độ và cách ứng phó với tình huống của họ sẽ hoàn toàn khác nhau. Thay vì làm giảm bớt đau khổ và vấn đề, người không có hiểu biết tâm linh có thể khiến chúng trở nên tồi tệ hơn thông qua sự tức giận, ghen tị, v.v. Người có một số thông tuệ và hiểu biết tâm linh, vì thái độ tinh thần của mình, sẽ có thể phản ứng cởi mở và thẳng thắn hơn với tình huống. Với một số hiểu biết về giáo lý của Đức Phật cũng như một số kinh nghiệm về những giáo lý này, mặc dù chúng ta có thể không thể ngừng đau khổ, nhưng chúng ta sẽ ở vị trí tốt hơn để giải quyết các vấn đề của mình. Do đó, chúng ta thật sự sẽ nhận được lợi ích từ những lời dạy trong cuộc sống hàng ngày của mình.

Các cõi luân hồi là vô thường như những đám mây mùa thu. Sự đến và đi của chúng sinh có thể được hiểu như những cảnh trong một vở kịch. Cách chúng sinh được sinh ra và chết đi tương tự như cách các nhân vật lên và xuống sân khấu. Vì sự vô thường này, chúng ta không có sự an toàn lâu dài. Ngày nay, chúng ta may mắn được sống như con người. So với loài vật và những người sống trong địa ngục, cuộc sống của con người rất quý giá. Nhưng mặc dù chúng ta coi đó là quý giá, cuộc sống cuối cùng cũng kết thúc bằng cái chết. Khi suy ngẫm về toàn bộ quá trình tồn tại của con người từ đầu đến cuối, chúng ta thấy rằng không có hạnh phúc lâu dài và không có sự an toàn./.


 

CHƯƠNG 9: TỨ DIỆU ĐẾ (Bốn Chân Lý Cao Quý)

***

Để xây dựng một khát vọng vững chắc cho sự giải thoát khỏi vòng luân hồi, chúng ta phải xem xét kỹ lưỡng tình trạng của mình và cân nhắc lý do tại sao muốn thoát khỏi. Điều đầu tiên cần nhận ra là cơ thể và tâm trí của chúng ta có khuynh hướng đau khổ. Tứ DIệu Đế - lời dạy đầu tiên của Đức Phật giải quyết trực tiếp vấn đề này. Những chân lý này là chân lý về đau khổ, chân lý về nguồn gốc của đau khổ, chân lý về sự chấm dứt đau khổ và chân lý về con đường dẫn đến sự chấm dứt. Quyết định của Đức Phật khi giảng dạy các chân lý theo trình tự này có ý nghĩa rất lớn đối với việc thực hành của chúng ta. Để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu rằng những gì chúng ta thường coi là hạnh phúc thực chất là đau khổ, Đức Phật đã giảng dạy chân lý về đau khổ trước.

*Sự Thật Về Đau Khổ (Khổ Đế)

Để hiểu được sự thật đầu tiên, chân lý về đau khổ, người ta phải thiền về đau khổ. Chúng ta coi mình là thứ quý giá nhất trong vũ trụ và chúng ta đối xử với bản thân như thể mình quý giá hơn một vị Phật. Nhưng loại bám víu đó vẫn chưa đưa đến hạnh phúc hoàn hảo. Từ vô thủy, chúng ta đã trải qua chu kỳ sinh tồn và có vô số kiếp sống. Từ thời thơ ấu cho đến bây giờ, chúng ta đã trải qua những thăng trầm, đủ mọi loại thất vọng và bối rối.

Cuộc sống của chúng ta bị bủa vây bởi những vấn đề, đau khổ, khốn cùng, thất vọng, Cuối cùng cuộc sống này sẽ kết thúc bằng cái chết, và sau đó chúng ta không chắc chắn nó sẽ dẫn chúng ta đến đâu. Chúng ta thật sự nên xem xét liệu có cách nào để giải thoát bản thân khỏi sự tồn tại không thỏa đáng này không. Nếu cuộc sống là như vậy mà nó phát sinh độc lập với các nguyên nhân và điều kiện và kết thúc mà không có sự liên tục nào nữa, thì chúng ta sẽ bất lực trong việc thoát khỏi. Và nếu điều đó là sự thật, chúng ta nên sống theo các nguyên tắc khoái lạc. Nhưng chúng ta biết rằng đau khổ là điều chúng ta thật sự không mong muốn và nếu có thể đạt được sự tự do hoàn toàn khỏi nó, thì sự tự do này là xứng đáng để đạt được.

Các hành động nghiệp của thân, khẩu và ý là những gì ràng buộc chúng ta vào vòng luân hồi của sự tồn tại và đau khổ. Như chúng ta biết, chúng ta có thể tích lũy những hành động này ngay cả trong một khoảnh khắc, và khoảnh khắc đó có thể đẩy chúng ta vào cõi thấp hơn. Sự ràng buộc này bắt nguồn từ tâm không thuần hóa và do chính sự vô minh của chúng ta, sự hiểu lầm của chúng ta về bản thân gây ra. Bản năng này về một dạng bản ngã độc lập, biệt lập thúc đẩy chúng ta lao vào đủ mọi hành động tiêu cực, dẫn đến đau khổ. Thái độ ích kỷ này từ lâu đã là chủ nhân của chúng ta; chúng ta luôn tuân theo mệnh lệnh của nó. Chúng ta nên nhận ra rằng chúng ta không được hưởng lợi gì khi tuân theo lời khuyên của nó. Chừng nào chúng ta còn làm như vậy thì không có cơ hội nào cho hạnh phúc. Ở nơi giao điểm này, chúng ta nên xem xét liệu có thể vượt qua được ảo tưởng này hay không.

Sau đó là nỗi đau của tuổi già. Lão hóa đến dần dần; nếu không, chúng ta sẽ không thể chịu đựng được. Khi chúng ta già đi, chúng ta mất đi sự dẻo dai mà chúng ta từng có khi còn trẻ; chúng ta không thể tiêu hóa được thức ăn mà chúng ta từng thích. Chúng ta không thể nhớ lại tên của những người hoặc sự vật mà chúng ta từng nhớ một cách sống động. Dần dần răng chúng ta rụng, tóc chúng ta rụng, và chúng ta mất thị lực và thính lực. Cuối cùng, chúng ta đạt đến giai đoạn suy yếu mà mọi người bắt đầu thấy ghê sợ khi chỉ nhìn thấy chúng ta. Khi bạn đã đến giai đoạn cần sự giúp đỡ của người khác, mọi người sẽ tránh xa bạn.

Tiếp theo, có sự đau khổ của bệnh tật (ngũ ấm xí thạnh khổ). Đau khổ về thể xác và tinh thần lo lắng tăng lên, và bạn phải trải qua những ngày đêm đau khổ vì bệnh tật. Bệnh tật ngăn cản bạn ăn những món ăn mà bạn thật sự thích, và bạn bị ngăn cản làm những việc mà bạn yêu thích. Bạn phải uống những loại thuốc có vị rất khó uống. Tiếp theo là nỗi đau của cái chết (ái biệt ly khổ). Bạn sẽ phải xa rời những vật sở hữu quý giá của mình, xa rời những người thân yêu của mình, và xa rời chính cơ thể vật chất đã đồng hành cùng bạn trong suốt cuộc đời. Nỗi đau của cái chết rất rõ ràng đối với chúng ta, không cần phải giải thích thêm nữa.

Sau đó là nỗi đau khi gặp phải những điều không mong muốn chẳng hạn như kẻ thù (oán tắng hội khổ). Trong cuộc đời này, nhiều trải nghiệm diễn ra trái với mong muốn của chúng ta, Người Tây Tạng chúng ta đã mất đi sự tự do: đây là nỗi đau khi gặp phải những điều không mong muốn.

Một góc nhìn khác về nỗi đau là suy ngẫm về nỗi đau của sự bất định. Trong chu kỳ tồn tại này, qua nhiều lần tái sinh, và đôi khi chỉ trong một kiếp, mọi thứ đều thay đổi. Cha mẹ chúng ta sẽ trở thành kẻ thù, người thân của chúng ta sẽ trở thành kẻ thù, kẻ thù của chúng ta sẽ trở thành bạn bè, cha mẹ chúng ta sẽ tái sinh sau này như con của chính chúng ta. Không có gì chắc chắn. Tsong-kha-pa nói rằng chúng ta nên cố gắng ngăn chặn những biến động cảm xúc mà chúng ta có đối với người khác, dựa trên sự phân biệt hoặc phân loại một số người là kẻ thù và một số là người thân hoặc bạn bè. Chúng ta nên suy ngẫm về sự không chắc chắn của toàn bộ cuộc sống trong vòng luân hồi này và cố gắng phát triển một số cảm giác ghê tởm đối với luân hồi.

Ngoài ra còn có nỗi khổ của sự thiếu mãn nguyện (cầu bất đắc khổ). Nếu chúng ta thật sự xem xét lượng thức ăn mà chúng ta đã ăn trong suốt một kiếp, thì chúng ta cảm thấy chán nản và tự hỏi mình đã sử dụng chúng như thế nào. Nếu đó là trường hợp của kiếp này, thì sao nếu chúng ta xem xét tất cả các kiếp trước của mình - lượng sữa mà chúng ta đã uống từ mẹ khi còn nhỏ, chẳng hạn? Điều đó nằm ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Bạn nên suy ngẫm về tất cả các loại thịnh vượng và đau khổ trong vòng luân hồi này và nghĩ rằng không có loại kinh nghiệm nào mà bạn chưa từng trải qua trong luân hồi. Chúng ta cố gắng tận hưởng để có được một số loại sự thỏa mãn về mặt tinh thần-nhưng lạc thú và hạnh phúc của luân hồi là như vậy, dù chúng ta có cố gắng tận hưởng chúng đến đâu, cũng không có cảm giác mãn nguyện; nó chỉ là vô tận. Bạn nên suy ngẫm về sự thiếu mãn nguyện này, bản thân nó là một nỗi đau khổ lớn. Chúng ta đã trải qua tất cả những trải nghiệm và thăng trầm này trong luân hồi vô số lần. Khi suy ngẫm về sự vô nghĩa của những trải nghiệm như vậy, bạn nên xác định rằng nếu bạn không chấm dứt vòng luẩn quẩn này ngay bây giờ, thì việc tiếp tục sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả. Do đó, chúng ta nên phát triển một cảm giác ghê tởm sâu sắc đối với toàn bộ phạm vi trải nghiệm trong chu kỳ tồn tại này.

Có nỗi đau khổ khi phải vứt bỏ cơ thể hết lần này đến lần khác. Cho đến nay, chúng ta đã sống rất nhiều kiếp và có rất nhiều cơ thể, nhưng chúng ta vẫn chưa thể sử dụng chúng theo một cách có ý nghĩa. Chúng ta chẳng đạt được điều gì chỉ bằng cách mang trong mình vô số cơ thể này. Chúng ta đã phải trải qua quá trình thụ thai hết lần này đến lần khác. Đức Phật nói rằng nếu chúng ta đếm các bà mẹ của mình bằng cách để riêng những viên sỏi, mỗi viên sỏi tượng trưng cho mẹ của chúng ta, thì việc đếm này sẽ không bao giờ kết thúc.

Hãy suy ngẫm về thực tế rằng mọi sự thịnh vượng trong luân hồi đều kết thúc bằng một loại đau khổ và thất vọng nào đó. Như các văn bản đã nói, kết thúc của sự tụ họp là sự cạn kiệt, kết thúc của địa vị cao là sự sụp đổ, kết thúc của sự gặp gỡ là sự chia ly, và kết thúc của sự sống là cái chết. Tóm lại, mọi trải nghiệm, thú vui và hạnh phúc trong chu kỳ tồn tại này, bất kể chúng có mạnh mẽ và tuyệt vời đến đâu, đều kết thúc bằng đau khổ.

Cuối cùng, ba loại đau khổ cung cấp một góc nhìn xa hơn. Loại đầu tiên được gọi là đau khổ của đau khổ (khổ khổ), những trải nghiệm rõ ràng về nỗi đau thể xác và tinh thần mà chúng ta thường xác định là đau khổ. Loại thứ hai được gọi là đau khổ của sự thay đổi (hoại khổ). Bởi vì tất cả những thú vui và hạnh phúc thế gian cuối cùng đều biến thành đau khổ, nên chúng được gọi là đau khổ của sự thay đổi. Đau khổ của sự thay đổi bị xác định nhầm là những trải nghiệm của hạnh phúc. Ví dụ, nếu bạn bị sốt hoặc bạn cảm thấy rất nóng và nước mát được dội vào người bạn, bạn cảm thấy một loại khoái cảm.

Đây là những gì chúng ta coi là hạnh phúc. Hoặc nếu bạn đã đi bộ trong một thời gian dài và sau một lúc bạn có cơ hội ngồi xuống, tại thời điểm đó có vẻ thật sự rất hạnh phúc. Tuy nhiên, trên thực tế, đó không phải là trải nghiệm hạnh phúc; những gì bạn thật sự đang trải qua là sự chấm dứt dần dần của nỗi đau khổ trước đó. Nếu ngồi xuống là một niềm vui thật sự, thì việc tiếp tục ngồi sẽ mang lại cho bạn niềm vui tương tự, nhưng nếu bạn tiếp tục ngồi, sau một thời gian, bạn sẽ thấy mệt và muốn đứng dậy.

Loại đau khổ thứ ba là nỗi đau khổ của điều kiện lan tỏa (hành khổ), thực tế là tâm và thân của chúng ta bị điều kiện hóa đến mức có thể chịu đựng đau khổ bất cứ lúc nào. Ba loại đau khổ có thể được minh họa theo cách này. Nếu bạn bị bỏng và bạn bôi thuốc mỡ mang lại cho bạn cảm giác được bảo vệ và vui vẻ, thì giống như nỗi đau của sự thay đổi, bởi vì mặc dù điều đó mang lại niềm vui trong chốc lát, nhưng niềm vui sẽ không kéo dài. Sau đó, nếu ai đó vô tình chạm vào nó hoặc nước nóng được tạt vào nó, bạn thật sự cảm thấy đau dữ dội. Đó là nỗi đau rõ ràng, nỗi đau của nỗi đau khổ. Điều khiến hai nỗi đau khổ này có thể xảy ra là chúng ta đã bị bỏng ngay từ đầu. Nếu chúng ta không bị bỏng, chúng ta sẽ không có những trải nghiệm sau đó. Vết bỏng tạo điều kiện cho nỗi đau khổ tiếp theo, cũng giống như việc chúng ta sở hữu một cơ thể và tâm khiến chúng ta dễ bị đau khổ hơn. Và bản chất của chính cơ thể tạo điều kiện để bị bỏng. Nó dễ bị đau khổ. Đây là nỗi đau khổ của sự điều kiện hóa lan tỏa.

Chúng ta nên nhận ra rằng nỗi đau khổ của động vật, ngạ quỷ và chúng sinh địa ngục cũng có thể xảy ra ở con người. Ở Tây Tạng, nhiều người đã chết đói sau khi Trung Hoa bắt đầu chiếm đóng. Có vẻ như đôi khi họ phải ăn lá cây và một số loại côn trùng và giun. Những điều này rất giống với những trải nghiệm của ngạ quỷ. Nỗi đau khổ tương tự hiện đang xảy ra ở Châu Phi, nơi hàng triệu người đang chết đói vì nạn đói. Khi các quốc gia xảy ra chiến tranh, do những khác biệt chính trị, người dân phải chịu đau khổ gần giống như họ phải chịu ở cõi địa ngục. Khi Stalin lên nắm quyền, ông ta đã cai trị Liên Xô theo cách độc đoán và vô nhân đạo. Người ta nói rằng trước Thế chiến thứ hai, 14,5 triệu người đã mất mạng dưới sự cai trị của Stalin. Họ là những người nông dân Nga, nhiều người trong số họ đã chết vì đói hoặc bị tra tấn. Đảng Cộng sản và các thành viên đã có thức ăn ngon và cuộc sống tốt đẹp. Khi họ ăn trưa, họ phải được lính canh bảo vệ vì nguy cơ nông dân có thể nổi loạn và lấy mất thức ăn.

Ngay cả các vị thần cũng đau khổ. Họ có thể thấy trước cái chết của mình trước khi chết, vì vậy họ đau khổ về mặt tinh thần. Người ta nói rằng vòng hoa của họ héo úa và quần áo và cơ thể của họ bắt đầu bốc mùi. Sau khi trải nghiệm mọi thú vui của thiên đường, họ đã cạn kiệt toàn bộ tiềm năng (phước đức) của những hành động tích cực của mình. Kết quả là, khi họ chết, họ sẽ đi thẳng đến các cõi thấp hơn của sự tồn tại. Tsong-kha-pa nói rằng sau khi suy ngẫm về những đau khổ chung của tất cả luân hồi nói chung và cả những đau khổ cụ thể của từng cõi tồn tại, chúng ta nên phát triển một cảm giác ghê sợ sâu sắc đối với mọi trải nghiệm trong luân hồi và phát triển sự từ bỏ sâu sắc. Sau đó, chúng ta sẽ bắt đầu thật sự xem xét chính xác những nguyên nhân dẫn đến những đau khổ và thất vọng như vậy. Do đó, câu hỏi về chân lý thứ hai, chân lý về nguồn gốc của đau khổ (tập đế), sẽ đến tiếp theo.


*Sự Thật Về Nguồn Gốc (Tập Đế)

Vọng tưởng là nguyên nhân chính dẫn đến sự tái sinh trong luân hồi. Nếu không có ảo tưởng, các hành động nghiệp sẽ không có sức mạnh để tạo ra sự tái sinh; chúng sẽ giống như những hạt giống đã bị đốt cháy. Việc tìm kiếm thuốc giải cho ảo tưởng là rất quan trọng, và điều đó phụ thuộc vào việc bạn có xác định đúng ảo tưởng hay không. Do đó, chúng ta nên rất rõ ràng về các đặc điểm chung và riêng của ảo tưởng. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất đã nói, hãy chế ngự kẻ thù duy nhất bên trong, đó là ảo tưởng. Kẻ thù bên ngoài có vẻ rất có hại, nhưng trong những kiếp sau, chúng có thể trở thành bạn của chúng ta. Ngay cả bây giờ, chúng cung cấp cho chúng ta cơ hội để thực hành lòng kiên nhẫn và lòng từ bi vì về cơ bản tất cả chúng ta đều giống nhau: Tất cả chúng ta đều muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ. Nhưng kẻ thù bên trong, kẻ thù của ảo tưởng, không có phẩm chất tích cực; nó chỉ cần phải được chiến đấu và tiêu diệt. Do đó, chúng ta phải xác định đúng kẻ thù và xem cách nó hoạt động. Bất kỳ trạng thái tinh thần nào phá hủy sự bình tĩnh của tâm trí và gây ra đau khổ về tinh thần, làm đảo lộn, đau khổ và hành hạ tâm trí, đều được coi là vọng tưởng.

Chúng ta hãy xác định một số ảo tưởng chính. Đầu tiên, có sự gắn bó, hay bám chấp (tham) đó là ham muốn mãnh liệt đối với những người đẹp, những thứ đẹp đẽ hoặc những trải nghiệm thú vị. Sự gắn bó rất khó để thoát khỏi; giống như tâm bạn đã bị cố định vào đối tượng. Một vọng tưởng khác là sự tức giận (sân). Khi mọi người tức giận, chúng ta có thể thấy ngay rằng họ mất bình tĩnh; khuôn mặt họ trở nên đỏ và nhăn nheo, thậm chí cả mắt họ cũng đỏ. Đối tượng của sự tức giận, dù là hữu hình hay vô tri, đều là thứ gì đó không mong muốn và đáng ghét. Sự tức giận là trạng thái tinh thần rất không được thuần hóa, rất thô lỗ và không đồng đều. Một ảo tưởng khác, kiêu ngạo (mạn), là trạng thái tâm trí mà trong đó người ta cảm thấy tự phụ về địa vị, vị trí và kiến ​​thức của mình, dựa trên thái độ ích kỷ. Bất kể người ta có thật sự đạt được điều gì đó hay không, người ta đều cảm thấy tự phụ. Một người có lòng kiêu hãnh rất sâu sắc thì rất khoa trương và có vẻ rất tự phụ. Tiếp theo là vô minh (si), hiểu sai về bản chất của Tứ Diệu Đế, luật nhân quả, v.v. Trong bối cảnh cụ thể này, vô minh ám chỉ một yếu tố tinh thần hoàn toàn không biết về bản chất của Tam Bảo và luật nhân quả. Ảo tưởng nghi ngờ là suy nghĩ dao động về việc có Tứ Diệu Đế hay không, có luật nhân quả hay không.

Một loại ảo tưởng khác là quan điểm sai lầm (tà kiến), quan niệm sai lầm tích cực về bản chất của thực tại. Loại đầu tiên trong số này là trạng thái tâm trí tập trung vào bản thân và hiểu sai rằng nó thực sự tồn tại hoặc thực chất tồn tại để tưởng tượng rằng trong thân và tâm vô thường của chúng ta có một loại bản ngã tự chủ, vĩnh cửu nào đó. Các loại tà kiến khác sẽ cho rằng không có cuộc sống sau khi chết, không có luật nhân quả và không có Tam Bảo. Dựa trên quan điểm sai lầm về bản ngã, các ảo tưởng khác phát sinh. Ví dụ, nếu có một sợi dây thừng cuộn và trời hơi tối, bạn có thể nhận dạng nhầm sợi dây thừng cuộn đó là một con rắn. Sau đó, sai lầm ý tưởng rằng sợi dây thừng là một con rắn sẽ gây ra đủ loại phản ứng trong tâm trí bạn, chẳng hạn như sợ hãi, và dẫn đến đủ loại hành động, chẳng hạn như chạy ra khỏi nhà hoặc cố giết con rắn, tất cả đều dựa trên một sự hiểu lầm đơn giản. Tương tự như vậy, chúng ta lầm tưởng rằng cơ thể và tâm trí sở hữu một loại bản ngã nào đó, và kết quả là tất cả những ảo tưởng khác, như ham muốn và tức giận, đều theo sau. Do thái độ tự cho mình là trung tâm này, quan niệm sai lầm về bản ngã này, chúng ta phân biệt giữa bản thân và người khác. Sau đó, dựa trên cách người khác đối xử với chúng ta, chúng ta coi một số người là thân thiết và cảm thấy gắn bó với họ và coi những người khác là xa cách và xếp họ vào loại kẻ thù. Sau đó, chúng ta có những trải nghiệm tức giận và hận thù, và tập trung vào bản thân, chúng ta trở nên tự phụ và kiêu ngạo. Sau đó, nếu sự kìm kẹp của quan niệm sai lầm về bản ngã rất mạnh, chúng ta có thể bắt đầu đặt câu hỏi về tính hợp lệ của chính Đức Phật, người đã dạy về lòng vị tha. Do đó, chúng ta có thể bắt đầu nghi ngờ luật nhân quả, Tứ diệu đế, Tam bảo. Những quan điểm sai lầm này dẫn đến sự nghi ngờ. Tất cả những điều này phát sinh do niềm tin sai lầm vào một bản ngã tồn tại cố hữu.


*Sự Chấm Dứt Thật Sự - (Diệt Đế).

Bốn thuộc tính của diệt đế là sự chấm dứt, sự bình ổn, sự cát tường cao và sự xuất hiện chắc chắn. Bốn quan niệm sai lầm tương ứng là sự giải thoát không tồn tại, rằng một số trạng thái ô nhiễm là sự giải thoát, rằng những gì thật sự là trạng thái đau khổ là trạng thái giải thoát, và rằng mặc dù sự giải thoát tồn tại, người ta có thể rơi rớt khỏi nó. Để giải thoát những quan niệm sai lầm này, người ta cần nhận ra rằng diệt đế là sự chấm dứt theo nghĩa là bất kỳ phần nào của đau khổ đã được giảm bớt đều đã bị loại bỏ mãi mãi. Diệt đế cũng được hiểu là sự bình ổn vì phần cảm xúc đau khổ đó đã được bình ổn mãi mãi.Diệt đế được cho là rất cát tường vì chúng là trạng thái tách biệt khỏi những cảm xúc đau khổ, những trạng thái này là những thực thể mang lại sự giúp đỡ và hạnh phúc. Hơn nữa diệt đế là trường hợp thoát khỏi đau khổ một cách chắc chắn vì người ta đã vượt qua một mức độ đau khổ đến mức nó sẽ không quay trở lại.

* Sự Thật Về Con Đường ( Đạo Đế)

Sau khi thấy rằng mọi kinh nghiệm trong vòng luân hồi đều có bản chất là đau khổ, chúng ta nên phát triển một mong muốn chân thành để đạt được sự giải thoát khỏi nó. Được thúc đẩy bởi mong muốn đó, chúng ta nên bước vào con đường của ba sự rèn luyện (tam vô lậu học): các sự rèn luyện về đạo đức (giới), sự tập trung (định) và trí tuệ (tuệ). Trong ba điều này, thuốc giải độc sẽ loại bỏ các vọng tưởng là trí tuệ nhận ra sự vô ngã. Vì mục đích đó, trước tiên chúng ta cần sự ổn định về mặt tinh thần của sự tập trung làm cơ sở, và điều đó lại phụ thuộc vào việc tuân thủ đạo đức trong sáng. Do đó, chúng ta cũng cần rèn luyện về đạo đức. Ở giai đoạn đầu, ưu tiên hàng đầu nên được dành cho việc thực hành đạo đức; đó là nhu cầu cấp thiết.

Tsong-kha-pa nói rằng chánh niệm và nội quán là nền tảng của toàn bộ giáo Pháp. Để có sự tuân thủ trong sáng về đạo đức, khả năng tự vấn và chánh niệm đúng đắn là cần thiết. Đối với nam và nữ cư sĩ, việc tuân thủ đạo đức trong sạch, tránh mười hành động tiêu cực, là nền tảng của việc thực hành con đường dẫn đến giác ngộ. Nếu chúng ta không xem xét các nhu cầu thực tế, như việc tuân thủ đạo đức, mà thay vào đó lại đi tìm kiếm các thực hành tinh vi hơn, thì việc thực hành của chúng ta sẽ chỉ là trò lừa bịp và không thật sự nghiêm túc. Với việc thực hành ba sự rèn luyện này, chúng ta nên nỗ lực để đạt được sự giải thoát, không chỉ cho riêng mình mà còn cho những chúng sinh khác.

Sự tồn tại của con người được cho là hình thức hiện hữu tốt nhất để thực hành giáo Pháp và cố gắng chấm dứt chu kỳ này. Trong số những con người, cuộc sống của những người cư sĩ gặp phải đủ mọi rắc rối và vấn đề, và họ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động thế gian không có lợi cho việc thực hành Pháp. Cuộc sống của một nam nữ tu sĩ được cho là có lợi hơn nhiều cho việc thực hành Pháp, để chấm dứt chu kỳ tồn tại này. Tsong-kha-pa nói rằng việc suy ngẫm về những lỗi lầm và bất lợi của cuộc sống tại gia và những lợi thế của cuộc sống tu sĩ sẽ củng cố cam kết của bạn đối với cuộc sống như vậy nếu bạn đã là một tu sĩ. Nếu ai đó chưa chọn một cách sống như vậy, thì sự suy ngẫm như vậy sẽ để lại một dấu ấn nghiệp chướng rất mạnh mẽ trong tâm trí của một người để sau này người đó sẽ có cơ hội sống một cuộc sống như vậy. Trong cuộc sống tại gia, nếu bạn quá giàu có, cuộc sống của bạn sẽ bị bao vây bởi những vấn đề và lo lắng về việc bảo vệ tài sản của mình; nếu bạn nghèo, thì cuộc sống của bạn sẽ chỉ liên quan đến việc tìm kiếm sự nuôi dưỡng vật chất. Có nhiều tài sản vật chất mà không bằng lòng không phải là cách sống của một tu sĩ. Các tu sĩ không nên tham gia vào kinh doanh trừ khi họ đã rơi vào một loại nợ nào đó. Thật sự nên tránh làm kinh doanh và tham gia quá nhiều vào việc cố gắng kiếm tiền khi bạn đã có đủ tiền. Nếu bạn không sống theo lối sống tu hành, với sự khiêm tốn và mãn nguyện, thì hầu như không có sự khác biệt nào giữa người tại gia và các tu sĩ ngoài vẻ bề ngoài của các loại quần áo khác nhau.

Có một nhà sư từ tu viện Ganden là một thiền giả rất nghiêm túc. Ngài đã thề không bao giờ sống dưới một mái nhà và đã làm như vậy trong nhiều năm. Ngài kể với tôi rằng một ngày nọ, khi đang thiền thì một con rắn lớn bò đến trước mặt ngài và chỉ nhìn chằm chằm vào ông. Thiền sư nhìn lại con rắn và bắt đầu nói một số lời tôn giáo. Tôi thấy khá buồn cười, vì có vẻ như thiền sư đang truyền dạy cho con rắn. Ngài kể với tôi rằng con rắn nhìn ông một lúc lâu rồi nhẹ nhàng bỏ đi.

Chính Đức Phật đã nhấn mạnh tầm quan trọng của kỷ luật đạo đức. Khi Ngài viên tịch, Đức Phật được hỏi ai sẽ kế vị Ngài, và Ngài nói rằng việc thực hành đạo đức phải là kim chỉ nam và là bậc thầy của toàn bộ giáo lý Phật giáo. Ngài đã nêu tên kỷ luật đạo đức là người kế nhiệm mình.

Bất kỳ sự chứng ngộ nào bạn đạt được từ việc thực hành Pháp của mình đều nên được đánh giá và phán đoán dựa trên việc liệu cam kết của bạn với luật nhân quả có tăng lên hay không và kết quả là, liệu việc thực hành đạo đức của bạn có trở nên trong sáng hay không và liệu sức mạnh của những ảo tưởng như vô minh, hận thù và ham muốn có giảm đi trong bạn hay không. Nếu bạn nhận thấy rằng nhờ thực hành, bạn đã xoay xở để thay đổi tâm trí và vượt qua một số biểu hiện thô thiển của những ảo tưởng như giận dữ, hận thù, vô minh và ham muốn, thì đó thật sự là một thành tựu to lớn. Như Tịch Thiên đã nói, những anh hùng bình thường giết kẻ thù của họ không thật sự là anh hùng vì những người họ giết sẽ chết sớm hay muộn; thực ra họ đang giết chết xác chết. Nhưng một người đang chiến đấu với những vọng tưởng và có thể giết chết kẻ thù đó là một anh hùng theo đúng nghĩa của từ này./.



 

CHƯƠNG 10: NGHIỆP

***

* Các loại Hành động Nghiệp

Định nghĩa về nghiệp là gì? Chúng ta nên nhớ đặt nghiệp trong bối cảnh hiểu biết rộng hơn của Phật giáo về các quy luật nhân quả tự nhiên. Nghiệp là một trường hợp cụ thể của các quy luật nhân quả tự nhiên hoạt động trên khắp vũ trụ, theo Phật giáo, mọi thứ và sự kiện xuất hiện hoàn toàn là kết quả của sự kết hợp giữa nguyên nhân và điều kiện.

Do đó, nghiệp là một trường hợp của quy luật nhân quả chung. Điều làm cho nghiệp trở nên độc đáo là nó liên quan đến hành động có chủ ý và do đó là một tác nhân. Các quá trình nhân quả tự nhiên hoạt động trên thế giới không thể được gọi là nghiệp nếu không có tác nhân nào tham gia. Để một quá trình nhân quả trở thành nghiệp, nó phải liên quan đến một cá nhân có ý định dẫn đến một hành động cụ thể. Đây là loại cơ chế nhân quả cụ thể được gọi là nghiệp.

Vì vậy, trong lĩnh vực chung của hành động nghiệp, chúng ta có thể nói về ba loại hành động khác nhau tạo ra các hiệu ứng tương ứng. Những hành động gây ra đau khổ và đau đớn thường được coi là hành động tiêu cực hoặc không có đức hạnh (bất thiện nghiệp). Những hành động dẫn đến hậu quả tích cực và mong muốn, chẳng hạn như trải nghiệm niềm vui và hạnh phúc, được coi là hành động tích cực hoặc có đức hạnh (thiện nghiệp). Thể loại thứ ba bao gồm những hành động
dẫn đến những trải nghiệm về sự bình thản, hay những cảm xúc và trải nghiệm trung tính; những điều này được coi là những hành động trung tính, và không phải là thiện hay bất thiện (vô ký nghiệp).

Về bản chất thật sự của bản thân các hành động nghiệp, về cơ bản có hai loại khác nhau: hành động tinh thần hành động không nhất thiết phải biểu hiện thông qua hành động vật lý (ý nghiệp) và có những hành động vật lý, bao gồm cả hành động bằng lời nói (khẩu nghiệp) và hành động bằng thân (thân nghiệp). Sau đó, theo quan điểm của phương tiện thể hiện hành động, chúng ta phân biệt hành động của tâm trí, hành động của lời nói và hành động của thân. Hơn nữa, trong các kinh sách, chúng ta cũng tìm thấy những cuộc thảo luận về hành động nghiệp hoàn toàn thiện, hoàn toàn bất thiện và những hành động là sự pha trộn của cả hai. Tôi cảm thấy rằng đối với nhiều người trong chúng ta thực hành giáo Pháp, hầu hết các hành động của chúng ta có thể là sự pha trộn của cả hai.

Nếu chúng ta phân tích một hành động nghiệp duy nhất, chúng ta có thể thấy rằng có một số giai đoạn trong sự kiện đó. Có một sự khởi đầu, đó là giai đoạn của động cơ hoặc ý định; có sự thực hiện thực tế của hành động; và sau đó là sự kết thúc hoặc hoàn thành của hành động. Theo kinh sách, cường độ và sức mạnh của một hành động nghiệp thay đổi tùy theo cách thực hiện từng giai đoạn này.

Chúng ta hãy lấy ví dụ về một hành động tiêu cực. Nếu ở giai đoạn động cơ, người đó có một cảm xúc tiêu cực rất mạnh như tức giận, sau đó hành động theo sự thôi thúc và thực hiện hành động, nhưng ngay sau đó cảm thấy hối hận sâu sắc về hành động mình đã thực hiện, thì cả ba giai đoạn sẽ không được hoàn thành hoàn toàn. Do đó, hành động sẽ ít mạnh mẽ hơn so với trường hợp người đó đã thực hiện tất cả các giai đoạn một cách hoàn chỉnh với động cơ mạnh mẽ, thực hiện thực tế và cảm giác thích thú hoặc hài lòng từ hành động đã thực hiện. Tương tự như vậy, có thể có những trường hợp cá nhân có thể có động lực rất yếu nhưng hoàn cảnh buộc người đó phải thực sự thực hiện hành động. Trong trường hợp này, mặc dù đã thực hiện một hành động tiêu cực nhưng nó thậm chí còn yếu hơn so với ví dụ đầu tiên của chúng ta, vì không có động lực thúc đẩy mạnh mẽ. Vì vậy, tùy thuộc vào sức mạnh của động cơ nghiệp, của hành động thực tế và của sự hoàn thành, nghiệp được tạo ra sẽ có các mức độ cường độ tương ứng.

Trên cơ sở những khác biệt này, kinh sách thảo luận về bốn loại nghiệp: nghiệp được thực hiện nhưng không tích lũy, nghiệp được tích lũy nhưng không thực hiện, nghiệp mà hành động vừa được thực hiện vừa tích lũy và nghiệp mà không có cả sự tích lũy và việc thực hiện hành động thực tế. Điều quan trọng là phải hiểu được ý nghĩa của điểm này và đánh giá cao rằng vì mỗi hành động có các giai đoạn khác nhau, nên bản thân các hành động nghiệp là hợp thành, và chất lượng của chúng có thể được mô tả là kết quả tích lũy của từng yếu tố hợp thành của chúng.

Khi bạn đánh giá cao điều này, thì bất cứ khi nào bạn có cơ hội tham gia vào một hành động tích cực với tư cách là một hành giả Phật pháp, điều quan trọng là phải đảm bảo rằng ở giai đoạn đầu, động lực tích cực của bạn rất mạnh mẽ và bạn có ý định mạnh mẽ để tham gia vào hành động đó. Sau đó, trong khi bạn thật sự thực hiện hành động, bạn nên đảm bảo rằng bạn đã cố gắng hết sức và bạn đã nỗ lực hết mình để hành động đó thành công. Sau khi hành động được thực hiện, điều quan trọng là phải đảm bảo rằng bạn dành nghiệp tích cực mà bạn đã tạo ra cho hạnh phúc của tất cả chúng sinh cũng như sự giác ngộ của chính bạn. Nếu bạn có thể củng cố sự cống hiến đó bằng sự hiểu biết về bản chất tối thượng của thực tại, thì nó sẽ còn mạnh mẽ hơn nữa.

* Nghiệp và Con người

Một hành giả Phật giáo thật sự cố gắng sống một cuộc sống đạo đức như thế nào? Khát vọng tối thượng của một người là đạt được sự giải thoát khỏi luân hồi, đạt được sự tự do về mặt tinh thần hoặc giác ngộ, nhiệm vụ chính của người đó là giành chiến thắng trước các phiền não (klesha). Tuy nhiên, không có cách nào mà một hành giả có thể nghĩ như vậy hoặc trực tiếp chống lại những cảm xúc tiêu cực và ở giai đoạn đầu, vì vậy cách hợp lý để tiến hành chỉ đơn giản là
tìm cách kiềm chế biểu hiện của hành động tiêu cực của thân, khẩu và ý. Bước đầu tiên là bảo vệ thân, khẩu và ý không tham gia vào hành động tiêu cực để chúng ta không khuất phục trước sức mạnh và sự thống trị của những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực.

Khi đã đạt được giai đoạn đầu tiên này, bạn có thể tiến tới giai đoạn thứ hai và giải quyết nguyên nhân gốc rễ là sự vô minh cơ bản mà chúng ta đã nói ở trên. Ở giai đoạn này, bạn có thể chống lại trực tiếp các lực lượng của phiền não. Khi đã làm được điều đó, giai đoạn thứ ba không chỉ đơn thuần là giành chiến thắng trước chúng mà còn là loại bỏ mọi khuynh hướng và dấu ấn mà chúng để lại trong tâm lý. Đây là lý do tại sao Thánh Thiên (Aryadeva) tuyên bố trong Bốn Trăm Bài Kệ về Trung Quán rằng một người khao khát tâm linh thật sự trước tiên phải vượt qua hành vi tiêu cực, ở giai đoạn giữa phải chống lại mọi sự bám chấp vào bản ngã và ở giai đoạn cuối phải vượt qua mọi quan điểm ràng buộc chúng ta trong cõi luân hồi.

Như chúng ta đã thấy, Phật giáo giải thích cách môi trường và chúng sinh sống trong môi trường đó được tạo ra như là kết quả của sự vô minh cơ bản, đặc biệt là nghiệp phát sinh từ sự vô minh. Tuy nhiên, chúng ta không nên nghĩ rằng nghiệp tạo ra những thứ này từ hư không. Đây không phải là trường hợp. Nghiệp không giống như một nguyên nhân vĩnh cửu. Chúng ta nên nhận ra rằng để nghiệp hoạt động, và để nó có khả năng tạo ra hậu quả của nó, nó phải có một cơ sở để làm như vậy. Do đó, tồn tại một sự liên tục của cả thế giới vật chất và tinh thần. Chúng ta có thể truy tìm sự liên tục của thế giới vật chất đến sự khởi đầu của một vũ trụ cụ thể, và sau đó chúng ta thậm chí có thể truy tìm "sự khởi đầu" đó đến không gian trống rỗng. Phật giáo chấp nhận sự tồn tại của những gì được gọi là "hạt không gian" (namkhai dul), và khẳng định có một giai đoạn không gian trống rỗng mà nguồn gốc của vũ trụ vật chất theo một nghĩa nào đó được chứa đựng. Trong trường hợp của thế giới tinh thần, chúng ta không thể nói rằng sự liên tục của ý thức trong chúng sinh là kết quả của nghiệp. Chúng ta cũng không thể nói rằng quá trình liên tục không ngừng của cả vật chất và tinh thần là kết quả của nghiệp.

Nếu đúng như vậy, nếu sự liên tục cơ bản không được tạo ra bởi nghiệp, thì nghiệp phù hợp ở đâu? Nghiệp đóng vai trò nhân quả ở điểm nào trong việc tạo ra chúng sinh và môi trường tự nhiên mà chúng sinh sống? Có lẽ chúng ta có thể nói rằng có một quá trình tự nhiên trên thế giới và tại một thời điểm nhất định khi quá trình tiến hóa của nó đạt đến một giai đoạn mà nó có thể ảnh hưởng đến những trải nghiệm của chúng sinh, dẫn đến những trải nghiệm đau đớn về đau khổ hoặc những trải nghiệm vui vẻ về hạnh phúc, đó là thời điểm mà nghiệp xuất hiện. Rốt cuộc, quá trình nghiệp chỉ có ý nghĩa khi liên quan đến trải nghiệm của chúng sinh.

Vì vậy, nếu chúng ta hỏi liệu ý thức có được tạo ra bởi nghiệp hay liệu chúng sinh có được tạo ra bởi nghiệp hay không, thì có vẻ như câu trả lời sẽ là "không". Nhưng mặt khác, nếu chúng ta hỏi liệu cơ thể con người và ý thức của con người có phải là sản phẩm của nghiệp hay không, thì câu trả lời là "có" vì cả hai đều là kết quả của những hành động có đức hạnh. Điều này là do, khi chúng ta nói về cơ thể con người và ý thức của con người, chúng ta đang ám chỉ đến một trạng thái tồn tại có liên quan trực tiếp đến những trải nghiệm đau đớn và thú vị của một cá nhân. Cuối cùng, nếu chúng ta hỏi liệu bản năng tự nhiên của chúng ta là tìm kiếm hạnh phúc và vượt qua đau khổ có phải là sản phẩm của nghiệp hay không, thì có vẻ như câu trả lời sẽ là "không".


* Nghiệp và Thế giới Tự nhiên

Tại thời điểm này, tôi cảm thấy rằng trừ khi chúng ta bổ sung lời giải thích chung về quá trình nghiệp trong văn học Phật giáo bằng các điểm từ văn học Kim Cang thừa, thì sự hiểu biết của chúng ta sẽ không đầy đủ. Kim Cang thừa giải thích rằng cả thế giới vật chất và cơ thể của chúng sinh đều bao gồm năm yếu tố: đất, nước, lửa, gió và không gian. Không gian ở đây nên được hiểu theo nghĩa chân không, không gian trống rỗng, thay vì không gian theo nghĩa kỹ thuật là không có chướng ngại vật. Văn học Kim Cang thừa thảo luận về những điều này theo nghĩa các yếu tố bên ngoài và các yếu tố bên trong và cho thấy chúng liên quan đến nhau như thế nào ở cấp độ rất sâu sắc. Thông qua việc hiểu mối quan hệ này, cái nhìn sâu sắc của chúng ta về cách nghiệp ảnh hưởng đến thế giới sẽ sâu sắc hơn nhiều.

Như chúng ta đã thảo luận trước đó, thực tế là ý thức tồn tại là một
sự thật. Ý thức tồn tại; đó là nó. Tương tự như vậy, sự liên tục của ý thức cũng là một nguyên lý tự nhiên: ý thức duy trì sự liên tục của nó. Chúng ta phải nói thêm rằng trong Phật giáo, có một sự hiểu biết rằng ý thức không thể phát sinh từ hư không hoặc không có nguyên nhân; và đồng thời, ý thức không thể được tạo ra từ vật chất. Điều này không có nghĩa là vật chất không thể ảnh hưởng đến ý thức. Tuy nhiên, bản chất của ý thức là sự sáng suốt tuyệt đối, chỉ là kinh nghiệm; nó là khả năng nhận thức nguyên thủy, và do đó nó không thể được tạo ra từ vật chất có bản chất khác. Do đó, vì ý thức không thể phát sinh mà không có nguyên nhân, và vì nó không thể phát sinh từ nguyên nhân vật chất, nên nó phải đến từ một sự liên tục không ngừng. Chính trên tiền đề này mà Phật giáo chấp nhận sự tồn tại của các kiếp trước (vô thủy).

Chúng ta đã thấy rằng nguồn gốc của đau khổ nằm ở cả nghiệp và vô minh, nhưng thực ra vô minh mới là nguồn gốc chính.


*Nghiệp và Cảm xúc

Mỗi trường phái Phật giáo có cách hiểu khác nhau về bản chất của phiền não, tương ứng với những cách diễn giải khác nhau của họ về học thuyết anatman hay thuyết vô ngã. Ví dụ, một số trạng thái tâm trí, một số suy nghĩ và cảm xúc mà theo trường phái Trung Quán (Madhyamaka-Svatantrika) và Duy Thức (Chittamatra) có thể được coi là không ảo tưởng, thì theo quan điểm của trường phái Trung Quán (Madhyamaka-Prasangika), chúng được coi là ảo tưởng. Tất nhiên, đây là một điểm rất phức tạp và đòi hỏi phải nghiên cứu rất nhiều.

Điều quan trọng nhất mà chúng ta cần biết là cảm xúc phiền não chính là kẻ thù cuối cùng của chúng ta và là nguồn gốc của đau khổ. Khi nó phát triển trong tâm trí chúng ta, nó sẽ ngay lập tức phá hủy sự an lạc của tâm trí và cuối cùng phá hủy sức khỏe của chúng ta, thậm chí là tình bạn của chúng ta với những người khác. Tất cả các hoạt động tiêu cực như giết chóc, bắt nạt, gian lận, v.v. đều bắt nguồn từ cảm xúc phiền não. Do đó, đây chính là kẻ thù thật sự của chúng ta. Một kẻ thù bên ngoài có thể gây hại cho bạn hôm nay, nhưng ngày mai sẽ trở nên rất hữu ích, trong khi kẻ thù bên trong luôn luôn ở đó theo bạn và điều đó khiến nó trở nên rất nguy hiểm. Ngược lại, chúng ta thường có thể tìm thấy kẻ thù bên trong ở một khoảng cách nào đó. Ví dụ, vào năm 1959, chúng tôi đã chạy trốn khỏi Tây Tạng vì trốn thoát là một khả năng vật lý; nhưng trong trường hợp này, dù tôi ở Tây Tạng, hay ở Potala, hay ở London, thì nó vẫn theo tôi. Tôi nghĩ kẻ thù bên trong thậm chí còn ở đó trong thiền định: và ngay cả khi tôi hình dung một mandala - tôi thấy kẻ thù này vẫn luôn ở chính giữa! Vì vậy, đây là vấn đề chính mà chúng ta phải nhận ra: Kẻ hủy diệt thật sự hạnh phúc của chúng ta luôn ở bên trong chúng ta.

Chúng ta có thể làm gì về điều đó? Nếu không thể làm việc trên kẻ thù ấy và loại bỏ nó, thì tôi nghĩ chúng ta nên quên đi con đường tinh thần và dựa vào rượu và tình dục cùng những thứ tương tự khác để cải thiện cuộc sống của mình. Tuy nhiên, nếu có khả năng loại bỏ kẻ thù bên trong, thì tôi nghĩ chúng ta nên nắm bắt cơ hội có một cơ thể con người, một bộ não con người và một trái tim nhân hậu và kết hợp những sức mạnh này để phá hủy và cuối cùng là nhổ tận gốc nó. Đây là lý do tại sao cuộc sống con người được coi là đáng trân trọng theo giáo lý nhà Phật, vì chỉ có nó mới giúp một người rèn luyện và chuyển hóa tâm, chủ yếu là nhờ đạo đức của sự thông minh và lý trí.

Phật giáo phân biệt hai loại cảm xúc. Một loại là không có lý trí và chỉ dựa trên định kiến. Lòng căm thù là một trong những loại này. Loại cảm xúc này chỉ dựa trên những lý do hời hợt, tất nhiên, chẳng hạn như “người này đã làm tôi tổn thương khủng khiếp", nhưng sâu thẳm bên trong, nếu bạn theo đuổi suy nghĩ đó xa hơn, bạn sẽ thấy nó không đi xa được. Cảm xúc không có lý do là những gì chúng ta gọi là cảm xúc tiêu cực. Loại cảm xúc khác, bao gồm lòng từ bi và lòng vị tha, là cảm xúc có lý trí vì thông qua quá trình điều tra sâu sắc, bạn có thể chứng minh rằng nó tốt, cần thiết và hữu ích. Hơn nữa, mặc dù về bản chất nó là một loại cảm xúc, nhưng thực tế là phù hợp với lý trí và trí thông minh. Trên thực tế, nó là do thông qua
kết hợp trí tuệ và cảm xúc để chúng ta có thể thay đổi và chuyển hóa thế giới bên trong của mình.

Chừng nào kẻ thù bên trong còn ở đó, và chừng nào chúng ta còn nằm dưới sự kiểm soát của nó, thì không thể có hạnh phúc vĩnh cửu. Hiểu được nhu cầu đánh bại kẻ thù này là sự thực chứng thật sự, và phát triển một mong muốn mãnh liệt để vượt qua nó là khát vọng tìm kiếm sự tự do, về mặt kỹ thuật được gọi là từ bỏ. Do đó, việc thực hành phân tích cảm xúc và thế giới bên trong của chúng ta là rất quan trọng.

Kinh luận nói rằng đối với mong muốn vượt qua cấp độ đau khổ đầu tiên, "khổ đau của đau khổ", ngay cả động vật cũng có nó một cách tự nhiên. Và đối với khát vọng giải thoát bản thân khỏi cấp độ đau khổ thứ hai, "khổ đau của sự thay đổi", thì đây không phải là điều chỉ có ở con đường Phật giáo. Nhiều con đường không phải Phật giáo cổ đại của Ấn Độ cũng tương tự, tìm kiếm sự thanh thản bên trong thông qua định lực (samadhi). Tuy nhiên, khát vọng chân chính muốn tìm kiếm sự giải thoát hoàn toàn khỏi luân hồi chỉ có thể nảy sinh từ sự nhận ra cấp độ đau khổ thứ ba, "khổ đau của điều kiện", nơi chúng ta nhận ra rằng chừng nào chúng ta còn chịu sự kiểm soát của vô minh, chúng ta sẽ phải chịu đau khổ, và sẽ không có chỗ cho niềm vui và hạnh phúc lâu dài. Có thể nói rằng sự nhận ra cấp độ đau khổ thứ ba này là duy nhất và chỉ có đối với con đường Phật giáo.

Câu Hỏi

Hỏi: Xin Đức Thánh Thiện xin vui lòng giải thích tại sao kết quả của nghiệp đôi khi là tức thời và tại sao trong những trường hợp khác, chúng ta phải đợi nhiều kiếp trước khi hiệu ứng nhân quả xảy ra?

Đức Đạt Lai Lạt Ma: Một yếu tố sẽ là cường độ của chính hành động nghiệp. Một yếu tố khác là mức độ mà các điều kiện khác nhau cần thiết để nghiệp đó chín muồi là hoàn chỉnh, và điều này phụ thuộc vào các hành động nghiệp khác. Thiên Thân đã giải quyết vấn đề này trong A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (Abhidharmakosha), trong đó ngài tuyên bố rằng, nói chung-, các hành động nghiệp lực mạnh nhất có xu hướng tạo ra kết quả của chúng trước. Nếu cường độ của một hành động nghiệp lực bằng cường độ của một hành động nghiệp lực khác, thì kết quả của hành động mà cá nhân quen thuộc nhất có xu hướng chín muồi trước. Tuy nhiên, nếu hai hành động nghiệp lực mạnh như nhau và quen thuộc như nhau, thì hành động được thực hiện trước có xu hướng tạo ra kết quả của nó trước.

Hỏi: Có sự khác biệt giữa suy nghĩ và hành động liên quan đến kết quả nghiệp lực không? Nói cách khác, một suy nghĩ có thể gây ra một hành động và ngược lại không?

Đức Đạt Lai Lạt Ma: Như tôi đã giải thích, khái niệm nghiệp lực của Phật giáo không chỉ giới hạn ở hành động của cơ thể; nó còn bao gồm các hành động tinh thần, hay chúng ta có thể nói là các hành động tình cảm. Ví dụ, khi chúng ta nói về một hành động tham lam, hoặc một ý định có hại, thì những điều này không nhất thiết phải biểu hiện trong hành vi. Người ta có thể nghĩ những suy nghĩ như vậy một cách đầy đủ và chi tiết mà không thể hiện chúng bằng hành động, vì vậy một sự hoàn thành nhất định của những hành động này xảy ra ở cấp độ tinh thần.

Hơn nữa, có một số loại hành động không nhất thiết phải có động cơ hoặc ý định ngay lập tức, nhưng do điều kiện từ các hành động nghiệp quá khứ, người ta có thể có khuynh hướng hành động theo một cách nhất định. Điều này có nghĩa là một số hành động có thể phát sinh không phải là kết quả của động cơ, mà là kết quả của các khuynh hướng nghiệp./.


 

CHƯƠNG 11: LÝ TƯỞNG BỒ TÁT


***

Chỉ bằng lòng với thành tựu giải thoát khỏi vòng luân hồi là chưa đủ. Ngay cả khi nói theo quan điểm về mục đích của riêng bạn, thì thể trạng toàn tri của Phật quả là sự viên mãn hoàn toàn cho phúc lợi của chính bạn. Sau khi phát triển mong muốn đạt được giải thoát và thực hành tam vô lậu học thay vì quan tâm đến việc đạt được sự giải thoát cá nhân của mình, tốt hơn hết là những hành giả thông minh nên thiền tập về nguyện vọng vị tha hướng đến Phật quả, được gọi là bồ đề tâm, ngay từ đầu và bước vào Đại thừa, Mahāyāna. Nếu bạn thấy những người luôn bị vọng tưởng chi phối và chịu đau khổ, nhưng bạn không làm việc vì lợi ích của họ, thì thật sự rất bất nhẫn và đáng thất vọng. Bạn không nên bằng lòng với việc chỉ làm việc vì lợi ích cá nhân của mình. Bạn nên suy nghĩ theo hướng rộng hơn và cố gắng làm việc vì lợi ích của nhiều người. Đây là điều phân biệt con người với động vật, bởi vì nguyện ước làm việc vì lợi ích của bản thân và người thân là điều mà ngay cả động vật cũng làm. Điểm độc đáo của con người là họ làm việc vì lợi ích của người khác, không chỉ quan tâm đến phúc lợi của riêng mình. Đó là vẻ đẹp và đặc điểm của con người.

Những người như tổng thống Mỹ Lincoln và nhà lãnh đạo Ấn Độ Mahatma Gandhi được coi là những người thật sự vĩ đại vì họ không chỉ nghĩ đến bản thân mình mà còn làm việc vì lợi ích của dân tộc. Họ nghĩ đến toàn thể xã hội loài người, và họ đấu tranh và đấu tranh cho quyền lợi của người nghèo. Hãy lấy ví dụ về Mahatma Gandhi: Sau khi giành được độc lập cho Ấn Độ, ông chỉ là một công dân bình thường, không bao giờ đảm nhiệm bất kỳ chức vụ nào, chẳng hạn như thủ tướng. Đó là dấu hiệu của một người xuất chúng. Lúc đầu, Mao làm việc rất chăm chỉ vì quyền lợi của quần chúng, nhưng sau khi giành được quyền lực, bản thân ông đã trở thành thành viên của chính giai cấp mà ông đã đấu tranh chống lại. Ông khuất phục trước quyền lực và trở nên hoàn toàn độc tài, coi ngay cả sự bất đồng quan điểm nhỏ nhất cũng là một sự xúc phạm cá nhân lớn. Mao từng được ca ngợi, nhưng giờ đây khi mọi người đã trở nên vỡ mộng, ngày càng có nhiều điều được tiết lộ.

Khi mặt trời chiếu sáng, nó chiếu sáng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào; nó chiếu sáng mọi nơi trên đất nước, mọi ngóc ngách và góc phố. Chúng ta nên như vậy. Chúng ta, những người thực hành Đại thừa, không nên quan tâm đến lợi ích của riêng mình mà với một tâm trí nhất quán, hãy phát triển thái độ vị tha dũng cảm, tự mình gánh vác trách nhiệm làm việc vì tất cả chúng sinh.

Bồ đề tâm, mong muốn từ bi đạt được Phật quả vì lợi ích của người khác, là lối vào con đường Đại thừa. Khi bạn tu tập Bồ đề tâm, mặc dù bạn có thể không tiến triển thêm trên con đường, bạn trở thành một người theo Đại thừa, nhưng ngay khi Bồ đề tâm mất đi, mặc dù bạn có thể có những chứng ngộ rất cao, bạn sẽ rơi khỏi hàng ngũ của Đại thừa. Tịch Thiên nói rằng ngay khi bạn phát triển Bồ đề tâm, mặc dù bạn có thể đang sống trong cõi thấp hơn, bạn sẽ được gọi là Bồ tát, một người con của chư Phật. Nhờ Bồ đề tâm, bạn sẽ có thể thanh lọc những điều tiêu cực rất dễ dàng và có thể hoàn thành mục tiêu của mình. Bạn sẽ không bị ảnh hưởng bởi sự can thiệp và tác hại, bởi vì nếu bạn có khả năng Bồ đề tâm này, bạn coi người khác quan trọng và quý giá hơn cả mạng sống của chính mình. Khi những linh hồn có hại nhận ra điều này, chúng sẽ ngần ngại làm hại bạn. Nhờ có bồ đề tâm, nếu bạn có thể thanh lọc những điều tiêu cực và tích lũy được nhiều công đức, bạn sẽ gặp được những hoàn cảnh thuận lợi cần thiết để tiến triển nhanh chóng trên con đường. Bồ đề tâm và lòng từ bi chính là nguồn gốc và nền tảng của mọi điều tốt đẹp trong thế giới này và niết bàn. Bạn nên coi bồ đề tâm là bản chất của sự thực hành của mình và không nên chỉ dừng lại ở mức độ trí tuệ; bạn không nên hài lòng với sự thực hành bồ đề tâm của mình nếu nó chỉ bao gồm việc đọc một vài câu kệ vào đầu buổi thiền. Bạn nên cố gắng tạo ra nó thông qua kinh nghiệm.

Tsong-kha-pa nói rằng nếu bạn có một khát vọng chân chính hướng đến giác ngộ, thì bất kỳ hành động tốt nào, ngay cả một việc nhỏ như cho một con quạ ăn ngũ cốc, đều trở thành một hành động của bồ tát. Tuy nhiên, nếu bạn thiếu yếu tố thúc đẩy này, ngay cả khi bạn có thể cúng dường cả một vũ trụ chứa đầy châu báu cho những chúng sinh khác, thì đó cũng không phải là hành động của một bồ tát. Nếu sự thực hành bồ đề tâm của bạn không thành công, thì dù bạn có cố gắng thực hành Pháp bao lâu, thì đó cũng sẽ là một quá trình rất chậm chạp và vất vả, giống như cắt cỏ bằng một công cụ cùn. Nhưng nếu bạn có sự chứng ngộ hoàn hảo và thành công về bồ đề tâm, mặc dù có thể mất một thời gian để biến điều đó thành động lực chính của bạn, tất cả các thực hành của bạn sẽ rất mạnh mẽ. Nếu bạn không liên tục củng cố lòng từ bi của mình, cải thiện và nâng cao nó, thì sẽ có nguy cơ lớn là mất đi lòng can đảm và trở nên chán nản, vì chúng sinh là vô hạn. Có rất nhiều chúng sinh thù địch, thay vì đền đáp lòng tốt của bạn, sẽ cố gắng làm hại bạn. Do đó, bạn không nên hài lòng với một trải nghiệm từ bi duy nhất mà thực sự nên nỗ lực để nâng cao nó đến mức lòng từ bi của bạn đã bén rễ sâu sắc. Nếu điều đó xảy ra, bạn sẽ không quan tâm nhiều đến những khó khăn, và kết quả là bạn sẽ không bao giờ chán nản trước hoàn cảnh khi bạn làm việc vì lợi ích của người khác. Chính vì sức mạnh của lòng từ bi mà các vị Phật vẫn cam kết làm việc vì lợi ích của chúng sinh khác. Đức Phật nói rằng các vị Bồ tát không cần phải quan tâm đến nhiều khía cạnh của con đường; họ không cần phải thực hành nhiều thứ khác. Chỉ bằng một thực hành duy nhất, Phật quả sẽ nằm trong lòng bàn tay của bạn. Thực hành đó là lòng từ bi lớn, nghĩa là mong muốn được giác ngộ để giải thoát tất cả chúng sinh khác. Để phát sinh khát vọng giác ngộ này, chi có lòng từ bi và tình thương yêu lớn là không đủ, mong muốn chúng sinh thoát khỏi đau khổ. Ngoài ra, điều cần thiết là ý thức trách nhiệm cá nhân để gánh vác nhiệm vụ giải thoát họ khỏi đau khổ và mang lại cho họ hạnh phúc.

Khi chúng ta suy ngẫm về bản chất đau khổ của chúng sinh, chúng ta có thể phát triển mong muốn rằng họ thoát khỏi những đau khổ như vậy. Để khám phá ra một trái tim ấm áp và tử tế, mạnh mẽ, ổn định và kiên cố, trước hết, điều rất quan trọng là phải có thái độ yêu thương đối với chúng sinh, coi họ là quý giá và thân thương. Bạn càng cảm thấy yêu thương chúng sinh khác và bạn càng trân trọng họ, thì bạn càng có thể phát triển lòng từ bi thật sự đối với họ. Thông thường, khi chúng ta để những phản ứng tự nhiên của mình diễn ra theo hướng riêng của chúng, chúng ta thấy không thể chịu đựng được khi chứng kiến ​​nỗi đau khổ của người thân và bạn bè. Chúng ta có xu hướng thích thú trước những bất hạnh và thất bại của kẻ thù và chúng ta có xu hướng thờ ơ với những người mà chúng ta không biết. Cảm xúc của chúng ta dao động liên quan đến những người khác nhau này. Chúng ta càng coi một người là gần gũi và thân thiết với mình thì cảm giác không thể chịu đựng được khi người đó đau khổ càng mạnh mẽ.

Để cân bằng cảm xúc, hãy hình dung ba người trước mặt bạn: một người bạn rất thân, một kẻ thù và một người trung tính. Sau khi hình dung ba người này, hãy để tâm trí bạn phản ứng một cách tự nhiên. Bạn sẽ thấy tâm trí mình phản ứng theo cách mất cân bằng. Bạn thấy mình gắn bó với người bạn và bị kẻ thù đẩy lùi, và thái độ của bạn đối với người thứ ba hoàn toàn thờ ơ. Sau đó, hãy xem xét lý do tại sao bạn phản ứng theo cách như vậy. Bạn bè có thể là bạn bè bây giờ, nhưng họ có thể đã từng là kẻ thù của chúng ta trong quá khứ và họ có thể là kẻ thù của chúng ta trong tương lai. Những người mà chúng ta gọi là kẻ thù bây giờ có thể đã từng là bạn thân hoặc họ hàng của chúng ta trong quá khứ và cũng có thể trở thành như vậy trong tương lai. Mục đích của việc phân biệt như vậy là gì? Bạn bè là những người mà chúng ta mong muốn có được hạnh phúc và tận hưởng cuộc sống. Chúng ta chúc họ hạnh phúc và thành công vì họ là họ hàng và bạn bè của chúng ta và đã đối xử tốt với chúng ta. Nhưng trong tương lai họ có thể trở thành kẻ thù của chúng ta, và thậm chí trong cuộc sống này họ có thể chống lại chúng ta. Tương tự như vậy, khi chúng ta phản ứng với kẻ thù, chúng ta có xu hướng phản ứng theo cách rất tiêu cực, theo bản năng, sâu thẳm bên trong, mong muốn họ phải đối mặt với bất hạnh, khó khăn và thất bại. Chúng ta phản ứng như vậy vì chúng ta nghĩ rằng họ đã làm hại chúng ta. Nhưng mặc dù họ thật sự có thể gây hại ở hiện tại, họ có thể trở thành bạn của chúng ta trong tương lai. Không có sự chắc chắn, không có bạn bè hay kẻ thù hoàn toàn đáng tin cậy hoặc vĩnh viễn. Tương tự như vậy, mặc dù người trung tính hoàn toàn không quan tâm đến chúng ta và chúng ta cũng khác biệt với họ, nhưng trong quá khứ, người đó có thể đã từng là bạn hoặc kẻ thù của chúng ta. Nếu bạn rèn luyện tâm trí theo cách này, bạn sẽ nhìn nhận tất cả mọi người dưới cùng một góc độ, và dần dần sự phân biệt đối xử gay gắt như vậy giữa ba loại người sẽ bắt đầu mờ dần. Bạn nên mở rộng thực hành này để bao gồm tất cả mọi người, cuối cùng bao gồm tất cả chúng sinh. Đó là cách bạn phát triển sự bình thản. Điều này không có nghĩa là chúng ta không có bạn bè và kẻ thù. Điều chúng ta quan tâm ở đây là bù đắp cho những phản ứng cảm xúc gay gắt, mất cân bằng của chúng ta đối với người khác. Tâm bình đẳng này rất quan trọng; nó giống như việc san phẳng mặt đất trước khi tu tập. Mặc dù bản thân tâm bình đẳng không phải là một sự chứng ngộ lớn, nhưng nếu bạn có nền tảng đó, các thực hành tiếp theo sẽ rất thành công.

Sau khi phát triển tâm bình đẳng, giới luật nhân quả đầu tiên để tạo ra khát vọng giác ngộ là nhận ra rằng tất cả chúng sinh đều đã từng là mẹ của chúng ta trong kiếp trước. Điều này là do chu kỳ hiện hữu không có khởi đầu. Bởi vì cuộc sống trong chu kỳ tái sinh là vô thủy, nên cuộc sống của chính chúng ta cũng không có khởi đầu. Sự sống và cái chết nối tiếp nhau mà không có bất kỳ sự gián đoạn nào. Bất cứ khi nào chúng ta nhập vào một cơ thể, chúng ta đều cần một người mẹ. Vì chu kỳ hiện hữu không có khởi đầu, nên không có chúng sinh nào mà chúng ta có thể chỉ vào và nói rằng, "Người đó không phải là mẹ của tôi trong quá khứ." Họ không chỉ là mẹ của chúng ta trong quá khứ mà còn sẽ là mẹ của chúng ta trong tương lai. Nếu bạn có thể phát triển niềm tin sâu sắc vào sự thật này, bạn sẽ dễ dàng nhớ lại và suy ngẫm về lòng tốt lớn lao của họ và sau đó phát triển mong muốn đền đáp lòng tốt của họ. Mặc dù người ta thường khuyên bạn nên xem tất cả chúng sinh như mẹ của bạn, bạn nên thực hiện thiền định này theo kinh nghiệm của riêng bạn. Ví dụ, một số người cảm thấy gần gũi hơn với người cha của họ. Người mà bạn cảm thấy gần gũi nhất và tôn trọng nhất có thể được coi là hình mẫu. Không có một sinh vật nào không phải là mẹ, cha hoặc họ hàng của chúng ta trong quá khứ. Sự kiện chúng ta không nhớ hoặc nhận ra họ, họ không có nghĩa họ không tửng là mẹ của chúng ta. Ví dụ, ngay cả trong trường hợp cha mẹ và con cái bị chia cắt khi chúng ta còn nhỏ. Sau đó, những đứa trẻ này không thể nhận ra cha mẹ của chúng.

Quy tắc tiếp theo là chúng ta suy ngẫm về lòng tốt của tất cả chúng sinh. Thiền tập này được nói là thành công nhất, nếu sau khi đã nhận ra tất cả những chúng sinh khác như mẹ của ta, thì hãy nhớ lại lòng ân cần tử tế của họ, lấy mẹ của chính ta như một ví dụ. Hãy quán tưởng mẹ của bạn trước mặt và phản chiếu rằng bà không chỉ là mẹ của bạn trong kiếp sống này mà cũng trong vô số kiếp quá khứ. Sau đó, hãy nghĩ về cách bà đã tử tế như thế nào, cách bà đã bảo vệ bạn khỏi nguy hiểm và bà đã giúp đỡ bạn như thế nào, cách bà thụ thai bạn lần đầu tiên trong cuộc đời này và ngay cả trong thời gian thái nghén bà đã chăm sóc bạn cực nhọc như thế nào. Bà đã chăm nom bạn thậm chí trong thời thơ ấu đã rất chu đáo. Bà đã chăm sóc bạn mà không chút do dự. Bà sẵn sàng từ bỏ tài sản của mình vì lợi ích của bạn và sẵn sàng sử dụng những phương tiện gian xảo và vô tôn giáo để có được những gì bạn cần mà không quan tâm đến những khó khăn mà nó gây ra cho bà. Chí nguyện và tình thương của bà dành cho đứa con của mình lớn đến mức bà thà tự mình ngã bệnh còn hơn để con mình bị bệnh. Bạn nên tập trung một lòng suy ngẫm về lòng tốt tuyệt vời của bà. Khi bạn phát triển một cảm giác sâu sắc về lòng biết ơn đối với mẹ mình vì lòng tốt tuyệt vời của bà bằng cách suy ngẫm theo cách này, bạn nên áp dụng phương pháp tương tự đối với những người khác đã tử tế với bạn, chẳng hạn như bạn bè và họ hàng của bạn. Cuối cùng, bạn có thể mở rộng nó để bao gồm cả những người trung tính. Nếu bạn có thể phát triển cùng một loại cảm giác đó đối với những người trung tính, cũng hãy chuyển nó sang kẻ thù của riêng bạn. Dần dần bao gồm tất cả chúng sinh khác trong phạm vi nhận thức lòng tốt của bạn.

Tiếp theo là thiền tập về việc đền đáp lòng tốt của họ. Bạn nên hiểu rằng chỉ vì sự sống liên tục thay đổi của chúng ta mà chúng ta mới có thể nhận ra rằng tất cả chúng sinh đều là những người cha mẹ và người thân tốt bụng của chúng ta. Nếu chúng ta thấy được nỗi đau khổ và sự bất lực của họ rồi vẫn hành động vì lợi ích và sự giải thoát cá nhân của riêng mình, chúng ta sẽ không chỉ hành động bất nhẫn mà còn vô cùng vô ơn. Bạn nên phát triển một ý thức sâu sắc về cam kết rằng bạn sẽ không bao giờ bỏ rơi họ mà thay vào đó sẽ đền đáp lòng tốt của họ. Ngay cả trong ý nghĩa thế gian, nếu ai đó không đền đáp lòng tốt của mọi người mà lại hành động chống lại họ, thì người đó bị coi là một người rất xấu và vô ơn. Vậy thì làm sao một hành giả Đại thừa có thể hoàn toàn bỏ bê phúc lợi của những chúng sinh khác và không nghĩ đến việc đền đáp lòng tốt của họ?

Hãy tưởng tượng mẹ bạn, tinh thần không ổn định, mù quáng và không có bất kỳ sự hướng dẫn nào, đang bước về phía một vách đá. Bà gọi đứa con của mình ở gần đó, nơi ẩn náu duy nhất của bà, nơi mà bà đặt niềm hy vọng. Nếu đứa con của bà không giúp bà, thì ai sẽ giúp bà? Chúng ta nên suy ngẫm về ý tưởng rằng từ thuở khai thiên lập địa, chúng sinh đã không ổn định về mặt tinh thần vì họ đã là nô lệ của ảo tưởng, họ thiếu con mắt trí tuệ để nhìn thấy con đường dẫn đến niết bàn và giác ngộ và họ thiếu sự hướng dẫn cần thiết của một vị thầy tâm linh. Từng khoảnh khắc họ đang đắm chìm trong những hành động tiêu cực, điều cuối cùng sẽ dẫn đến sự sụp đổ của họ. Nếu những người mẹ này không thể tìm kiếm sự giúp đỡ từ con cái của họ, thì họ có thể đặt hy vọng vào ai? Cảm thấy có trách nhiệm, bạn nên đền đáp lòng tốt lớn lao của người mẹ.

Tiếp theo là thiền tập về tình thương yêu (thứ nhất trong 4 vô lượng tâm). Định nghĩa của Phật giáo về tình thương yêu là mong muốn tất cả chúng sinh có thể tận hưởng hạnh phúc và không bao giờ phải xa rời hạnh phúc. Người ta nói rằng thiền tập về tình yêu thương ngay cả trong một khoảnh khắc vượt xa công đức tích lũy được thông qua việc cúng dường vô hạn cho vô số Đức Phật. Chính nhờ sức mạnh của thiền về tình thương yêu mà Đức Phật đã đánh bại được lũ quỷ dữ cố gắng ngăn cản Ngài đạt được mục tiêu. Thiền về tình thương yêu là sự bảo vệ tối cao. Trình tự thực tế của thiền về tình thương yêu là trước tiên bạn nên vun đắp tình yêu hướng đến bạn bè và người thân của mình, sau đó bạn nên chuyển sự chú ý đó sang những người trung tính, rồi đến kẻ thù của bạn. Sau đó, dần dần bao gồm tất cả những chúng sinh khác mà bạn gặp.

Tiếp theo là thiền về lòng từ bi (thứ hai trong 4 vô lượng tâm). Có hai loại lòng từ bi, một là chỉ mong muốn chúng sinh thoát khỏi đau khổ, và loại kia mạnh mẽ hơn: "Tôi sẽ chịu trách nhiệm giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ". Trước tiên, bạn nên thiền tập về cha mẹ, bạn bè và người thân của mình, sau đó chuyển sự chú ý đó sang những người trung tính và cuối cùng là kẻ thù của bạn, để cuối cùng tất cả chúng sinh mà bạn gặp sẽ là một phần trong thiền tập của bạn. Điều này có ý nghĩa rất lớn vì khi bạn có thể mở rộng thiền tập của mình đến tất cả chúng sinh, lòng từ bi và tình thương yêu của bạn sẽ trở nên lan tỏa đến mức ngay khi bạn nhìn thấy đau khổ, lòng từ bi sẽ tự nhiên nảy sinh. Nếu không, nếu bạn cố gắng thiền tập về lòng từ bi và tình thương yêu đối với tất cả chúng sinh, nghĩ về "tất cả chúng sinh" mà không xác định chúng riêng lẻ trước, thì ý niệm của bạn về "tất cả chúng sinh" sẽ rất mơ hồ, và lòng từ bi của bạn sẽ không mạnh mẽ và vững chắc. Khi bạn gặp một số cá nhân nhất định, bạn sẽ bắt đầu nghi ngờ liệu bạn có thật sự muốn họ tận hưởng hạnh phúc hay không. Mặt khác, nếu bạn nuôi dưỡng lòng từ bi trong một quá trình dần dần, trước hết là chọn ra những nhóm người riêng biệt và nỗ lực hết sức để nuôi dưỡng loại tình yêu thương và lòng từ bi tập trung vào kẻ thù của bạn, là đối tượng khó khăn nhất, thì việc yêu thương và lòng từ bi đối với người khác sẽ trở nên rất dễ dàng, và lòng từ bi của bạn sẽ có thể chịu đựng được mọi hoàn cảnh mà bạn có thể gặp phải.

Trong quá trình thiền tập thực tế, bạn nên quán chiếu cách chúng sinh, giống như chính bạn, xoay vần trong vòng luân hồi bị dày vò bởi đủ loại đau khổ. Để thành công trong việc phát triển tình yêu thương và lòng từ bi thì điều rất quan trọng là phải hiểu và nhận ra những lỗi lầm và khuyết điểm của vòng luân hồi. Nếu bạn có thể làm được điều đó theo quan sát của riêng mình, bạn có thể mở rộng sự hiểu biết của mình đối với những chúng sinh khác thông qua trải nghiệm. Nếu không, nếu bản thân bạn chưa phát triển sự từ bỏ và cảm giác chán ghét đối với toàn bộ phạm vi trải nghiệm trong vòng luân hồi này, thì không có cách nào bạn có thể nuôi dưỡng lòng từ bi. Sự từ bỏ là điều không thể thiếu để nuôi dưỡng lòng từ bi, Lòng từ bi và sự từ bỏ chỉ khác nhau ở mục đích của chúng: Sự từ bỏ là tập trung vào bản thân, đó là mong muốn bạn được giải thoát khỏi đau khổ. Lòng từ bi hướng đến những chúng sinh khác, đó là mong muốn tất cả chúng sinh được giải thoát khỏi đau khổ.

Việc nghiên cứu và hiểu biết nhiều loại đau khổ là rất quan trọng. Sau khi có được kiến ​​thức sâu rộng bằng cách đọc nhiều văn bản và suy nghĩ nhiều, bạn nên suy ngẫm về những lỗi lầm và khuyết điểm của chu kỳ sống và chết và cách chúng sinh trong chu kỳ tồn tại này xoay quanh phản ứng dây chuyền này. Ví dụ, trong các phòng thí nghiệm khoa học, chuột lang bị tra tấn bằng đủ loại thiết bị. Để hiểu não hoạt động như thế nào, các nhà khoa học phải thử nghiệm trên động vật. Đây là một tình huống rất kỳ lạ, bởi vì mục đích chính của họ là giúp đỡ và kéo dài tuổi thọ của con người. Theo một cách nào đó, đó là một mục tiêu cao cả, nhưng cũng khó có thể biện minh được. Mặc dù họ có thể sử dụng thuốc an thần, các nhà khoa học vẫn thực hiện những thí nghiệm như vậy mà không có bất kỳ cảm giác từ bi hay thương xót nào đối với động vật. Ở phương Tây, có những nhóm phản đối cách đối xử như vậy với động vật, không phải vì tình cảm tôn giáo mà vì thái độ từ bi của họ đối với động vật. Tôi ủng hộ nỗ lực này.

Ban đầu, có thể khá khó để tạo ra bất kỳ trải nghiệm nào về lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh, nhưng một khi bạn bắt đầu phát triển nó, nó sẽ trở nên vững chắc, chân thực và không thể lay chuyển, vì nó dựa trên nền tảng vững chắc của kiến ​​thức và lý trí. Nếu bạn có một số trải nghiệm về lòng từ bi, điều thật sự quan trọng là cố gắng ổn định nó bằng cách củng cố nó bằng lý trí và sự hiểu biết sâu rộng. Chỉ dựa vào một loại trực giác nào đó thì không đáng tin cậy lắm, vì có nguy cơ là sau đó loại trải nghiệm đó sẽ biến mất không dấu vết. Điều này không chỉ đúng với thiền về lòng từ bi và tình thương yêu, mà còn đúng với tất cả các thực hành khác.

Nhờ thiền tập và chiêm nghiệm liên tục, cảm giác từ bi của bạn đối với những chúng sinh khác sẽ trở nên căng thẳng như tình thương yêu của một người mẹ đối với đứa con duy nhất của mình khi bà nhìn thấy con mình đau ốm. Nỗi đau khổ của đứa trẻ sẽ khiến bà lo lắng và đau đớn, và ngày đêm bà sẽ có mong muốn tự nhiên là con trai hoặc con gái của mình được khỏe mạnh.

Thái độ của bạn đối với bất kỳ chúng sinh nào khác là, bất kể họ có liên quan đến bạn hay không, ngay khi bạn nhìn thấy khổ đau, bạn có thể phát triển lòng từ bi mãnh liệt như vậy đối với tất cả chúng sinh khác mà không thiên vị, đó là dấu hiệu của lòng từ bi thành tựu được tôn kính và phát triển. Điều này cũng áp dụng cho tình thương yêu. Tình yêu thương và lòng từ bi như vậy sẽ tự nhiên dẫn đến, mà không cần bất kỳ nỗ lực nào, thái độ cao thượng của việc gánh vác trên vai trách nhiệm hành động vì lợi ích của những chúng sinh khác, đến lượt nó cuối cùng dẫn đến việc nhận ra nguyện vọng giác ngộ.

Khi hành thiền về việc đền đáp lòng tốt, bạn đã suy ngẫm về lòng tử tế ân cần to lớn của những bà mẹ chúng sinh và về sự cần thiết của việc làm lợi ích cho họ. Ở đó mối quan tâm chính là vun đắp trách nhiệm sâu sắc để làm việc vì lợi ích của họ và gánh vác nhiệm vụ giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ và mang lại cho họ hạnh phúc. Trong suốt cuộc sống và hoạt động hàng ngày của bạn, bất kể dịp nào, bạn nên nắm bắt ngay cơ hội đó để rèn luyện sự tập trung này. Chỉ khi đó, bạn mới có thể bắt đầu hy vọng vào sự tiến bộ trong thực tế. Nhà thơ Ấn Độ Chandragomin (thế kỷ thứ sáu sau Công nguyên) đã nói rằng chỉ cần nhỏ một hoặc hai giọt mía vào là có thể thay đổi được vị của một loại trái cây rất chua. Tương tự như vậy, chúng ta không thể mong đợi vị của tâm trí, vốn đã bị ô nhiễm bởi vị chua - không phải ảo tưởng, ngay lập tức được thay đổi thành vị ngọt của bồ đề tâm và lòng từ bi chỉ bằng một hoặc hai lần hành thiền. Nỗ lực bền bỉ và liên tục thật sự rất quan trọng.

Ở bước cuối cùng, sự phát triển thật sự của bồ đề tâm, tâm muốn đạt được giác ngộ vì người khác, bạn không nên hài lòng khi chỉ thấy tầm quan trọng của giác ngộ vì lợi ích của người khác. Không có cách nào để hoàn thành mục tiêu cuối cùng đó nếu bạn không đạt được trạng thái toàn tri của Phật quả, từ đó bạn có thể làm lợi ích tốt nhất cho người khác. Bạn nên phát triển một đức tin rất sâu sắc, chân thành vào thể trạng giác ngộ, và điều đó sẽ dẫn đến một khát vọng chân thành để đạt được nó. Nói chung, có nhiều nguyên nhân và điều kiện để vun trồng Bồ đề tâm, nhưng quan trọng nhất trong số đó là lòng từ bi.

Chúng ta nên nhận ra rằng mục đích của việc tái sinh trên thế gian này là để giúp đỡ người khác. Nếu chúng ta không thể làm điều đó, ít nhất chúng ta không nên làm hại những chúng sinh khác. Ngay cả những người phản đối tôn giáo cũng nói rất cao về thái độ vị tha. Mặc dù những người Tàu Cộng phản đối tôn giáo về mặt tư tưởng, nhưng họ lại nói về mong muốn làm việc vì phúc lợi của quần chúng. Nếu những người này thật sự có thái độ vị tha, họ sẽ có thể thực hiện được mong muốn về một nhà nước xã hội chủ nghĩa hoàn hảo. Mặt khác, nếu họ tiếp tục sử dụng các phương pháp bạo lực để thực thi một hệ thống toàn trị, thì không có cách nào họ có thể mang lại những gì họ đang tìm kiếm. Các quốc gia có hệ thống chính trị đa dạng, nhưng một yếu tố thiết yếu trong hầu hết các xã hội là thái độ vị tha, mong muốn làm việc vì người khác, vì phúc lợi của đa số. Thái độ vị tha là gốc rễ của hạnh phúc trong cộng đồng loài người. Tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới đều khuyến khích việc nuôi dưỡng thái độ vị tha, bất kể hệ thống triết học khác nhau của họ. Tóm lại, nếu bạn vun đắp thái độ vị tha, nó không chỉ giúp bạn bằng cách mang lại sự bình yên cho tâm hồn mà còn tạo ra bầu không khí bình yên xung quanh bạn. Đó là một trong những kết quả thực tế mà bạn có thể thấy. Mục đích cuối cùng của việc vun đắp thái độ vị tha là đạt được trạng thái giác ngộ để bạn có thể làm việc để hoàn thành trọn vẹn mong muốn của những chúng sinh khác. Do đó, Đức Phật không chỉ đưa ra lời khuyên đơn giản về tầm quan trọng của việc vun đắp Bồ đề tâm; Ngài còn chỉ ra các kỹ năng và phương tiện để chúng ta có thể phát triển khát vọng vị tha như vậy.

Việc thực hành Bồ đề tâm là điều không thể thiếu đối với những ai mong muốn đạt được sự giác ngộ. Tất cả chư Phật và Bồ tát trong quá khứ đều đã đạt được những chứng ngộ cao cả này bằng cách vun đắp thái độ vị tha này. Một số hệ tư tưởng mất đi sự liên quan theo thời gian. Đức Phật dạy rằng cuộc sống là tài sản quý giá nhất của chúng ta và chúng ta nên coi cuộc sống của người khác quan trọng và quý giá hơn cuộc sống của chính mình. Loại thông điệp và lời dạy này vẫn giữ được sự liên quan của nó qua nhiều thời đại. Trong thời đại hiện đại này khi có nguy cơ lớn về sự hủy diệt của toàn bộ thế giới, chúng ta thấy thông điệp của Đức Phật ngày càng có ý nghĩa hơn.

Phương pháp khác để phát triển khát vọng vị tha hướng đến giác ngộ là bình đẳng hóa và trao đổi bản thân và người khác. Bước đầu tiên trong thực hành này là nhận ra những lợi ích của việc trao đổi bản thân với người khác và những bất lợi của việc không làm như vậy. Tất cả những phẩm chất tốt đẹp trong vũ trụ này đều là sản phẩm của việc trân trọng hạnh phúc của người khác, và tất cả những thất vọng, bối rối và đau khổ đều là sản phẩm và hậu quả của thái độ ích kỷ. Nhưng liệu có thể trao đổi bản thân với người khác không? Kinh nghiệm của chúng ta chứng minh rằng chúng ta có thể thay đổi thái độ của mình đối với một số loại người mà trước đây chúng ta thấy ghê tởm và sợ hãi, rằng khi chúng ta đến gần hơn với những người như vậy và hiểu họ, chúng ta có thể thay đổi thái độ của mình. Trao đổi bản thân và người khác không có nghĩa là bạn thay đổi bản thân về mặt thể chất thành người khác mà đúng hơn là thái độ mà bạn có về bản thân được áp dụng cho người khác. Sự trân trọng mạnh mẽ mà bạn cảm thấy đối với bản thân bây giờ nên được chuyển sang người khác, để bạn có xu hướng tự nhiên là làm việc vì hạnh phúc của người khác thay vì bản thân mình.

Do đó, chúng ta nên quyết định, "Từ nay trở đi, tôi sẽ cống hiến bản thân, thậm chí cả cơ thể mình, cho hạnh phúc của người khác. Từ nay trở đi, tôi sẽ không làm việc vì hạnh phúc của riêng mình mà là vì hạnh phúc của người khác. Từ nay trở đi, người khác giống như chủ nhân của tôi; cơ thể tôi sẽ tuân theo và nghe lệnh của người khác thay vì bản thân mình". Khi suy ngẫm về những bất lợi và tác hại lớn của thái độ ích kỷ, bạn nên phát triển một quyết tâm mạnh mẽ, nói với thái độ tự yêu mến, "Sự thống trị của bạn đối với tâm trí tôi đã là chuyện của quá khứ. Từ nay trở đi, tôi sẽ không tuân theo lệnh của bạn. Bạn chỉ gây ra cho tôi rất nhiều tổn hại bằng những thủ đoạn gian xảo của bạn. Từ nay trở đi, đừng giả vờ rằng bạn đang làm việc vì hạnh phúc của riêng tôi, bởi vì tôi đã nhận ra rằng bạn là kẻ thù lớn và là nguồn gốc của mọi sự thất vọng và đau khổ của tôi. Nếu tôi không từ bỏ bạn và làm việc vì người khác, bạn sẽ lại đẩy tôi vào những đau khổ của sự tái sinh bất hạnh". Hãy hiểu rằng thái độ ích kỷ là nguồn gốc của mọi đau khổ, và sự quan tâm đến người khác là nguồn gốc của mọi hạnh phúc và điều tốt đẹp./.


 

CHƯƠNG 12: SỰ PHỤ THUỘC LẪN NHAU

***

Trong một cuộc thảo luận về sự phụ thuộc lẫn nhau, sự kết nối và bản chất của thực tại, câu hỏi đầu tiên là: Thời gian là gì? Chúng ta không thể xác định thời gian là một loại thực thể độc lập. Nói chung, có những vấn đề bên ngoài và cảm xúc hoặc trải nghiệm bên trong. Nếu chúng ta nhìn vào những thứ bên ngoài, thì nói chung có quá khứ, hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn kỹ vào "hiện tại", chẳng hạn như năm, tháng, ngày, giờ, phút, giây, chúng ta không thể tìm thấy nó. Chỉ một giây trước hiện tại là quá khứ; và một giây sau là tương lai. Không có hiện tại. Nếu không có hiện tại, thì thật khó để nói về quá khứ và tương lai, vì cả hai đều phụ thuộc vào hiện tại. Vì vậy, nếu chúng ta nhìn vào những vấn đề bên ngoài, có vẻ như quá khứ chỉ nằm trong ký ức của chúng ta và tương lai chỉ nằm trong trí tưởng tượng của chúng ta, không gì hơn là một viễn cảnh.

Nhưng nếu chúng ta nhìn vào những trải nghiệm nội tại hoặc trạng thái ý thức của mình, thì quá khứ không còn nữa và tương lai vẫn chưa đến: Chỉ có hiện tại. Vì vậy, mọi thứ trở nên phức tạp hơn khi chúng ta suy nghĩ theo hướng này. Đây là bản chất của sự phụ thuộc lẫn nhau, từ tiếng Phạn pratityasamutpada. Đây là một ý tưởng rất hữu ích và là một trong những chủ đề yêu thích của tôi.

Có hai cấp độ phụ thuộc lẫn nhau: cấp độ thông thường và cấp độ sâu hơn. Trước tiên, tôi sẽ giải quyết cấp độ thông thường. Khi chúng ta nói về nguyên lý phụ thuộc lẫn nhau của Phật giáo, thường được gọi là "nguồn gốc phụ thuộc lẫn nhau", chúng ta phải ghi nhớ trong tâm rằng
có nhiều cấp độ hiểu biết khác nhau về nguyên lý đó. Cấp độ hiểu biết hời hợt hơn về nguyên lý là bản chất phụ thuộc lẫn nhau hoặc mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả. Cấp độ hiểu biết sâu sắc hơn về nguyên lý này có tính bao trùm hơn nhiều và trên thực tế, bao gồm toàn bộ quang phổ của thực tại. Nguyên lý về nguồn gốc phụ thuộc lẫn nhau liên quan đến nguyên nhân và kết quả nêu rằng không có gì có thể xảy ra nếu không có nguyên nhân và điều kiện tương ứng; mọi thứ đều xuất hiện như là kết quả của sự kết hợp của các nguyên nhân và điều kiện.

Nếu chúng ta xem xét luật tự nhiên, chúng ta thấy rằng nó không được tạo ra bởi nghiệp hay bởi Đức Phật, mà chỉ là tự nhiên. Chúng ta coi rằng Phật quả phát triển theo quy luật tự nhiên. Do đó, những trải nghiệm của chúng ta về nỗi đau và sự đau khổ, niềm vui và sự khoái lạc, hoàn toàn phụ thuộc vào nguyên nhân và điều kiện của riêng chúng. Do mối quan hệ tự nhiên này giữa nguyên nhân và kết quả của chúng, nguyên lý Phật giáo nêu rằng bạn càng không mong muốn một trải nghiệm, sự kiện hoặc hiện tượng cụ thể nào đó thì bạn càng phải nỗ lực nhiều hơn để ngăn chặn sự kết hợp của các nguyên nhân và điều kiện của nó, để bạn có thể ngăn chặn sự xảy ra của sự kiện đó. Và bạn càng mong muốn một sự kiện, kết quả hoặc trải nghiệm cụ thể nào đó, thì bạn càng phải chú ý nhiều hơn để đảm bảo rằng những nguyên nhân và điều kiện này được tích lũy để bạn có thể tận hưởng kết quả đó.

Cá nhân tôi tin rằng mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả cũng là một dạng quy luật tự nhiên. Tôi không nghĩ rằng người ta có thể đưa ra lời giải thích hợp lý về lý do tại sao kết quả nhất thiết phải tuân theo những nguyên nhân và điều kiện nhất quán. Ví dụ, người ta nói rằng các trạng thái cảm xúc đau khổ như tức giận và thù hận dẫn đến những hậu quả không mong muốn và theo kinh Phật, một hậu quả của hận thù và tức giận là sự xấu xí. Nhưng không có lời giải thích đầy đủ, hợp lý nào về cách sự xấu xí là hậu quả của cảm xúc đau khổ cụ thể đó. Tuy nhiên, theo một cách nào đó, người ta có thể hiểu được điều đó, bởi vì khi bạn trải qua cơn tức giận hoặc thù hận rất dữ dội, ngay cả biểu cảm khuôn mặt của bạn cũng thay đổi và bạn có một khuôn mặt rất xấu xí. Tương tự như vậy, có một số loại trạng thái cảm xúc về tinh thần và nhận thức mang lại những thay đổi tích cực gần như ngay lập tức trong biểu cảm khuôn mặt của bạn. Những trạng thái này mang lại cho tâm hiện tại của bạn sự tỉnh táo, bình tĩnh và thanh thản và trạng thái cảm xúc hoặc suy nghĩ như vậy có thể dẫn đến kết quả mong muốn hơn. Vì vậy, người ta có thể thấy một loại kết nối, nhưng không phải là lời giải thích hợp lý đầy đủ.

Bây giờ nếu bạn hiểu được tầm quan trọng của việc đánh giá cao mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả, thì bạn sẽ đánh giá cao những lời dạy về Tứ Diệu Đế. Toàn bộ lời dạy về Tứ Diệu Đế dựa trên nguyên tắc nhân quả. Khi nguyên tắc nhân quả được ngụ ý trong những lời dạy này được trình bày chi tiết, bạn sẽ đọc giáo lý của Đức Phật về Mười Hai Nhân Duyên. Trong lời dạy đó, ngài tuyên bố rằng, vì có một nguyên nhân cụ thể, nên kết quả của nó sẽ theo sau; vì nguyên nhân đã được tạo ra, nên kết quả đã xuất hiện; và vì có sự vô minh, nên nó dẫn đến hành động hoặc nghiệp duyên.

Vì vậy, ở đây bạn thấy ba tuyên bố: Một là vì nguyên nhân tồn tại, nên kết quả sẽ theo sau; vì nguyên nhân đã được tạo ra, nên kết quả đã được tạo ra; và vì có sự vô minh, nên nó dẫn đến hành động. Bây giờ, câu đầu tiên chỉ ra rằng, theo quan điểm khẳng định, khi các nguyên nhân được tập hợp lại, thì các kết quả sẽ tự nhiên theo sau. Và điều cũng ngụ ý trong câu đó là chính sự tập hợp của các nguyên nhân và điều kiện mà các kết quả xuất hiện, và rằng, ngoài quá trình nhân quả, không có sức mạnh hay lực lượng bên ngoài nào như Đấng sáng tạo, v.v. tạo ra những thứ này.

Câu thứ hai một lần nữa chỉ ra một đặc điểm quan trọng khác của thuyết duyên khởi, đó là chính nguyên nhân tạo ra các kết quả phải tự nó có một nguyên nhân. Nếu nguyên nhân là một thực thể tuyệt đối vĩnh cửu, tồn tại vĩnh cửu, thì bản thân thực thể đó không thể là kết quả của một thứ gì đó khác. Nếu đúng như vậy, thì nó sẽ không có khả năng tạo ra một kết quả. Do đó, trước hết phải có một nguyên nhân; thứ hai, chính nguyên nhân đó phải tự nó có một nguyên nhân.

Câu thứ ba chỉ ra một đặc điểm quan trọng khác của nguyên lý duyên khởi. Đó là hiệu ứng phải tương xứng với nguyên nhân - phải có sự phù hợp giữa hai thứ. Không phải bất cứ thứ gì cũng có thể tạo ra bất cứ thứ gì; phải có một loại quan hệ đặc biệt giữa nguyên nhân và kết quả, Đức Phật đã đưa ra một ví dụ về sự vô minh dẫn đến hành động. Ở đây hàm ý là, "Ai thực hiện hành động đó?" Đó là một chúng sinh và bằng cách thực hiện một hành động được thúc đẩy bởi trạng thái tâm trí vô minh, chúng sinh đó theo một cách nào đó đang tích lũy sự sụp đổ của chính mình. Vì không có chúng sinh nào mong muốn bất hạnh hay đau khổ, nên chính vì vô minh mà cá nhân đó tham gia vào một hành động có khả năng tạo ra hậu quả không mong muốn.

Vì vậy, chúng ta thấy rằng toàn bộ Mười hai nhân duyên thuộc về ba loại hiện tượng. Đầu tiên, có những cảm xúc và suy nghĩ đau khổ; thứ hai, có hành động nghiệp và dấu ấn của nó và thứ ba, có hậu quả của nó: đau khổ. Vì vậy, thông điệp chính là đau khổ là điều mà tất cả chúng ta đều không mong muốn, nhưng đó là hậu quả hoặc tác động của sự vô minh. Đức Phật không nói rằng đau khổ là kết quả của ý thức, vì nếu đúng như vậy, thì quá trình giải thoát hoặc quá trình thanh lọc nhất thiết phải liên quan đến việc chấm dứt chính dòng chảy của ý thức. Một bài học đạo đức mà chúng ta có thể rút ra từ lời dạy này là những đau khổ bắt nguồn từ những cảm xúc và suy nghĩ tiêu cực và đau khổ có thể được loại bỏ. Trạng thái tâm trí vô minh này có thể bị xua tan, vì chúng ta có thể tạo ra sự hiểu biết sâu sắc để nhận thức bản chất của thực tại. Vì vậy, chúng ta thấy rằng nguyên lý duyên khởi cho thấy tất cả mười hai mắt xích trong chuỗi duyên khởi tạo nên sự nhập cuộc của một cá nhân vào vòng luân hồi đều có mối liên hệ với nhau.

Bây giờ, nếu chúng ta áp dụng sự liên hệ này vào nhận thức của mình về thực tại nói chung, thì chúng ta có thể tạo ra một sự hiểu biết sâu sắc tuyệt vời từ nó. Ví dụ, khi đó chúng ta sẽ có thể đánh giá cao bản chất phụ thuộc lẫn nhau của lợi ích của bản thân và của người khác: lợi ích và hạnh phúc của con người phụ thuộc vào hạnh phúc của các loài động vật sống trên cùng một hành tinh như thế nào. Tương tự như vậy, nếu chúng ta phát triển sự hiểu biết như vậy về Bản chất của thực tại, chúng ta cũng có thể đánh giá cao mối liên hệ giữa hạnh phúc của con người và môi trường tự nhiên. Chúng ta cũng có thể xem xét hiện tại, tương lai, v.v. Sau đó, chúng ta có thể nuôi dưỡng một quan điểm về thực tại rất toàn diện và có ý nghĩa rất quan trọng.

Vậy nên trong vài từ ngữ, bạn có thể thấy rằng không có những nguyên nhân độc lập nào trong hạnh phúc của chính mình. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Vì vậy, kết luận, là để có một tương lai hạnh phúc hơn cho bản thân, bạn phải chăm sóc mọi thứ liên quan đến mình. Tôi nghĩ đó là một quan điểm khá hữu ích

Cho đến nay, tôi đã nói về nguyên lý duyên khởi từ góc nhìn của cấp độ hiểu biết đầu tiên. Chúng ta có thể thấy trong các kinh điển của Phật giáo tầm quan trọng của việc hiểu cấp độ duyên khởi này. Trên thực tế, một trong những văn bản Đại thừa được gọi là Compendium of Peeds, trong đó Tịch Thiên trích dẫn rất nhiều từ kinh Phật, chỉ ra rằng trước hết cần phải đánh giá cao sự liên kết của tất cả các sự kiện và hiện tượng: làm thế nào, do quá trình nhân quả và điều kiện, hay nhân duyên, các hiện tượng và sự kiện xuất hiện; và việc tôn trọng thực tại quy ước đó quan trọng như thế nào, bởi vì ở cấp độ đó, chúng ta có thể hiểu được cách một số loại trải nghiệm dẫn đến một số loại hậu quả không mong muốn; cách một số nguyên nhân, một số loại tập hợp nguyên nhân và điều kiện có thể dẫn đến những hậu quả mong muốn hơn, v.v.; cách một số sự kiện nhất định có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc và trải nghiệm của chúng ta. Bởi vì có mối quan hệ như vậy, nên điều rất quan trọng đối với những người theo đạo Phật thực hành là trước tiên phải phát triển sự hiểu biết sâu sắc về quan điểm của cấp độ đầu tiên. Sau đó, Đức Phật tuyên bố rằng người ta nên vượt ra ngoài sự hiểu biết đó và đặt câu hỏi về bản chất tối hậu của những thứ liên quan đến nhau theo cách kết nối này. Điều này hướng đến giáo lý của Đức Phật về Tánh Không.

Trong giáo lý về Mười Hai Nhân Duyên, Đức Phật tuyên bố rằng, mặc dù chúng sinh không mong muốn đau khổ và bất mãn, nhưng chính vì vô minh mà họ tích lũy nghiệp chướng dẫn đến những hậu quả không mong muốn. Bây giờ câu hỏi đặt ra là. Bản chất của sự vô minh đó chính xác là gì? Cơ chế nào thật sự khiến một cá nhân hành động chống lại những gì người ấy khao khát một cách cơ bản. Đức Phật còn nhấn mạnh hơn nữa về vai trò của những cảm xúc phiền não như giận dữ, hận thù, sự bám chấp và v.v., che mờ sự hiểu biết của ta về bản chất của thực tại. Nếu chúng ta xem xét tâm trí tại thời điểm một cá nhân trải qua sự hận thù, giận dữ hoặc sự bám chấp cực độ, chúng ta sẽ thấy rằng người đó có một quan niệm khá sai lầm về bản ngã: Có một giả định cố định về một "cái tôi" hoặc "cái tôi" tồn tại độc lập được nhận thức, không nhất thiết phải có ý thức, như một chủ thể. Nó không hoàn toàn độc lập với cơ thể hoặc tâm trí, được xác định là một với cơ thể hoặc tâm trí, nhưng có một cái gì đó được xác định là cốt lõi của bản thể, bản ngã, và sai lầm khi bám chấp mạnh mẽ loại bản sắc hoặc bản thể đó. Dựa trên những trải nghiệm cảm xúc mạnh mẽ, như sự gắn bó với các người thân yêu, sự giận dữ hoặc lòng hận thù mạnh mẽ đối với một người mà bạn xem như đe dọa và v.v…

Chúng ta thấy trong các tác phẩm của chính Long Thọ, sự lý luận sâu rộng để bác bỏ tính hợp lý của quan niệm về bản ngã của chúng ta và phủ nhận sự tồn tại của bản ngã hoặc con người như chúng ta nhận thức nó một cách sai lầm. Ngài lập luận rằng nếu bản ngã hoặc con người đồng nhất với cơ thể, thì cũng giống như cơ thể là tạm thời, thoáng qua, thay đổi mỗi ngày, thì bản ngã hoặc con người cũng phải tuân theo cùng quy luật. Ví dụ, tính liên tục của cơ thể con người có thể chấm dứt và, nếu bản ngã là một với cơ thể thì tính liên tục của bản ngã sẽ chấm dứt tại thời điểm đó. Mặt khác, nếu bản ngã hoàn toàn độc lập với cơ thể, thì làm sao có thể nói rằng khi cơ thể một người bị bệnh, thì [bản ngã] người đó bị bệnh, v.v.? Do đó, ngoài những mối quan hệ tương liên giữa các yếu tố khác nhau hình thành nên bản thể của chúng ta, thì không có bản ngã độc lập.

Tương tự, nếu chúng ta mở rộng cùng một phân tích sang thực tế bên ngoài, chúng ta thấy rằng mọi vật thể vật chất đều có các bộ phận định hướng, một số bộ phận nào đó hướng về các hướng khác nhau. Chúng ta biết rằng miễn là nó là một thực thể được tạo thành từ các bộ phận và có một loại mối quan hệ cần thiết giữa toàn thể và các bộ phận của nó, vì vậy chúng ta thấy rằng ngoài mối quan hệ giữa các bộ phận khác nhau và ý tưởng về tính toàn thể, không có thực thể độc lập nào tồn tại bên ngoài giao diện đó. Chúng ta có thể áp dụng cùng một phân tích cho ý thức hoặc hiện tượng tinh thần. Ở đây, điểm khác biệt duy nhất là các đặc điểm của ý thức hoặc hiện tượng tinh thần không phải là vật chất hoặc vật lý. Tuy nhiên, chúng ta có thể phân tích điều này theo dạng thức của các khoảnh khắc hoặc thời điểm khác nhau tạo thành một chuỗi liên tục

Vì chúng ta không thể tìm thấy bản chất đằng sau nhãn hiệu, hoặc vì chúng ta không thể tìm thấy đối tượng tham chiếu đằng sau thuật ngữ, điều đó có nghĩa là không có gì tồn tại không? Câu hỏi cũng có thể được đặt ra: Sự vắng mặt của các hiện tượng có phải là ý nghĩa của học thuyết về Tánh Không không? Long Thọ dự đoán sự chỉ trích từ quan điểm của những người theo chủ nghĩa hiện thực, vốn lập luận rằng nếu các hiện tượng không tồn tại như chúng ta nhận thức, nếu các hiện tượng không thể được tìm thấy khi chúng ta tìm kiếm bản chất của chúng, thì chúng không tồn tại.

Do đó, một người hoặc bản ngã sẽ không tồn tại. Và nếu một người không tồn tại, thì không có hành động hoặc nghiệp chướng vì chính ý tưởng về nghiệp chướng liên quan đến việc ai đó thực hiện hành động; và nếu không có nghiệp chướng, thì không thể có đau khổ vì không có trải nghiệm, thế thì không có nguyên nhân. Và nếu đúng như vậy, thì không có khả năng thoát khỏi đau khổ vì không có gì để giải thoát. Hơn nữa, không có con đường nào dẫn đến sự tự do đó. Và nếu đúng như vậy, thì không thể có một cộng đồng tâm linh hay tăng đoàn nào dấn thân vào con đường hướng đến sự giải thoát đó. Và nếu đúng như vậy, thì không có khả năng nào có một chúng sinh hoàn thiện hay một vị Phật. Vì vậy, những người theo chủ nghĩa hiện thực lập luận rằng nếu luận đề của Long Thọ là đúng, rằng bản chất của mọi thứ không thể được tìm thấy, thì không có gì tồn tại và người ta sẽ phải phủ nhận sự tồn tại của luân hồi, niết bàn và mọi thứ.

Long Thọ nói rằng một lời chỉ trích như vậy, rằng những hậu quả này sẽ theo sau luận đề của ngài, cho thấy sự thiếu hiểu biết về ý nghĩa tinh tế của học thuyết về Tánh Không, bởi vì học thuyết về Tánh Không không nêu hoặc ngụ ý sự không tồn tại của mọi thứ. Ngoài ra, học thuyết về Tánh Không không chỉ đơn thuần là luận đề rằng mọi thứ không thể được tìm thấy khi tìm kiếm bản chất của chúng. Ý nghĩa của Tánh Không là bản chất phụ thuộc lẫn nhau của thực tại.

Long Thọ tiếp tục nói về những gì ngài muốn nói khi tuyên bố rằng: Ý nghĩa thật sự của Tánh Không xuất phát từ sự hiểu biết về nguyên lý của duyên sinh (sự phụ thuộc khởi đầu). Ngài tuyên bố rằng vì hiện tượng là duyên sinh, do vì hiện tượng xuất hiện như là kết quả của các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nguyên nhân và điều kiện, nên chúng là trống rỗng, Chúng không có trạng thái cố hữu và độc lập. Sự đánh giá cao về quan điểm đó là sự hiểu biết về Trung đạo thật sự. Nói cách khác, khi chúng ta hiểu được sự khởi đầu duyên sinh, thì chúng ta thấy rằng không chỉ sự tồn tại của hiện tượng, mà cả bản sắc của hiện tượng, phụ thuộc vào các yếu tố khác.

Vì vậy, sự phụ thuộc khởi đầu (dependent origination) hay duyên sinh có thể xua tan các thái cực của cả chủ nghĩa tuyệt đối và chủ nghĩa hư vô, vì ý tưởng về "sự phụ thuộc" (dependence) hướng đến một hình thức tồn tại không có trạng thái độc lập hoặc tuyệt đối, do đó nó giải thoát cá nhân khỏi các thái cực của chủ nghĩa tuyệt đối. Ngoài ra, "sự khởi đầu" (origination) giải thoát cá nhân khỏi việc rơi vào các thái cực của chủ nghĩa hư vô, vì sự khởi đầu hướng đến sự hiểu biết về sự tồn tại, rằng mọi thứ thật sự tồn tại.

Tôi đã nói trước đó rằng sự không thể tìm thấy các hiện tượng hoặc thực thể khi chúng ta tìm kiếm bản chất của chúng không thật sự là ý nghĩa đầy đủ của Tánh Không, nhưng đồng thời nó chỉ ra rằng các hiện tượng thiếu thực tại cố hữu, chúng thiếu sự tồn tại độc lập và cố hữu. Ý nghĩa của điều này là sự tồn tại và bản sắc của chúng bắt nguồn từ sự tương tác đơn thuần của nhiều yếu tố khác nhau. Phật Hộ (Buddhapalita), một trong những đệ tử của Long Thọ, tuyên bố rằng vì các hiện tượng xuất hiện do sự tương tác của nhiều yếu tố khác nhau, nên sự tồn tại và bản sắc của chúng bắt nguồn từ các yếu tố khác. Nếu không, nếu chúng có sự tồn tại độc lập, nếu chúng sở hữu thực tại cố hữu, thì chúng sẽ không cần phải phụ thuộc vào các yếu tố khác. Chính sự thật rằng chúng phụ thuộc vào các yếu tố khác là một dấu hiệu cho thấy chúng thiếu vị thế độc lập hoặc tuyệt đối.

Vì vậy, sự hiểu biết đầy đủ về Tánh Không chỉ có thể đạt được khi ta đánh giá cao sự vi tế của nguyên lý duyên khởi này - nếu người ta kết luận rằng bản chất cuối cùng là các hiện tượng không thể được tìm thấy nếu chúng ta tìm kiếm bản chất của chúng. Long Thọ tuyên bố rằng nếu nguyên lý hoặc học thuyết về Tánh Không không có giá trị, nếu các hiện tượng không thiếu sự tồn tại cố hữu và độc lập và thực tại nội tại, thì chúng sẽ là tuyệt đối; do đó sẽ không có chỗ cho sự hình thành nguyên lý duyên sinh hoạt động và sẽ không có chỗ cho nguyên lý phụ thuộc lẫn nhau hoạt động. Nếu đúng như vậy, thì các nguyên lý nhân quả không thể hoạt động và do đó, nhận thức toàn diện về thực tại sẽ trở thành một khái niệm sai lầm. Và nếu đúng như vậy, thì toàn bộ ý tưởng về Tứ Diệu Đế sẽ không có giá trị vì không có nguyên lý nhân quả nào hoạt động. Khi đó, bạn sẽ phủ nhận toàn bộ lời dạy của Đức Phật.

Thực tế, những gì Long Thọ làm là đảo ngược mọi lời chỉ trích chống lại luận đề của ngài, bằng cách tuyên bố rằng theo quan điểm của những người theo chủ nghĩa hiện thực, thì tất cả những lời dạy của Đức Phật sẽ phải bị phủ nhận. Ngài tóm tắt lời chỉ trích của mình bằng cách nói rằng bất kỳ hệ thống niềm tin hay thực hành nào phủ nhận học thuyết về Tánh Không đều không thể giải thích được bất cứ điều gì một cách mạch lạc, trong khi bất kỳ hệ thống niềm tin hay tư tưởng nào chấp nhận nguyên lý về sự khởi đầu phụ thuộc duyên sinh lẫn nhau này, thì sự phân tích của Tánh Không này, đều có thể đưa ra một lời giải thích mạch lạc về thực tại.

Vì vậy, điều chúng ta tìm thấy ở đây là một mối quan hệ bổ sung rất thú vị. giữa hai cấp độ hiểu biết về nguồn gốc phụ thuộc duyên sinh mà tôi đã nói trước đó. Quan điểm của cấp độ đầu tiên thật sự giải thích phần lớn sự tồn tại hàng ngày của chúng ta hoặc thế giới kinh nghiệm hàng ngày, nơi các nguyên nhân và điều kiện tương tác và có một nguyên tắc nhân quả hoạt động. Quan điểm về nguồn gốc phụ thuộc duyên sinh đó, theo Phật giáo, được gọi là quan điểm đúng đắn ở cấp độ thế gian (chân lý quy ước hay thế đế). Càng đánh giá cao quan điểm đó, bạn càng có thể tiến gần hơn đến cấp độ hiểu biết sâu sắc hơn về duyên khởi, bởi vì sự hiểu biết của bạn về cơ chế nhân quả ở cấp độ đó được sử dụng để đi đến sự hiểu biết về bản chất trống rỗng của mọi hiện tượng. Tương tự như vậy, một khi tuệ hiểu biết của bạn về bản chất trống rỗng của mọi hiện tượng trở nên sâu sắc, thế thì niềm tin của bạn vào hiệu quả của nguyên nhân và kết quả sẽ được củng cố, do đó sẽ có sự tôn trọng lớn hơn đối với thực tại quy ước và thế giới tương đối. Vì vậy, có một loại mối quan hệ bổ sung thú vị giữa hai quan điểm.

Khi một cái nhìn sâu sắc vào bản chất tối thượng của thực tại và Tánh Không được sâu sắc và nâng cao, bạn sẽ phát triển một nhận thức về thực tại mà từ đó bạn sẽ nhận thức các hiện tượng và sự kiện như một loại ảo tưởng, giống như ảo tưởng, và phương thức nhận thức thực tại này sẽ thấm nhuần tất cả các sự tương tác của bạn bằng thực tại. Do đó, khi bạn gặp phải một tình huống mà bạn phát sinh lòng từ bi thay vì trở nên tách biệt hơn khỏi đối tượng của lòng từ bi, thì sự tham gia của bạn sẽ sâu sắc hơn và trọn vẹn hơn. Điều này là do lòng từ bi cuối cùng được xây dựng trên một ý nghĩ hợp lệ và bạn sẽ có được cái nhìn sâu sắc hơn về bản chất của thực tại. Ngược lại, khi bạn đối mặt với những tình huống thường có thể làm nảy sinh những cảm xúc và phản ứng phiền não tiêu cực, và phản ứng về phần ban, sẽ có một mức độ tách biệt nhất định và bạn sẽ không rơi vào ảnh hưởng của những cảm xúc và suy nghĩ tiêu cực và phiền não đó. Đây là trường hợp, ẩn sau những cảm xúc và suy nghĩ phiền não đó, chẳng hạn như khao khát, thù ghét, tức giận, v.v., có một quan niệm sai lầm về thực tại, bao gồm việc bám chấp mọi thứ là tuyệt đối, độc lập và nhất thể. Khi bạn tạo ra tuệ hiểu biết sâu sắc về Tánh Không, sự kìm kẹp của những cảm xúc này trong tâm trí bạn sẽ được nới lỏng.

Vào đầu bài nói chuyện của mình, tôi đã đưa ra một ví dụ về khái niệm thời gian của chúng ta: Thông thường, chúng ta cho rằng có một loại thực thể độc lập tồn tại hoặc độc lập được gọi là "thời gian" hiện tại hoặc quá khứ hoặc tương lai. Nhưng khi chúng ta xem xét nó ở cấp độ sâu hơn, chúng ta thấy rằng nó chỉ là một quy ước. Ngoài giao diện giữa ba thời, hiện tại, tương lai và quá khứ, không có thứ gì như một khoảnh khắc hiện tại tồn tại độc lập, vì vậy chúng ta phát sinh một loại quan điểm năng động về thực tại. Tương tự như vậy, khi nghĩ về bản thân mình, mặc dù ban đầu tôi có thể có một giả định không thể nghi ngờ rằng có một bản ngã độc lập, nhưng khi nhìn kỹ hơn, tôi sẽ thấy rằng, ngoài giao diện của nhiều yếu tố cấu thành nên bản thể của tôi và nhiều khoảnh khắc khác nhau của chuỗi liên tục hình thành nên bản thể của tôi, không có thứ gì như một thực thể độc lập tuyệt đối. Vì nó chính là bản ngã quy ước thông thường này, tôi hoặc hoặc một người hướng tới việc đạt được sự giải thoát hoặc cuối cùng chuyển hóa thành Phật, ngay cả Phật cũng không phải là tuyệt đối./.

CHƯƠNG 13: DUYÊN SINH

***

Trong một buổi nói chuyện công khai tại Nhật Bản cách đây vài năm, tôi thấy một số người tiến về phía tôi, tay cầm một bó hoa. Tôi đứng dậy, mong đợi nhận được sự cúng dường của họ, nhưng thật bất ngờ, họ đi thẳng qua và đặt những bông hoa lên bàn thờ phía sau tôi. Tôi ngồi xuống, cảm thấy hơi xấu hổ! Một lần nữa, tôi lại nhớ ra rằng cách mọi thứ và sự kiện diễn ra không phải lúc nào cũng trùng khớp với kỳ vọng của chúng ta. Thật vậy, thực tế cuộc sống này là thường có một khoảng cách giữa cách chúng ta nhận thức các hiện tượng và thực tế của một tình huống nhất định là nguồn gốc của nhiều bất hạnh. Điều này đặc biệt đúng khi, như trong ví dụ ở đây, chúng ta đưa ra phán đoán dựa trên sự hiểu biết một phần, điều này hóa ra không hoàn toàn hợp lý.

Trước khi xem xét một cuộc cách mạng về mặt tinh thần và đạo đức có thể bao gồm những gì, chúng ta hãy suy nghĩ một chút về bản chất của thực tế. Mối liên hệ chặt chẽ giữa cách chúng ta nhận thức bản thân liên quan đến thế giới mà chúng ta đang sống và hành vi của chúng ta để đáp lại nó có nghĩa là sự hiểu biết của chúng ta về các hiện tượng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nếu chúng ta không hiểu các hiện tượng, chúng ta có nhiều khả năng làm những điều gây hại cho người khác và chính mình.

Khi chúng ta xem xét vấn đề này, chúng ta bắt đầu thấy rằng cuối cùng chúng ta không thể tách biệt bất kỳ hiện tượng nào khỏi bối cảnh của các hiện tượng khác. Chúng ta chỉ có thể thật sự nói về các mối quan hệ. Trong tiến trình hàng ngày của chúng ta, chúng ta tham gia vào vô số hoạt động khác nhau và tiếp nhận rất nhiều thông tin giác quan từ mọi thứ chúng ta gặp phải. Vấn đề về nhận thức sai lầm, tất nhiên là khác nhau về mức độ, thường phát sinh do khuynh hướng cô lập các khía cạnh cụ thể của một sự kiện hoặc trải nghiệm và coi chúng là thành phần cấu thành nên tổng thể của sự kiện hoặc trải nghiệm đó. Điều này dẫn đến việc thu hẹp góc nhìn và từ đó dẫn đến kỳ vọng sai lầm. Nhưng khi chúng ta xem xét bản thân thực tại, chúng ta nhanh chóng nhận ra sự phức tạp vô hạn của nó và chúng ta nhận ra rằng nhận thức thông thường của chúng ta về nó thường không đầy đủ. Nếu không như vậy, khái niệm lừa dối sẽ trở nên vô nghĩa. Nếu mọi thứ và sự kiện luôn diễn ra như chúng ta mong đợi, chúng ta sẽ không có khái niệm về ảo tưởng hay quan niệm sai lầm.

Để hiểu được sự phức tạp này, tôi thấy khái niệm về duyên khởi (tiếng Tây Tạng là ten del), được trường phái triết học Phật giáo Madhyamika (Trung đạo) nêu ra, đặc biệt hữu ích. Theo đó, chúng ta có thể hiểu cách mọi thứ và sự kiện xuất hiện theo ba cách khác nhau. Ở cấp độ đầu tiên, nguyên lý nhân quả theo đó mọi sự vật và sự kiện phát sinh phụ thuộc vào một mạng lưới phức tạp gồm các nguyên nhân và điều kiện có liên quan với nhau được đưa ra. Điều này cho thấy không có sự vật hay sự kiện nào có thể được hiểu là có khả năng tự hình thành hoặc duy trì sự tồn tại. Ví dụ, nếu tôi lấy một ít đất sét và nặn nó, tôi có thể tạo ra một chiếc bình. Chiếc bình tồn tại như một kết quả của hành động của tôi. Đồng thời, nó cũng là kết quả của vô số nguyên nhân và điều kiện khác. Những nguyên nhân và điều kiện này bao gồm sự kết hợp của đất sét và nước để tạo thành nguyên liệu thô của nó. Ngoài ra, chúng ta có thể chỉ ra sự kết hợp của các phân tử, nguyên tử và các hạt nhỏ khác tạo thành các thành phần này (bản thân chúng phụ thuộc vào vô số yếu tố khác). Sau đó là những hoàn cảnh dẫn đến quyết định làm một chiếc bình của tôi. Và có những điều kiện hợp tác của hành động của tôi khi tôi tạo hình cho đất sét. Tất cả những yếu tố khác nhau này làm rõ rằng chiếc bình của tôi không thể đi đến tồn tại một cách độc lập từ những nguyên nhân và điều kiện của nó. Thay vào đó, nó có nguồn gốc phụ thuộc duyên sinh.

Ở cấp độ thứ hai, duyên sinh có thể được hiểu theo dạng thức sự phụ thuộc hỗ tương vốn thật sự tồn tại giữa các bộ phận và tổng thể. Không có các bộ phận, không thể có tổng thể; không có tổng thể, khái niệm về các bộ phận không có ý nghĩa gì. Ý tưởng về "tổng thể" được dựa trên các bộ phận, nhưng những bộ phận này của chính chúng phải được coi là tổng thể bao gồm những bộ phận của chúng.

Ở cấp độ thứ ba, tất cả các hiện tượng có thể được hiểu là phụ thuộc duyên sinh, vì khi phân tích chúng, chúng ta thấy rằng, về cơ bản, chúng thiếu bản sắc độc lập. Điều này có thể được hiểu từ cách chúng ta gọi một số hiện tượng nhất định. Ví dụ, các từ "hành động" và "tác nhân" giả định lẫn nhau. Tương tự như vậy, "cha mẹ" và "con cái". Một người nào đó là cha mẹ vì người đó có con. Tương tự như vậy, một người con gái hoặc con trai chỉ được gọi như vậy khi họ có cha mẹ. Mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau tương tự cũng được thấy trong ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng để mô tả các ngành nghề hoặc nghề nghiệp. Các cá nhân được gọi là nông dân dựa trên công việc của họ trên đất đai. Bác sĩ được gọi như vậy vì công việc của họ trong lĩnh vực y học.

Theo cách vi
tế hơn, sự vật và sự kiện có thể được hiểu theo quan điểm về nguồn gốc phụ thuộc duyên sinh khi, ví dụ, chúng ta hỏi, một chiếc bình đất sét chính xác là gì? Khi chúng ta tìm kiếm thứ gì đó mà chúng ta có thể mô tả là bản sắc cuối cùng của nó, chúng ta thấy rằng sự tồn tại của chiếc bình và theo hàm ý của tất cả các hiện tượng khác ở một mức độ nào đó là tạm thời và được xác định theo quy ước. Khi chúng ta hỏi liệu bản sắc của nó có được xác định bởi hình dạng, chức năng, các bộ phận cụ thể của nó (tức là nó được tạo thành từ đất sét, nước, v.v.) hay không, chúng ta thấy rằng thuật ngữ "chiếc bình" chỉ đơn thuần là một định nghĩa bằng lời. Không có một đặc điểm duy nhất nào có thể được cho là xác định nó. Thực tế là tổng thể các đặc điểm của nó cũng không. Chúng ta có thể tưởng tượng ra những chiếc bình có hình dạng khác nhau không kém gì những chiếc bình. Và vì chúng ta chỉ có thể thật sự nói về sự tồn tại của nó liên quan đến mối liên hệ phức tạp của các nguyên nhân và điều kiện, khi nhìn từ góc độ này, nó không có một phẩm chất xác định nào. Nói cách khác, nó không tồn tại trong chính nó, mà đúng hơn là nó có nguồn gốc phụ thuộc duyên sinh.

Đối với các hiện tượng tinh thần, chúng ta thấy rằng một lần nữa có sự phụ thuộc. Ở đây nó nằm giữa người nhận thức và vật được nhận thức. Ví dụ, nhận thức về một bông hoa. Đầu tiên, để nhận thức về bông hoa phát sinh, phải có một cơ quan cảm giác. Thứ hai, phải có một điều kiện trong trường hợp này là chính bông hoa. Thứ ba, để nhận thức xảy ra, phải có thứ gì đó hướng sự tập trung của người nhận thức vào đối tượng. Sau đó, thông qua tương tác nhân quả của các điều kiện này, một sự kiện nhận thức xảy ra mà chúng ta gọi là nhận thức về bông hoa. Bây giờ chúng ta hãy xem xét chính xác điều gì cấu thành nên sự kiện này. Nó chỉ là hoạt động của giác quan? Nó chỉ là sự tương tác giữa giác quan đó và chính bông hoa? Hay là thứ gì khác? Chúng ta thấy rằng cuối cùng, chúng ta không thể hiểu khái niệm nhận thức ngoại trừ trong bối cảnh của một chuỗi nguyên nhân và điều kiện phức tạp vô hạn.

Nếu chúng ta lấy chính ý thức làm đối tượng điều tra của mình, mặc dù chúng ta có xu hướng nghĩ về nó theo nghĩa là một thứ gì đó nội tại và không thể thay đổi, chúng ta thấy rằng nó cũng được hiểu tốt hơn theo nghĩa là nguồn gốc phụ thuộc. Điều này là do ngoài những trải nghiệm nhận thức, cảm xúc và nhận thức cá nhân, rất khó để đưa ra một thực thể tồn tại độc lập. Thay vào đó, ý thức giống như một cấu trúc phát sinh từ một quang phổ các sự kiện phức tạp.

Một cách khác để hiểu khái niệm về nguồn gốc phụ thuộc duyên sinh là xem xét các hiện tượng thời gian. Thông thường, chúng ta cho rằng có một thực thể tồn tại độc lập mà chúng ta gọi là thời gian. Chúng ta nói về thời gian quá khứ, hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, khi chúng ta xem xét kỹ hơn, chúng ta thấy rằng một lần nữa khái niệm này chỉ là một quy ước. Chúng ta thấy rằng thuật ngữ "khoảnh khắc hiện tại" chỉ là một nhãn hiệu biểu thị giao diện giữa các thì "quá khứ" và "tương lai". Chúng ta không thể thật sự xác định chính xác hiện tại. Chỉ một phần nhỏ của một giây trước thời điểm hiện tại được cho là nằm trong quá khứ; chỉ một phần nhỏ của một giây sau đó nằm trong tương lai. Tuy nhiên, nếu chúng ta nói rằng thời điểm hiện tại là "bây giờ", thì ngay khi chúng ta nói ra từ đó thì nó đã nằm trong quá khứ. Nếu chúng ta vẫn cho rằng phải có một khoảnh khắc duy nhất không thể chia cắt thành quá khứ hoặc tương lai, thì trên thực tế, chúng ta sẽ không có căn cứ nào để tách biệt thành quá khứ, hiện tại và tương lai cả. Nếu có một khoảnh khắc duy nhất không thể chia cắt, thì chúng ta sẽ chỉ có hiện tại. Nhưng nếu không có khái niệm về hiện tại, sẽ rất khó để nói về quá khứ và tương lai vì cả hai đều phụ thuộc rõ ràng vào hiện tại. Hơn nữa, nếu chúng ta kết luận từ phân tích của mình rằng hiện tại khi đó không tồn tại, chúng ta sẽ phải phủ nhận không chỉ quy ước thế gian mà còn cả trải nghiệm của chính chúng ta. Thật vậy, khi chúng ta bắt đầu đi sâu vào trải nghiệm về thời gian, chúng ta thấy rằng ở đây quá khứ biến mất và tương lai vẫn chưa đến. Chúng ta chỉ trải nghiệm hiện tại.

Những quan sát này để lại cho chúng ta điều gì? Chắc chắn, mọi thứ trở nên phức tạp hơn một chút khi chúng ta suy nghĩ theo hướng này. Kết luận thỏa đáng hơn chắc chắn là nói rằng hiện tại thật sự tồn tại. Nhưng chúng ta không thể hình dung được nó tồn tại một cách cố hữu hoặc khách quan. Hiện tại xuất hiện phụ thuộc vào quá khứ và tương lai.

Điều này giúp ích gì cho chúng ta? Giá trị của những quan sát này là gì? Chúng có một số hàm ý quan trọng. Đầu tiên, khi chúng ta nhận ra rằng mọi thứ chúng ta nhận thức và trải nghiệm đều phát sinh do một loạt các nguyên nhân và điều kiện có mối quan hệ với nhau không xác định, thì toàn bộ quan điểm của chúng ta sẽ thay đổi. Chúng ta bắt đầu thấy rằng vũ trụ mà chúng ta đang sống có thể được hiểu theo nghĩa là một sinh vật sống, trong đó mỗi tế bào hoạt động trong sự hợp tác cân bằng với mọi tế bào khác để duy trì toàn bộ. Vậy thì, nếu chỉ một trong những tế bào này bị tổn hại, như khi bệnh tật tấn công, sự cân bằng đó bị tổn hại và toàn bộ sẽ gặp nguy hiểm. Điều này, đến lượt nó, cho thấy rằng hạnh phúc cá nhân của chúng ta có mối liên hệ mật thiết với hạnh phúc của tất cả những người khác và với môi trường mà chúng ta đang sống. Rõ ràng là mọi hành động, mọi việc làm, lời nói và suy nghĩ của chúng ta, dù có vẻ nhỏ nhặt hay tầm thường đến đâu, đều có ý nghĩa không chỉ đối với bản thân chúng ta mà còn đối với tất cả những người khác nữa.

Hơn nữa, khi chúng ta nhìn nhận thực tại theo hướng duyên khởi, điều đó khiến chúng ta tránh xa xu hướng thường thấy là nhìn nhận mọi thứ và sự kiện theo hướng các thực thể vững chắc, độc lập và rời rạc. Điều này hữu ích vì chính xu hướng này khiến chúng ta phóng đại một hoặc hai khía cạnh trong trải nghiệm của mình và biến chúng thành đại diện cho toàn bộ thực tại của một tình huống nhất định trong khi bỏ qua những phức tạp rộng hơn của nó.

Một sự hiểu biết như vậy về thực tại như được gợi ý bởi khái niệm về nguồn gốc phụ thuộc duyên sinh này cũng đặt ra cho chúng ta một thách thức đáng kể. Nó thách thức việc nhìn nhận mọi thứ và sự kiện ít hơn theo nghĩa đen và trắng mà theo nghĩa là sự liên kết phức tạp của các mối quan hệ, vốn rất khó để phân tích. Và nó khiến cho việc nói theo nghĩa tuyệt đối trở nên khó khăn. Hơn nữa, nếu tất cả các hiện tượng đều phụ thuộc vào các hiện tượng khác, và nếu vậy các hiện tượng có thể tồn tại độc lập, thì ngay cả bản thân chúng ta trân trọng nhất cũng không được coi là tồn tại theo cách chúng ta thường cho là. Thật vậy, chúng ta thấy rằng nếu chúng ta tìm kiếm bản sắc của bản thân một cách phân tích, thì tính vững chắc phụ thuộc của nó sẽ tan biến dễ dàng hơn cả bản sắc của chiếc bình đất sét hay khoảnh khắc hiện tại. Bởi vì trong khi chiếc bình là thứ cụ thể mà chúng ta thật sự có thể chỉ ra, thì bản ngã lại khó nắm bắt hơn, bản sắc của nó như một cấu trúc nhanh chóng trở nên rõ ràng. Chúng ta nhận ra rằng sự phân biệt rõ ràng theo thói quen mà chúng ta tạo ra giữa "bản thân" và "người khác" là một sự cường điệu.

Một trong những phát triển đầy hứa hẹn nhất trong khoa học hiện đại là sự xuất hiện của lý thuyết lượng tử và xác suất. Ở một mức độ nào đó, ít nhất là, điều này xuất hiện để hỗ trợ cho khái niệm về nguồn gốc phụ thuộc duyên sinh của các hiện tượng. Mặc dù tôi không thể khẳng định mình hiểu rất rõ về lý thuyết này, nhưng quan sát cho thấy ở cấp độ hạ nguyên tử, nó trở nên khó phân biệt rõ ràng giữa người quan sát một vật thể và bản thân vật thể đó dường như chỉ ra một động thái hướng tới khái niệm về tính hợp lý mà tôi đã phác thảo. Tuy nhiên, tôi không muốn nhấn mạnh điều này quá mạnh. Những gì khoa học cho là đúng ngày nay có thể thay đổi. Những khám phá mới có nghĩa là những gì được chấp nhận ngày nay có thể bị nghi ngờ vào ngày mai. Bên cạnh đó, bất kể chúng ta dựa trên tiền đề nào để đánh giá thực tế rằng các sự vật và sự kiện không tồn tại độc lập, thì hậu quả là tương tự./

 


CHƯƠNG 14: TỈNH THỨC VỀ CÁI CHẾT

***

Giống như khi dệt vải
Người ta đạt đến đích
Với những sợi chỉ mỏng được dệt khắp nơi,
Cuộc sống của con người cũng vậy.


- ĐỨC PHẬT

Điều quan trọng là phải lưu tâm đến cái chết để suy nghĩ rằng bạn sẽ không sống lâu trong cuộc sống này. Nếu bạn không nhận thức được cái chết, bạn sẽ không tận dụng được cuộc sống con người đặc biệt này mà bạn đã đạt được. Điều này có ý nghĩa vì dựa trên nó, những tác động quan trọng có thể đạt được.

Phân tích về cái chết không phải để trở nên sợ hãi mà là để trân trọng cuộc sống quý giá này, trong đó bạn có thể thực hiện nhiều thực hành quan trọng. Thay vì sợ hãi, bạn cần suy ngẫm rằng khi cái chết đến, bạn sẽ mất đi cơ hội tốt này để thực hành. Theo cách này, việc tư duy về cái chết sẽ mang lại nhiều năng lượng hơn cho việc thực hành của bạn. Bạn cần chấp nhận rằng cái chết đến trong quá trình bình thường của cuộc sống. Như Đức Phật đã nói:

Một nơi để ở mà không bị cái chết chạm đến
Không tồn tại.
Nó không tồn tại trong không gian, nó không tồn tại trong đại dương,
hay khi bạn ở giữa một ngọn núi.


Nếu bạn chấp nhận rằng cái chết là một phần của cuộc sống, sau đó khi nó thật sự đến, bạn có thể đối mặt với nó dễ dàng hơn,

Khi mọi người biết sâu bên trong rằng cái chết sẽ đến nhưng cố tình tránh nghĩ về nó, điều đó không phù hợp với tình hình và phản tác dụng. Điều tương tự cũng đúng khi tuổi già không được chấp nhận như một phần của cuộc sống mà được coi là không mong muốn và cố tình tránh né trong suy nghĩ. Điều này dẫn đến việc không chuẩn bị về mặt tinh thần; sau đó khi tuổi già chắc chắn xảy ra, nó rất khó khăn.

Nhiều người già về mặt thể chất nhưng lại giả vờ trẻ. Đôi khi khi tôi gặp những người bạn lâu năm, chẳng hạn như một số thượng nghị sĩ ở các quốc gia như Hoa Kỳ, tôi chào họ bằng câu "Bạn cũ của tôi". nghĩa là chúng tôi đã biết nhau trong một thời gian dài, không nhất thiết phải già về mặt thể chất. Nhưng khi tôi nói điều này, một số người trong số họ đã sửa tôi một cách mạnh mẽ, "Chúng ta không phải già! Chúng ta là bạn lâu năm". Thật ra họ đã già với đôi tai đầy lông, một phần của tuổi già nhưng họ không thoải mái với việc già. Điều đó thật tiếu lâm.

Tôi thường nghĩ về thời gian tối đa của một đời người là một trăm năm, so với tuổi thọ của hành tinh này thì rất ngắn ngủi. Sự tồn tại ngắn ngủi này nên được sử dụng theo cách không gây đau khổ cho người khác. Nó nên được cam kết không làm những việc tàn phá mà là những hành vi tích cực hơn, ít nhất là không gây hại cho người khác hoặc gây rắc rối cho họ. Theo cách này, khoảng thời gian ngắn ngủi của chúng ta với tư cách là một khách du lịch trên hành tinh này sẽ có ý nghĩa. Nếu một khách du lịch đến thăm một địa điểm nào đó trong một thời gian ngắn và gây ra nhiều rắc rối hơn thì đó là điều ngớ ngẩn. Nhưng nếu là một khách du lịch, bạn làm cho người khác hạnh phúc trong thời gian ngắn ngủi này thì đó là điều khôn ngoan; khi bạn tự mình chuyển đến địa điểm tiếp theo, bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc. Nếu bạn tạo ra vấn đề rối rắm, thì mặc dù bản thân bạn không gặp bất kỳ khó khăn nào trong thời gian lưu trú, bạn sẽ tự hỏi chuyến thăm của mình có ích gì.

Trong một trăm năm của cuộc đời, phần đầu là thời thơ ấu và phần cuối là tuổi già, thường giống như một con vật ăn và ngủ. Ở khoảng giữa, có thể có sáu mươi hoặc bảy mươi năm được sử dụng một cách đầy đủ ý nghĩa. Như Đức Phật đã nói:

Nửa cuộc đời dành cho giấc ngủ.
Mười năm dành cho tuổi thơ.
Hai mươi năm mất đi trong tuổi già.
Trong hai mươi năm còn lại,
nỗi buồn, sự than phiền, đau khổ và sự kích động làm mất đi nhiều thời gian,

và hàng trăm căn bệnh về thể xác phá hủy nhiều hơn thế nữa.

Để cuộc sống có ý nghĩa, việc chấp nhận tuổi già và cái chết như một phần của cuộc sống là điều vô cùng quan trọng. Cảm thấy rằng cái chết là gần như không thể chỉ tạo ra thêm lòng tham và nhiều rắc rối hơn - đôi khi thậm chí là cố ý gây hại cho người khác. Khi chúng ta nhìn kỹ vào cách những nhân vật vĩ đại được cho là hoàng đế, quốc vương, v.v. xây dựng những nơi ở và tường thành khổng lồ, chúng ta thấy rằng sâu thẳm trong tâm trí họ là ý tưởng rằng họ sẽ ở lại cuộc sống này mãi mãi. Sự tự lừa dối này dẫn đến nhiều đau khổ và rắc rối hơn cho nhiều người.

Ngay cả đối với những người không tin vào kiếp sau, việc chiêm nghiệm về thực tại cũng có hiệu quả, hữu ích và khoa học. Bởi vì con người, tâm trí và tất cả các hiện tượng khác đều thay đổi từng khoảnh khắc, điều này mở ra khả năng phát triển tích cực. Nếu các tình huống không thay đổi, chúng sẽ mãi mãi giữ nguyên bản chất đau khổ. Nhưng khi bạn biết mọi thứ luôn thay đổi, ngay cả khi bạn đang trải qua một giai đoạn rất khó khăn, bạn có thể tìm thấy sự an ủi khi biết rằng tình hình sẽ không mãi như vậy. Vì vậy, không cần phải thất vọng.

May mắn cũng không phải là vĩnh viễn; do đó, không cần phải quá bám víu khi mọi thứ đang diễn ra tốt đẹp. Quan điểm về sự vĩnh cửu sẽ hủy hoại chúng ta: Ngay cả khi bạn chấp nhận rằng có những kiếp sau, hiện tại vẫn trở thành mối bận tâm của bạn và tương lai không có nhiều ý nghĩa. Điều này hủy hoại một cơ hội tốt khi cuộc sống của bạn được ban tặng sự nhàn hạ và tiện nghi để tham gia vào các hoạt động thực hành có ích. Quan điểm về sự vô thường sẽ hữu ích.

Nhận thức được sự vô thường đòi hỏi phải có kỷ luật thuần hóa tâm trí - nhưng điều này không có nghĩa là trừng phạt hoặc kiểm soát từ bên ngoài. Kỷ luật không có nghĩa là cấm đoán; đúng hơn, nó có nghĩa là khi có sự mâu thuẫn giữa lợi ích dài hạn và ngắn hạn, bạn hy sinh lợi ích ngắn hạn vì lợi ích dài hạn. Đây là sự tự kỷ luật, bắt nguồn từ việc xác định nguyên nhân và kết quả của nghiệp. Ví dụ, để dạ dày của tôi trở lại bình thường sau cơn bệnh gần đây, tôi tránh những thức ăn chua và đồ uống lạnh mà nếu không thì có vẻ ngon và hấp dẫn. Loại kỷ luật này có nghĩa là bảo vệ. Tương tự như vậy, việc suy ngẫm về cái chết đòi hỏi phải có kỷ luật bản thân và tự bảo vệ, chứ không phải trừng phạt.

Con người có mọi tiềm năng để tạo ra những điều tốt đẹp, nhưng để tận dụng hết tiềm năng đó đòi hỏi sự tự do, giải thoát. Chủ nghĩa toàn trị kìm hãm sự phát triển này. Theo cách bổ sung, chủ nghĩa cá nhân có nghĩa là bạn không mong đợi điều gì đó từ bên ngoài hoặc bạn đang chờ đợi mệnh lệnh: thay vào đó, chính bạn tạo ra sáng kiến. Do đó, Đức Phật thường nói đến "sự giải thoát cá nhân", nghĩa là tự giải thoát, không phải thông qua một tổ chức. Mỗi cá nhân phải tạo ra trạng thái tích cực của riêng mình. Tự do và chủ nghĩa cá nhân đòi hỏi phải có kỷ luật bản thân. Nếu những điều này bị lợi dụng vì lợi ích của những cảm xúc đau khổ, thì sẽ có những hậu quả tiêu cực. Tự do và kỷ luật bản thân phải cùng nhau hoạt động.

*Nhược Điểm Của Việc Không Chánh Niệm Về Cái Chết

Nhận thức rằng bạn sẽ chết là có lợi. Tại sao? Nếu bạn không nhận thức được cái chết, bạn sẽ không chánh niệm về việc thực hành của mình, mà chỉ dành cuộc sống của mình một cách vô nghĩa mà không xem xét những thái độ và hành động nào kéo dài đau khổ và những thái độ nào mang lại hạnh phúc.

Nếu bạn không chánh niệm rằng mình có thể chết sớm, bạn sẽ rơi vào sự chi phối của cảm giác sai lầm về sự vĩnh cửu. "Tôi sẽ chết sau này, sau này". Sau đó, khi thời điểm đến, ngay cả khi bạn cố gắng hoàn thành một điều gì đó đáng giá, bạn sẽ không có năng lượng. Nhiều người Tây Tạng vào tu viện từ khi còn nhỏ và nghiên cứu các văn bản về thực hành tâm linh, nhưng khi đến lúc thật sự thực hành, khả năng thực hiện lại không đủ. Điều này là do họ không có sự hiểu biết thật sự về sự vô thường.

Nếu sau khi suy nghĩ về cách thực hành, bạn đưa ra quyết định rằng bạn hoàn toàn phải làm như vậy trong khi tĩnh tâm tu tập trong nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm, bạn đã được thúc đẩy bởi kiến ​​thức của mình về vô thường. Nhưng nếu sự cấp bách đó không được duy trì bằng cách suy ngẫm về sự tàn phá của vô thường hết lần này đến lần khác, thì việc thực hành của bạn sẽ dần cạn kiệt. Đây là lý do tại sao một số người ở lại tĩnh tâm trong nhiều năm nhưng không trải nghiệm được dấu ấn nào trong cuộc sống của họ sau đó. Việc suy ngẫm về vô thường không chỉ thúc đẩy việc thực hành của bạn mà còn thúc đẩy nó.

Nếu bạn có cảm giác mạnh mẽ về sự chắc chắn của cái chết và sự không chắc chắn về sự khi nào nó xảy ra, bạn sẽ được thúc đẩy từ bên trong. Giống như một người bạn đang cảnh báo, "Hãy cẩn thận, hãy nghiêm túc, một ngày nữa sắp trôi qua

Bạn thậm chí có thể rời khỏi nhà để đi tu. Nếu bạn làm vậy, bạn sẽ được trao cho một cái tên mới và quần áo mới. Bạn cũng sẽ có ít hoạt động bận rộn hơn; bạn sẽ phải thay đổi thái độ, hướng sự chú ý của mình vào những mục đích sâu xa hơn. Tuy nhiên, nếu bạn tiếp tục bận rộn với những công việc hời hợt của khoảnh khắc - thức ăn ngon, quần áo đẹp, nơi ở tốt hơn, cuộc trò chuyện thú vị, nhiều bạn bè và người quen, và thậm chí tạo ra kẻ thù nếu ai đó làm điều gì đó mà bạn không thích và sau đó cãi vã và đánh nhau - bạn sẽ không khá hơn so với trước khi bạn vào tu viện, và thậm chí có thể tệ hơn. Hãy nhớ rằng, việc rút lui khỏi những hoạt động hời hợt này vì xấu hổ hoặc sợ những gì bạn bè của bạn, những người cũng đang trên con đường, có thể nghĩ là không đủ; sự thay đổi phải đến từ bên trong. Điều này đúng với các tu sĩ nam nữ cũng như những người tại gia thực hành.

Có lẽ bạn bị bao vây bởi cảm giác vĩnh cửu, khi nghĩ rằng bạn sẽ không sớm chết và rằng trong khi bạn vẫn còn còn sống, bạn cần đặc biệt là thức ăn ngon, quần áo và trò chuyện. Vì mong muốn những hiệu ứng kỳ diệu của hiện tại, ngay cả khi chúng không có nhiều ý nghĩa về lâu dài, bạn sẵn sàng sử dụng mọi loại cường điệu và thủ đoạn trơ tráo để có được thứ mình muốn - cho vay với lãi suất cao, coi thường bạn bè, bắt đầu các thủ tục tố tụng quá mức - tất cả vì lợi ích của những cung cấp hơn nữa.


*Những Thuận Lợi Của Việc Chánh Niệm Về Vô Thường

Nếu bạn không đợi đến cuối cùng để hiểu được kiến thức mà bạn muốn thấm nhuần, và bạn thực tế đánh giá tình hình của mình ngay bây giờ, bạn sẽ không bị choáng ngợp bởi những mục đích hời hợt, tạm thời. Bạn sẽ không bỏ qua những gì quan trọng về lâu dài. Tốt hơn là hãy quyết định ngay từ đầu rằng bạn sẽ chết và tìm hiểu điều gì là đáng giá. Nếu bạn ghi nhớ cuộc sống này trôi qua nhanh như thế nào, bạn sẽ trân trọng cuộc sống của mình và làm những gì có giá trị. Với cảm giác mạnh mẽ về cái chết sắp xảy ra, bạn sẽ cảm thấy cần phải tham gia vào việc thực hành tâm linh, cải thiện tâm trí của mình và sẽ không lãng phí thời gian vào nhiều trò tiêu khiển khác nhau, từ việc ăn uống tại nhà đến nói chuyện vô tận về chiến tranh, lãng mạn và tin đồn.

Tất cả chúng sinh đều muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ. Chúng ta sử dụng nhiều cấp độ kỹ năng để loại bỏ đau khổ không mong muốn ở dạng nông cạn và sâu sắc, nhưng chủ yếu là con người tham gia vào các kỹ năng vào giai đoạn đầu của cuộc đời để tránh đau khổ sau này. Cả những người thực hành tôn giáo và không theo đạo nào đều tìm cách giảm bớt một số đau khổ trong suốt cuộc đời mình và loại bỏ những đau khổ khác, đôi khi thậm chí còn chịu đau đớn như một phương tiện để vượt qua đau khổ lớn hơn và đạt được một chừng mực hạnh phúc nào đó.

Mặt khác, nếu bạn không nghĩ về cái chết và chỉ cố gắng quên nó đi, bạn sẽ chỉ tham gia vào các hoạt động liên quan đến cuộc sống này. Ngay cả khi bạn giả vờ thực hành Pháp, bạn sẽ làm điều đó chủ yếu vì lợi ích của cuộc sống này. Vì vậy, không nhớ đến cái chết dẫn đến một loại hiện hữu rất hạn chế. Nhưng việc nghĩ về cái chết nhắc nhở chúng ta về kiếp sau, điều này làm giảm sự nhấn mạnh của chúng ta vào những thứ của cuộc sống này. Tất nhiên, chúng ta phải làm việc để duy trì sinh kế của mình, nhưng chúng ta sẽ không quên kiếp sau. Chúng ta cần nghĩ về cái chết và sự vô thường vì chúng ta quá gắn bó với những thứ của cuộc sống này: tài sản, người thân, v.v. Đối với người thực hành Pháp, nỗi sợ chết không có nghĩa là sợ phải xa người thân, của cải hoặc chính cơ thể của mình. Theo quan điểm đó, sợ hãi là vô nghĩa vì sớm hay muộn chúng ta cũng phải chết. Một nỗi sợ hữu ích hơn là sợ chết sớm, mà không thể làm những gì cần thiết để đảm bảo một cuộc sống tương lai tốt đẹp hơn.

Ai cũng biết rằng cái chết là điều chắc chắn và không ai có thể tránh được. Thay vì coi thường nó, tốt hơn là nên chuẩn bị trước. Nhiều kinh sách giải thích những lợi ích của việc ghi nhớ cái chết và những bất lợi của việc phớt lờ nó đi. Nếu chúng ta chuẩn bị cho tình huống thông qua thiền tập, khi nó xảy ra, nó sẽ không gây sốc hoặc quá khó đối phó đến như vậy. Nếu chúng ta dự đoán được rắc rối trong tương lai, chúng ta sẽ có biện pháp phòng ngừa. Khi chúng ta chuẩn bị tinh thần cho những gì có thể xảy ra, chúng ta sẽ không bị bất ngờ khi tai họa thật sự ập đến với mình. Vì vậy, chúng ta thiền tập về cái chết, không phải để tạo ra nỗi kinh hoàng hay bất hạnh cho bản thân, mà là để trang bị cho bản thân để đối mặt với nó khi nó đến. Chừng nào chúng ta còn ở trong vòng luân hồi của sự tồn tại, chúng ta sẽ không thoát khỏi bệnh tật, tuổi già hoặc cái chết. Do đó, thật khôn ngoan khi chuẩn bị cho những điều không thể tránh khỏi. Chúng ta cần làm quen với quá trình cái chết xảy ra và trạng thái trung ấm giữa các kiếp sống sau đó. Nếu làm như vậy, khi gặp phải những sự kiện khác nhau này, chúng ta sẽ có thể đối mặt với chúng một cách quyết tâm và can đảm.

Như tôi đã nói ở trên, khi suy ngẫm về cái chết, có ba điểm chính cần nhớ. Đó là cái chết là điều chắc chắn, thời điểm chết là không thể đoán trước và vào thời điểm chết, không có gì có thể giúp ích ngoại trừ sự hiểu biết của chúng ta về giáo Pháp. Cái chết là điều không thể tránh khỏi và không cần phải nói. Tuy nhiên, chúng ta nên suy ngẫm về cách cái chết xảy ra liên quan đến thời gian và địa điểm. Không một cá nhân nào có thể tránh được cái chết. Cái chết là một điều kiện phổ quát. Điều này đã đúng trong quá khứ, vẫn đúng ở hiện tại và sẽ tiếp tục đúng trong tương lai. Bất kỳ sự tồn tại vật chất nào mà chúng ta áp dụng cũng sẽ không miễn nhiễm với cái chết. Ngay cả Đức Phật cũng đã từ bỏ thân xác của mình, vậy thì chúng ta có thể nói gì về những chúng sinh bình thường?

Về mặt địa điểm, không có nơi nào có thể được coi là vùng không có cái chết. Bất cứ nơi nào chúng ta ở, chúng ta cũng không thể tránh khỏi cái chết. Chúng ta không thể ẩn náu trong núi; chúng ta không thể ở lại trong không gian ngoài tầm với của cái chết. Cái chết giống như một ngọn núi lớn đổ xuống mà không thể trốn thoát được. Chúng ta có thể dũng cảm, xảo quyệt và thông minh, nhưng bất kể chiến thuật chúng ta dùng là gì, thì cũng không có nơi nào để thoát khỏi cái chết, không phải trên núi cao, dưới biển sâu, trong khu rừng rậm rạp nhất hay trong thành phố đông đúc. Không có một người nào trong lịch sử mà không phải chết. Ngay cả những người tiến hóa về mặt tâm linh nhất cũng đã qua đời, chưa kể đến những vị vua quyền lực nhất và những chiến binh dũng cảm nhất. Mọi người, giàu và nghèo, vĩ đại và trung lưu, đàn ông và phụ nữ, đều phải chết.

Khi suy ngẫm về cái chết, chúng ta nên chú ý nhất đến tính không thể đoán trước của nó. Sự không chắc chắn về thời điểm cái chết sẽ tấn công thật sự cản trở những nỗ lực tâm linh của chúng ta. Chúng ta chấp nhận rằng cái chết chắc chắn sẽ đến một ngày nào đó, nhưng vì thời điểm đến của nó không cố định nên chúng ta có xu hướng luôn nghĩ rằng nó vẫn còn ở một khoảng cách nào đó. Đây là một quan niệm viển vông. Trên thực tế, chúng ta liên tục chạy đua đến cái chết của mình mà không dừng lại dù chỉ một khoảnh khắc.

Chúng ta có thể còn sống ngày hôm nay, nhưng đôi khi cái chết sẽ đến với chúng ta mà chúng ta không có thời gian để thực hành giáo Pháp. Chúng ta không thể thêm điều gì đó để kéo dài cuộc sống của mình. Cuộc sống liên tục và không ngừng suy giảm. Cuộc sống của bạn bị tiêu hủy theo tháng, tháng bị tiêu hủy theo ngày và ngày bị tiêu hủy theo giờ. Cuộc sống của chúng ta bị hủy hoại nhanh như một bức vẽ trên mặt nước. Giống như người chăn cừu lùa đàn cừu của mình đến chuồng, tuổi già và bệnh tật đẩy chúng ta đến cái chết. Do cấu trúc thể chất của chúng ta, chúng ta khó có thể sống lâu hơn một trăm năm. Tuổi thọ của chúng ta được xác định bởi nghiệp của chúng ta. Nó không dễ dàng kéo dài. Tất nhiên, những lời cầu nguyện cho cuộc sống lâu dài, sự gia trì trường thọ, v.v. có thể kéo dài cuộc sống của một người ở một mức độ nào đó, nhưng rất khó để kéo dài hoặc thêm vào nó. Những điều chúng ta đã làm chỉ vài ngày trước giờ chỉ tồn tại trong ký ức của chúng ta. Chúng ta không thể có lại những trải nghiệm này. Điều này đúng ngay cả với những trải nghiệm mà chúng ta đã có vào sáng nay. Kể từ đó, một vài giờ đã trôi qua, điều đó có nghĩa là cuộc sống của chúng ta đã ngắn lại một vài giờ. Cuộc sống đang trôi qua từng tích tắc của đồng hồ.

Khi mỗi tuần trôi qua, chúng ta không nhận ra thời gian đang trôi qua. Đôi khi, khi tôi có một ký ức sống động về cuộc sống của mình ở Lhasa, có vẻ như tôi đã từng chỉ mới trải nghiệm nó cách đây vài ngày. Chúng tôi đã lưu vong hơn ba mươi năm, nhưng chỉ khi gặp lại những người bạn cũ từ Lhasa hoặc con cái của họ, chúng tôi mới nhận ra rằng thời gian đã trôi qua thật lâu. Chúng ta có xu hướng nghĩ về quá khứ như một điều gì đó đã xảy ra nhanh chóng và tương lai thì kéo dài mãi mãi. Do đó, chúng ta luôn có xu hướng nghĩ rằng mình vẫn còn nhiều thời gian để thực hành. Chúng ta nghĩ về nó như một dự án trong tương lai. Chúng ta bị lừa dối bởi xu hướng tiêu cực này.

Ngay cả khi còn sống, chúng ta cũng không có nhiều thời gian để thực hành Pháp. Chúng ta dành một nửa cuộc đời để ngủ. Mười năm đầu tiên, chúng ta chỉ là những đứa trẻ, và sau hai mươi năm, chúng ta bắt đầu già đi. Trong khi đó, thời gian của chúng ta dành cho đau khổ, lo lắng, tranh đấu, bệnh tật, v.v., tất cả đều hạn chế khả năng thực hành của chúng ta.

Một trăm năm nữa, không một ai trong chúng ta, ngoại trừ một hoặc hai người sinh ra trong vài ngày qua, vẫn còn sống. Chúng ta có thói quen kỳ lạ là nói về một người nào đó sắp chết ở một nơi nào đó, mà không nghĩ rằng chính cái chết đó sẽ chế ngự chúng ta. Chúng ta không bao giờ nghĩ rằng mình cũng sẽ chết. Truyền hình đưa tin về những người bị giết, nhưng chúng ta vẫn luôn là khán giả, không phải là người sẽ chết. Do đó, khi nghĩ về sự không thể tránh khỏi của cái chết, chúng ta nên quyết tâm thực hành Pháp, hãy ngừng trì hoãn bằng cách bắt đầu ngay hôm nay. Trong nhiều cấp độ thực hành, thiền tập về tâm giác ngộ (tam bồ đề) là quan trọng nhất, vì vậy chúng ta nên quyết tâm thực hiện điều đó ngay bây giờ.

Trong vũ trụ học Phật giáo, hành tinh của chúng ta được liên hệ như Thế giới phương Nam. Vì chúng ta sống trên thế giới này, nên tuổi thọ của chúng ta cực kỳ không chắc chắn, trong khi tuổi thọ của chúng sinh ở Thế giới phương Bắc được cho là chắc chắn. Thật khó để hiểu theo nghĩa đen mô tả trong kinh điển về những thế giới này. Điều quan trọng trong lời dạy của Đức Phật là lời giải thích của Ngài về Tứ Diệu Đế và những chỉ dẫn của Ngài về cách chuyển hóa tâm. Đôi khi tôi nhẹ nhàng nói với mọi người rằng Đức Phật không đến Ấn Độ để vẽ bản đồ thế giới. Khi có sự mâu thuẫn giữa lý thuyết khoa học và mô tả vũ trụ trong kinh Phật, chúng ta nên chấp nhận những gì có thể quan sát được là đúng. Không cần phải giáo điều hay hẹp hòi về điều đó. Không phải là hạ thấp giáo lý cơ bản của Đức Phật. Khi suy ngẫm về những điều này, chúng ta có thể đánh giá cao sự sâu rộng mênh mông của giáo Pháp. Những gì kinh sách nói là tuổi thọ của chúng sinh trên thế giới này là vô cùng khó lường. Đôi khi mọi người chết khi còn trẻ, và đôi khi họ sống đến tuổi rất già.

Trong thiền định về cái chết, chúng ta nên xem xét các yếu tố gây ra cái chết. Các điều kiện duy trì sự sống là có hạn. Trớ trêu thay, đôi khi ngay cả những điều này cũng gây ra cái chết. Thức ăn và nơi trú ẩn là một trong những nhu cầu thiết yếu của chúng ta, nhưng đôi khi thức ăn không tốt hoặc ăn quá nhiều có thể gây tử vong. Cơ thể chúng ta bao gồm các yếu tố, theo bản chất là đối lập với nhau. Khi chúng ta nói về sức khỏe tốt, chúng ta muốn nói rằng các yếu tố đối lập này đang cân bằng thích hợp. Khi sự cân bằng đó bị phá vỡ, chúng ta sẽ phải chịu đựng những căn bệnh khác nhau. Nhìn bề ngoài, cơ thể chúng ta có vẻ rắn chắc và khỏe mạnh, nhưng quá trình trao đổi chất của con người rất tinh tế và phức tạp đến nỗi nếu có điều gì đó xảy ra với một bộ phận của cơ thể, nó có thể phá vỡ chức năng của các cơ quan khác. Cơ thể giống như một cỗ máy với nhiều thành phần tinh vi. Ví dụ, trái tim phải đập 24 giờ một ngày. Nó có thể ngừng đập bất cứ lúc nào. Vậy thì chúng ta sẽ làm gì?

Ngay cả trong những thời điểm tốt nhất cũng không có gì đảm bảo rằng chúng ta sẽ không chết vào ngày mai. Chúng ta có thể tin rằng vì một người nào đó khỏe mạnh hoàn hảo, nên họ sẽ không chết trong một thời gian dài. Chúng ta có thể nghĩ rằng vì một người khác yếu đuối và ốm đau, nên họ sẽ sớm chết. Nhưng đây chỉ là những giả định. Có rất nhiều nguyên nhân và điều kiện dẫn đến cái chết mà chúng ta không biết khi nào cái chết sẽ xảy ra. Bạn có thể nghĩ rằng, trong trường hợp xảy ra động đất, bạn có một ngôi nhà rất vững chắc. Bạn có thể nghĩ rằng, nếu hỏa hoạn xảy ra, đôi chân của bạn sẽ nhanh nhẹn và bạn sẽ có thể chạy thoát. Tuy nhiên, chúng ta không có bất kỳ đảm bảo nào rằng chúng ta có thể tự bảo vệ mình trước mọi tình huống bất trắc. Do đó, chúng ta nên thực hiện mọi biện pháp phòng ngừa và chuẩn bị để đối mặt với tình huống chưa biết này. Chúng ta có thể chắc chắn rằng cái chết của mình sẽ đến; chúng ta chỉ không chắc chắn khi nào.

Cuối cùng, vào thời điểm chết, không có gì có thể giúp được ngoại trừ việc thực hành Pháp của bạn. Khi bạn chết, bạn phải ra đi một mình, để lại mọi thứ ở phía sau. Bạn có thể có nhiều bạn bè và người thân tuyệt vời, nhưng vào lúc đó không ai trong số họ có thể giúp bạn. Bất kỳ ai thân yêu nhất với bạn đều hoàn toàn bất lực. Bạn có thể giàu có, nhưng sự giàu có không thể giúp bạn vào lúc chết. Bạn không thể mang theo một xu nào. Thay vào đó, nó có nhiều khả năng trở thành nguyên nhân gây lo lắng. Người bạn thân nhất của bạn không thể đi cùng bạn đến kiếp sau. Ngay cả một bậc thầy tâm linh cũng không thể đưa những đệ tử tận tụy nhất của mình đến thế giới bên kia. Mỗi người trong chúng ta phải đi một mình, được thúc đẩy bởi lực nghiệp của mình.

Tôi thường suy ngẫm về hoàn cảnh của chính mình với tư cách là Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tôi chắc chắn rằng có những người sẵn sàng hy sinh mạng sống của họ vì tôi. Nhưng khi cái chết đến, tôi phải đối mặt một mình. Họ không thể giúp tôi chút nào. Ngay cả cơ thể của chính tôi cũng phải bị bỏ lại phía sau. Tôi sẽ du hành đến kiếp sau dưới năng lực của chính những hành động của mình. Vậy điều gì sẽ giúp chúng ta? Chỉ có những dấu ấn (hay những hạt giống) của những hành động tích cực còn sót lại trong tâm chúng ta.

Cả dấu ấn nghiệp tích cực và tiêu cực đều được gửi vào tâm thức vi tế. Tâm thức vi tế này được gọi là thức nguyên sơ hay linh quang (ánh sáng trong suốt), vốn không có khởi đầu hay kết thúc. Đây là tâm thức đến từ những kiếp trước và tiếp tục đến kiếp sau. Chính những dấu ấn nghiệp nhân trên đó tạo ra những trải nghiệm đau khổ và hạnh phúc. Khi bạn chết, chỉ có dấu ấn của những việc làm tích cực của bạn mới giúp ích cho bạn. Do đó, khi bạn còn sống, và đặc biệt là khi bạn còn trẻ, tâm bạn còn tươi mới và bạn có thể thực hành một cách có hệ thống, điều quan trọng là bạn phải chuẩn bị cho cái chết. Khi đó, bạn sẽ có thể đối mặt với nó một cách đúng đắn khi thời điểm đến.

Quá trình chết diễn ra thông qua quá trình tan rã dần dần các yếu tố bên trong của bạn. Nếu bạn đã làm quen với quá trình này, thì khi cái chết thực sự diễn ra, bạn sẽ có thể xử lý được. Tương tự như vậy, nếu bạn đã quen với việc hành thiền về tình yêu thương và lòng từ bi và trao đổi hạnh phúc của mình để đổi lấy nỗi đau khổ của những chúng sinh khác, thì những thực hành này sẽ giúp ích cho bạn. Nếu bạn là một hành giả thật thụ của Pháp, bạn sẽ đối mặt với cái chết một cách toại nguyện.

Tất nhiên, nếu bạn tin rằng chúng ta chỉ có cuộc sống hiện tại này, thì khi chết mọi thứ sẽ kết thúc. Nhưng nếu bạn chấp nhận khả năng của những kiếp sống tương lai, thế thì cái chết thì cũng giống như thay quần áo vậy. Sự liên tục của tâm trí vẫn tiếp diễn. Tuy nhiên, vì chúng ta không biết tương lai sẽ ra sao, nên cần phải tham gia ngay vào các hoạt động sẽ giúp ích cho chúng ta sau này. Ngay cả trong thế giới này, chúng ta vẫn cần bạn bè và sự hỗ trợ trong những lúc khó khăn. Khi chúng ta phải một mình đối mặt với điều chưa biết, chúng ta sẽ chỉ có những thực hành trước đây để hỗ trợ chúng ta./.

CHƯƠNG 15: TẠO RA VIỄN CẢNH CHO THỰC HÀNH

***

Cuộc sống của một con người tự do và may mắn được coi là một điều gì đó quý giá. Cuộc sống của một con người như vậy rất hiếm, nhưng những cá nhân sở hữu nó có thể đạt được những điều tuyệt vời nhờ nó. Tuy nhiên, nó không bền vững mà mong manh và cực kỳ phù du. Điều quan trọng là chúng ta phải nhận thức được những đặc điểm này của cuộc sống và rồi thì chuẩn bị để tận dụng chúng một cách tốt nhất. Thật dễ dàng để thấy rằng tiềm năng của con người vượt xa khả năng của các sinh vật sống khác trên thế giới. Tâm thức con người có tầm nhìn xa trông rộng. Kiến thức của nó là vô hạn. Nhờ năng lực của tâm thức con người, nên những khám phá và phát minh mới xuất hiện rất nhiều trên hành tinh của chúng ta. Nhưng điều quan trọng là tất cả những đổi mới này phải thúc đẩy hạnh phúc và hòa bình trên thế giới. Trong nhiều trường hợp, điều này không đúng. Thật không may, sự khéo léo của con người thường bị sử dụng một cách sai lầm để tạo ra sự xáo trộn, mất đoàn kết và thậm chí là chiến tranh.

Những thành tựu của trí thông minh con người là hiển nhiên. Những ý tưởng và hoạt động của ngay cả một cá nhân cũng có thể mang lại lợi ích sâu rộng cho hàng triệu người và các sinh vật sống khác. Khi các kỹ năng của con người được định hướng đúng hướng, được thúc đẩy bởi thái độ đúng đắn, thì những điều tuyệt vời sẽ xảy ra. Do đó, giá trị của cuộc sống con người là vô giá. Theo quan điểm tâm linh nghiêm ngặt hơn, chính trên cơ sở cuộc sống con người, chúng ta có thể phát triển các loại hiểu biết và nhận thức khác nhau. Chỉ có tâm trí con người mới có thể tạo ra tình yêu thương và lòng từ bi vô hạn. Quan tâm nhiều hơn đến chúng sinh khác hơn là bản thân chúng ta và làm việc không mệt mỏi vì lợi ích của họ là một trong những phẩm chất cao quý của bản chất con người.

Cuộc sống của một con người vô cùng có giá trị khi nói đến việc đạt được cả mục tiêu tạm thời và mục tiêu cuối cùng của chúng ta. Trong bối cảnh này, mục tiêu tạm thời ám chỉ việc đạt được sự tái sinh cao hơn, và mục tiêu cuối cùng ám chỉ đến niết bàn và sự giác ngộ hoàn toàn. Những mục tiêu này rất quý giá và khó đạt được. Để làm được như vậy, các cá nhân phải có khả năng thực hành và tích lũy các nguyên nhân cần thiết. Chỉ có con người mới có cơ hội và sự thông minh để đạt được những mục tiêu này. Nếu chúng ta muốn được tái sinh ở các cõi cao hơn, chúng ta cần kiềm chế những hành động bất thiện và thực hành các đức tính như rộng lượng bố thí và kiên trì nhẫn nhục. Khi chúng ta tham gia vào các thực hành đúng đắn, chúng ta có tiềm năng đạt được niết bàn và Phật quả.

Khi chúng ta có được niềm tin rằng cuộc sống của một con người tự do và may mắn là hiếm có và quý giá, chúng ta nên suy ngẫm rằng nó không phải là vĩnh viễn. Mặc dù cuộc sống của một con người có tiềm năng như vậy, nhưng nó chỉ tồn tại trong thời gian ngắn và không kéo dài. Theo hướng dẫn trong văn bản kinh luận, chúng ta nên thiền quán ở đây về ba chủ đề cơ bản: sự chắc chắn của cái chết, sự không chắc chắn về thời điểm nó sẽ xảy ra và khi cái chết thật sự xảy ra, chỉ có sự nhận thức về mặt tâm linh của cá nhân mới có thể giúp ích. Những điểm này có thể dễ dàng hiểu được và không đặt ra thách thức về mặt trí tuệ. Tuy nhiên, chúng ta phải thiền tập về chúng nhiều lần cho đến khi chúng ta thật sự tin chắc. Mọi người đều đồng ý rằng sớm hay muộn thì tất cả chúng ta đều phải chết. Vì vậy, sự chắc chắn của cái chết không phải là vấn đề. Giàu hay nghèo, trẻ hay già, tất cả đều phải chết một ngày nào đó. Cái chết là đồng nhất và phổ quát, và không ai có thể phủ nhận hoặc coi thường sự thật này của cuộc sống.

Điều đánh lừa chúng ta là sự không chắc chắn về thời điểm của sự chết. Mặc dù chúng ta biết rất rõ rằng mình phải chết, nhưng chúng ta cho rằng nó sẽ xảy ra sau một thời gian. Tất cả chúng ta đều nghĩ rằng mình sẽ không chết sớm, và chúng ta bám vào niềm tin sai lầm rằng cái chết sẽ không xảy ra trong nhiều năm nữa. Quan niệm về một tương lai dài và vô định trải dài trước mắt khiến chúng ta không muốn nỗ lực tâm linh nghiêm túc. Toàn bộ mục đích của thiền quán về vô thường và sự chết thúc đẩy chúng ta dấn thân một cách năng động vào sự thực hành tâm linh.

Tôi xin đưa ra một số hướng dẫn chung có thể giúp cho việc thực hành tâm linh của chúng ta trở nên hiệu quả và sinh hoa trái. Tôi đã giải thích rằng việc theo đuổi tâm linh của chúng ta bao gồm các buổi thiền tập và giai đoạn sau thiền tập. Mọi người thường có ấn tượng rằng các hoạt động tâm linh chỉ có hiệu quả trong các buổi thiền tập; họ bỏ qua nhu cầu thực hành trong giai đoạn sau thiền tập. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng cách tiếp cận này là sai lầm, Thực hành trong giai đoạn sau thiền tập cũng quan trọng như nhau. Do đó, chúng ta cần hiểu cách hai loại thực hành bổ sung cho nhau. Sự hiểu biết về tâm linh có được trong quá trình thiền tập sẽ nâng cao sự hiểu biết của chúng ta trong giai đoạn sau thiền tập và ngược lại. Nhờ có nguồn cảm hứng có được trong các buổi thiền tập, chúng ta có thể phát triển nhiều đức tính như lòng từ bi, lòng nhân hậu, tôn trọng phẩm chất tốt của người khác, v.v. Trong suốt buổi thiền, chúng ta dễ dàng đạt được một mức độ thuần thành nhất định, nhưng thử thách thật sự là khi chúng ta đối mặt với thế giới bên ngoài. Do đó, chúng ta phải siêng năng thực hành trong giai đoạn sau thiền tập.

Khi chúng ta ngồi và cầu nguyện và thiền tập, chúng ta chắc chắn sẽ tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn. Chúng ta có thể tạo ra lòng từ bi đối với người nghèo và người thiếu thốn và cảm thấy khoan dung hơn với đối thủ của mình. Tâm trí thư giãn hơn và ít hung hăng hơn. Nhưng thật sự rất khó để duy trì động lực này khi chúng ta phải đối mặt với hoàn cảnh của cuộc sống thật. Thiền tập giống như rèn luyện bản thân cho thế giới thật. Nếu chúng ta không kết hợp hài hòa giữa những trải nghiệm của mình trong thời gian thiền tập và sau khi thiền tập, nỗ lực tâm linh của chúng ta sẽ mất đi tác dụng rất cần thiết. Chúng ta có thể tử tế và từ bi trong khi thiền định, nhưng nếu ai đó quấy rối chúng ta trên đường hoặc xúc phạm chúng ta ở nơi công cộng, rất có thể chúng ta sẽ trở nên tức giận và hung hăng. Chúng ta thậm chí có thể trả đũa ngay tại chỗ. Nếu điều đó xảy ra, tất cả lòng tốt, sự kiên nhẫn và sự hiểu biết mà chúng ta phát triển trong quá trình thiền tập sẽ ngay lập tức biến mất. Tất nhiên, rất dễ dàng để từ bi và vị tha khi chúng ta ngồi thoải mái trên ghế của mình, nhưng thử thách của việc thực hành là khi chúng ta gặp phải vấn đề. Ví dụ, khi chúng ta có cơ hội để tranh đấu và chúng ta kém chế việc đấu tranh, đó là thực hành Pháp. Khi chúng ta có sức mạnh để bất nạt ai đó và chúng ta kiềm chế không làm như vậy, đó là thực hành Pháp. Cho nên, thực hành giáo Pháp thật sự là kiểm soát bản thân trong những hoàn cảnh như vậy.

Để làm cho việc thực hành tâm linh của chúng ta ổn định và bền bỉ, chúng ta phải rèn luyện một cách phù hợp. Một hành giả thời tiết đẹp có rất ít hy vọng đạt được mục tiêu của mình. Điều cực kỳ quan trọng là thực hành các giáo lý ngày này qua tháng khác và năm này qua năm khác. Bất kỳ ai thực hành liên tục đều có thể phát triển các chứng ngộ tâm linh. Vì mọi hiện tượng vô thường đều thay đổi, một ngày nào đó tâm trí hoang dã và thô lỗ của chúng ta sẽ trở nên kỷ luật và thông tuệ , hoàn toàn thư giãn và bình yên. Những phẩm chất tinh thần tuyệt vời như vậy có thể được phát triển chỉ bằng cách nhìn thấy lợi thế của suy nghĩ cùng hành động đạo đức và những nhược điểm của ảo tưởng, Tuy nhiên, miễn là hành giả học được kỹ thuật và phương pháp thích hợp. Trong hành trình tìm kiếm sự chứng ngộ tâm linh, chúng ta không cần phải sử dụng sức mạnh thô tháo.

Khi tôi đang nhận giáo lý từ Khun-ma Lama, ngài đã kể cho tôi nghe một câu chuyện về một người ở Lhasa đang đi nhiễu. Một người khác đang thiền ở đó, và người đi nhiễu hỏi, "Bạn đang làm gì vậy?" Người kia trả lời, "Tôi đang thiền về sự kiên nhẫn." Người đi nhiễu vặn vẹo, "Ăn cứt!" và thiền giả nhảy dựng lên, hét lên trong cơn tức giận. Rõ ràng cho thấy rằng bài kiểm tra thật sự của việc thực hành là liệu chúng ta có thể áp dụng nó khi gặp phải những tình huống khó khăn hay không. Tôi cảm thấy rằng việc thực hành sau buổi thiền có lẽ quan trọng hơn việc thực hành trong buổi cộng phu. Trong buổi tu tập, chúng ta thật sự đang tiếp nhiên liệu hoặc nạp lại năng lượng để có thể thực hành sau này. Do đó, chúng ta càng có thể định hình tâm trí trong buổi tu tập, thì chúng ta càng có thể đối mặt tốt hơn với những khó khăn sau đó.

Bản văn giải thích bản chất của loại cuộc sống con người đặc biệt có quyền tự do thực hành Pháp. Những cá nhân có tự do và cơ hội thực hành Pháp không bị cản trở bởi những quan điểm sai lầm. Họ thoát khỏi những ràng buộc của việc sinh ra làm thú vật, ngạ quỷ hoặc chúng sinh địa ngục. Họ đã tránh được việc sinh ra trong một nơi không có giáo Pháp của Phật và một nơi xa xôi hẻo lánh kém văn minh. Cũng không sinh ra đã ngu ngốc hay đần độn.

Hãy tưởng tượng được sinh ra như một con chim, chỉ quan tâm đến việc tìm kiếm thức ăn. Chúng ta sẽ không có cơ hội để thực hành Pháp, May mắn thay, chúng ta không được sinh ra như chim hay động vật mà là con người. Nhưng ngay cả khi là con người, chúng ta có thể đã được sinh ra ở một vùng đất xa xôi nơi giáo lý của Đức Phật chưa từng được nghe đến. Sự giàu có và trí thông minh sẽ không tạo nên sự khác biệt; chúng ta sẽ không thể thực hành Pháp. Những người bạn phương Tây đến từ những nơi mà trước đây không có sự thực hành Phật giáo. Nhưng, vì bản năng tích cực của họ và thời đại thay đổi, chúng ta đã có thể gặp gỡ và chia sẻ những lời dạy. Vào một thời điểm nào đó, vùng đất phương Tây được gọi là vùng đất xa xôi nơi mọi người không được tự do thực hành. Chúng ta nên trân trọng không chỉ việc chúng ta được sinh ra như con người, mà còn vì tất cả chúng ta hiện có những điều kiện cần thiết để đưa Pháp vào thực hành.

Cuộc sống như một con người là nền tảng thích hợp nhất để đạt được niết bàn và Phật quả. Vì chúng ta đã tìm thấy một cơ hội tuyệt vời như vậy, không gì tệ hơn là không tận dụng nó một cách tốt đẹp. Chúng ta đã tìm thấy kiếp người quý giá này là kết quả của việc tích lũy đức hạnh lớn lao trong quá khứ. Chúng ta phải tận dụng nó ngay bây giờ bằng cách tiếp tục thực hành Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ giống như những thương gia thời xưa đã đi rất xa để vượt đại dương tìm kiếm châu báu, chỉ để trở về tay không. Cơ thể con người này được ví như một con tàu mà chúng ta có thể khám phá đại dương đau khổ của vòng luân hồi. Khi đã tìm thấy nó, chúng ta không có thời gian để ngủ và không thực hành.

Điều quan trọng là phải hiểu ý nghĩa của việc thực hành giáo lý. Có nhiều phương thức và thủ tục khác nhau nhằm mục đích trực tiếp hoặc gián tiếp để sửa đổi tâm trí hỗn loạn và rèn luyện nó, chế ngự những khía cạnh tiêu cực của tâm trí và tăng cường những khía cạnh tích cực của nó. Ví dụ, chúng ta đọc kinh và thiền tập. Những thực hành như vậy sẽ thúc đẩy lòng tốt của trái tim và nuôi dưỡng những đức tính như lòng tốt và sự kiên nhẫn. Họ nên chế ngự và loại bỏ những khía cạnh tiêu cực của tâm trí như sự thù địch, tức giận và ghen tị, vì đây là nguồn gây phiền nhiễu và bất hạnh cho bản thân và người khác. Đây là lý do tại sao việc thực hành Pháp có lợi.

Điều này tự động dẫn đến câu hỏi, Có thể thực hành giáo lý không? Câu trả lời là có. Vào thời điểm này, chúng ta đã có được cuộc sống con người này. Chúng ta may mắn gặp được những bậc thầy tâm linh phù hợp, những người từ bi và có khả năng hướng dẫn con đường đúng đắn. Chúng ta cũng có tự do và cơ hội để tham gia vào việc thực hành tâm linh của mình.

Chúng ta không nên nghĩ đến việc trì hoãn việc thực hành Pháp của mình cho đến kiếp sau. Đây là một sai lầm, vì sẽ rất khó để được sinh ra làm người trong tương lai. Chúng ta cũng không nên nghĩ rằng mình sẽ trì hoãn việc thực hành của mình cho đến năm sau hoặc thậm chí là tháng sau. Việc chúng ta sẽ chết là điều không thể tránh khỏi, nhưng chúng ta không biết khi nào sẽ xảy ra. Trong số nhiều thực hành mở ra cho chúng ta, việc phát khởi tâm giác ngộ (tâm bồ đề) là quan trọng nhất.

Điều quan trọng cần nhớ là mọi người đều có bản chất Phật và những cảm xúc phiền não chỉ là những phiền não tạm thời của tâm. Bằng cách thực hành Pháp đúng đắn, những cảm xúc phiền não này có thể được loại bỏ hoàn toàn và bản chất Phật của chúng ta sẽ được bộc lộ trong tất cả tiềm năng của nó.

Tất cả các thực hành tâm linh của chúng ta nên hướng đến việc phát triển tư tưởng vị tha của tâm giác ngộ. Để tư tưởng cao cả này phát sinh, điều cần thiết là phải hiểu được hoàn cảnh của chúng sinh.

Điều này giúp chúng ta tạo ra lòng tốt và lòng từ bi đối với người khác. Nếu chúng ta không có một số kinh nghiệm về đau khổ, lòng từ bi của chúng ta đối với người khác sẽ không có nhiều ý nghĩa. Do đó, mong muốn giải thoát bản thân khỏi đau khổ đi trước bất kỳ cảm giác từ bi nào đối với người khác. Mục tiêu của tất cả các thực hành tâm linh của chúng ta nên là tâm giác ngộ. Đây là lời dạy tối cao và quý giá nhất của Đức Phật. Để cảm giác về tâm giác ngộ của chúng ta có hiệu quả và mạnh mẽ, hãy hành thiền về cái chết và luật nhân quả.

Ngoài ra, hãy thiền về bản chất tàn nhẫn của vòng luân hồi và lợi ích của niết bàn. Tất cả những thực hành này bổ sung cho nhau vì mỗi thực hành đều giúp chúng ta phát triển tâm giác ngộ.

Bước thứ hai trong việc phát triển tâm giác ngộ là suy nghĩ về cái chết và bản chất vô thường của mọi vật cũng như những bất lợi khi không làm như vậy. Suy nghĩ về cái chết và vô thường mở ra cánh cửa để đạt được những phẩm chất tuyệt vời trong cuộc sống này và cuộc sống tiếp theo. Thiền tập về cái chết và những đau khổ của các cõi thấp là mối quan tâm chính của những hành giả đang cố gắng đảm bảo phúc lợi cho những kiếp sống tương lai của chính họ. Họ hướng đến mục tiêu đạt được mục tiêu của mình bằng cách quy y Tam Bảo và tuân theo luật nhân quả. Những hành giả như vậy chủ yếu kiêng mười hành động bất thiện.

Thông qua quá trình thiền định, những cá nhân tìm kiếm sự tái sinh hạnh phúc sẽ nhận ra rằng cơ thể là vô thường và dễ bị phân hủy. dưới sự chi phối của những cảm xúc phiền não và hành động trong quá khứ, cả hai rốt cùng đều bắt nguồn từ quan niệm vô minh về sự tồn tại thật sự. Bất cứ điều gì phát sinh do vô minh đều là đau khổ theo bản chất. Những hành giả chỉ tìm kiếm sự tái sinh hạnh phúc chủ yếu hành thiền về sự vô thường thô thiển, quan sát rằng tất cả chúng ta đều chết, bông hoa héo tàn và nhà cửa sụp đổ. Những người tìm kiếm sự bình yên của niết bàn thiền tập về vô thường vi tế, quan sát rằng mọi hiện tượng đều có thể thay đổi trong chốc lát.

Bây giờ khi chúng ta nói về việc thực hành Pháp, mọi người đôi khi hiểu sai ý nghĩa của nó. Vì vậy, hãy để tôi đưa nó vào đúng bối cảnh. Thực hành Pháp không có nghĩa là bạn phải từ bỏ nghề nghiệp hoặc vứt bỏ tài sản của mình. Có nhiều cấp độ thực hành khác nhau tùy theo khả năng và khuynh hướng tinh thần của từng cá nhân. Không phải mọi người đều có thể từ bỏ thế gian và thiền tập trên núi. Điều này không thực tế. Chúng ta có thể sống sót được bao lâu? Chúng ta sẽ sớm chết đói. Chúng ta cần những người nông dân để trồng trọt nông phẩm, và chúng ta cũng cần sự hỗ trợ của cộng đồng doanh nghiệp. Những người này cũng có thể thực hành giáo lý và hòa nhập cuộc sống của họ vào trong ranh giới của Pháp. Những người kinh doanh phải kiếm lợi nhuận để kiếm sống, nhưng lợi nhuận phải ở mức vừa phải. Tương tự như vậy, những người trong các ngành nghề và nghề khác có thể làm việc một cách trung thực và tận tâm mà không mâu thuẫn với Pháp. Theo cách này, họ có thể phục vụ cộng đồng và giúp ích cho nền kinh tế nói chung.

Tôi thường khuyên mọi người dành một nửa thời gian của mình cho các công việc của cuộc sống và một nửa thời gian của họ để thực hành giáo lý. Tôi nghĩ đây là cách tiếp cận cân bằng đối với hầu hết mọi người. Tất nhiên, chúng ta cần những người xuất gia thật sự, là những người dành toàn bộ cuộc đời để thực hành. Họ xứng đáng được chúng ta trân trọng và tôn kính. Chúng ta có thể tìm thấy họ trong tất cả các truyền thống của Phật giáo Tây Tạng. Có nhiều người thiền định ở dãy Himalaya.

Sau khi chết, chúng ta không biến mất; chúng ta tái sinh. Nhưng chúng ta không thể tự tin rằng sự tái sinh của mình sẽ không ở trong hoàn cảnh khốn khổ. Chúng ta không tự nguyện sinh ra; chúng ta buộc phải làm như vậy thông qua sức mạnh của hành động (nghiệp lực) của mình. Hành động của chúng ta có hai loại, tích cực và tiêu cực. Nếu chúng ta muốn đảm bảo hạnh phúc trong tương lai, điều quan trọng là phải vun đắp những hành động toàn vẹn. Bởi vì sự tồn tại như một con vật, một linh thức đói khát hoặc một cư dân của địa ngục là vô cùng khốn khổ, nên những người thực hành mong muốn đạt được một sự tái sinh may mắn hơn. Cách chính để thực hiện mong muốn này là kiêng mười hành động bất thiện. Mười điều bất thiện này bao gồm ba hành vi thể chất - giết người, lấy của không được cho và hành vi tình dục lạm dụng; bốn hành vi lời nói - nói dối, vu khống, nói lời cay nghiệt và nói chuyện phiếm; và ba hành vi tinh thần - tham lam, ác ý và tà kiến. Từ bỏ mười điều này là điều tối quan trọng nếu chúng ta muốn đạt được sự tái sinh may mắn.

Việc thực hành loại đạo đức này nên được hiểu trong bối cảnh của luật nhân quả hoặc hành động. Mọi hành động đều phải tạo ra kết quả. Điều này có nghĩa là bất kỳ hoạt động tích cực hay tiêu cực nào bạn làm, bạn sẽ trải qua những kết quả tích cực và tiêu cực tương tự. Bất kỳ hành động nào bạn làm sẽ theo bạn giống như bóng của một con chim bay trên bầu trời. Hành động cũng có khả năng tăng lên và nhân lên. Ngay cả khi bạn thực hiện một hành động tích cực hay tiêu cực nhỏ, kết quả cuối cùng có thể rất lớn. Bạn không nên nghĩ rằng một hành vi bất thiện cụ thể là không đáng kể và sẽ không gây hại cho bạn trong tương lai. Giống như một chiếc bình lớn được lấp đầy bởi những giọt nước, ngay cả những hành động tiêu cực nhỏ cũng sẽ gây hại cho bạn sau này. Nếu bạn chưa thực hiện một hành động, bạn sẽ không phải đối mặt với kết quả của nó, nhưng một khi một hành động đã được thực hiện, hậu quả của nó sẽ không bao giờ biến mất. Điều này có nghĩa là bạn sẽ phải đối mặt với kết quả của nó.

Bây giờ, những hoạt động tinh tế nhất của các hành động và kết quả hoặc nghiệp của chúng cực kỳ khó hiểu đối với tâm trí con người. Người bình thường giống như chúng ta không thể hiểu được những hiện tượng cực kỳ khó hiểu như vậy bằng nhận thức trực tiếp hoặc bằng lý luận. Không có lượng phân tích và kiểm tra nào có thể giúp chúng ta ở đây. Chúng ta phải phụ thuộc vào một người có kiến ​​thức và kinh nghiệm về những hiện tượng này, chẳng hạn như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chúng ta không làm như vậy chỉ bằng cách nói rằng ngài vĩ đại hay ngài quý giá. Chúng ta phụ thuộc vào lời nói của ngài. Điều này là hợp lý vì một vị Phật không nói dối; ngài sở hữu lòng từ bi lớn lao và tâm toàn tri, là kết quả của việc xóa bỏ mọi ô nhiễm và chướng ngại tinh thần. Lòng từ bi của Đức Phật là vô điều kiện và phổ quát. Sứ mệnh duy nhất của ngài là giúp đỡ chúng sinh bằng mọi cách có ích. Ngoài lòng từ bi phổ quát của mình, Đức Phật còn được ban tặng trí tuệ trực tiếp hiểu được tính không. Những phẩm chất từ ​​bi và trí tuệ này đủ điều kiện để Đức Phật trở thành một vị thầy đích thực. Ngài là người mà chúng ta có thể tin cậy khi lý trí của chính chúng ta không đủ.

Người Tàu Cộng chống lại tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. Họ lên án tôn giáo là chất độc, tuyên bố rằng nó gây hại cho tăng trưởng kinh tế và là công cụ bóc lột. Họ thậm chí còn nói rằng tôn giáo là một sự theo đuổi trống rỗng và vô nghĩa. Ngược lại, người Tây Tạng tin vào lời dạy của Đức Phật và coi đó là nguồn gốc của hòa bình và hạnh phúc. Nhìn chung, người Tây Tạng thật sự hạnh phúc, thanh thản và kiên cường trước những khó khăn. Những người phản đối tôn giáo có xu hướng lo lắng và hẹp hòi hơn. Người ta cũng thấy rằng người Tây Tạng sống tốt mà không cần phải làm việc quá sức, trong khi người Trung Quốc phải đấu tranh nhiều hơn để sinh tồn.

Hoạt động tích cực, có công đức mang lại hạnh phúc và thành công. Các lực liên quan đến luật nhân quả không phải là các thực thể vật chất, nhưng nếu chúng ta quan sát chúng một cách cẩn thận, chúng ta có thể học được cách chúng hoạt động. Khi chúng tôi, những người Tây Tạng trở thành người tị nạn, cuộc sống của chúng tôi ban đầu rất khó khăn. Chúng tôi không sở hữu một tấc đất nào và phải phụ thuộc vào sự hỗ trợ của người khác. Theo thời gian, tình hình của chúng tôi được cải thiện. Đây là nghiệp tốt của chúng tôi đang đơm hoa kết trái. Tương tự như vậy, trong cuộc sống bình thường, một số người thành công hơn những người khác mà không có lý do rõ ràng. Chúng ta chỉ nói rằng anh ấy hoặc cô ấy may mắn, nhưng đây là những trường hợp nghiệp tốt đang hoạt động./.



 

CHƯƠNG 16: QUY Y TAM BẢO

***

Ngay từ khi bắt đầu con đường Phật giáo, mối liên hệ giữa sự hiểu biết của chúng ta về cách mọi thứ diễn ra và hành vi tâm linh của chúng ta là rất quan trọng. Chính thông qua mối quan hệ này mà chúng ta thiết lập rằng chúng ta là những người theo Đức Phật. Một Phật tử được định nghĩa là người tìm kiếm sự quy y tối thượng nơi Đức Phật, trong giáo lý của Ngài được gọi là Pháp, và trong Tăng đoàn, cộng đồng tâm linh thực hành theo giáo lý đó. Đây được gọi là quy y Tam bảo. Để chúng ta có ý chí tìm kiếm sự quy y tối thượng nơi Tam bảo, trước tiên chúng ta phải thừa nhận sự bất mãn với hoàn cảnh hiện tại của mình trong cuộc sống; chúng ta phải nhận ra bản chất khốn khổ của nó. Dựa trên sự nhận thức sâu sắc và chân thật về điều này, chúng ta tự nhiên mong muốn thay đổi tình trạng của mình và chấm dứt đau khổ. Sau đó, chúng ta có động lực tìm kiếm một phương pháp để thực hiện điều này. Khi tìm thấy một phương pháp như vậy, chúng ta coi đó là nơi ẩn náu hoặc nơi trú ẩn khỏi sự khốn khổ mà chúng ta muốn thoát khỏi. Đức Phật, Pháp và Tăng được xem là nơi trú ẩn như vậy và do đó là nơi trú ẩn thích hợp cho chúng ta khỏi đau khổ. Chính trong tinh thần này mà một Phật tử tìm kiếm nơi trú ẩn trong Tam Bảo.

Trước khi tìm kiếm nơi trú ẩn khỏi đau khổ, trước tiên chúng ta phải đào sâu hiểu biết của mình về bản chất và nguyên nhân của nó. Làm như vậy sẽ tăng cường mong muốn tìm kiếm sự bảo vệ khỏi đau khổ của chúng ta. Một quá trình tinh thần như vậy, kết hợp với việc nghiên cứu và quán chiếu, cũng phải được áp dụng để phát triển sự trân trọng của chúng ta đối với các phẩm chất của Đức Phật. Điều này dẫn chúng ta đến việc coi trọng phương pháp mà nhờ đó ngài đất được những phẩm chất này: là giáo lý của ngài, Pháp. Từ điều này sau đó là sự tôn trọng của chúng ta cho Tăng đoàn, những người thực hành tâm linh dấn thân vào việc ứng dụng giáo Pháp. Cảm giác tôn trọng của chúng ta đối với sự quy y này là sự củng cố niềm tin bởi việc chiêm nghiệm sâu sắc, cũng như quyết tâm tham gia vào việc thực hành tâm linh nghiêm túc hàng ngày.

Và khi chúng ta nương tựa vào giáo lý của Đức Phật, phần thứ hai trong Tam Bảo, thật ra chúng ta đang nương tựa vào cả trạng thái thoát khỏi đau khổ và con đường hoặc phương pháp mà nhờ đó chúng ta đạt được trạng thái như vậy. Con đường này, quá trình áp dụng giáo lý này thông qua thực hành tâm linh có ý thức, được gọi là giáo Pháp. Trạng thái thoát khỏi đau khổ cũng có thể được gọi là giáo Pháp, như kết quả từ việc chúng ta áp dụng giáo lý của Đức Phật.

Khi sự hiểu biết và đức tin vào Pháp phát triển, chúng ta phát triển một nhận thức sâu sắc về Tăng đoàn, những cá nhân, cả trong quá khứ và hiện tại, những vị đã thành tựu thể trạng giải thoát khỏi đau khổ như vậy. Khi đó, chúng ta có thể hình dung ra khả năng của một chúng sinh đã đạt được sự giải thoát hoàn toàn khỏi các khía cạnh tiêu cực của tâm trí: một vị Phật. Và khi chúng ta nhận ra bản chất của cuộc sống, thì sự trân trọng của chúng ta đối với Phật, Pháp và Tăng, Tam Bảo, nơi chúng ta tìm kiếm sự nương tựa. Điều này tăng cường việc tìm kiếm sự bảo vệ cho chúng ta từ Tam bảo.

Ngay từ đầu con đường Phật giáo, nhu cầu của chúng ta vì sự bảo vệ của Tam Bảo, nhiều nhất, có thể được nắm bắt về mặt trí tuệ. Điều này đặc biệt đúng đối với những người không được nuôi dưỡng trong một đức tin. Bởi vì Tam Bảo có giá trị tương đương trong các truyền thống khác, nên những người được sinh trưởng trong một truyền thống như vậy thường dễ dàng nhận ra giá trị của Tam bảo hơn./.


 

CHƯƠNG 17: HÀNH THIỀN, SỰ KHỞI ĐẦU

***

Trong chương này, chúng ta sẽ khám phá các kỹ thuật để thay đổi tâm trí từ những cách thức quen thuộc sang những cách thức đạo đức hơn. Có hai phương pháp thiền định được sử dụng trong quá trình thực hành của chúng ta. Một là thiền phân tích (thiền quán) là phương tiện giúp chúng ta làm quen với những ý tưởng và thái độ tinh thần mới. Phương pháp còn lại là thiền định tĩnh tâm (thiền chỉ), tập trung tâm trí vào một đối tượng đã chọn.

Mặc dù tất cả chúng ta đều mong muốn được hạnh phúc và muốn vượt qua đau khổ, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục trải qua đau đớn và khổ sở. Tại sao vậy? Phật giáo dạy rằng chúng ta thật sự chủ ý tạo ra những nguyên nhân và điều kiện tạo nên sự bất hạnh của mình và thường miễn cưỡng tham gia vào các hoạt động có thể dẫn đến hạnh phúc lâu dài hơn. Làm sao có thể như vậy? Trong lối sống bình thường của mình, chúng ta để bản thân bị kiểm soát bởi những suy nghĩ và cảm xúc mạnh mẽ, từ đó dẫn đến những trạng thái tiêu cực của tâm trí. Chính vòng luẩn quẩn này khiến chúng ta không chỉ duy trì sự bất hạnh của mình mà còn của người khác. Chúng ta phải cố ý đứng lên để đảo ngược những khuynh hướng này và thay thế chúng bằng những thói quen mới. Giống như một cành mới ghép trên một cây già cuối cùng sẽ hấp thụ sức sống của cây đó và tạo ra một cây mới, chúng ta phải nuôi dưỡng những khuynh hướng mới bằng cách cố ý vun đắp những thực hành đức hạnh. Đây chính là ý nghĩa và mục đích thật sự của việc thực hành thiền tập.

Việc quán chiếu về bản chất đau khổ của cuộc sống, cân nhắc những phương pháp có thể chấm dứt sự đau khổ của chúng ta, chính là một hình thức thiền tập. Cuốn sách này là một hình thức thiền tập. Quá trình mà chúng ta chuyển đổi thái độ bản năng hơn của mình đối với cuộc sống, trạng thái tâm trí chỉ tìm cách thỏa mãn ham muốn và tránh xa sự khó chịu, là những gì chúng ta muốn nói khi sử dụng từ "thiền tập". Chúng ta có xu hướng bị tâm trí kiểm soát, đi theo nó trên con đường ích kỷ của nó. Thiền định là quá trình mà qua đó chúng ta kiểm soát được tâm trí và hướng nó theo hướng tốt đẹp hơn. Thiền định có thể được coi là một kỹ thuật mà chúng ta làm giảm sức mạnh của những thói quen suy nghĩ cũ và phát triển những thói quen mới. Do đó, chúng ta bảo vệ bản thân khỏi việc tham gia vào các hành động của tâm trí, lời nói hoặc hành động dẫn đến đau khổ. Thiền tập như vậy sẽ được sử dụng rộng rãi trong quá trình thực hành tâm linh của chúng ta.

Bản thân kỹ thuật này tự nó không phải là Phật giáo. Cũng giống như các nhạc sĩ rèn luyện đôi tay, các vận động viên rèn luyện phản xạ và kỹ thuật, các nhà ngôn ngữ học rèn luyện đôi tai, các học giả rèn luyện nhận thức của mình, chúng ta cũng vậy, chúng ta hướng dẫn tâm trí và trái tim mình.

Do đó, việc làm quen với các khía cạnh khác nhau của quá trình thực hành tâm linh của chúng ta là một hình thức thiền tập. Chỉ đọc về chúng một lần thì không mang lại nhiều lợi ích. Nếu bạn quan tâm, sẽ rất hữu ích khi liên hệ các chủ đề đã đề cập, như chúng ta đã làm trong chương trước với hành động vô đạo đức của lời nói vô nghĩa, rồi nghiên cứu chúng sâu rộng hơn để mở rộng hiểu biết của bạn. Bạn càng khám phá một chủ đề và đưa nó vào sự quán chiếu tinh thần, bạn càng hiểu sâu sắc hơn về nó. Điều này cho phép bạn đánh giá tính giá trị của nó. Nếu thông qua phân tích của mình, bạn chứng minh được điều gì đó là không giá trị, thì hãy gạt nó sang một bên. Tuy nhiên, nếu bạn thiết lập một cách độc lập - bạn xác định điều gì đó là đúng, thì đức tin của bạn vào sự thật đó có độ vững chắc mạnh mẽ. Toàn bộ quá trình nghiên cứu và xem xét này nên được coi là một hình thức thiền tập.

Chính Đức Phật đã nói, "Hỡi các tu sĩ và những người thông thái, đừng chấp nhận lời của ta chỉ vì lòng tôn kính. Quý vị nên đưa chúng vào sự phân tích phán xét và chấp nhận chúng trên cơ sở sự hiểu biết của riêng mình." Câu nói đáng chú ý này có nhiều hàm ý. Rõ ràng là Đức Phật đang nói với chúng ta rằng khi đọc một văn bản, chúng ta không chỉ nên dựa vào danh tiếng của tác giả mà còn dựa vào nội dung. Và khi nắm bắt với nội dung, chúng ta nên tập trung vào chủ đề và ý nghĩa thay vì dựa vào phong cách văn chương. Khi liên quan đến chủ đề, chúng ta nên dựa vào sự hiểu biết thực nghiệm của mình thay vì sự nắm bắt trí tuệ của mình. Nói cách khác, cuối cùng chúng ta phải phát triển nhiều hơn là kiến ​​thức hàn lâm về giáo Pháp. Chúng ta phải tích hợp các chân lý của lời dạy của Đức Phật vào sâu thẳm bản thể của mình, để chúng được phản ánh trong cuộc sống của chúng ta. Lòng từ bi sẽ không có nhiều giá trị nếu nó vẫn chỉ là một ý tưởng. Nó phải trở thành thái độ của chúng ta đối với người khác, được phản ánh trong mọi suy nghĩ và hành động của chúng ta. Và khái niệm khiêm nhường không làm giảm sự kiêu ngạo của chúng ta; nó phải trở thành trạng thái thật sự của chúng ta.

→ Sự Quen Thuộc Với Một Đối Tượng Được Chọn

Từ tiếng Tây Tạng để chỉ thiền là gom, có nghĩa là "làm quen". Khi chúng ta sử dụng thiền trên con đường tâm linh của mình, đó là để làm quen với một đối tượng được chọn. Đối tượng này không nhất thiết phải là một vật thể vật lý như hình ảnh Đức Phật hay Chúa Jesus trên cây thánh giá. "Đối tượng được chọn" có thể là một phẩm chất tinh thần như sự kiên nhẫn, mà chúng ta rèn luyện trong chính mình thông qua thiền định. Nó cũng có thể là chuyển động nhịp nhàng của hơi thở, mà chúng ta tập trung vào để làm dịu tâm trí bồn chồn của mình. Và nó có thể chỉ là phẩm chất của sự sáng suốt và hiểu biết - ý thức của chúng ta - bản chất mà chúng ta tìm cách hiểu. Tất cả các kỹ thuật này được mô tả chi tiết trong các trang tiếp theo. Nhờ những phương tiện này, kiến thức của chúng ta về đối tượng được chọn sẽ tăng lên.

Ví dụ, khi chúng ta nghiên cứu loại xe nào để mua, đọc ưu và nhược điểm của các hãng khác nhau, chúng ta phát triển cảm nhận về phẩm chất của một lựa chọn cụ thể. Bằng cách suy ngẫm về những phẩm chất này, sự trân trọng của chúng ta đối với chiếc xe này sẽ tăng lên, cũng như mong muốn sở hữu nó. Chúng ta có thể rèn luyện các đức tính như sự kiên nhẫn và lòng khoan dung theo cách tương tự. Chúng ta làm như vậy bằng cách suy ngẫm về những phẩm chất cấu thành nên sự kiên nhẫn, sự an tâm mà nó tạo ra trong chúng ta, môi trường hài hòa được tạo ra do nó, sự tôn trọng mà nó tạo ra ở người khác. Chúng ta cũng làm việc để nhận ra những nhược điểm của sự thiếu kiên nhẫn, sự tức giận và sự thiếu hài lòng mà chúng ta phải đau khổ bên trong, nỗi sợ hãi và sự thù địch mà nó mang lại cho những người xung quanh chúng ta. Bằng cách siêng năng - nhẹ nhàng theo những dòng suy nghĩ như vậy, sự kiên nhẫn của chúng ta tự nhiên phát triển, ngày càng mạnh mẽ hơn, từng ngày, từng tháng và từng năm. Quá trình thuần hóa tâm trí là một quá trình dài. Tuy nhiên, một khi chúng ta đã thành thạo sự kiên nhẫn, niềm vui có được từ nó sẽ kéo dài hơn bất kỳ chiếc xe nào

Chúng ta thật sự thường xuyên tham gia vào quá trình thiền tập như vậy trong cuộc sống hàng ngày của mình. Chúng ta đặc biệt giỏi trong việc nuôi dưỡng sự quen thuộc với những khuynh hướng bất thiện! Khi không hài lòng với ai đó, chúng ta có thể quán chiếu về những lỗi lầm của người đó và có được niềm tin ngày càng mạnh mẽ hơn về bản chất đáng ngờ của người đó. Tâm trí chúng ta vẫn tập trung vào "đối tượng" của quá trình thiền định, và do đó sự khinh miệt của chúng ta đối với người đó ngày càng tăng lên. Chúng ta cũng suy ngẫm và phát triển sự quen thuộc với các đối tượng đã chọn khi chúng ta tập trung vào một thứ gì đó hoặc một ai đó mà chúng ta đặc biệt yêu thích. Rất ít sự thúc đẩy là cần thiết để duy trì sự tập trung của chúng ta. Thật khó để duy trì sự tập trung khi nuôi dưỡng đức hạnh. Đây là một dấu hiệu chắc chắn cho thấy cảm xúc ràng buộc và ham muốn áp đảo như thế nào!

Có nhiều loại thiền. Một số loại không yêu cầu bối cảnh chính thức hoặc tư thế vật lý cụ thể. Bạn có thể thiền khi lái xe hoặc đi bộ, khi đi xe buýt hoặc tàu hỏa, và thậm chí khi tắm. Nếu bạn muốn dành một khoảng thời gian cụ thể để thực hành tâm linh tập trung hơn, thì việc dành buổi sáng sớm cho một buổi thiền chính thức sẽ có lợi, vì đó là lúc tâm trí tỉnh táo và minh mẫn nhất. Ngồi trong môi trường yên tĩnh với lưng thẳng rất hữu ích, vì điều này giúp bạn duy trì sự tập trung. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là bạn phải nuôi dưỡng những thói quen tinh thần tốt đẹp bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào có thể. Bạn không thể giới hạn thiền trong các buổi chính thức.

• Thiền Phân Tích (Thiền Quán)

Như tôi đã nói, có hai loại thiền được sử dụng để quán chiếu và nội tâm hóa các chủ đề mà tôi thảo luận trong cuốn sách này. Đầu tiên, là thiền phân tích. Trong hình thức thiền này, sự quen thuộc với một đối tượng đã chọn - có thể là chiếc xe bạn mong muốn hoặc lòng từ bi hoặc sự kiên nhẫn bạn muốn tạo ra - được nuôi dưỡng thông qua quá trình phân tích hợp lý. Ở đây, bạn không chỉ tập trung vào một chủ đề. Thay vào đó, bạn đang nuôi dưỡng cảm giác gần gũi hoặc thấu cảm với đối tượng đã chọn của mình bằng cách siêng năng áp dụng các khả năng phản biện của mình. Đây là hình thức thiền mà tôi sẽ nhấn mạnh khi chúng ta khám phá các chủ đề khác nhau cần được nuôi dưỡng trong quá trình thực hành tâm linh của mình. Một số chủ đề này dành riêng cho thực hành Phật giáo, một số thì không. Tuy nhiên, một khi bạn đã quen thuộc với một chủ đề thông qua phương pháp phân tích như vậy, điều quan trọng là phải tiếp tục tập trung vào chủ đề đó thông qua thiền tập để giúp nó thấm sâu hơn.

• Thiền Tập Trung (Thiền Chỉ)

Loại thứ hai là thiền chỉ. Điều này xảy ra khi chúng ta tập trung tâm trí vào một đối tượng đã chọn mà không tham gia vào quá trình phân tích hoặc suy nghĩ. Ví dụ, khi thiền về lòng từ bi, chúng ta phát triển sự thấu cảm với người khác và nỗ lực nhận ra nỗi đau khổ mà họ đang trải qua. Chúng ta thực hiện điều này thông qua thiền phân tích. Tuy nhiên, một khi chúng ta có cảm giác từ bi trong tim, một khi chúng ta thấy rằng thiền tập đã thay đổi tích cực thái độ của chúng ta đối với người khác, thì chúng ta vẫn tập trung vào cảm giác đó, mà không tham gia vào suy nghĩ. Điều này giúp đào sâu lòng từ bi của chúng ta. Khi chúng ta cảm thấy rằng cảm giác từ bi của mình đang yếu đi, chúng ta có thể tham gia lại thiền phân tích để khôi phục lại sự đồng cảm và mối quan tâm của mình trước khi quay lại thiền định.

Khi chúng ta trở nên thành thạo hơn, chúng ta có thể khéo léo chuyển đổi giữa hai hình thức thiền tập để tăng cường chất lượng mong muốn. "An tĩnh" ám chỉ kỹ thuật phát triển thiền chỉ của chúng ta đến mức chúng ta có thể tập trung một điểm vào đối tượng thiền định của mình trong thời gian dài tùy ý. Như tôi đã nói, "đối tượng của “thiền" không nhất thiết là thứ chúng ta có thể "nhìn thấy". Theo một nghĩa nào đó, người ta tập trung tâm trí mình vào đối tượng để vun đắp sự quen thuộc với nó. Thiền chỉ, giống như các hình thức thiền khác, về bản chất không có đức hạnh. Thay vào đó, chính đối tượng mà chúng ta tập trung vào và động lực mà chúng ta tham gia vào quá trình thực hành sẽ quyết định chất lượng tâm linh của thiền định. Nếu tâm trí chúng ta tập trung vào lòng từ bi, thì thiền tập là đức hạnh. Nếu tâm trí tập trung vào sự tức giận, thì thiền tập không phải là đức hạnh.

Chúng ta phải hành thiền một cách có hệ thống, vun đắp sự quen thuộc với một đối tượng đã chọn một cách dần dần. Nghiên cứu và lắng nghe những giáo thọ có trình độ là một phần quan trọng của quá trình này. Sau đó, chúng ta quán chiếu về những gì mình đã đọc hoặc nghe, xem xét kỹ lưỡng để loại bỏ mọi sự nhầm lẫn, quan niệm sai lầm hoặc nghi ngờ mà chúng ta có thể có. Bản thân quá trình này giúp tác động đến tâm trí. Sau đó, khi chúng ta tập trung vào đối tượng của mình một cách nhất quán, tâm trí của chúng ta sẽ hợp nhất với đối tượng theo cách mong muốn.

Điều quan trọng là trước khi chúng ta cố gắng thiền tập về các khía cạnh vi tế hơn của triết học Phật giáo, chúng ta có thể giữ cho tâm trí tập trung vào những chủ đề đơn giản hơn. Điều này giúp chúng ta phát triển khả năng phân tích và tập trung một điểm vào những chủ đề tinh tế như thuốc giải cho mọi đau khổ của chúng ta, sự trống rỗng của sự tồn tại cố hữu.

Hành trình tâm linh của chúng ta là một hành trình dài. Chúng ta phải lựa chọn con đường của mình một cách cẩn thận, đảm bảo rằng nó bao gồm tất cả những phương pháp dẫn chúng ta đến mục tiêu của mình. Đôi khi hành trình như dốc rất đứng. Chúng ta phải biết cách điều chỉnh bản thân theo tốc độ của sự quán chiếu sâu sắc [chậm rãi] của ốc sên đồng thời đảm bảo rằng chúng ta không quên vấn đề của người hàng xóm hoặc vấn đề của những con cá bơi trong đại dương ô nhiễm cách xa hàng ngàn dặm./.

CHƯƠNG 18: CHUYỂN HÓA TÂM QUA THIỀN TẬP

***

Thiền tập là sự làm quen của tâm với đối tượng thiền định. Về cách tâm làm quen với đối tượng, có nhiều loại thiền tập. Trong một loại, tâm được tạo ra thành thực thể của một loại ý thức cụ thể, như trong thiền từ bi hoặc thiền trí tuệ. Trong loại thiền tập này, bạn đang tìm cách tạo ra tâm trí của chính mình thành ý thức từ bi hoặc ý thức trí tuệ, từ bi và trí tuệ không phải là đối tượng mà bạn đang thiền định, mà là thực thể mà bạn đang tìm cách chuyển hóa ý thức của mình thông qua quá trình làm quen.

Tuy nhiên, khi bạn thiền tập về vô thường hoặc vô ngã, vô thường và vô ngã được coi là đối tượng của phương thức nhận thức của tâm, và bạn đang thiền định về chúng. Trong một loại thiền tập khác, nếu bạn thiền tập về những phẩm chất tốt đẹp của một vị Phật nguyện ước đạt được chúng, những phẩm chất này là đối tượng của mong muốn; điều này được gọi là thiền theo cách mong muốn. Sau đó, một loại thiền khác là loại thiền mà bạn khiến các cấp độ của con đường xuất hiện trong tâm trí theo nghĩa ghi nhớ rằng có những cấp độ nhận thức này và cấp độ nhận thức khác; đây được gọi là thiền phản chiếu.

Theo một cách khác, thiền được chia thành hai loại: phân tích và ổn định. Nhìn chung, an trụ tĩnh lặng (chỉ-shamatha, zhi gnas) là thiền ổn định hay thiền chỉ, trong khi tuệ giác đặc biệt (quán-vipashyana, lhag mthong) là thiền phân tích hay thiền quán.

Đối với các đối tượng thiền, các đối tượng của cả thiền định ổn định và thiền phân tích có thể là trạng thái tồn tại cuối cùng của hiện tượng hoặc bất kỳ trạng thái nào trong số các trạng thái hiện tượng. Nhìn chung, tính không là thứ được tìm thấy ở phần kết của quá trình phân tích bằng cách lý luận và điều tra trạng thái tồn tại cuối cùng của các đối tượng; tuy nhiên, tại thời điểm thiền ổn định quan sát tính không, thiền giả tập trung một điểm vào ý nghĩa của tính không đã được xác định và không phân tích. Do đó, có cả thiền định ổn định và thiền phân tích quan sát tính không. Tương tự như vậy, cả thiền ổn định và thiền phân tích quan sát bất kỳ trạng thái hiện tượng nào đều có thể xảy ra tùy thuộc vào cách tâm tác động lên đối tượng.

Tĩnh trú, chủ yếu là thiền ổn định, là trạng thái chung của cả người theo đạo Phật và người không theo đạo Phật. Trong Phật giáo, trạng thái này chung cho cả Tiểu thừa và Đại thừa, và trong Đại thừa, trạng thái này chung cho cả Kinh thừa và Mật thừa. Tôi sẽ giải thích ngắn gọn về cách đạt được trạng thái tĩnh trú.

Tâm trí của chúng ta, như hiện tại, hoàn toàn bị phân tán vào các đối tượng bên ngoài, do đó nó trở nên bất lực. Suy nghĩ của chúng ta giống như nước chảy theo mọi hướng. Nhưng cũng giống như nước, khi được dẫn hướng, trở nên mạnh mẽ, thì tâm trí của chúng ta cũng vậy.

Tâm trí được dẫn hướng như thế nào? Trong Mật Thừa nói chung và trong Vô Thượng Du Già (Highest Yoga Mantra) nói riêng, nhiều kỹ thuật được mô tả, nhưng trước tiên tôi sẽ mô tả kỹ thuật chung cho tất cả các thừa. Để đặt tâm trí một cách vững chắc vào một đối tượng quan sát, trước tiên cần phải xác định một đối tượng quan sát. Đức Phật đã mô tả bốn loại đối tượng để thanh lọc hành vi, đối tượng khéo léo, đối tượng để thanh lọc phiền não và đối tượng lan tỏa. Ví dụ, đối với các đối tượng để thanh lọc hành vi, bất kể chúng ta chủ yếu tham gia vào cảm xúc phiền não nào trước đó, thì sức mạnh của nó vẫn ở trong tâm trí chúng ta bây giờ, và do đó, cần phải chọn một đối tượng để thiền tập sẽ chống lại sức mạnh của cảm xúc phiền não cụ thể đó. Đối với một người chủ yếu tham gia vào ham muốn, đối tượng thiền tập là sự xấu xí. Trong số bốn cơ sở chánh niệm, điều này được giải thích trong kết nối với sự thiết lập chánh niệm trên cơ thể. Ở đây, “sự xấu xí” có thể ám chỉ đến những hình dạng méo mó; chính bản chất cơ thể bao gồm máu, thịt, xương, v.v. có thể thấy bề ngoài rất đẹp với màu sắc đẹp, rắn chắc nhưng vẫn mềm mại dễ xúc chạm, nhưng khi nghiên cứu, bạn thấy rằng bản chất của nó là những thứ như xương. Nếu tôi đeo kính X-ray, tôi sẽ thấy một căn phòng đầy xương cũng như một bộ xương đang nói từ bục này. Do đó, tôi đang nghiên cứu về "sự xấu xí" có nghĩa là thẩm tra bản chất của cơ thể vật lý của chúng ta

Đối với một người chủ yếu tham gia vào lòng căm thù, mục đích của thiền tập là tình thương yêu. Đối với một người chủ yếu chìm đắm trong sự sợ hãi, thiền tập là về mười hai liên kết của sự phụ thuộc duyên sinh của vòng luân hồi. Đối với một người có cảm xúc phiền não chủ yếu là lòng kiêu hãnh, thiền tập nên tập trung vào các bộ phận của cấu thành bởi vì khi thiền tập về nhiều bộ phận, bạn sẽ đến được điểm mà bạn nhận ra rằng có nhiều điều bạn không biết, do đó lòng kiêu hãnh giảm bớt. Đối với những người bị chi phối bởi khái niệm, thiền tập được quy định là quan sát việc thở ra và hít vào của hơi thở. Đó là những đối tượng để thanh lọc hành vi.

Như đã đề cập trước đó, đối tượng quan sát cũng có thể là sự trống rỗng. Ngoài ra, bạn thậm chí có thể lấy một bông hoa, v.v. làm đối tượng. Vẫn có một thứ khác là lấy tâm trí của chính bạn làm đối tượng quan sát. Phật tử cũng có thể thiền về thân Phật; một Cơ đốc nhân có thể thiền về Chúa Jesus trên cây thánh giá.

Bất kể đối tượng là gì, đây không phải là trường hợp thiền bên trong nhìn vào một đối tượng bên ngoài bằng mắt mà là khiến hình ảnh của nó xuất hiện trong ý thức tinh thần. Hình ảnh này được gọi là "tham chiếu", và đó là đối tượng quan sát.

Sau khi xác định được đối tượng, bạn đặt tâm trí vào đối tượng đó như thế nào? Đầu tiên, bạn phải nghe về đối tượng cần thiền từ một giáo thọ, sau đó, bạn đạt được sự xác định về nó bằng cách suy nghĩ đi suy nghĩ lại về nó. Ví dụ, nếu bạn muốn thiền về thân của một vị Phật, trước tiên bạn cần phải biết về thân đó thông qua việc nghe mô tả hoặc nhìn vào một bức tượng và sau đó làm quen với nó để nó có thể xuất hiện rõ ràng trong tâm trí.

Tại điểm đó, hãy tưởng tượng nó cách bạn khoảng bốn bộ (feet), ngang tầm lông mày. Nên thiền định nó trong sáng, với một sự sáng sủa tự nhiên; điều này giúp ngăn ngừa sự khởi phát của sự giải đãi lõng lẽo.

Ngoài ra, hãy coi thân Phật tưởng tượng là nặng; điều này giúp ngăn ngừa sự phấn khích trạo cữ. Bạn có thể giảm kích thước của vật thể càng nhiều thì nó càng giúp thu hồi tâm trí, hướng dẫn tâm trí. Tư thế vật lý của bạn cũng rất quan trọng.

Đối với đối tượng quan sát, bạn cũng có thể sử dụng các chữ cái hoặc giọt ánh sáng ở những vị trí quan trọng trên cơ thể. Khi thiền định này, đối tượng phải nhỏ; đối tượng càng nhỏ thì càng tốt. Khi đối tượng ban đầu đã được xác định, bạn không được thay đổi kích thước của nó. lớn hơn hay nhỏ hơn; bạn phải coi nó đã được cố định trong suốt thời gian tạo ra sự tĩnh trú.

Đầu tiên, hãy khiến đối tượng xuất hiện trong tâm trí. Sau đó, giữ nó bằng chánh niệm để bạn không mất nó. Không mất đối tượng thông qua chánh niệm đóng vai trò là nguyên nhân phát triển nội quán.

Trong khi duy trì đối tượng, tâm trí của bạn phải có hai phẩm chất - (1) sự sáng suốt tuyệt vời không chỉ đối tượng mà còn cả ý thức và (2) trụ nhất tâm trên đối tượng quan sát. Hai yếu tố đối lập ngăn cản những điều này phát triển - sự lỏng lẻo và sự phấn khích. Sự lỏng lẻo giải đại ngăn cản sự phát triển của sự sáng suốt, và sự phấn khích trạo ngăn cản sự ổn định của việc duy trì với đối tượng.

Sự lỏng lẻo là trường hợp tâm trí trở nên quá thư giãn, quá lỏng lẻo, thiếu cường độ, sự căng thẳng của tâm trí đã trở nên yếu. Một nguyên nhân của sự lỏng lẻo là sự thờ ơ, giống như đội mũ trên đầu, một sự nặng nề. Để giải quyết, bạn phải làm cho tâm trí căng thẳng hơn.

Khi chế độ nhận thức của tâm trí được thắt chặt, thì nguy cơ lỏng lẻo ít hơn nhưng nguy cơ tạo ra sự phấn khích nhiều hơn. Sự phân tán của tâm trí do ham muốn được gọi là sự phấn khích; do đó, sự phân tán có thể là đối với bất kỳ loại đối tượng nào trong khi sự phấn khích chỉ là sự phân tán đối với các đối tượng của ham muốn. Để giải tỏa sự phấn khích và bất kỳ loại phân tán nào khác, bạn cần hạ thấp mức độ của phương thức nhận thức của tâm trí, làm cho nó bớt căng thẳng hơn.

Trong khi giữ đối tượng quan sát với chánh niệm, hãy thỉnh thoảng điều tra bằng nội quan để xem tâm trí có bị ảnh hưởng bởi sự lỏng lẻo hay phấn khích không. Nếu qua nội quan, bạn thấy rằng có nguy cơ Long lẻo, bạn cần nâng cao chế độ nhận thức; nếu có nguy cơ phấn khích, hãy hạ thấp chế độ nhận thức một chút. Qua kinh nghiệm, cảm giác về mức độ căng thẳng vừa phải của tâm trí sẽ phát triển.

Để nâng cao mức độ nhận thức của tâm trí, hãy suy ngẫm về điều gì đó khiến bạn vui vẻ; để hạ thấp nó, hãy suy ngẫm về điều gì đó làm cho tâm trí tỉnh táo, chẳng hạn như đau khổ. Khi mới luyện tập theo cách này, tốt nhất là nên thực hiện các buổi thiền thường xuyên, ngắn và vì ban đầu rất khó để tạo ra trạng thái thiền sâu khi ở trong một thành phố bận rộn, ồn ào, bạn cần hoàn toàn cô lập và tĩnh lặng. Nếu không có yên tĩnh, gần như không thể đạt được trạng thái tĩnh lặng hoàn toàn.

Khi bạn thực hành theo cách này, tâm trí dần dần phát triển ngày càng ổn định hơn, đạt đến đỉnh cao là sự an trụ tĩnh lặng. Thông qua sức mạnh của thiền tập ổn định trong đó tâm trí được tập trung một điểm (nhất niệm) vào đối tượng quan sát của mình, sự mềm dẻo của tâm trí được tạo ra. Dựa vào đó, sự mềm dẻo của thân thể vật lý được tạo ra, dẫn đến hạnh phúc của sự mềm dẻo của tinh thần. Dựa vào đó, hạnh phúc của sự mềm dẻo của tâm trí được tạo ra. Tại thời điểm mà hạnh phúc của sự mềm dẻo của tinh thần trở nên ổn định, sự an trụ tĩnh lặng được đạt được. Trong bốn sự tập trung và bốn sự hấp thụ vô tướng, trạng thái này kết hợp với hạnh phúc của thân thể và tinh thần - là sự chuẩn bị thấp nhất cho sự tập trung đầu tiên.

Tuệ quán đặc biệt nội quan đạt được theo cách tương tự khi hạnh phúc của sự mềm dẻo của tâm trí được tạo ra, không phải bởi sức mạnh của thiền ổn định, mà bởi sức mạnh của sự phân tích với trí tuệ thẩm tra. Có những hình thức thế tục và siêu thế của sự hiểu biết đặc biệt (tuệ giác nội quán). Thế tục là trường hợp xem một cấp độ thấp hơn là thô và một cấp độ cao hơn là bình yên, trong khi tuệ giác siêu thế đặc biệt, nếu được hiểu theo cách tổng quát, có khía cạnh của Tứ Diệu Đế. Theo quan điểm cụ thể của các hệ thống giáo lý Đại thừa, tuệ giác siêu thế đặc biệt có khía cạnh của sự vô ngã của các hiện tượng.

Để thúc đẩy sự ổn định thiền tập nhanh hơn nữa, các hệ thống mật ngôn có các kỹ thuật đặc biệt xoay quanh yoga bổn tôn. Con đường của yoga bổn tôn mang lại sự tiến bộ nhanh hơn đến Phật quả thông qua các kỹ thuật đặc biệt để phát triển sự tập trung và trí tuệ hợp nhất, đây là hai điều cuối cùng trong sáu sự hoàn hảo (lục ba la mật)- bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tập trung và trí tuệ - được mô tả trong các bộ kinh điển của Bồ tát. Nếu bạn không có sự tập trung trong đó tâm trí ổn định và sáng suốt không dao động, thì khả năng trí tuệ không thể nhận ra đối tượng của nó, giống như nó vốn có, trong tất cả các vi tế của nó. Do vậy, cần phải có sự tập trung. Lý do để vun trồng trí tuệ nhận ra sự trống rỗng (tính không) của sự tồn tại cố hữu là ngay cả khi bạn chỉ có sự tập trung đơn thuần, thì nó không thể làm tổn hại đến quan niệm sai lầm rằng các đối tượng tồn tại trong và của chính chúng. Cần phải có sự hợp nhất của sự tập trung và trí tuệ (định tuệ song hành).

Theo Mật Điển Vajrapanjara Tantra, một mật điển giải thích của chu kỳ Guhvasamaja (Bi Mật Tập Hội), thì có bốn bộ Mật Thừa: Tantra Hành động, Tantra Thực hiện, Tantra Yoga và Tantra Yoga Tối thượng. Trong số này, ba tantra thấp hơn - Hành động, Thực hiện và Yoga - mô tả một phương thức tiến triển trên con đường tâm linh theo các yoga có và không có dấu hiệu, đây là các yoga của tính phi nhị nguyên của sự sâu sắc và biểu hiện. Sự ổn định thiền tập đạt được khi lấy đối tượng quan sát của thiền tập là sự xuất hiện rõ ràng của chính cơ thể bạn như là cơ thể của một vị bổn tôn. Trong khi quan sát cơ thể bạn được làm sáng tỏ hoặc hình dung như là cơ thể của một vị bổn tôn, bạn xác định được sự vắng mặt của sự tồn tại cố hữu của nó, do đó tạo ra sự kết hợp giữa biểu hiện dưới hình dạng siêu phàm và trí tuệ thậm thâm nhận ra bản chất tối hậu của thân thể đó. Sự nhận thức sâu sắc như vậy và hiện tướng siêu phàm đồng thời là yoga của tính phi nhị nguyên của sự thậm thâm và sự biểu hiện.

Trong Tantra Hành động trong yoga có dấu hiệu, phương thức tạo ra hoặc tưởng tượng bản thân bạn là một vị bổn tôn là thông qua sáu bước được gọi là sáu vị bổn tôn. Đầu tiên là vị bổn tôn tối thượng, thiền tập về tính không của sự tồn tại cố hữu của bản thân bạn và của vị bổn tôn. Thứ hai là vị bổn tôn âm thanh, xem sự xuất hiện của hình dạng tự nhiên của sự trống rỗng như những âm thanh vang vọng của mật ngôn của vị bổn tôn cụ thể trong không gian.

Thứ ba là vị bổn tôn mẫu tự trong đó âm thanh của mẫu tự xuất hiện dưới dạng các mẫu tự đứng xung quanh mép của một đĩa mặt trăng phẳng. Thứ tư là vị bổn tôn hình tướng, sự biến đổi của mặt trăng và các mẫu tự thành thân của vị bổn tôn.

Thứ năm là vị bổn tôn thủ ấn, sự gia hộ cho những nơi quan trọng của thân thể thần thánh bằng các cử chỉ của tay gọi là "ấn". Sau đó, bạn đặt một chữ om màu trắng ở đỉnh đầu, một chữ ah màu đỏ ở cổ họng và một chữ hum màu xanh ở tim, tượng trưng cho thân, lời nói và tâm ý cao quý, và tập trung vào thân thể thiêng liêng này, hiện có tất cả các phẩm chất hoặc dấu hiệu của một vị bổn tôn. Đây là bước cuối cùng, vị bổn tôn dấu hiệu.

Khi đạt được một số thành công trong việc hình dung bản thân như một vị bổn tôn, các sự tập trung của việc trú trong lửa và trú trong âm thanh được sử dụng để tăng cường sự phát triển nhanh chóng của sự ổn định thiền tập. Sau đó, bạn tu tập yoga không có dấu hiệu, sự tập trung ban tặng sự giải thoát vào cuối âm thanh. Đây là sự tu tập tuệ giác đặc biệt siêu thế quan sát tính không của sự tồn tại cố hữu. Mặc dù yoga bổn tôn vẫn được thực hiện, nhưng trọng tâm chính là yếu tố xác định bản chất cuối cùng của hiện tượng.

Giải thích về quy trình của con đường trong Tantra Thực Hiện gần giống như trong Tantra Hoạt Động, nhưng trong Tantra Yoga thì hơi khác một chút. Ở đó, các nền tảng của sự thanh lọc được giải thích là thân, khẩu, ý và các hoạt động, và như phương tiện thanh lọc, bốn ấn được mô tả để chuyển đổi chúng thành thân, khẩu, ý và hoạt động cao quý của giai đoạn hiệu quả của Phật quả. Trong quá trình này, việc đạt được trạng thái an trụ tĩnh lặng được tăng cường bằng cách thiền tập về một biểu tượng bàn tay nhỏ, chẳng hạn như một chày kim cang, tại điểm mũi, dần dần tăng số lượng sao cho đầu tiên là cơ thể của chính bạn và sau đó là môi trường xung quanh được bao trùm bởi biểu tượng bàn tay nhỏ. Biểu tượng bàn tay cụ thể được xác định theo năm dòng dõi Phật, các vị bổn tôn trong đó mang một biểu tượng đặc biệt trong tay của họ; Ví dụ, Tỳ Lô Giá Na mang một bánh xe, A Súc Bệ mang một chày kim cang. Thiền tập về một biểu tượng bàn tay nhỏ như vậy giúp phát triển sự tĩnh lặng do kích thước của vật thể và giúp tăng cường sự khéo léo trong thiền tập thông qua việc thực hành phân tán và tập hợp nhiều hình thức của biểu tượng.

Các Tantra Yoga Tối Thượng chủ yếu giải thích một yoga của sự trống rỗng và hạnh phúc không thể phân biệt được theo hai giai đoạn của yoga: giai đoạn phát sinh là tưởng tượng và được tạo ra và giai đoạn hoàn thành là tưởng tượng và không được tạo ra. Trong cả giai đoạn phát sinh và giai đoạn hoàn thành trong Tantra Yoga Tối Thượng, các trạng thái bình thường của cái chết, trạng thái trung ấm và sự tái sinh được đưa vào con đường để chuyển hóa thành Ba Thân của Thân Phật-Chân lý (pháp thân), Thân Thưởng thức Hoàn toàn (báo thân) và Thân Phát xạ (hóa thân).

Trong Tantra Yoga Tối Thượng có các kỹ thuật thiền định về các kênh mạch bên trong, gió (năng lượng) và các giọt chất lỏng thiết yếu. Các kênh mạch trình bày được đưa ra theo hai cách: Một là mô tả vật lý trong khi cách kia chỉ dành cho thiền tập. Mô tả sau là vì lợi ích của các hiệu ứng thiền tập cụ thể, và do đó, sự tương ứng vật lý chính xác không phải là mục tiêu. Tuy nhiên, các hiệu ứng mong muốn chắc chắn được tạo ra.

Người thực hành thiền tập về các giọt, ánh sáng hoặc mẫu tự trong các trung tâm kênh mạch này. Do những nơi đặc biệt mà chúng được thiền tập và do sức mạnh của sự khởi đầu cũng như của các thiền tập sơ bộ được gọi là "gần đến trạng thái của một vị bổn tôn" v.v., chỉ cần thiền tập ổn định được sử dụng để nuôi dưỡng sự hiểu biết đặc biệt nhận ra tính không của sự tồn tại cố hữu. Ngoài ra, có thể đạt được sự an trụ tĩnh lặng (định) và sự hiểu biết đặc biệt (tuệ) cùng một lúc.

Kỹ thuật tập trung vào các chữ cái hoặc ánh sáng ở những nơi quan trọng trong cơ thể đóng vai trò là phương tiện để ngăn chặn khái niệm một cách mạnh mẽ. Lý do để ngăn chặn khái niệm là trong ý thức có nhiều cấp độ từ thô đến tinh tế nhất, và trong Tantra Yoga Tối Thượng, các cấp độ ý thức tinh tế hơn được chuyển hóa thành các ý thức con đường của trí tuệ. Thông thường, khi chúng ta chết, các cấp độ ý thức thô hơn sẽ ngừng lại, và các cấp độ tinh tế hơn sẽ trở nên rõ ràng, đạt đến đỉnh điểm là sự biểu hiện của ý thức tinh tế nhất, tâm trí của ánh sáng trong suốt của cái chết. Một người bình thường không có nhận thức trong giai đoạn này, như thể đang ngất xỉu. Tuy nhiên, nếu trong khi cơ thể - nền tảng của Tâm trí - không thoái hóa, một hành giả yoga rút lui các cấp độ thô hơn của ý thức thông qua sức mạnh của thiền tập, các ý thức tinh tế hơn có thể được trải nghiệm trong sự nhận thức và sáng suốt hoàn toàn. Rút lui mạnh mẽ các cấp độ thô hơn và tinh tế hơn của gió (năng lượng) và tâm trí, hành giả đạt được cấp độ tinh tế nhất, tâm của ánh sáng trong suốt (linh quang). Được sử dụng trong quá trình con đường, cấp độ ý thức này đặc biệt mạnh mẽ và nhanh chóng Để làm chín muồi tâm trí để các cấp độ này của con đường có thể được thực hành, trước tiên cần phải thực hành giai đoạn phát sinh.

Đó chỉ là một bài trình bày ngắn gọn; hiểu được các trạng thái này và cách chúng đạt được trong kinh thừa và mật thừa rất hữu ích./.


 

CHƯƠNG 19: MÔI TRƯỜNG/ BIỂU TƯỢNG/ TƯ THẾ/ HÍT THỞ

***

Đối với người mới bắt đầu, địa điểm khá quan trọng. Khi chúng ta đã phát triển một số trải nghiệm nhất định, thì các yếu tố bên ngoài có rất ít tác động. Nhưng nói chung, địa điểm thiền định phải yên tĩnh.

Khi chúng ta thiền định về sự tập trung của tâm trí, thì chúng ta cần một nơi hoàn toàn biệt lập, một nơi không có tiếng ồn. Điều đó rất quan trọng. Sau đó, đối với một số bài tập yoga, độ cao cũng tạo nên sự khác biệt. Độ cao càng cao thì càng tốt; núi cao là nơi tốt nhất.

Ngoài ra, có những địa điểm mà những thiền giả giàu kinh nghiệm đã từng sống trước đây, và do đó đã ban phước và truyền năng lượng cho địa điểm đó. Vì vậy, sau đó, những người ít kinh nghiệm hơn sẽ được truyền cảm hứng từ địa điểm đó, nhận được rung động hoặc phước lành từ địa điểm đó. Đầu tiên, một người phát triển cao sẽ ban phước cho địa điểm đó, và sau đó những phước lành này được truyền đến những thiền giả khác.

Khi chúng ta dọn dẹp và sắp xếp lại căn phòng, mong muốn của chúng ta không chỉ là có một nơi sạch sẽ, mà còn là để sắp xếp lại tâm trí của mình. Khi sau đó chúng ta hình dung các vị bổn tôn, cúng dường và trì tụng mật ngôn, thì giống như chúng ta đã chuẩn bị để tiếp đón những vị khách quan trọng. Khi chúng ta mong đợi một vị khách được mời, thì trước tiên chúng ta phải dọn dẹp và sắp xếp. Thật không hay khi mời một vị khách đến một nơi bừa bộn. Để thực hành thiền định, trước tiên hãy dọn dẹp phòng của bạn. Mong muốn thực hiện của bạn không nên bị ô nhiễm bởi các trạng thái tâm trí tiêu cực như chấp trước, ác cảm hoặc các thái độ tương tự.

Có một câu chuyện về một trong những thiền giả vĩ đại ở Tây Tạng. Một ngày nọ ông
sắp xếp lễ vật của mình rất cẩn thận, rồi ông ngồi xuống và nghĩ, "Tại sao mình lại làm thế?"

Ông nhận ra rằng mình đã làm như vậy vì muốn gây ấn tượng với một trong những ân nhân của mình, người sẽ đến thăm ông vào ngày hôm đó. Ông rất chán ghét động lực ô uế của mình đến nỗi ông đã lấy một nắm bụi và ném lên lễ vật.

Người thiền định này đã từng là một tên trộm. Thỉnh thoảng ông vẫn bị thôi thúc bởi ham muốn trộm cắp. Khi ông đến thăm một gia đình nào đó, tay phải của ông tự động đưa đến một vật đẹp. Ông bắt lấy nó bằng tay trái và gọi, "Đây là một tên trộm, đây là một tên trộm." Ông có thể tự rèn luyện theo cách này. Đây thật sự là một cách thực hành rất hiệu quả, bởi vì ông đã thực hiện đúng điều mình muốn ở mọi khoảnh khắc.

Tương tự như vậy, khi chúng ta dọn dẹp hoặc chuẩn bị một số thứ, động lực của chúng ta phải trong sáng và chân thành. Những mối quan tâm thế gian nên ít liên quan nhất có thể.

Sau đó, cách sắp xếp các đối tượng quy y khác nhau trên bàn thờ được giải thích (trong văn bản). Nếu bạn có đủ khả năng để có tất cả các vật phẩm tôn giáo cần thiết, thì bạn nên trưng bày chúng. Nếu bạn không đủ khả năng để có chúng, thì cũng không sao. Thiền giả vĩ đại của Tây Tạng, yogi Milarepa, không có gì ngoài một số cuộn giấy chứa những chỉ dẫn của thầy Marpa, mà ông đã đặt xung quanh hang động. Ông không có gì trong hang động của mình, nhưng một đêm nọ, một tên trộm đã đột nhập vào. Milarepa cười và nói, "Vì ta không thể tìm thấy bất cứ thứ gì ở đây vào ban ngày, vậy thì ngươi sẽ tìm thấy gì vào ban đêm?" Người ta nói rằng một thiền giả thật sự không bao giờ cảm thấy thiếu vật chất bên ngoài.

*Biểu Tượng Của Sự Quy Y

.Tượng Phật.

Thuật ngữ tiếng Phạn "Phật" chỉ một chúng sinh có tâm trí được thanh lọc khỏi những lỗi lầm và những chứng ngộ của người đó đã phát triển hoàn toàn.

Phật còn được gọi là Như Lai (Tathagatha), là bậc đã thể nhập vào bản chất của sự giác ngộ và là bậc đã xuất hiện từ đó.

Khi giải thích ý nghĩa của một người nào đó phát sinh từ bản
chất của chân như thì người ta sẽ đi đến chủ đề về ba thân của một Pháp thân (Dharmakaya), Báo Thân (thân Thọ dụng Toàn vẹn - Sambogakaya) và Hóa thân (Nirmanakaya).

Những giải thích chi tiết về ba thân của chư Phật có thể được đưa vào trong toàn bộ văn học Đại thừa.

Theo giáo lý này, khi Đức Phật thị hiện vào thế giới này, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thể hiện Hóa thân (Nirmanakaya) từ Pháp thân (Dharmakaya). Tại đây, tất cả các sự kiện lớn trong cuộc đời của Đức Phật, bắt đầu từ khi thụ thai trong bụng mẹ cho đến khi nhập Niết bàn, đều được coi là những sự kiện quan trọng của Đức Phật.

Các Đức Phật cũng được gọi là Thiện Thệ (Khéo Vượt Qua-Sugata), những bậc đã thể nhập diệu lạc, những bậc đã đi trên con đường diệu lạc vào thể trạng diệu lạc. Thuật ngữ này bao gồm những sự chứng ngộ an lạc, sự viễn ly an lạc hoặc sự chấm dứt và Phật tính, tinh hoa của Phật Đà, theo giáo lý Phật giáo, vốn có trong tất cả chúng sinh

Nói chung, thân, lời và tâm ý của Đức Phật được giải thích có những biểu hiện khác nhau: thân là Quán Thế Âm, lời nói là Văn Thù và tâm ý là Kim Cang Thủ. Quán Thế Âm, Văn Thù và Kim Cang Thủ được giải thích là hiện thân của lòng từ bi, trí tuệ và năng lượng của Đức Phật.

Quán Thế Âm và Văn Thù xuất hiện như những vị bổn tôn hòa bình, trong khi Kim Cang Thủ xuất hiện với thân phẫn nộ.

Nói chung, khi một người có sức mạnh tâm trí mạnh mẽ, họ có thể hành động quyết liệt và mạnh mẽ hơn, và đây là lý do tại sao có những vị bổn tôn trông hung dữ. Theo Tantra Yoga Tối thượng, người ta gọi đây là "đưa ham muốn hoặc tức giận vào con đường".

Ở đây, Tara, một bổn tôn hòa bình khác, được nói đến như là khía cạnh thanh lọc của năng lượng cơ thể. Tất cả những phẩm chất khác nhau của Đức Phật, bao gồm lòng từ bi, trí tuệ và sức mạnh, phụ thuộc vào năng lượng. trên thực thể chuyển động

Người ta cũng có thể nói rằng Tara là vị thần nữ quyền. Có một truyền thuyết theo đó Tara, khi bà nuôi dưỡng khát vọng đạt được giác ngộ, đã quyết tâm trở nên giác ngộ trong hình hài nữ giới của mình.

Để thể hiện lời nói của chư Phật, chúng ta sử dụng một văn bản thiêng liêng, nếu có thể là một bản sao của Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, hay Prajnaparamitasutra.

Bất Nhã Ba La Mật-Prajnaparamita có nghĩa là trí tuệ siêu việt. Có nhiều loại trí tuệ khác nhau, chẳng hạn như trí tuệ tự nhiên, con đường dẫn đến trí tuệ đó ​​và trạng thái trí tuệ kết quả. Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa giải thích những loại trí tuệ khác nhau này.

Loại văn học này cấu thành nên phần chính của kinh điển Đại thừa. Trong bản dịch tiếng Tây Tạng của kinh điển Phật giáo thiêng liêng có khoảng hai mươi tập Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, bao gồm khoảng hai mươi văn bản khác nhau. Bản văn dài nhất có một trăm ngàn câu kệ, bản tiếp theo có hai mươi lăm ngàn, tám ngàn, v.v.

Bản văn ngắn nhất gồm chữ AH. Đây được gọi là Kinh Bát Nhã Ba La Mật gồm một mẫu tự. Trong tiếng Phạn, AH là chữ cái để chỉ sự phủ định vì chân như, hay bản chất tối thượng, như chúng ta đã thảo luận, là sự vắng mặt của sự tồn tại độc lập; đây là sự phủ định.

Biểu tượng tiếp theo của sự quy y là bảo tháp. Điều này tượng trưng cho tâm của chư Phật. Có tám loại bảo tháp khác nhau, ví dụ, những loại tượng trưng cho chiến thắng ma quỷ, giác ngộ, bát Niết bàn, v.v. Khi tôi nhìn vào những loại bảo tháp khác nhau này, tôi nghĩ rằng chúng được phát triển như một phương tiện để tưởng nhớ.

Tiếp theo, lễ vật dâng lên bàn thờ là nước tinh khiết, bông hoa, hương, đèn và trái cây. Điều này được mô phỏng theo phong tục phục vụ khách ở Ấn Độ vào thời điểm đó. Nếu Đức Phật đã dạy Phật giáo ở Tây Tạng, ngài sẽ nói về những lễ vật như bơ và tsampa.

Tư Thế Thân Thể Và Hơi Thở

Tiếp theo tôi sẽ giải thích tư thế thân thể trong khi thiền tập. Chỗ ngồi thiền nên được nâng lên một chút ở phía sau vì điều đó giúp giảm cang thẳng. Ghế hiện tại mà tôi đang ngồi có độ đàn hồi; phía trước cao hơn phía sau, hoàn toàn ngược lại.

Ngồi ở tư thế kim cang (bắt chéo chân) rất khó, nhưng nếu nó không đau thì đó là cách đúng đắn. Hoặc bạn có thể ngồi ở tư thế nửa kim cang [Đức Thánh Thiện đã làm mẫu một tư thế bắt chéo chân rất thoải mái], hay trong tư thế của Tara (làm mẫu một lần nữa), rất thoải mái.

Trong thủ ấn tay phải đúng, mu bàn tay phải đặt vào lòng bàn tay trái và hai ngón tay cái dựng lên và chạm vào nhau tạo thành một hình tam giác. Hình tam giác này có ý nghĩa mật tông, tượng trưng cho Cõi chân lý (Dharmadhatu), nguồn gốc thực tại và cũng là nhiệt lượng ở rốn.

Hai cánh tay không được chạm vào cơ thể. Đầu hơi cúi xuống, đầu lưỡi chạm vào vòm miệng, giúp ngăn ngừa tình trạng khát nước và chảy nước dãi khi thiền sinh tập trung sâu, tập trung vào một điểm. Môi và răng phải giữ nguyên vị trí tự nhiên, mắt nhìn vào chóp mũi. Điều này không thành vấn đề khi người ta có chiếc mũi to, nhưng khi người ta có chiếc mũi nhỏ, việc nhìn vào chóp mũi đôi khi gây đau. [Cười] Vì vậy, điều này phụ thuộc vào kích thước của mũi.

Về vị trí của mắt, lúc đầu, bạn có thể quán tưởng rõ hơn khi nhắm mắt, nhưng về lâu dài thì điều này không tốt, bạn không nên nhắm mắt. Quán tưởng được thực hiện ở cấp độ tinh thần chứ không phải cấp độ cảm giác. Nếu bạn rèn luyện bản thân để thiền với đôi mắt mở và quen với điều đó, thì ngay cả khi một vật thể xuất hiện trước mắt, bạn sẽ không mất đi hình ảnh tinh thần mà bạn đang thiền. Mặt khác, nếu bạn rèn luyện bản thân và quen với việc thiền tập với đôi mắt nhắm, bạn sẽ mất đi hình ảnh tinh thần ngay khi bạn mở mắt ra.

Trong khi thiền, hơi thở của bạn phải tự nhiên. Bạn không nên thở mạnh hoặc quá nhẹ. Đôi khi nếu bạn đang thiền kết hợp với các thực hành tantra và thực hiện một số yoga năng lượng, như thực hành thở chín vòng, thì nó sẽ khác.

Khi bạn đang trong trạng thái tâm trí dao động, như khi bạn giận dữ hoặc mất bình tĩnh, thì tốt nhất là hãy lấy lại sự bình tĩnh bằng cách tập trung vào hơi thở. Chỉ cần đếm hơi thở, quên hoàn toàn cơn tức giận. Tập trung vào hơi thở và đếm vào/ra “một, hai, ba,” lên đến hai mươi.

Vào thời điểm khi tâm trí bạn tập trung hoàn toàn vào hơi thở, hơi thở đến và đi, các đam mê lắng xuống. Sau đó, bạn sẽ dễ dàng suy nghĩ rõ ràng hơn.

Vì tất cả các hoạt động, bao gồm cả thiền, đều phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của ý định hoặc động lực, nên điều quan trọng là trước khi bắt đầu thiền, bạn phải nuôi dưỡng động lực đúng đắn. Chúng ta đang tham gia vào một thực hành có liên quan đến tantra, vì vậy động lực phù hợp là tránh bị phân tâm bởi mối quan tâm chỉ dành cho cuộc sống này. Động lực của chúng ta cũng không nên chỉ bị ảnh hưởng bởi mối quan tâm đến sự hoàn hảo và hạnh phúc của cuộc sống luân hồi. Động lực đúng đắn là thái độ vị tha./.


 

CHƯƠNG 20: BẢN CHẤT CỦA TÂM

***
Chúng ta hãy cùng xem xét những đặc điểm nào cấu thành nên tâm. Chắc chắn chúng ta sở hữu một thứ gọi là tâm, nhưng làm thế nào để khôi phục lại sự hiện hữu của nó? Tâm chân thật và thiết yếu là thứ được tìm thấy khi toàn bộ gánh nặng của những chướng ngại thô và sai lạc (ấn tượng giác quan, ký ức, v.v.) đã được loại bỏ. Phân biệt khía cạnh này của tâm chân thật, chúng ta sẽ khám phá ra rằng, không giống như các đối tượng bên ngoài, bản chất thật sự của nó là trạng thái vô hình của hình dạng hoặc màu sắc, và chúng ta cũng không thể tìm thấy bất kỳ cơ sở chân lý nào cho những quan niệm sai lầm và dễ bị nhận thức như tâm bắt nguồn từ điều này hay điều kia, hoặc nó sẽ di chuyển từ nơi này đến nơi khác, hoặc nó nằm ở nơi này hay nơi khác.

Khi không tiếp xúc với bất kỳ đối tượng nào, tâm giống như một khoảng không bao la, vô tận hoặc như một đại dương tĩnh lặng, vô biên. Khi nó gặp một đối tượng, nó lập tức nhận thức được đối tượng đó, giống như một tấm gương phản chiếu ngay lập tức hình ảnh của một người đứng trước nó. Bản chất thật sự của tâm không chỉ bao gồm việc nhận thức rõ ràng về đối tượng mà còn ở việc truyền đạt một trải nghiệm cụ thể về đối tượng đó cho người đang trải nghiệm nó. Thông thường, các hình thức nhận thức giác quan của chúng ta như nhãn thức, nhĩ thức, v.v. thực hiện chức năng của chúng đối với các hiện tượng bên ngoài theo cách thức bóp méo thô thiển. Kiến thức từ nhận thức giác quan, dựa trên các hiện tượng bên ngoài thô thiển, cũng mang bản chất thô thiển. Khi loại kích thích thô thiển này bị ngăn chặn và khi những trải nghiệm cụ thể và nhận thức rõ ràng khởi sinh từ bên trong, tâm sẽ đảm nhận vai trò của đặc điểm của một khoảng không vô tận tương tự như sự vô tận của không gian. Nhưng khoảng không này không nên được xem là bản chất thật sự của tâm.

Chúng ta đã quá quen thuộc với ý thức về hình tướng và màu sắc của tâm, đến nỗi khi chúng ta tập trung nội quán vào bản chất của tâm, ta thấy nó là một khoảng không bao la, vô hạn, thoát khỏi mọi chướng ngại và trở lực thô. Tuy nhiên, nó không có nghĩa là chúng ta đã nhận ra bản chất vi tế, chân thật của tâm. Những gì đã được giải thích ở trên liên quan đến trạng thái của tâm trong mối liên hệ đến trải nghiệm cụ thể và nhận thức rõ ràng của tâm, vốn là chức năng của nó, nhưng nó chỉ mô tả bản chất tương đối của tâm.

Có nhiều khía cạnh và trạng thái của tâm. Nói cách khác, có nhiều thuộc tính liên quan đến nó. Cũng như một củ hành tây bao gồm nhiều lớp có thể bóc ra, mọi loại vật thể đều có nhiều lớp; và điều này cũng không kém phần đúng với bản chất của tâm, vì ở đây, nó cũng có lớp này chồng lên lớp kia, trạng thái này chồng lên trạng thái kia. Giải thích

Mọi pháp hữu vi đều phải chịu sự hoại diệt. Vì kinh nghiệm và tri thức là vô thường và phải chịu sự hoại diệt, nên tâm, mà chúng là những chức năng (bản chất), không phải là thứ gì đó thường hằng và vĩnh cửu. Từng khoảnh khắc, nó trải qua sự thay đổi và hoại diệt. Sự vô thường này của tâm là một khía cạnh trong bản chất của nó. Tuy nhiên, trong bản chất thật sự của nó, như chúng ta đã quan sát, tâm có nhiều khía cạnh, bao gồm ý thức về kinh nghiệm cụ thể và nhận thức về các đối tượng.

Bây giờ, chúng ta hãy xem xét thêm để nắm bắt ý nghĩa của bản chất vi tế của một tâm như vậy. Tâm xuất hiện do nguyên nhân của chính nó. Phủ nhận rằng sự khởi sinh của tâm phụ thuộc vào một nguyên nhân, hoặc nói rằng nó là một danh xưng được đưa ra như một phương tiện để nhận ra bản chất của các uẩn tâm, là không đúng. Theo sự quan sát hời hợt của chúng ta, tâm, với kinh nghiệm cụ thể và nhận thức rõ ràng là bản chất của nó, dường như là một thực thể thống trị mạnh mẽ, độc lập, chủ quan và hoàn chỉnh. Tuy nhiên, phân tích sâu hơn sẽ cho thấy rằng tâm này, mặc dù sở hữu như thể chức năng của kinh nghiệm và nhận thức, không phải là
thực thể tự tạo ra nhưng lại phụ thuộc vào các yếu tố khác để tồn tại. Do đó, nó phụ thuộc vào một thứ gì đó khác ngoài chính nó. Phẩm chất không độc lập này của bản chất tâm là bản chất chân thật của nó, mà bản chất này lại là thực tại tối hậu của tự ngã.

Trong hai khía cạnh còn lại - tức là bản chất chân thật tối hậu của tâm và sự hiểu biết về bản chất chân thật tối hậu đó - thì khía cạnh trước là nền tảng và khía cạnh sau là một thuộc tính. Tâm (tự ngã) là nền tảng, và tất cả các trạng thái khác nhau của nó đều là thuộc tính. Tuy nhiên, nền tảng và các thuộc tính của nó đều có cùng một bản chất duy nhất. Tâm (nền tảng) phi tự tạo (đầu tiên thuộc về một nguyên nhân khác ngoài chính nó) và bản chất của nó, tức là tính không đã tồn tại không ngừng như cùng một bản chất bất khả phân từ khởi nguyên vô thủy. Bản chất của tính Không thấm nhuần tất cả các yếu tố. Tuy nhiên, như chúng ta hiện tại, vì chúng ta không thể nắm bắt hay thấu hiểu thực tại tối hậu tự nhiên, bất khả hủy diệt (tính không-shunyata) của chính tâm mình, nên chúng ta tiếp tục phạm sai lầm và những khiếm khuyết của chúng ta vẫn còn đó.

Lấy tâm làm chủ thể và thực tại tối hậu của tâm làm đối tượng, ta sẽ đạt đến sự thấu hiểu đúng đắn về bản chất chân thật thiết yếu của tâm - tức là thực tại tối hậu của nó. Và khi, sau một thời gian dài thiền định kiên nhẫn, ta đi đến nhận thức và nắm bắt được tri kiến về thực tại tối hậu của tâm, vốn không có tính chất nhị nguyên, ta sẽ dần dần có thể loại bỏ được những vọng tưởng và khiếm khuyết của những tâm trung ương và tâm thứ cấp, chẳng hạn như giận dữ, thích phô trương, ghen tị, đố kỵ, v.v.

Việc không nhận ra được bản chất chân thật của tâm sẽ được khắc phục thông qua việc đạt được năng lực thấu hiểu thực tại tối hậu của nó. Điều này, đến lượt nó, sẽ loại bỏ được dục vọng, sân hận và tất cả những vọng tưởng thứ cấp khác phát sinh từ những vọng tưởng cơ bản. Do đó, sẽ không còn cơ hội để tích lũy nghiệp tiêu cực. Nhờ đó, việc tạo ra nghiệp (ác) ảnh hưởng đến các kiếp tương lai sẽ bị loại bỏ; ta sẽ có thể tăng cường chất lượng và số lượng của nhân duyên công đức và loại bỏ việc tạo ra nhân duyên có hại ảnh hưởng đến các kiếp tương lai - ngoài những nghiệp xấu đã tích lũy trước đó.

Trong quá trình thực hành để đạt được sự hiểu biết hoàn hảo về bản chất thật sự của tâm, đòi hỏi những nỗ lực tinh thần mạnh mẽ và tập trung. Trong điều kiện bình thường hiện tại của chúng ta, khi tâm trí tiếp xúc với điều gì đó, nó ngay lập tức bị thu hút vào đó. Điều này khiến việc hiểu biết trở nên bất khả thi. Do đó, để đạt được sức mạnh này, nỗ lực tối đa là điều kiện tiên quyết đầu tiên. Ví dụ, một dòng sông lớn chảy qua một vùng nước nông rộng lớn sẽ có rất ít lực, nhưng khi chảy qua một hẻm núi dốc, toàn bộ nước sẽ tập trung trong một không gian hẹp và do đó chảy với lực rất lớn. Vì lý do tương tự, tất cả những xao lãng tinh thần khiến tâm rời xa đối tượng quán chiếu cần phải được tránh xa và tâm phải luôn tập trung vào đối tượng đó. Nếu không làm được điều này, việc thực hành để đạt được sự hiểu biết đúng đắn về bản chất của tâm sẽ hoàn toàn thất bại.

Để làm cho tâm trí trở nên thuần thục, điều thiết yếu là chúng ta phải rèn luyện và kiểm soát nó tốt. Lời nói và các hoạt động của thân thể đi kèm với các quá trình tinh thần không được phép diễn ra một cách bừa bãi, thiếu kiềm chế và ngẫu nhiên. Giống như một người huấn luyện rèn luyện và làm dịu một con ngựa hoang và ngang bướng bằng cách huấn luyện nó một cách khéo léo và lâu dài, những hành động ngôn từ ngông cuồng, lang thang, vô định cũng phải được thuần hóa để trở nên ngoan ngoãn, chính trực và khéo léo. Do đó, giáo lý của Đức Phật bao gồm ba bậc: Giới (Luyện Giới), Định (Luyện Thiền) và Bát Nhã (Luyện Trí Tuệ), tất cả đều nhằm mục đích rèn luyện tâm.

Một người được rèn luyện như vậy sẽ được phú cho phẩm chất tuyệt vời là có thể kiên nhẫn chịu đựng những đau khổ và bất hạnh, vốn là kết quả của nghiệp quá khứ. Người ấy sẽ xem những bất hạnh của mình như những phước lành trá hình, bởi vì chúng sẽ soi sáng cho người ấy về ý nghĩa của nghiệp báo (nghiệp) và thuyết phục người ấy về sự cần thiết phải tập trung vào việc chỉ làm những việc thiện. Nếu nghiệp (ác) quá khứ của người ấy chưa trổ quả, người ấy vẫn có thể xóa bỏ nghiệp chưa chín này bằng cách vận dụng sức mạnh của bốn năng lực, cụ thể là: 1) quyết tâm đạt đến quả vị Phật; 2) quyết tâm tránh xa những hành vi bất thiện, ngay cả khi phải trả giá bằng mạng sống; 3) thực hiện các hành vi công đức; và 4) sám hối.

Đó là cách để đạt được hạnh phúc tức thời, mở đường cho sự giải thoát trong tương lai và giúp tránh tích lũy thêm tội lỗi.

Có một số người không hiểu Pháp, hoặc biết một chút nhưng không nắm bắt được lý luận một cách hoàn hảo, họ có thể nghĩ rằng hiện tại của tâm phụ thuộc vào thân này và rằng vì những kiếp sống quá khứ và tương lai không thể được nhìn thấy trực tiếp, nên chúng không tồn tại. Một ý tưởng như vậy cho rằng nếu một cái gì đó tồn tại thì nó phải được nhìn thấy trực tiếp hay vì tâm được tạo ra trong sự phụ thuộc vào thân và vì thân được hình thành trong sự phụ thuộc vào bốn yếu tố, nên các kiếp trước không tồn tại. Người ta cho rằng khi chết, thân trở về với bốn yếu tố chính, trong khi tâm biến mất như cầu vồng trên bầu trời, và do đó các kiếp sống tương lai không tồn tại. Những người khác, khẳng định rằng tâm lệ thuộc trên thân, cho rằng vì khả năng say sưa là một thuộc tính của rượu, nên tâm là thuộc tính của thân. Những người khác lại cho rằng, giống như độ sáng của ngọn đèn, tâm là sản phẩm của cơ thể, hoặc giống như một bức vẽ trên tường, nên tâm là vật trang trí của cơ thể.

Về cơ bản, tất cả những quan điểm này đều khẳng định rằng trong kiếp sống này, tâm được tạo ra khi sinh ra không nhất thiết phải được tạo ra từ một tâm tương ứng, bởi vì nó được sinh ra từ những yếu tố vô tri vô giác. Ví dụ, người ta cũng cho rằng say rượu là do uống rượu và lửa do kính lúp tạo ra, v.v., là kết quả phát sinh từ những nguyên nhân không tương thích. Tương tự, một số nhà biện chứng khẳng định sự không tồn tại của quan hệ nhân quả dựa trên lập luận sai lầm, cho rằng không có tác nhân nào tạo ra sự tròn trịa của hạt đậu, sự sắc nhọn của gai hay sự lộng lẫy của đuôi công, trong khi có thể thấy rằng kẻ keo kiệt không bao giờ cho đi sẽ trở nên giàu có, kẻ giết người sống lâu, v.v.

Kiếp quá khứ và tương lai chắc chắn tồn tại, vì những lý do sau: Một số cách suy nghĩ từ năm ngoái, năm trước đó, và thậm chí từ thời thơ ấu, giờ đây có thể được nhớ lại. Điều này khẳng định rõ ràng rằng đã tồn tại nhận thức trước khi sự liên tục nhận thức hiện tại về một người lớn. Tương tự như vậy, khoảnh khắc ý thức đầu tiên của kiếp sống này không phải tự nhiên mà có, cũng không phải sinh ra từ một vật gì thường hằng; nó cũng không phải sinh ra từ một nguyên nhân thực thể vững chắc, vô tri, không tương hợp - do đó, nó chắc chắn phải được sinh ra từ một nguyên nhân thực thể tương hợp. Chúng tương hợp theo cách nào? Vì một khoảnh khắc tâm là một nhận thức rõ ràng và minh mẫn, nên trước nó là một khoảnh khắc tâm tương tự, cũng rõ ràng và minh mẫn. Không thể nào một nhận thức trước đó như vậy được tạo ra ngoài cơ sở của một kiếp sống trước. Nếu không, nếu chỉ riêng thân xác vật chất là nguyên nhân thực thể của tâm, thì hậu quả phi lý của việc một xác chết có tâm và một sự thay đổi trong thân xác đòi hỏi một sự thay đổi trong ý thức cũng sẽ xảy ra.

Nguyên nhân thực thể của tâm là thứ phù hợp để chuyển hóa thành bản chất của tâm. Mặc dù thân xác có thể hoạt động như một nguyên nhân phụ trợ cho sự thay đổi tinh tế trong tâm, nhưng nó không thể là một nguyên nhân thực thể. Một vật vô tri không bao giờ có thể chuyển hóa thành tâm và tâm cũng không thể chuyển hóa thành một vật vô tri. Ví dụ, không thể có chuyện những gì không phải là không gian biến thành không gian, hay bản thân không gian biến thành thứ có bản chất không phải là không gian, và những thay đổi trong tâm phi vật chất cũng tương tự như vậy. Do đó, liên quan đến thân vật chất và tâm phi vật chất hiện tại, nguyên nhân cốt lõi của thân là máu và tinh dịch do cha mẹ tạo ra, nhưng tâm của cha mẹ không bao giờ có thể là nguyên nhân cốt lõi của tâm hiện tại. Ví dụ, một đứa trẻ đần độn và ngốc nghếch có thể được sinh ra từ cha mẹ thông minh, bất kể họ có học thức đến đâu.

Do đó, trên thực tế, tâm tuôn chảy ra từ kiếp trước đóng vai trò là nguyên nhân cốt lõi của tâm này, và máu và tinh dịch của cha mẹ hiện tại của chúng ta đóng vai trò là nguyên nhân cốt lõi của thân xác này. Vì mối quan hệ giữa hai thứ được thiết lập bởi một hành động trong kiếp trước, nên cũng tồn tại một mối quan hệ giữa tâm và thân trong kiếp này. Do đó, ngay cả một đứa trẻ sơ sinh hoặc một con bê con ngay sau khi sinh ra cũng bắt đầu ăn hoặc bú sữa mẹ mà không được dạy. Đây là dấu hiệu của những bản năng còn sót lại trong tâm từ kiếp trước./.


 

CHƯƠNG 21: THỰC HÀNH ĐỊNH AN TRỤ

***

“Trước tiên, cần đạt được định an trụ. Định an trụ là tâm đã chế ngự được sự xao lãng bởi các đối tượng bên ngoài, và tự nhiên, liên tục hướng về đối tượng thiền tập với sự hỷ lạc và nhu hoạt.”

Sau khi hoàn thành đúng đắn các thực hành chuẩn bị, bạn nên bước vào thiền tập thật sự, bao gồm định an trụ và tuệ giác đặc biệt. Định an trụ là gì? Đó là trạng thái tâm tự nhiên chú tâm vào đối tượng thiền tập nhờ việc làm lắng dịu sự xao lãng bởi các đối tượng bên ngoài.

Ngoài ra, nó dần dần loại bỏ các khuyết điểm của thân và tâm nhờ thoát khỏi sự trì trệ và kích động của tâm. "Với hỷ lạc và nhu hoạt" ám chỉ những phẩm chất thể chất và tinh thần mà một thiền sinh phát triển. Trong quá trình thiền tập, sự nhu hoạt của tâm được phát triển trước tiên và tiếp theo là sự nhu hoạt của thân thể. Điều thú vị là, sự hỷ lạc của thân thể được tạo ra sau đó, tiếp theo là sự hỷ lạc của tâm. Khi tâm hợp nhất với hỷ lạc, nó được gọi là thiền định tĩnh lặng hay định an trụ. Tuệ giác đặc biệt là gì?

“Thứ mà quán sát chân như một cách đúng đắn từ trong trạng thái tĩnh lặng của định an trụ là tuệ giác đặc biệt. Kinh Bảo Vân nói: "Thiền định an trụ là sự tập trung tâm trí vào một điểm duy nhất; Tuệ giác đặc biệt tạo ra sự phân tích cụ thể về chân lý tối hậu."

Sau khi phát triển khả năng tham gia thiền định an trụ, thiền giả không đặt tâm trí nhất niệm vào đối tượng, mà bắt đầu quán sát nó. Đối tượng thiền tập ở đây chủ yếu là chân lý tối hậu, nhưng những hiện tượng quy ước không bao gồm. Sự tập trung
tạo ra hạnh phúc thân thể và tinh thần bằng năng lực của việc phân tích đối tượng là tuệ giác đặc biệt. Sau đó, một sự hợp nhất của định an trụ và tuệ giác đặc biệt được đạt đến.

Định an trụ và tuệ giác đặc biệt không được khu biệt theo đối tượng tập trung của chúng. Cả hai đều có thể lấy chân lý quy ước và chân lý tối hậu làm đối tượng. Có thiền định an trụ tập trung vào chân lý tối hậu, và có tuệ giác đặc biệt thiền tập về chân lý quy ước. Ví dụ, có thiền định an trụ trong đó tâm được đặt nhất niệm vào tính không. Tuệ giác đặc biệt cũng thiền tập về các hiện tượng thông thường, chẳng hạn như các khía cạnh vi tế và thô thiển hơn của con đường thiền tập.

Nhìn chung, sự khác biệt giữa hai loại thiền này là thiền định an trụ là thiền tập trung và tuệ giác đặc biệt, một sự phân tích. Hoàn Thiện Thừa và ba lớp tantra đầu tiên đều có chung khái niệm này. Theo tantra cao nhất, tuệ giác đặc biệt là thiền định tập trung. Đây là một phương thức thấu hiểu độc đáo, trong đó tuệ giác đặc biệt hoạt động trọn vẹn như thiền định tập trung. Mặt khác, Đại Thủ Ấn thuộc truyền thống Kagyu và Đại Thành Tựu, hay Dzogchen, thuộc truyền thống Nyingma, chỉ đề cập đến thiền phân tích. Cũng vậy, từ Kinh Giải Thoát Tư Tưởng:

“Đức Di Lặc hỏi: "Thưa Đức Phật, làm thế nào [mọi người] nên tìm kiếm thiền định an trụ và đạt được sự tinh thông về tuệ giác đặc biệt?" Đức Phật trả lời: "Này Di Lặc, ta đã ban cho những lời dạy sau đây-đối với Bồ Tát: Kinh điển, những lời tán thán du dương, giáo lý tiên tri, kệ tụng, lời khuyên từ những trải nghiệm cụ thể, những biểu hiện của sự chứng ngộ, truyền thuyết, truyện tiền thân, giáo lý sâu rộng, giáo lý được ghi chép lại, và những chỉ dẫn.

"Bồ Tát nên lắng nghe kỹ những giáo lý này, ghi nhớ nội dung, tu tập trì tụng, và quán chiếu kỹ lưỡng trong tâm.
Với sự hiểu biết hoàn hảo, họ nên đi một mình đến những nơi xa xôi và suy ngẫm về những giáo lý này và tiếp tục tập trung tâm trí vào chúng. Họ nên tập trung tâm trí vào những chủ đề mà họ đã quán chiếu và duy trì điều này liên tục. Đó được gọi là sự nhập tâm."

Trong thiền định an trụ, bạn tập trung tâm một cách nhất niệm vào những điểm cốt lõi và tóm tắt của giáo lý. Giáo lý của Đức Phật, được mô tả trong mười hai phạm trù này, rất rộng lớn và bao gồm những chủ đề rộng lớn như những chủ đề liên quan đến các uẩn tinh thần và vật lý, các đại, các nguồn nhận thức, v.v. Trong bối cảnh thiền định an trụ, bạn không cần phải giải thích chi tiết, mà phải chú tâm vào bản chất cốt lõi hay điểm chính của giáo lý, dù đó là tính Không hay vô thường, và quán chiếu bản chất của nó.
Mặt khác, thiền định về tuệ giác đặc biệt là phân tích. Thiền giả giải thích chi tiết về bản chất, nguồn gốc và các đặc tính khác của đối tượng thiền quán, chẳng hạn như các uẩn, các đại, nguồn gốc của nhận thức, v.v.

“Khi tâm được tác động liên tục theo cách này và sự nhu hoạt của thân và tâm đã đạt được, tâm đó được gọi là an trụ. Đây là cách các vị Bồ Tát tìm kiếm tâm an trụ một cách đúng đắn.”

Thông qua quá trình thiền tập, hành giả ban đầu thực hiện được sự nhu hoạt của tinh thần. Điều này được dẫn dắt bởi một loại trạng thái nặng nề của não bộ, thực chất là dấu hiệu của việc từ bỏ những khiếm khuyết của tâm. Sau khi tạo ra sự nhu hoạt của tâm, sự nhu hoạt của thân được hiện thực. Đây là đối thủ trực tiếp của những khiếm khuyết về thể chất. An Lạc thân được sinh ra như một kết quả và từ đó sự an lạc tâm được sinh ra.

“Khi Bồ Tát đạt được sự nhu hoạt của thân và tâm và chỉ an trú trong đó, Ngài loại trừ sự phân tâm. Hiện tượng đã được quán chiếu như đối tượng của sự tập trung nhất tâm bên trong cần được phân tích và được xem giống như một sự phản chiếu. Sự phản chiếu hay hình ảnh này, là đối tượng của sự tập trung nhất tâm, cần được phân biệt thấu đáo như một đối tượng của nhận thức. Nó nên được thẩm tra một cách hoàn toàn và thể nghiệm một cách thấu đáo. Hãy thực hành nhẫn nhục và hoan hỷ với nó. Với sự phân tích, quan sát và thấu hiểu thích đáng. Đây là điều được gọi là tuệ giác đặc biệt. Vì vậy, Bồ Tát rất thành thạo trong các phương pháp của tuệ giác đặc biệt.”

Việc phát khởi động lực tích cực là rất quan trọng. Hành giả nên tái tạo thái độ tích cực này trong suốt quá trình thực hành. Hãy nghĩ rằng: "Tôi sẽ lắng nghe bản văn thiêng liêng này của Đức Kamalashila (%Liên Hoa Giới) vĩ đại để đạt được Phật quả vô thượng vì lợi ích của tất cả chúng sinh, bao la như hư không." Điều vô cùng quan trọng là chúng ta phải nhận ra sự hiếm có và quý giá của kiếp người. Trên nền tảng này, chúng ta có thể đạt được cả mục tiêu tạm thời lẫn mục tiêu tối hậu. Cuộc sống này, một con người tự do và may mắn, là một cơ hội tuyệt vời và chúng ta nên tận dụng nó.
Gốc rễ và nền tảng cho việc bước đi trên con đường giác ngộ tối hậu là sự phát khởi tư tưởng vị tha, và điều này lại xuất phát từ lòng từ bi. Các thực hành bổ sung thiết yếu khác trong bối cảnh này là thực hành bố thí và các hành động công đức khác, và rèn luyện tập trung, là sự kết hợp giữa định an trụ và tuệ giác đặc biệt.

Trước khi phát khởi lòng từ bi cho những chúng sinh khác, hành giả phải suy ngẫm về những đau khổ của luân hồi nói chung, và đặc biệt là những đau khổ của sáu cõi khác nhau trong vòng luân hồi. Thông qua quá trình quán chiếu này, hành giả sẽ nhận thức được bản chất không thể chịu đựng nổi của những đau khổ trong luân hồi. Điều này tự nhiên dẫn bạn đến việc tìm ra cách từ bỏ chúng. Liệu có cơ hội nào để chúng ta hoàn toàn thoát khỏi đau khổ không? Phương pháp nào cần phải áp dụng điều này để giải thoát khổ đau. Khi bạn thật sự dấn thân vào việc an định, tìm hiểu và thẩm tra vấn đề đầy đủ, bạn sẽ nhận ra nguyên nhân gây ra khổ đau là gì. Nguồn gốc của khổ đau nhiễm ô tinh thần phát sinh từ hành động và cảm xúc phiền não. Điều này là tạm thời và tâm có thể được hoàn toàn loại bỏ nó. Hành giả đi đến nhận ra rằng diệt đế của Tứ Diệu Đế có thể thành tựu với sự bình định, hay loại trừ khổ đau và nguyên nhân của nó. Kết quả tất yếu là cá nhân phát triển sự viễn ly, mong muốn thoát khỏi khổ đau và những nguyên nhân của nó. Và khi bạn mong muốn chúng sinh khác cũng đạt được sự giải thoát khỏi khổ đau và những nguyên nhân của nó, bạn đang thực hiện một bước quan trọng đối với việc phát triển lòng từ bi.

Trước tiên, hành giả nên rèn luyện trong các giai đoạn của con đường chung và sau đó dần dần kết hợp với những giai đoạn của con đường lớn hơn. Đây là một phương pháp hợp lý và đúng đắn để hiện thực hóa sự nghiệp tâm linh.

Sau khi thực hiện các thực hành chuẩn bị, bạn sẽ thực hiện việc rèn luyện trong hai loại tâm giác ngộ hay tâm bồ đề. Hai tâm này là tâm giác ngộ thông thường và tâm giác ngộ tối hậu. Với sự phát khởi tâm giác ngộ thông thường, hành giả thực hành hạnh Bồ Tát, bao gồm sáu pháp Ba La Mật. Thiền tập về tâm giác ngộ tối hậu - trí tuệ siêu việt trực nhận tâm - được thực hiện bằng cách phát khởi tính Không. Trí tuệ này là một sự ổn định thiền tập, là sự kết hợp giữa thiền định an trụ và tuệ giác đặc biệt. Điều này có nghĩa là khi tập trung nhất tâm, hành giả có thể đồng thời phân tích bản chất của tính Không.

Về việc phát triển thiền định an trụ , hành giả có toàn quyền lựa chọn đối tượng thiền mà mình cho là phù hợp và thoải mái. Sau đó, hành giả nên tập trung tâm vào đối tượng, không để tâm bị phân tâm bởi các đối tượng khác, cũng không để tâm rơi vào trạng thái hôn trầm. Hành giả nên hướng đến việc đạt được sự tập trung nhất tâm kết hợp với sự sáng suốt sắc bén.

Trạng thái hôn trầm xảy ra khi tâm trí bị chế ngự bởi sự lười biếng và thiếu sự sự tỉnh táo và sắc bén. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể mô tả tâm chúng ta như “không rõ ràng” hoặc "chậm chạp hay trì trệ". Khi sự "uể oải" xuất hiện, hành giả không theo sát vững vàng vào đối tượng và do đó việc thiền định không hiệu quả.

“Nếu tâm được thấy là hôn trầm qua sự buồn ngủ và tinh thần uể oải hay nếu bạn sợ rằng sự chậm chạp đang tiếp cận, thì tâm nên chú ý vào một đối tượng vô cùng thú vị như hình ảnh Đức Phật, hoặc một khái niệm về ánh sáng. Trong quá trình này, sau khi xua tan sự trì trệ, tâm nên cố gắng nhìn thấy đối tượng thật rõ ràng.”

Khi một thiền sinh bị bao vây bởi sự mơ hồ, tâm và thân cảm thấy sự trì trệ và trì trệ xảy ra trong một mối quan hệ nhân quả lẫn nhau. Người hành thiền mất đi sự sáng suốt, và tâm trở nên kém hiệu quả và không năng suất. Trì trệ là một dạng trầm cảm tinh thần. Vì vậy, để chống lại nó, hãy sử dụng các kỹ thuật có thể giúp nâng cao tinh thần. Một số cách hiệu quả hơn là nghĩ về những đối tượng vui vẻ, chẳng hạn như những phẩm chất tuyệt vời của một vị Phật, hoặc nghĩ về sự hiếm có của kiếp người quý giá và những cơ hội mà nó mang lại. Bạn nên lấy cảm hứng từ những suy nghĩ này để tham gia vào một buổi thiền định hiệu quả.

Trong quá trình phát triển định an trụ , một trở ngại chính khác cần vượt qua là sự phấn khích tinh thần hay trạo cử. Điều này xảy ra khi tâm ở trạng thái phấn khích, chạy theo những đối tượng ham muốn và nhớ lại những trải nghiệm vui vẻ và hạnh phúc trong quá khứ. Những dạng kích thích tinh thần thô thiển hơn sẽ khiến tâm trí hoàn toàn mất đi đối tượng tập trung; ở những dạng vi tế hơn, chỉ một phần tâm trí chú ý đến đối tượng. Giải pháp cho vấn đề này là thiền định về vô thường, đau khổ, v.v., điều này có thể giúp tâm trí lắng đọng.

“Bạn nên nhận ra sự hiện diện của sự trì trệ khi tâm trí không thể nhìn thấy đối tượng một cách rõ ràng, khi bạn cảm thấy như mình bị mù, ở trong một nơi tối tăm hoặc khi bạn đã nhắm mắt. Nếu trong khi thiền tập, tâm bạn chạy theo những đặc tính của các đối tượng bên ngoài như hình tướng, hoặc chuyển sự chú ý sang các hiện tượng khác, hoặc bị phân tâm bởi ham muốn một đối tượng mà bạn đã trải nghiệm trước đây, hoặc nếu bạn nghi ngờ sự phân tâm đang đến gần, hãy quán chiếu rằng tất cả các hiện tượng phức hợp đều vô thường. Hãy suy ngẫm về đau khổ, v.v., những chủ đề sẽ giúp làm dịu tâm.

Thuốc giải cho sự trì trệ và trạo cử phấn khích của tâm là nội quán. Chức năng của nội quán là quán sát tâm có ở trên đối tượng thiền tập ổn định không. Chức năng của chánh niệm là giữ tâm trên đối tượng, một khi đạt được điều này thì sự nội quán phải xem tâm có duy trì trên đối tượng hay không. Chánh niệm của bạn càng mạnh, nội quán của bạn càng mạnh. Ví dụ, nếu bạn liên tục nhớ "Làm điều này không tốt", "Điều này không có ích" v.v., thì bạn đang duy trì nội quán. Điều quan trọng là phải chánh niệm về những khía cạnh tiêu cực trong cuộc sống hàng ngày của bạn và một trong những điều đặc biệt là bạn nên cảnh giác với sự xuất hiện của chúng. Do đó, đặc điểm và chức năng của nội quán là đánh giá tình trạng của tâm và cơ thể bạn, để đánh giá xem tâm có an trụ trên đối tượng thiền định hay không.

“Trong quá trình này, sự phân tâm cần được loại bỏ và với sợi dây chánh niệm và tỉnh giác, tâm như voi sẽ được buộc chặt vào cây đối tượng thiền định. Khi bạn thấy tâm không còn uể oải và kích động, và nó tự nhiên an trú trên đối tượng, bạn nên thư giãn nỗ lực của mình và giữ trạng thái trung lập cho đến khi nó tiếp tục như vậy
./.



 

CHƯƠNG 22: PHÁT TÂM GIÁC NGỘ (tâm bồ đề)

***

Để phát tâm giác ngộ, chúng ta quán chiếu rằng, cũng như chính chúng ta, tất cả chúng sinh khác đều có khuynh hướng tự nhiên mong muốn hạnh phúc và tránh xa khổ đau. Một cá nhân đơn độc trong khi những người khác thì vô số. Nói cách khác, một người là thiểu số; những người khác là số đông.

Họ cũng vậy, họ muốn hạnh phúc. Một lần nữa, hãy quán chiếu rằng cũng như tôi muốn hạnh phúc, tôi không muốn khổ đau, và họ cũng không muốn khổ đau; và có một mối quan hệ rõ ràng giữa tôi và họ. Chúng ta phụ thuộc vào người khác, chúng ta không thể đạt được bất kỳ hạnh phúc nào: không phải trong quá khứ, không phải hôm nay, không phải vào người khác, và không phải trong tương lai.

Nếu chúng ta nghĩ nhiều hơn về lợi ích và phúc lợi của người khác, cuối cùng chính chúng ta sẽ gặt hái được lợi ích.

Suy nghĩ theo hướng này, chúng ta thấy rằng khi so sánh hai điều, bản thân và người khác, thì người khác quan trọng hơn. Chúng ta đi đến kết luận rằng số phận của chính mình chỉ là vấn đề của một người. Nếu một người phải chịu đau khổ để mang lại hạnh phúc cho vô số người khác, thì việc chịu đau khổ thật sự đáng giá. Ngược lại, nếu để đạt được hạnh phúc cho một người mà nhiều người khác phải chịu đau khổ, thì có điều gì đó không ổn trong quan điểm này.

Để tiếp cận việc thực hành tu tập tâm giác ngộ, hay phát tâm bồ đề, khát vọng đạt giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh, trước tiên chúng ta phải đạt được tâm bình đẳng. Tâm bình đẳng trong bối cảnh này có nghĩa là vun trồng một trạng thái tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, một trạng thái không bị ảnh hưởng bởi lòng ham muốn bạn bè, lòng căm thù kẻ thù hay sự thờ ơ đối với những người trung lập. Chúng ta hướng đến tất cả chúng sinh. Tìm kiếm một trạng thái tâm bình đẳng.

Nói chung, có bốn loại sinh: sinh từ bụng mẹ (thai), sinh từ trứng (noãn), sinh từ nhiệt (thấp) và sinh từ phép lạ (hóa).

Sinh từ bụng mẹ hay sinh từ trứng, chúng ta cần một người mẹ. Ví dụ, hôm nay, mặc dù mẹ tôi trong kiếp này đã mất cách đây vài năm, nhưng vào một thời điểm nào đó, tất cả các bạn đã từng là mẹ của tôi. Về mặt logic, chúng ta có thể không chắc chắn về điều đó, nhưng chúng ta có thể phát triển cảm nhận rằng các bạn đã từng là mẹ của tôi.

Trên cơ sở đó, chúng ta nên suy ngẫm về những ân huệ nhận được khi những chúng sinh này là mẹ của tôi trong những kiếp trước. Tương tự như vậy, rồi thì chúng ta thiền quán về những người khác đã từng là những người cha hay những người thân thích hay những người bạn của chúng ta trong những kiếp trước.

Nếu đúng như vậy, thì chúng ta nên nhớ rằng lòng tốt của họ dành cho chúng ta hẳn là vô hạn. Vì số kiếp của chúng ta là vô thủy, nên chúng ta hẳn đã được thụ thai vô số lần, nhiều lần là một đứa con cho mỗi kiếp. Đó là giai đoạn thứ ba.

Giai đoạn thứ tư là sự ghi nhớ đặc biệt về lòng tốt. Điều này thật sự không chỉ dành cho những người thân cận mà còn cho tất cả chúng sinh.

Sự sống còn của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Ví dụ, nếu quần áo của chúng ta làm bằng vải cotton, thì vải cotton đến từ những cánh đồng, từ những người lao động đã làm việc trên chúng không chỉ trong thế hệ này mà còn trong các thế hệ trước. Rồi đến nhà cửa của chúng ta, căn phòng này chẳng hạn. Hôm nay trời khá nóng, nhưng ngoài ra chúng ta rất thoải mái. Sự thoải mái này là kết quả của những gian khổ mà nhiều người lao động đã phải chịu đựng, họ đã cống hiến sức lực, họ đã đổ mồ hôi và làm việc cho đến khi tay họ bị lở loét và lưng còng.

Cho đến ngày nay, sự sống còn của chúng ta vẫn phụ thuộc vào lương thực. Nghĩ về bản thân mình, nếu tôi tưởng tượng tất cả những ổ bánh mì tôi đã ăn chất đống chúng sẽ tạo thành một ngọn núi lớn. Và sữa tôi đã uống sẽ tạo thành một cái ao. Nếu một người không ăn chay, thì người đó sẽ tiêu thụ một núi thịt khác. Người ăn chay ăn đủ loại trái cây và rau củ. Tất cả những thứ này không phải tự nhiên mà có. Nó không tự nhiên mà có, mà được tạo ra nhờ công sức lao động của biết bao người.

Và những tên tuổi lớn của mọi người. Ngay cả danh tiếng cũng đến từ người khác, Nếu chỉ có một người, thì sẽ không thể trở thành nổi tiếng. Danh tiếng đến từ cửa miệng của nhiều người. Điều đó cũng tùy thuộc vào những người khác.

Nhà cửa đến từ người khác; thức ăn đến từ người khác; quần áo đến từ người khác. Chúng ta có thể nghĩ, "Ồ, nhưng tôi đã trả tiền cho tất cả những thứ này, mua chúng với một số tiền nhất định. Không có tiền, tôi không thể có thức ăn hay bất cứ thứ gì khác."

Nhưng số tiền đó cũng không đến từ miệng của bạn. Nó đến từ tay của rất nhiều người. Sự tồn tại của cuộc sống chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Rồi bạn có thể nghĩ, "Vâng, đây là sự thật, nhưng những người khác không cố ý giúp tôi. Họ làm vậy như một hệ quả phụ của nỗ lực sinh tồn."

Đúng vậy. Nhưng tôi trân trọng nhiều thứ mà không hề bận tâm. Ví dụ, nếu chiếc đồng hồ của tôi rơi xuống sàn và vỡ, tôi sẽ cảm thấy mất mát. Điều này không có nghĩa là chiếc đồng hồ này có tình cảm với tôi hay tốt bụng với tôi. Nó hữu ích với tôi, nên tôi quan tâm.

Tương tự như vậy, tất cả những người đó có thể không cố ý làm bất cứ điều gì cho chúng ta, nhưng vì công việc của họ hữu ích với chúng ta, chúng ta nên ghi nhận và ghi nhớ lòng tốt của họ. Chúng ta phải nhận thức được rằng mặc dù người khác không có động lực để giúp đỡ chúng ta, nhưng chúng ta vẫn phụ thuộc vào sự đóng góp và nỗ lực của họ cho sự sinh tồn của chính mình.

Suy nghĩ về những điều này và quán chiếu về lòng tốt của người khác trở thành một thực hành rất sâu rộng.

Thực hành lòng từ bi, lòng tử tế và lòng vị tha là một điều gì đó rất tuyệt vời. Đôi khi tôi bị cuốn hút bởi sức mạnh của bộ não con người. Trái tim con người có thể tạo ra một trạng thái tâm trí vị tha đến vậy, một trạng thái có thể trân trọng người khác hơn chính bản thân mình. Những điều này thật sự đáng kinh ngạc.

Chúng ta không thể thực tập như thế này nếu không có những chúng sinh khác. Một trong những điều quan trọng nhất là những chúng sinh. Không có chúng sinh khác, chúng ta không thể thực hành tâm từ bi; không có chúng sinh khác, chúng ta không thể thực hành tâm thương yêu, lòng tử tế chân thành, lòng vị tha, tâm giác ngộ .

Không có thắc mắc về điều này. Chúng ta tôn trọng chư Phật, chư Bồ tát và các chúng sinh cao cấp, nhưng để trau dồi những phẩm chất tốt đẹp này, thì chúng sinh quan trọng hơn các vị Phật. Ở cấp độ thông thường này, chính sự tồn tại của chúng ta lệ thuộc vào sự tử tế với các chúng sinh khác, và ngay cả việc nhận ra con đường mà ta cất bước trong sự thanh lọc tâm linh cũng lệ thuộc vào những người khác.

Ví dụ, để thực hành lòng từ bi hay lòng vị tha chân chính, chúng ta cần sự bao dung. Không có sự bao dung thì không thể thực hành. Sự tức giận và thù hận là những rào cản lớn nhất đối với lòng từ bi và tình yêu thương. Để đối trị hận thù, lòng khoan dung là yếu tố then chốt. Để thực hành lòng bao dung, chúng ta cần một kẻ thù. Kẻ thù sẽ không muốn giúp đỡ chúng ta một cách vô điều kiện, nhưng nhờ hành động của kẻ thù, chúng ta có cơ hội để thực hành bao dung.

Cơ hội vàng là khi chúng ta đối mặt với kẻ thù. Tất cả chúng sinh, nhưng đặc biệt là kẻ thù của chúng ta, là rất quan trọng đối với việc phát triển tâm linh của chúng ta. Sự thực hành tâm linh của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào người khác, và sự sống còn của chúng ta cũng phụ thuộc vào người khác. Từ quan điểm đó, không chỉ những người bạn thân mà tất cả chúng sinh đều rất quan trọng đối với chúng ta.

Đó là bước thứ tư trong thiền tập.

Bước thứ năm là về cách phát triển ý nghĩ đền đáp công ơn của người khác.

Bước thứ sáu là bình đẳng bản thân với người khác. Ý nghĩa của điều này là nhận ra rằng cũng như bản thân chúng ta không mong muốn đau khổ và mong muốn hạnh phúc, thì các chúng sinh khác cũng có cùng bản chất tự nhiên như vậy. Nghĩ như vậy, chúng ta phát triển phẩm chất cân bằng này.

Chúng ta nên nghĩ về người khác như một phần cơ thể của chính mình. Trong những lúc hoạn nạn, bạn cần bảo vệ tất cả các bộ phận trên cơ thể mình.

Thái độ của bạn đối với những chúng sinh khác nên là họ là "của tôi". Khi điều gì đó làm tổn thương một chúng sinh khác, nó sẽ làm tổn thương chúng ta. Khi chúng ta mở rộng loại cảm xúc đó của chính mình đến tất cả chúng sinh, thì tất cả họ đều trở nên như gia đình. Nếu có ai bị tổn thương, chúng ta sẽ cảm nhận được điều đó như chính nỗi đau của mình. Đây là giai đoạn thứ sáu.

Giai đoạn thứ bảy là quán chiếu về nhiều bất lợi của tư tưởng tự yêu mến bản thân. Tôi thường nói với mọi người rằng một động lực rất vị kỷ, mặc dù xuất phát từ mong muốn ích kỷ về điều gì đó tốt đẹp cho bản thân, nhưng cuối cùng lại mang đến nhiều vấn đề. Sát sinh, trộm cắp, nói dối: Tất cả những hành động này đều xấu, không chỉ theo quan điểm tôn giáo mà còn theo luật pháp. Tất cả những hành động tiêu cực này đều phát sinh do lòng ích kỷ.

Ở cấp độ con người, cãi vã giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái, hàng xóm với hàng xóm, quốc gia với quốc gia, là do sự hỗn loạn nội tâm. Tất cả những hành động tiêu cực, đáng tiếc này cuối cùng đều do lòng ích kỷ.

Mặt khác, lòng vị tha thật sự là nguồn gốc chính của hạnh phúc. Nếu chúng ta giúp đỡ người khác, nếu chúng ta thể hiện sự cởi mở và chân thành với người khác, thì bản thân chúng ta cũng sẽ được lợi ích rất lớn. Ví dụ, chúng ta sẽ dễ dàng kết bạn.

Tôi thường cảm thấy rằng mặc dù người Tây Tạng chúng tôi là những người tị nạn và không quốc tịch, miễn là chúng ta chân thành, trung thực và luôn nở nụ cười, chúng tôi sẽ dễ dàng kết bạn. Ngay cả khi chúng tôi đến Liên Xô hay bất cứ nơi nào, chúng ta sẽ tìm thấy những người bạn tốt. Nhưng nếu chúng tôi ích kỷ và coi thường người khác, thì chúng tôi sẽ không thể tìm thấy bạn bè ở bất cứ đâu.

Việc nuôi dưỡng tư tưởng yêu thương người khác hơn chính mình sẽ mang lại lợi ích to lớn. Sự phát triển tâm linh, việc đạt được những trạng thái cao hơn, sự tái sinh cao hơn trong những kiếp tương lai, cũng như việc đạt được giải thoát và giác ngộ, tất cả đều phụ thuộc vào việc yêu thương người khác.

Giai đoạn thứ chín là tư tưởng thật sự hoán đổi bản thân với người khác. Đây là một trạng thái tâm đã được khởi tạo từ một quá trình trước đó. Ở đây, chúng ta có cảm giác tự nhiên muốn mang lại lợi ích cho chúng sinh khác.

Ở đây, chúng ta tham gia vào thiền định "cho và nhận". Chúng ta hình dung việc mình gánh vác những khó khăn của người khác, điều này nhằm nhấn mạnh việc thực hành lòng từ bi. Sau đó, chúng ta quán tưởng trao tặng chúng sinh khác cả hạnh phúc lẫn nhân duyên của hạnh phúc. Điều này củng cố thực hành yêu thương của chúng ta.

Tiếp theo là thái độ đặc biệt, tư tưởng về trách nhiệm vô biên. Điều này được tạo điều kiện thuận lợi nhờ kết quả của thiền tập trước đó.

Chính tư tưởng này cuối cùng sẽ phát khởi tâm giác ngộ, khát vọng đạt được giác ngộ cao nhất vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Đây là bước thứ mười một và cũng là bước cuối cùng của thiền tập.

Trong hệ thống này, cả truyền thống tu tập tâm giác ngộ do Vô Trước giảng giải và truyền thống do Tịch Thiên giảng giải đều được tích hợp.

Dựa trên động lực trên, hãy đọc bài kệ sau.

Con xin quy y Đức Phật, Pháp và Tăng Đoàn Tối Thượng
cho đến khi đạt được giác ngộ.
Nhờ sức mạnh của các thực hành, giống như sáu ba la mật,
Nguyện giác ngộ được thành tựu vì lợi ích của tất cả chúng sinh.


Nhắc lại những lời này với một cảm xúc vị tha chân thành mạnh mẽ, những lời này như nhiên liệu để ngọn lửa thật sự bùng cháy bên trong bạn.

Lặp lại đoạn văn ba lần hoặc nhiều hơn. Có thể thực hiện bằng tiếng Anh hoặc tiếng mẹ đẻ của bạn./.


 

CHƯƠNG 23: TÁM BÀI KỆ LUYỆN TÂM

***

Đến đây, tôi muốn dùng một bản văn đơn giản làm nền tảng cho bài giảng của chúng ta. Bản văn này được gọi là Tám Bài Kệ Luyện Tâm, đề cập đến các nguyên tắc phát triển Bồ Tát Tâm. Nó được viết cách đây nhiều thế kỷ.

Tôi đã nhận được khẩu truyền và giáo lý về Tám Bài Kệ Luyện Tâm từ Kyabje Trijang Rinpoche, vị thầy quá cố của tôi. Tôi đã trì tụng những bài kệ này mỗi ngày trong hơn ba mươi năm và suy ngẫm về ý nghĩa của chúng. Tác giả của bản văn này, bậc thầy Kadampa Geshe Langri Thangpa, đã xem việc thực hành giác ngộ tâm, và đặc biệt là thiền quán trao đổi với người khác, là điều quan trọng nhất trong suốt cuộc đời của ngài.

Tôi sẽ giải thích ngắn gọn tám bài kệ này.

Với quyết tâm đạt được trọn vẹn
Lợi ích cao nhất cho tất cả chúng sinh,
Những người vượt trội hơn cả viên ngọc như ý,
Nguyện tôi luôn trân quý họ.


Lòng tốt của chúng sinh đối với chúng ta không chỉ giới hạn ở việc đạt được mục tiêu cuối cùng, giác ngộ. Việc hoàn thành mục tiêu tạm thời của chúng ta, chẳng hạn như trải nghiệm hạnh phúc, cũng phụ thuộc vào lòng tốt của họ. Do đó, chúng sinh còn cao quý hơn cả viên ngọc như ý. Vì vậy, chúng ta cầu nguyện: "Nguyện con luôn trân quý họ." Chúng ta nên xem họ quý giá hơn cả viên ngọc như ý.

Mỗi khi giao tiếp với người khác,
nguyện con nghĩ mình là người thấp kém nhất,
Và từ sâu thẳm trái tim,
con xem người khác là tối cao.


Khi gặp gỡ người khác, chúng ta không nên nghĩ mình cao quý, khinh thường hay thương hại họ, mà hãy nghĩ mình khiêm nhường hơn họ. Chúng ta nên trân quý và tôn kính họ bởi vì họ có năng lực ngang bằng với hoạt động của chư Phật để ban cho chúng ta sự an lạc và giác ngộ.

Trong mọi hành động, nguyện con tìm kiếm tâm mình,
Và ngay khi những vọng tưởng khởi lên,
Gây nguy hiểm cho bản thân và người khác,
Nguyện con kiên quyết đối mặt và ngăn chặn chúng.


Khi thực hành nghi lễ, đôi khi chúng ta gặp phải những chướng ngại. Những chướng ngại này không phải từ bên ngoài mà là từ bên trong; chúng là những vọng tưởng trong tâm trí chúng ta. Kẻ thù thật sự, kẻ hủy diệt hạnh phúc của chúng ta, chính là bên trong chúng ta.

Khi chúng ta có thể rèn luyện và kiểm soát tâm trí thông qua sự tu tập và nỗ lực, chúng ta sẽ đạt được sự bình an và tĩnh lặng thật sự.

Vì vậy, Đức Phật đã nói: "Bạn là chủ nhân của chính mình." Mọi thứ đều nằm trên vai bạn, tùy thuộc vào chính bạn.

Mặc dù trong quá trình thực hành tâm giác ngộ, chúng ta phải kiềm chế mọi tiêu cực, nhưng trước hết chúng ta phải tránh xa sân hận. Sân hận tạo ra hạnh phúc, trong khi chấp thủ không bao giờ có thể trải nghiệm hạnh phúc trong một số trường hợp.

Chúng tôi có một câu nói ở Tây Tạng: "Nếu bạn mất bình tĩnh và nổi nóng, hãy cắn đốt ngón tay bạn.” Có nghĩa là khi bạn mất bình tĩnh, đừng thể hiện nó với người khác; thay vào đó, hãy tự nhủ: "Hãy bỏ nó đi."

Khi tôi thấy những chúng sinh có bản chất xấu xa,
Bị đè nặng bởi những hành vi sai trái và phiền não dữ dội,
Tôi xin trân trọng họ
Như thể tôi đã tìm thấy một kho báu quý giá và hiếm có


Một số người, khi họ thấy những người khác kiệt sức vì khổ đau và bị áp bức bởi ảo tưởng, có xu hướng tránh những trải nghiệm này vì họ sợ bị tác động và bị cuốn đi. Thay vì tránh những tình huống như vậy, các vị Bồ tát đối mặt với họ một cách dũng cảm, mang lại hạnh phúc cho chúng sinh khác, như một cơ hội.

Khi những người khác vì đố kỵ đối xử tệ bạc với tôi
Bằng sự vu khống, lăng mạ và những điều tương tự,
Tôi xin chịu đựng sự mất mát và
dâng chiến thắng cho họ
.

Khi những chúng sinh khác, đặc biệt là những người có ác cảm với bạn, lăng mạ và làm hại bạn vì đố kỵ, bạn không nên bỏ rơi họ, mà hãy tôn trọng họ như đối tượng của lòng từ bi lớn nhất của bạn và chăm sóc họ. Do đó, người thực hành nên tự mình gánh chịu "tổn thất" và trao tặng "chiến thắng" cho người khác.

Người thực hành tâm giác ngộ tự mình gánh chịu tổn thất và trao tặng chiến thắng cho người khác, không phải với động lực để bản thân trở nên đức hạnh mà là với động lực giúp đỡ chúng sinh khác.

Tuy nhiên, đôi khi việc gánh chịu tổn thất và trao tặng chiến thắng cho người khác có thể gây hại cho họ về lâu dài, nên có những trường hợp bạn không nên làm như vậy.

Nếu một người thực hành lòng vị tha thấy mình rơi vào tình huống như vậy, được thúc đẩy bởi động lực mạnh mẽ muốn giúp đỡ người khác, người ấy thật sự nên làm điều ngược lại.

Hãy nghĩ theo cách này: Khi điều gì đó không vui xảy ra và bạn nổi cáu, bạn là người thua cuộc, bởi vì sự nổi cáu ngay lập tức phá hủy sự bình yên trong tâm trí bạn và về lâu dài mang lại những kết quả không mong muốn. Tuy nhiên, nếu ai đó làm tổn thương bạn và bạn không mất đi sự bình yên trong tâm trí, đó là một chiến thắng.

Nếu bạn trở nên thiếu kiên nhẫn và mất bình tĩnh, bạn sẽ đánh mất phần tốt nhất của bộ não con người, khả năng phán đoán tình huống. Một khi bạn tức giận, gần như phát điên vì tức giận, thì bạn không thể đưa ra quyết định đúng đắn. Khi tâm trí bạn bình tĩnh, bạn có thể phân tích một cách rõ ràng hơn. Không mất đi sự tĩnh lặng, hãy phân tích hoàn cảnh và nếu cần, hãy phản ứng lại. Đây là ý nghĩa tâm linh của mất mát và chiến thắng.

Khi người mà tôi đã giúp đỡ
và mang lại lợi ích với niềm hy vọng lớn lao
lại làm tổn thương tôi một cách tồi tệ,
tôi cầu mong người đó là bậc thầy tối cao của tôi.


Khi một trong những người mà bạn đã giúp đỡ đền đáp lòng tốt của bạn một cách sai trái, bạn có thể cảm thấy rằng mình không muốn giúp đỡ người đó nữa. Chính vì lý do khó mà không oán trách người ấy - và đây là một trở ngại lớn đối với người thực hành lòng vị tha - nên cần nhấn mạnh rằng người thực hành phải đặc biệt quan tâm đến những người như vậy.

Người làm hại bạn không chỉ nên được xem là người cần được bạn đặc biệt quan tâm, mà còn là người dẫn dắt tâm linh của bạn. Bạn sẽ thấy rằng kẻ thù của bạn chính là bậc thầy tối cao của bạn.

Tóm lại, tôi xin trực tiếp và gián tiếp mang lại
Lợi ích và hạnh phúc cho tất cả những người mẹ của tôi.
Tôi xin âm thầm gánh chịu những hành động gây hại
và đau khổ của những người mẹ của tôi.


Vì người khác thì vô số, và vì bản thân bạn chỉ là một. Nếu bạn có một chút khả năng phán đoán, bạn sẽ thấy rằng thật đáng giá khi một người, dù bạn có vượt trội đến đâu, hy sinh bản thân vì người khác cũng trở nên có giá trị hơn, rằng một người không được phép hy sinh vô số người khác vì lợi ích của chính mình.

Sự hình dung đặc biệt rất có giá trị ở đây. Hãy xem mình là một người rất ích kỷ đang gánh chịu đau khổ của họ. Hãy hình dung họ đang tích cực trải nghiệm nỗi đau khổ của họ. Trước mặt bạn là vô số chúng sinh đang sống trong khi bạn ích kỷ giữ thái độ trung lập và không thiên vị. Sau đó, hãy xem bạn muốn đứng về phía nào, của họ hay của chính bạn.

Nếu các chính trị gia ích kỷ nghĩ như vậy, thì họ sẽ không ngần ngại tham gia vào phe đa số.

Ban đầu, rất khó để giảm bớt và kiểm soát thái độ ích kỷ của bạn. Nhưng nếu bạn kiên trì trong một thời gian dài, bạn sẽ thành công. Người nào từ sâu thẳm tâm mình thực hành gánh chịu mọi đau khổ và lỗi lầm của chúng sinh khác, cũng nên rèn luyện việc chia sẻ với họ mọi phẩm chất tốt đẹp, như đức hạnh và hạnh phúc, mà mình có.

Bảy thi kệ trên đề cập đến việc thực hành tâm giác ngộ quy ước, tức là phương tiện. Thi kệ thứ tám đề cập đến việc thực hành tâm giác ngộ tối hậu, tức là trí tuệ.

Bằng cách thực hành tâm giác ngộ quy ước, ta tích lũy được một kho tàng công đức; và bằng cách thực hành tâm giác ngộ tối hậu, người ta tích lũy được một kho tàng trí tuệ.

Với hai sức mạnh này kết hợp, ta đạt được kết quả là hai thân Phật: sắc thân, hay Rupakaya, và chân thân, hay Dharmakaya.

Nguyện tất cả điều này không bị ô nhiễm
bởi những vết nhơ của việc quán chiếu tám nguyên lý thế gian.
Nguyện tôi, bằng cách nhận thức mọi hiện tượng là huyễn ảo,
Không dính mắc, được giải thoát khỏi sự trói buộc của luân hồi.


Nếu ai đó thực hành một pháp môn như vậy, được thúc đẩy bởi những mối bận tâm thế tục, chẳng hạn như mong muốn một cuộc sống lâu dài và khỏe mạnh, nơi họ có được hạnh phúc và đạt được sự hoàn hảo, thì về cơ bản điều này là sai lầm. Thực hành pháp môn này, hy vọng rằng mọi người sẽ gọi mình là một hành giả tôn giáo vĩ đại, cũng chắc chắn là sai lầm. Việc xem đối tượng của lòng từ bi là thật sự tồn tại cũng vậy.

Bạn nên thực hành pháp môn này với sự hiểu biết rằng mọi hiện tượng đều giống như ảo ảnh.

Người ta hiểu rằng mọi hiện tượng đều giống như ảo ảnh thông qua việc phủ nhận sự tồn tại thật sự giả định của chúng, bỏ lại phía sau những gì chỉ là phủ nhận sự gán ghép, gán nhãn, định danh được cho là của chúng. Đây là quan điểm của Phật giáo.

Trước đó, chúng ta đã nói về quan điểm và đạo đức trong Phật giáo. Quan điểm này được gọi là duyên khởi. Mặc dù có nhiều cấp độ ý nghĩa khác nhau đối với duyên khởi, nhưng ý nghĩa cuối cùng của nó gần với sự hiểu biết về tánh Không.

Duyên khởi thiết lập bằng chứng cho thấy một điều gì đó không thật sự tồn tại. Bằng cách đạt được sự hiểu biết đầy đủ về duyên khởi, người ta có niềm tin mạnh mẽ vào sự vận hành của các quy ước. Do đó, người ta dấn thân trong thực hành tâm giác ngộ và tích lũy công đức; và bằng cách tập trung vào tánh Không, hay sự tồn tại không thật, người ta tích lũy kho tàng trí tuệ.

Được hỗ trợ bởi động lực mạnh mẽ này của tâm giác ngộ, người ta thực hành lục độ ba la mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ.

Sáu ba la mật cũng có thể được xem xét dưới ba tiêu đề như ba sự rèn luyện cao hơn.

Sự rèn luyện đầu tiên trong ba sự rèn luyện cao hơn là thực hành trì giới. Có ba cách để thực hiện điều này. Cách được giải thích trong ba la đề mộc xoa (Pratimoksha) hay luật tạng (Vinaya) được gọi là giải thoát cá nhân. Cách thứ hai là kỷ luật của Bồ tát, và cách thứ ba là kỷ luật của Mật tông.

Giới luật giải thoát cá nhân có hai loại: của tu sĩ và của cư sĩ.

Người tại gia có thể thọ hai loại giới, hoặc là một ngày hoặc trọn đời.

Tất cả các giới đều dựa trên việc tránh 10 hành động: sát sinh, trộm cắp và tà dâm (ba giới này là tránh mười điều bất thiện về thân); nói dối, nói lời gièm pha, nói lời cay nghiệt và nói lời phù phiếm (bốn điều này là những hành động bất thiện về lời nói); và tham lam, ý định gây hại và tà kiến (ba hành động bất thiện về ý). Những tà kiến được đề cập chủ yếu là những quan điểm hư vô, nhưng cũng có những tà kiến khác, chẳng hạn như chấp nhận một đấng sáng tạo toàn năng.

Cách chính để thực hành giới luật của Bồ tát là không yêu quý bản thân mình hơn người khác. Có rất nhiều giới luật Bồ tát khác nhau.

Trong giới luật Mật tông có bốn loại Mật tông, và đối với hai Mật tông cao nhất, một số giới luật nhất định phải được thọ trì và tuân giữ. Giới luật chính là tránh xa những hình tướng tầm thường và bám víu vào sự tầm thường.

Trong việc thực hành ba giới luật này, giới luật thấp hơn nên được lấy làm nền tảng cho giới luật cao hơn tiếp theo. Sau khi đã đặt nền tảng cho giới luật, người ta phải thực hành hai pháp tu cao hơn còn lại: thiền định và trí tuệ.

Mặc dù các kỹ thuật thực hành thiền định và trí tuệ được giải thích trong kinh điển Đại thừa, nhưng các kỹ thuật được giải thích trong Mật tông được Phật tử Tây Tạng coi là cao siêu hơn./.




 

CHƯƠNG 24: THIỀN VỀ TÁNH KHÔNG

***
Để nhận ra rằng tất cả các hiện tượng lừa dối đều giống nhau về bản chất tánh Không, chúng ta tập trung vào tánh Không. Khi thiền về tâm giác ngộ và sự rèn luyện định tâm đã chín muồi, thì việc thực hành tánh Không bắt đầu.

Thông thường, không cần thiết phải loại bỏ hình tướng của đối tượng khi chúng ta thiền về tánh Không, nhưng vì chúng ta đang nói về các thực hành Mật tông ở đây, nên việc loại bỏ hình tướng của đối tượng được khuyến khích.

Chúng ta có thể bắt đầu thực hành này theo một trong hai cách: Trước tiên, chúng ta có thể làm tan biến tất cả các hình tướng rồi mới thiền về tánh Không; hoặc trước tiên, chúng ta thiền về tánh Không rồi mới làm tan biến tất cả các hình tướng của đối tượng.

Bây giờ, hãy giải thích ngắn gọn về thiền về tánh Không thật sự. Ở đây, điều rất quan trọng là xác định những gì cần phủ nhận.

Các trường phái Phật giáo chính chấp nhận cái được gọi là Tứ Ấn Phật Giáo (tứ pháp ấn). Bốn điều này như sau:

Tất cả các pháp đều vô thường;
Tất cả các pháp ô nhiễm đều mang bản chất khổ đau;
Tất cả các pháp đều vô ngã và trống không; và
Chỉ có Niết bàn mới là an lạc.


Ở đây, vô ngã ám chỉ sự trống rỗng của một con người tự túc (nhân vô ngã). Vô ngã của vạn vật (pháp vô ngã) chỉ được giải thích bởi các trường phái Đại thừa: Duy Thức và Trung Đạo.

Trường phái Duy Thức, dựa trên Kinh Giải Thoát Tư Tưởng của Đức Phật, đề xuất sự tồn tại của hai loại hiện tượng. Một là, mặc dù sắc, chẳng hạn, là đối tượng liên hệ của tư duy khái niệm, nhưng nó không phải là đối tượng liên hệ của ý thức nhận thức nó như từ chính nó. Nó chỉ là một nhãn hiệu, một nhãn hiệu liên hệ của thuật ngữ sắc và cũng là tư duy khái niệm đặt nhãn hiệu. Do đó, sự vắng mặt của sắc như sự liên hệ của thuật ngữ là một loại tánh Không.

Loại tánh Không khác là sự phủ định sự tồn tại của các đối tượng bên ngoài như tồn tại tách biệt khỏi các phóng chiếu của tâm. Trường phái Duy Thức nói rằng các vật bên ngoài không tồn tại, rằng chúng là sự phóng chiếu tinh thần. Sự trình bày về tánh Không của Trường phái Trung Đạo thì khác. Mặc dù những người theo Trường phái Duy Thức bác bỏ sự hiện hữu thật sự của các đối tượng bên ngoài, nhưng họ tin vào sự tồn tại thật sự của tâm chủ quan.

Nhìn từ quan điểm của Trung Đạo, chúng ta thấy rằng những người theo Duy Thức đã rơi vào hai thái cực của cả chủ nghĩa thường hằng hay tuyệt đối lẫn chủ nghĩa hư vô. Bởi vì họ không chấp nhận các đối tượng bên ngoài, họ đã rơi vào thái cực của chủ nghĩa hư vô; và bởi vì họ chấp nhận một tâm thức chủ quan thật sự tồn tại, họ đã rơi vào thái cực của chủ nghĩa tuyệt đối.

Theo Trung Đạo, cả hiện tượng bên ngoài và tâm thức chủ quan đều không tồn tại thật sự, mà cả hai đều tồn tại theo quy ước.

Trong Trung Đạo, có hai trường phái. Một trường phái cho rằng mặc dù các hiện tượng bên ngoài không thật sự tồn tại theo nghĩa chúng không phải là đối tượng của ý thức, tức là đối tượng phân tích bản chất thật sự của nó, nhưng có một điều gì đó về phía đối tượng, một loại bản chất nào đó bên trong chính đối tượng mà chúng ta có thể tìm thấy khi phân tích và điều này biện minh cho những quy ước như vậy của nó. Ví dụ, khi họ tìm kiếm con người hay bản ngã, cuối cùng họ sẽ đưa ra tuyên bố "ý thức là bản sắc của con người", hoặc những điều tương tự như vậy. Họ nói rằng có cái gì đó tồn tại từ phía của vật thể.

Còn có một phần khác của trường phái này cho rằng các hiện tượng không thật sự tồn tại theo nghĩa chúng không phải là đối tượng của ý thức của chúng, vốn nhìn thấy thực tại của chúng; và đồng thời, ngay cả khi chúng ta phân tích tìm kiếm bản chất hay quy ước của một sự vật, chúng ta vẫn không nhận ra nó là gì. Đó là một phần khác của trường phái này. Quan điểm của trường phái thứ hai sâu sắc hơn vì nó ít mâu thuẫn hơn.

Khi xem xét các lý thuyết của các trường phái khác, chúng ta sẽ thấy nhiều mâu thuẫn logic trong hệ thống của họ.

Khi các nhà tư tưởng Trung Đạo đề xuất thuyết tính Không, họ sử dụng nhiều loại lý luận khác nhau. Một trong số đó là phân tích diễn biến của các hiện tượng, được gọi là "những mảnh kim cương của lý luận". Lý luận này phân tích từ phía hệ quả của sự vật.

Sau đó, có những lý luận mà chúng ta tìm kiếm bốn khả năng, phân tích cả từ quan điểm nguyên nhân và quan điểm hệ quả.

Lý luận được mệnh danh là vua của các lý luận, là lý do của sự khởi sinh độc lập.

Tuy nhiên, một lý luận khác là lý luận quan sát sự vắng mặt của tính đơn nhất và tính đa dạng bằng cách phân tích bản thân sự vật. Trong lý luận được gọi là sự vắng mặt của tính đơn nhất và tính đa dạng, cũng tồn tại những phong cách quan sát khác nhau.

Bây giờ tôi sẽ giải thích rất ngắn gọn về thiền quán về tính không trong lý luận về sự vắng mặt của tính đơn nhất và tính đa dạng.

Trước tiên, để thiền quán về tính không, chúng ta phải xác định tính không mà chúng ta đang thiền quán, tức là sự vật cần phủ định. Nếu không thể hiện rõ đối tượng phủ định, chúng ta không thể có hình ảnh về sự vắng mặt của nó.

Để làm được điều này, trước tiên, việc suy ngẫm về chính bản thân sẽ thuận tiện hơn. Khi bạn có cảm giác tự nhiên "Tôi đi, tôi ăn, tôi ở", hãy quán chiếu xem loại bản ngã hay cái tôi nào xuất hiện trong tâm trí bạn. Sau đó, hãy thử các phương pháp khác nhau. Như tôi đã đề cập trước đó, hãy cố gắng nhớ lại những tình huống khó chịu, ví dụ như khi bạn bị đổ lỗi một cách bất công về điều gì đó; hoặc niềm vui trong những tình huống mà bạn được khen ngợi. Trong những trải nghiệm như vậy, bạn đã có một trạng thái tâm trí rất dao động, và lúc đó dường như bạn có thể cảm nhận được cái Tôi, cái ngã đó, khá rõ ràng.

Khi cái "Tôi" này xuất hiện trong tâm trí bạn, nó có xuất hiện như một thứ gì đó tách biệt với thân và tâm bạn, như một thực thể độc lập không? Kiểu "Tôi" hay cái ngã đó, xuất hiện với bạn một cách sống động đến mức bạn cảm thấy mình có thể chạm vào nó, một thứ gì đó độc lập với thân và tâm của chính bạn, kiểu "Tôi" đó là sự phóng chiếu bị hiểu lầm nhất, và đó là đối tượng của sự phủ định.

Đây là điểm thiết yếu đầu tiên, xác định điều gì cần bị phủ định.

Điểm thiết yếu thứ hai là suy ngẫm xem, nếu một cái "Tôi" hay cái ngã độc lập như vậy tồn tại, thì nó có tồn tại như một với thân và tâm hay thật sự tách biệt với chúng; hoặc nếu có một cách thứ ba mà nó có thể tồn tại,

Bạn phải xem xét các khả năng khác nhau, và rồi bạn sẽ thấy rằng, nếu nó thật sự tồn tại như một thực thể độc lập, thì nó phải là một với thân và tâm, tức là các uẩn, hoặc nó phải tách biệt, bởi vì không có cách tồn tại thứ ba nào cả.

Đó là điểm cốt yếu thứ hai.

Các lựa chọn là nó phải là một với các uẩn hoặc hoàn toàn khác biệt với chúng.

Giờ hãy suy ngẫm rằng, nếu nó là một với các uẩn, thì cũng như tự ngã là một, thân và tâm phải là một, bởi vì chúng đồng nhất với tự ngã. Nếu tự ngã là tách biệt, thì cũng như các uẩn là đa dạng, thì tự ngã cũng phải đa dạng.

Sau đó, hãy quán chiếu rằng nếu cái ngã độc lập hay "cái tôi" này tồn tại như một cái gì đó tách biệt rõ ràng, thật sự tách biệt khỏi các uẩn, thì nó phải có thể được tìm thấy ngay cả sau khi các uẩn không còn tồn tại. Nhưng điều này không đúng.

Khi bạn tìm kiếm theo phương pháp này, bạn sẽ thấy rằng một "cái tôi" như vậy không thể được nhận diện từ phía các uẩn.

Suy luận như vậy, bạn sẽ thấy rằng cái "cái tôi" hay tự ngã độc lập mà trước đây đã xuất hiện trong ý thức của bạn chỉ là một quan niệm sai lầm hay một sự phóng chiếu. Nó không tồn tại.

Ví dụ, vào lúc bình minh hay hoàng hôn, khi không có nhiều ánh sáng, một số người có thể sợ hãi và nhầm lẫn một sợi dây thừng cuộn tròn với một con rắn. Ngoài hình ảnh con rắn trong tâm trí của người đó, không có cảm giác về sự tồn tại thật sự của con rắn từ phía đối tượng, tức sợi dây thừng.

Các uẩn cũng vậy. Khi bạn nhận thức sự xuất hiện của bản ngã trong chúng, mặc dù sự xuất hiện đó dường như phát sinh từ bên trong các uẩn, nhưng không có một hạt nhỏ nhất nào có thể được nhận diện là bản ngã bên trong các uẩn. Cũng giống như trong ví dụ trước, trong đó con rắn chỉ là một sự phóng chiếu sai lầm, không có sự tồn tại thật sự của con rắn.

Tương tự như vậy, khi chúng ta có sự xuất hiện hoặc nhận thức về một người khác biệt với các uẩn, từ phía các uẩn, không có sự tồn tại thật sự của người đó; chỉ có một nhãn hiệu được gán cho các uẩn. Miễn là không có bản chất tồn tại từ phía đối tượng liên quan, thì trong cả hai trường hợp, chúng đều giống nhau.

Xét về trạng thái của đối tượng từ phía đối tượng, hoàn toàn không có sự khác biệt nào giữa chúng. Sự khác biệt phải đến từ tâm trí nhận thức, từ phía chủ thể. Khi chúng ta gán nhãn sợi dây thừng cuộn đó là con rắn, đó là một quy ước sai lầm. Sau một lúc, mặt trời mọc, chúng ta có cái nhìn rõ ràng về đối tượng và có thể xóa tan quan niệm sai lầm rằng sợi dây thừng đó là con rắn bằng nhận thức đúng đắn, một loại ý thức khác.

Việc gán nhãn con rắn trên sợi dây thừng cuộn có thể gây hại. Tuy nhiên, trong trường hợp của một người, mặc dù không có thực tại khách quan, nhưng nếu bạn gán nhãn các uẩn là người, thì điều đó phục vụ cho mục đích của quy ước. Không có loại ý thức nào khác có thể xóa bỏ điều đó.

Tuy nhiên, nếu chúng ta nói rằng do đó không có người nào cả, thì những trải nghiệm của chính chúng ta sẽ mâu thuẫn với kết luận sai lầm của chúng ta.

Do đó, sự tồn tại của người chỉ có thể được biện minh từ ý thức chủ quan, chính ý thức này đã đặt ra cái nhãn. Vì lý do này, sự vật được cho là chỉ tồn tại trên danh nghĩa, không có thực tại khách quan./.

CHƯƠNG 25: MẬT TÔNG YOGA BỔN TÔN

***

Mục đích đặc biệt của Mật tông là cung cấp một con đường nhanh hơn để những hành giả đủ tiêu chuẩn có thể phục vụ người khác nhanh chóng hơn. Trong Mật tông, sức mạnh của trí tưởng tượng được khai thác để thiền định trong một thực hành gọi là yoga Bổn tôn. Trong thực hành này, bạn hãy tưởng tượng (1) thay thế tâm như thường lệ, đầy những cảm xúc phiền não, bằng một tâm trí tuệ thanh tịnh được thúc đẩy bởi lòng từ bi; (2) thay thế cơ thể như thường lệ (gồm thịt, máu và xương) bằng một cơ thể được tạo thành từ trí tuệ từ bi; (3) phát triển ý thức về một bản ngã thanh tịnh dựa trên tâm và thân thuần túy hiện hữu trong một môi trường lý tưởng, hoàn toàn dấn thân giúp đỡ người khác. Vì thực hành đặc biệt này của Mật tông đòi hỏi phải quán tưởng bản thân với thân Phật, hoạt động, tài nguyên và môi trường xung quanh, nên nó được gọi là "lấy trí tưởng tượng làm con đường tâm linh".

Chúng ta hãy cùng xem xét một chút băn khoăn về thực hành này. Bạn đang tự cho mình có những phẩm chất của Phật, mà hiện tại bạn chưa có. Vậy thì, đây có phải là một loại ý thức thiền định đúng đắn không? Đúng vậy. Tâm bạn đang chìm đắm trong sự hiểu biết về thực tại, từ đó bạn xuất hiện như một vị bổn tôn. Do đó, từ góc nhìn này, tâm bạn là đúng đắn. Hơn nữa, bạn đang cố tình tưởng tượng mình có một thân thể thần thánh ngay cả khi hiện tại bạn chưa sở hữu nó. Đây là một thiền định tưởng tượng; bạn không tự thuyết phục mình từ sâu thẳm rằng bạn thật sự có tâm trí, thân thể và bản ngã thanh tịnh. Thay vào đó, dựa trên sự tưởng tượng rõ ràng về thân thể và tâm trí lý tưởng, bạn đang nuôi dưỡng cảm giác là một vị bổn tôn, từ bi giúp đỡ người khác.

Để trở thành một hành giả đặc biệt của Mật tông, tức là loại hành giả mà Đức Phật đặc biệt chỉ định thực hành Mật tông, hành giả phải có những căn cơ sắc bén và đã đạt được trí tuệ ổn định do chứng ngộ tánh Không, hoặc sẵn sàng để kích hoạt trí tuệ này một cách nhanh chóng. Các yêu cầu để chỉ thực hành Mật tông không quá khắt khe; tuy nhiên, để thực hành Mật tông ở bất kỳ cấp độ nào cũng đòi hỏi một ý định mạnh mẽ để giác ngộ vì lợi ích của người khác, và một cảm giác rằng điều này cần phải được thực hiện rất nhanh chóng.

Khi bắt đầu thực hành Mật tông, cách cơ bản để phát triển sự an trụ tĩnh lặng là thiền định về chính thân thể của bạn như thể đó là thân thể của một vị bổn tôn. Khi bạn thiền định về một thân thể thần thánh, trước tiên bạn thiền định về tánh Không, đạt được càng nhiều nhận thức về tánh Không của sự tồn tại cố hữu càng tốt. Khi bạn đã thích nghi với trạng thái này, bạn sử dụng chính tâm thức đó làm nền tảng mà từ đó vị bổn tôn xuất hiện. Tâm thức, chứng ngộ tánh Không, xuất hiện như vị bổn tôn và môi trường xung quanh của vị bổn tôn đó. Trước tiên, bạn thiền định về tánh Không; Từ đó, vị bổn tôn xuất hiện, rồi bạn tập trung vào vị bổn tôn.

Theo cách này, yoga bổn tôn kết hợp trí tuệ và động lực từ bi; một ý thức duy nhất chứng ngộ tánh Không và cũng xuất hiện một cách từ bi dưới hình dạng một vị bổn tôn vị tha. Trong hệ thống Kinh điển, mặc dù có sự hợp nhất giữa trí tuệ và động lực từ bi, nhưng việc thực hành trí tuệ chỉ bị ảnh hưởng bởi sức mạnh của việc thực hành động lực, và việc thực hành động lực chỉ bị ảnh hưởng bởi sức mạnh của việc thực hành trí tuệ; chúng không nằm trong một ý thức. Một đặc điểm nổi bật của Mật tông là chúng tồn tại. Việc bao gồm động lực và trí tuệ trong một ý thức là điều khiến sự tiến bộ của Mật tông trở nên nhanh chóng.

Khi tôi còn nhỏ, Mật tông chỉ là vấn đề của đức tin mù quáng. Năm hai mươi bốn tuổi, tôi mất quê hương, và sau khi đến Ấn Độ, tôi bắt đầu thật sự đọc những lời giải thích của Tông Khách Ba về tánh Không. Sau đó, sau khi chuyển đến Dharamsala, tôi nỗ lực hơn nữa trong việc nghiên cứu và thực hành các giai đoạn của con đường, tánh Không và Mật tông. Vì vậy, mãi đến cuối những năm hai mươi tuổi, sau khi có được một số kinh nghiệm về tánh Không, tôi mới thấy yoga bổn tôn có ý nghĩa.

Một lần, tại ngôi chùa chính ở Dharamsala, tôi đang thực hiện nghi lễ tưởng tượng mình là một vị bổn tôn của Mật tông Yoga Tối thượng, được gọi là Bí Mật Tập Hội (Guhyasamaja). Tâm trí tôi liên tục tập trung vào việc tụng đọc nghi lễ, và khi cụm từ "chính tôi" xuất hiện, tôi hoàn toàn quên mất bản ngã thường ngày của mình trong mối liên hệ giữa tâm và thân. Thay vào đó, tôi có một cảm nhận rất rõ ràng về "Tôi" liên quan đến sự kết hợp mới mẻ, thuần khiết giữa tâm và thân của Guhyasamaja mà tôi đang tưởng tượng. Vì đây là loại tự nhận thức nằm ở cốt lõi của Mật tông Du-già, trải nghiệm này đã khẳng định với tôi rằng nếu có đủ thời gian, tôi chắc chắn có thể đạt được những trạng thái phi thường, sâu sắc được đề cập trong kinh điển.

Quán Đảnh

Để thực hành Mật tông, điều đặc biệt quan trọng là tiếp cận được sự truyền trao ân phước từ những bậc vĩ nhân đời trước. Ân phước cũng tồn tại trong thực hành Kinh điển, nhưng chúng rất quan trọng trong Mật tông. Phương tiện đầu tiên để tiếp cận những ân phước này là thông qua cánh cửa quán đảnh. Có bốn loại Tantra: Hành động, Thực hành, Yoga và Yoga Tối thượng, mỗi loại có những quán đảnh riêng để làm chín muồi tâm trí cho việc thực hành, và mỗi loại có những thiền định riêng.

Bạn nhận quán đảnh ở đâu? Trong một mandala, bao gồm môi trường lý tưởng và các thần thánh thiêng liêng, tất cả đều là biểu hiện của lòng từ bi và trí tuệ. Có những mandala với độ phức tạp khác nhau cho cả bốn Tantra. Một số được vẽ. Một số khác được tạo ra từ cát màu, và một số khác nữa bao gồm một loại mandala tập trung đặc biệt.

Để nhận quán đảnh và thọ giới trong một mandala Yoga Tantra hay Tantra Yoga Tối thượng, vị lạt ma chủ trì buổi lễ phải có đầy đủ các phẩm chất. Cả bốn bộ Tantra đều đặc biệt nhấn mạnh vào các phẩm chất của vị lạt ma, phù hợp với những mô tả chi tiết của Đức Phật về phẩm chất của các bậc thầy cho các giai đoạn khác nhau của con đường. Cũng hãy nhớ lời khuyên của Đức Phật rằng không chỉ dựa vào Con người mà là về giáo lý. Bạn không nên bị choáng ngợp bởi danh tiếng của một vị thầy. Quan trọng nhất, vị thầy phải nắm rõ giáo lý, thực hành.

Lời Cam Kết Và Thệ Nguyện

Trong hai bộ Tantra thấp hơn - Hành động và Thực hành, không có chỉ dẫn rõ ràng nào về việc phải thọ giới Mật tông khi nhập môn; tuy nhiên, có rất nhiều lời thệ nguyện cần phải giữ. Trong hai bộ Tantra cao hơn - Du-già và Du-già Tối Thượng - sau khi thọ giới quán đảnh với đầy đủ các khía cạnh, bạn phải thọ giới Mật tông bên cạnh những lời thệ nguyện. Yoga Tantra và Yoga Tối Thượng có mười bốn lời thệ nguyện cơ bản cũng như danh sách các giới cần tránh, nhưng vì chúng khác nhau về các con đường tương ứng, nên ngay cả những lời thệ nguyện cơ bản cũng có đôi chút khác biệt. Vì việc thực hành Tantra chủ yếu liên quan đến việc vượt qua hình tướng của bản thân và môi trường xung quanh là tầm thường (để vượt qua quan niệm cho rằng chúng là tầm thường), bạn quán tưởng mình có thân Phật, các hoạt động từ bi, các nguồn lực và nơi trú ngụ. Do đó, hầu hết các lời nguyện đều liên quan đến việc thay thế lý tưởng cho vẻ ngoài tầm thường, và kiềm chế việc đánh giá bản thân, bạn đồng hành, môi trường và các hoạt động của bạn là tầm thường.

Ngoại trừ lời nguyện giải thoát cá nhân đặc biệt chỉ kéo dài trong hai mươi bốn giờ, tất cả các lời nguyện giải thoát cá nhân khác đều được thực hiện trong suốt cuộc đời (mặc dù có thể hủy bỏ lời nguyện và trả lại giới xuất gia). Ngược lại, lời nguyện Bồ tát và Mật tông kéo dài đến tận thời điểm giác ngộ tối thượng, miễn là người đó chưa phạm phải một tội lỗi gốc.

Đầu tiên, người ta thừa nhận đạo đức giải thoát cá nhân, sau đó là đạo đức Bồ tát và cuối cùng là đạo đức Mật tông. Những người tại gia thọ nhận lời nguyện Bồ tát và Mật tông giữ phiên bản lời nguyện giải thoát cá nhân của người tại gia. Mật tông Kalachakra, vốn đã thịnh hành vào thế kỷ thứ mười một ở Ấn Độ và trở thành một một môn Mật Tông chính của Trường phái Tân Dịch ở Tây Tạng, tuyên bố rằng nếu có ba vị thầy về Mật Tông, một vị có giới nguyện của người tại gia, một vị khác có giới nguyện của một sa di và một vị thứ ba có giới nguyện của một tu sĩ tỳ kheo chính thức, thì người đã thọ giới nguyện của một tỳ kheo chính thức nên được coi trọng hơn những người khác. Điều này cho thấy sự đánh giá cao mà ngay cả hệ thống Mật tông này cũng dành cho. Mật tông Guhyasamaja nói rằng bên ngoài bạn nên giữ gìn kỷ luật thực hành giải thoát cá nhân, và bên trong duy trì sự yêu thích thực hành Mật tông. Theo những cách này, thực hành Kinh điển và Mật tông cùng nhau tác động lên đạo đức tu sĩ.

Sử dụng Tình dục trong Con đường

Chúng ta hãy bắt đầu xem xét vai trò của ham muốn tình dục trong con đường Mật tông bằng cách xem xét điều cấm tà dâm trong đạo đức giải thoát cá nhân, hoàn toàn dựa trên nguyên tắc tránh gây hại. Hành vi tình dục sai trái cụ thể được xác định chi tiết trong Kho Tàng Tri Thức Hiển Hiện của Vasubandhu. Đối với nam giới, đó là việc chung sống với vợ của người khác, hoặc với người đang được gia đình người đó chăm sóc. Đối với nữ giới cũng vậy; việc chung sống với chồng của người khác hoặc với người đang được gia đình người đó chăm sóc là bị cấm. Một số người đã đưa ra ý kiến, một cách nực cười, rằng vì văn bản của Thế
Thân (Vasubandhu) giải thích mười điều bất thiện từ góc nhìn của nam giới, nên không có lỗi nếu một người phụ nữ làm những điều bất thiện đó và do đó không có điều gì cấm đối với nữ giới!

Đối với Phật tử, quan hệ tình dục có thể được sử dụng trên con đường tâm linh bởi vì nó tạo ra sự tập trung ý thức mạnh mẽ nếu người thực hành có lòng từ bi và trí tuệ vững chắc. Mục đích của nó là để biểu hiện và kéo dài các tầng sâu hơn của tâm thức (đã được mô tả trước đó liên quan đến quá trình chết), để sử dụng sức mạnh của chúng nhằm củng cố sự chứng ngộ tính Không. Nếu không, việc quan hệ tình dục đơn thuần chẳng liên quan gì đến việc trau dồi tâm linh. Khi một người đã đạt được trình độ thực tập cao cấp trong động cơ và tuệ trí, thế thì ngay cả việc phối hợp hai cơ quan sinh dục, con gọi là giao cấu, cũng không làm mất đi hành vi thanh tịnh của người đó. Những hành giả yoga, người đã đạt được trình độ cao cấp của con đường tu tập và có đầy đủ phẩm chất, có thể dấn thân trong hành vi tình dục, và một người xuất gia với năng lực này có thể duy trì tất cả những giới nguyện.

Một bậc thầy Tây Tạng yoga thiện xảo cao cấp, khi bị một người khác phê bình và đã rằng ông ta ăn thịt và uống rượu, khi dâng cúng bổn tôn mandala. Những hành giả như vậy hình dung mình là những vị bổn tôn trong một mandala hoàn hảo,
với nhận thức bổn tôn tối thượng là sự đại lạc tối thượng - sự hợp nhất của đại lạc và tánh Không. Vị ấy cũng nói rằng sự thực tập tình dục của ông ta được thực hiện vì mục đích phát triển tri thức về thực tại. Và đó thật sự là mục đích. Một thực hành như vậy không chỉ giúp chúng ta chuyển hoá tâm linh thịt và thức uống ngon, mà còn chuyển hóa cả phân người và nước đái. Thiền định của một hành giả yoga chuyển hóa những thứ trên thành vị cam lồ thật sự. Tuy nhiên, với những người như chúng ta điều này nằm ngoài tầm với của chúng ta. Khi chúng ta vẫn chưa chuyển hóa được phân và nước đái, thì những thứ khác không nên làm!

Đức Phật đã đặt ra một loạt các giai đoạn cụ thể trên con đường chính vì lý do này. Giai đoạn sơ khởi là rèn luyện những lời nguyện giải thoát cá nhân. Nếu bạn sống như một tu sĩ nam hoặc nữ, hành vi của bạn có nền tảng vững chắc hơn, ít có nguy cơ bị phân tâm quá mức. Ngay cả khi bạn không thể thực hiện đầy đủ những lời nguyện đó, cũng không có nhiều hiểm họa. Sau đó, đơn giản là hãy thực hành, thực hành, thực hành. Một khi bạn phát triển sức mạnh nội tại, bạn có thể kiểm soát bốn yếu tố bên trong - đất, nước, lửa và gió - cho năm yếu tố nếu bao gồm cả không gian bên trong. Một khi bạn có thể kiểm soát hoàn toàn những yếu tố bên trong này, thì bạn có thể kiểm soát năm yếu tố bên ngoài. Bạn có thể sử dụng bất cứ thứ gì.

Quan hệ tình dục giúp ích gì trên con đường này? Có nhiều cấp độ ý thức khác nhau. Tiềm năng của cấp độ thô rất giới hạn, nhưng các cấp độ sâu hơn, vi tế hơn lại mạnh mẽ hơn nhiều. Chúng ta cần tiếp cận những cấp độ tinh tế này của tâm trí. Nhưng để làm được điều đó, chúng ta cần làm suy yếu và tạm thời ngăn chặn ý thức thô. Τa hoàn thành điều này điều cần thiết là mang lại những thay đổi đáng kể trong việc tuôn chảy những luồng năng lượng nội tại .

Mặc dù những phiên bản ngắn ngủi của các tầng sâu hơn của tâm trí xuất hiện do hắt hơi và ngáp, nhưng rõ ràng chúng không thể kéo dài. Ngoài ra, cần có kinh nghiệm trước đó về việc biểu hiện các tầng sâu hơn để tận dụng sự xuất hiện của chúng trong giấc ngủ sâu. Đây là lúc tình dục phát huy tác dụng. Thông qua các kỹ thuật tập trung đặc biệt trong khi quan hệ tình dục, các hành giả thành thạo có thể kéo dài các trạng thái rất sâu, vi tế và mạnh mẽ và sử dụng chúng để chứng ngộ tánh Không. Tuy nhiên, nếu bạn quan hệ tình dục trong bối cảnh tâm trí bình thường, thì sẽ không có lợi ích gì.

Một vị Phật không cần quan hệ tình dục. Các vị bổn tôn được mô tả trong một mandala thường hợp nhất với một người phối ngẫu, nhưng điều này không có nghĩa là các vị Phật phải dựa vào quan hệ tình dục để đạt được hạnh phúc. Các vị Phật có hạnh phúc trọn vẹn bên trong. Các vị bổn tôn hợp nhất tự nhiên xuất hiện trong các mandala vì lợi ích của những người có năng lực rất nhạy bén, những người có thể sử dụng một người phối ngẫu và hạnh phúc của sự hợp nhất trong việc thực hành con đường nhanh chóng của Tantra. Tương tự như vậy, Đức Phật Kim Cang Trì (Vajradhara) của Mật tông xuất hiện dưới hai hình thức an lạc và phẫn nộ, nhưng điều này không có nghĩa là Kim Cang Trì có cả hai khía cạnh này trong tính cách của Ngài. Kim Cang Trì luôn hoàn toàn từ bi. Thay vào đó, sự xuất hiện tự phát của Ngài theo nhiều cách khác nhau là vì lợi ích của các hành giả. Kim Cang Trì xuất hiện chính xác theo cách mà hành giả nên thiền định khi sử dụng những cảm xúc phiền não như dục vọng hoặc thù hận trong quá trình tu tập. Để đưa những cảm xúc mạnh mẽ như vậy vào con đường tâm linh, hành giả không thể tưởng tượng rằng họ có thân thể an lạc của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Yoga Bổn Tôn là cần thiết. Vì trong trường hợp thù hận, chẳng hạn, cần phải thiền định về chính thân mình dưới hình thức hung dữ, nên Kim Cang Trì tự động xuất hiện dưới hình thức hung dữ phù hợp để hướng dẫn hành giả cách thiền định.

Điều tương tự cũng đúng với yoga tình dục; những hành giả có khả năng sử dụng niềm hỷ lạc phát sinh từ ham muốn liên quan đến việc nhìn, mỉm cười, nắm tay hoặc hợp nhất phải thực hiện yoga Bổn Tôn phù hợp; Họ không thể tưởng tượng mình là Thích Ca Mâu Ni, một nhà sư.

Mục đích của những lần xuất hiện khác nhau của Kim Cang Trì không phải là để dọa các học viên hay khơi dậy ham muốn trong họ, mà là để chỉ cho họ cách thực hiện tưởng tượng thiền định trong những hình tướng đó để cuối cùng vượt qua những cảm xúc phiền não tiêu cực.

Một vị Phật có khả năng tự nhiên xuất hiện mà không cần nỗ lực, theo bất kỳ cách nào phù hợp. Hình tướng của những lần xuất hiện này được định hình bởi nhu cầu của người khác, chứ không phải vì lợi ích của vị Phật đó. Theo quan điểm của riêng một vị Phật, vị Phật đó có sự tự hoàn thiện trọn vẹn của Pháp Thân, nơi mà Ngài sẽ an trụ mãi mãi./.


 

CHƯƠNG 26: NƯƠNG TỰA VÀO MỘT VỊ THẦY TÂM LINH

 


** Những Phẩm chất của một vị Thầy

Mặc dù [có rất nhiều công đức được tích lũy] từ việc đọc tụng hoặc nghe dù chỉ một lần bản kinh văn này [do Atisha biên soạn, bao gồm những điểm cốt yếu của tất cả các lời tuyên bố trong kinh điển, nhưng chắc chắn bạn sẽ tích lũy được nhiều công đức hơn nữa từ việc thật sự giảng dạy và nghiên cứu Giáo Pháp thiêng liêng [được chứa đựng trong đó]. Do đó, bạn nên cân nhắc những điểm [để thực hiện điều này một cách đúng đắn].


- Những Dòng Kinh Nghiệm: Bài kệ 8

Những Dòng Kinh Nghiệm của Lạt Ma Tông Khách Ba là chìa khóa cho sự kết nối và mối quan hệ giữa tất cả các bản kinh văn khác nhau. Bài kệ này trình bày cách người thầy nên giảng dạy và cách học trò nên lắng nghe, để cả việc giảng dạy và lắng nghe đều thành công và hiệu quả. Điều rất quan trọng là người thầy phải có động lực và thái độ đúng đắn. Nếu người thầy bị thúc đẩy bởi những khát vọng tầm thường, chẳng hạn như muốn được biết đến như một học giả vĩ đại, để thu hút tiền bạc hoặc các vật phẩm khác, hoặc để lôi kéo mọi người dưới ảnh hưởng của mình, thì động lực của người thầy đó chắc chắn đã bị vấy bẩn.

Điều rất quan trọng là động lực giảng dạy của người thầy phải là khát vọng trong sáng, vị tha, muốn phục vụ và mang lại lợi ích cho người khác. Theo giáo lý Tây Tạng truyền thống, người thầy không chỉ cần đảm bảo động lực thanh tịnh mà cách truyền đạt giáo lý cũng không được sai sót. Giảng dạy sai sót cũng giống như một ông già ăn; ông ta chỉ nhai thức ăn mềm và bỏ qua những phần cứng. Tương tự, người thầy không nên chỉ tập trung vào những điểm đơn giản mà bỏ qua những điểm khó. Người ta cũng nói rằng người thầy không nên giảng Pháp như quạ xây tổ. Khi quạ xây tổ, không có trật tự hệ thống; nó hoàn toàn hỗn loạn. Tương tự, người thầy không nên giảng dạy một cách hỗn loạn mà nên trình bày một cách chính xác, có hệ thống, mang lại lợi ích cho học trò của mình.

Một phẩm chất lý tưởng khác mà một người thầy nên có là kiến thức thực nghiệm về chủ đề được giảng dạy. Nếu không thể làm được điều đó, thì người thầy nên có một số hiểu biết nhất định về việc thực hành chủ đề đó, để có thể rút ra kinh nghiệm cá nhân. Nếu cũng không thể làm được điều đó, thì ít nhất người thầy nên có một sự hiểu biết trí tuệ sâu sắc về chủ đề đó. Như Pháp Xứng (Dharmakirti) đã nói, không có cách nào bạn có thể tiết lộ cho người khác những điều bạn đang bị che giấu.

Tôi có một người bạn là một bậc thầy vĩ đại và là một bậc thầy Ấn Độ giáo rất uyên bác. Một hôm, chúng tôi đang nói chuyện về vấn đề hòa hợp liên tôn và nhu cầu giao tiếp nhiều hơn giữa các tín ngưỡng khác nhau. Tôi nhận ra rằng tôi hoàn toàn mù tịt về Hồi giáo và không có nhiều liên hệ với thế giới Hồi giáo. Ông ấy trả lời: "Ồ, không khó lắm đâu. Chỉ cần học cách trích dẫn vài câu trong kinh Koran và đưa ra một số bình luận ở đây đó. Như vậy là đủ. Bạn không cần phải biết nhiều hơn nữa."

Một ví dụ nghiêm trọng hơn liên quan đến một học giả người Đức đã tham dự một buổi thuyết giảng của một vị thầy Tây Tạng. Trong buổi thuyết giảng, ông nghe thấy những điều mâu thuẫn với một số giáo lý cơ bản của Đức Phật, vì vậy sau bài giảng, ông đã đến gặp vị thầy và nói rằng dường như ông đã mắc một số lỗi. Thay vì thừa nhận những lỗi này, vị thầy Tây Tạng nói: "Ồ, không sao cả. Ông có thể nói những điều như vậy." Điều này là sai; Điều rất quan trọng đối với giáo viên là phải cẩn thận.

Khi thuyết pháp từ pháp tòa, thân pháp của người thầy cũng rất quan trọng. Trước khi ngồi xuống, người thầy nên lạy pháp tòa ba lần. Điều này nhắc nhở họ rằng việc thuyết pháp từ pháp tòa không có nghĩa là họ được công nhận là bậc vĩ đại hay thánh nhân, mà phản ánh sự tôn kính dành cho Pháp được giảng dạy. Theo truyền thống Đại thừa, khi Đức Phật thuyết giảng về trí tuệ hoàn hảo, chính Ngài tự tạo bảo toạ để ngồi lên để biểu lộ sự tôn kính những kinh điển này, vốn được xem như là mẹ hay cội nguồn, của tất cả các thánh giả, dù là Thinh Văn, Độc Giác, hay
chư Phật toàn giác.

Khi các kinh điển của Đức Phật được các vị A-la-hán thời kỳ đầu kết tập và sau này bởi các môn đồ khác của Đức Phật, có những lúc tất cả các thành viên trong giáo đoàn sẽ cởi bỏ áo cà sa vàng bên ngoài. Bậc thượng thủ của quá trình kết tập sẽ gấp và xếp chúng lại thành một pháp tòa, sau đó ngồi trên pháp tòa này và kết tập kinh điển. Tất cả những điều này cho thấy sự tôn kính to lớn dành cho Pháp.

Sau khi vị lạt ma đã an tọa trên bảo tọa, theo phong tục Tây Tạng, ngài sẽ tụng một bài kinh quán chiếu về vô thường, để giữ cho động lực của mình trong sạch và ngăn ngừa sự kiêu ngạo hay tự phụ nảy sinh trong tâm. Những thực hành như vậy rất quan trọng trong việc đảm bảo sự thanh tịnh của người thầy, bởi vì khi bạn ngồi trên tòa cao và mọi người bắt đầu ca ngợi bạn, sẽ có nguy cơ thật sự bị lòng kiêu ngạo và tự phụ lấn át.

Vì vậy, chúng ta nên ghi nhớ lời dạy của bậc thầy Tây Tạng Dromtonpa: "Dù cả thế giới tôn kính bạn bằng cách đặt bạn lên đỉnh đầu họ, hãy luôn ngồi càng thấp càng tốt và giữ sự khiêm nhường." Trong tác phẩm Vòng Hoa Quý Báu, Long Thọ đã cầu nguyện để trở nên giống như các nguyên tố đất, nước, lửa và gió, để tất cả chúng sinh đều có thể tận hưởng và sử dụng. Nếu bạn coi trọng những ý kiến này, bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng mình giỏi hơn người khác hay cố gắng kiểm soát họ.

Việc có động lực trong sáng khi bạn tiếp nhận giáo lý cũng rất quan trọng; để đảm bảo rằng bạn có ba phẩm chất của một môn đồ lý tưởng-Một tâm trí khách quan, trí tuệ và sự quan tâm sâu sắc đến giáo lý - và bạn hãy nuôi dưỡng thái độ đúng đắn. Bằng cách này, bạn sẽ trở thành một người tiếp nhận giáo lý phù hợp. Bạn nên xem Pháp như một tấm gương, và hành động của thân, khẩu và ý của bạn chính là những gì tấm gương đó phản chiếu. Hãy thường xuyên thẩm tra những gì bạn thấy trong tấm gương Pháp và không ngừng cố gắng điều chỉnh hành vi của mình.

Một đặc điểm trong giáo lý của Đức Phật là nguồn lực và con đường quán chiếu của bạn càng đa dạng, thì sự hiểu biết và trải nghiệm của bạn càng hiệu quả, và niềm tin bạn có được càng sâu sắc. Do đó, bạn phải đảm bảo rằng phương pháp thực hành của bạn là toàn diện và kiến thức của bạn phải rộng lớn. Đồng thời, bạn cũng phải đảm bảo rằng những điều bạn học được không chỉ dừng lại ở mức độ trí tuệ. Ngay từ đầu, việc học của bạn nên hướng đến mục tiêu thực hành. Nếu bạn học mà không mong muốn liên hệ những gì bạn đang học với cuộc sống của chính mình thông qua thực hành, bạn sẽ có nguy cơ trở nên chai sạn hoặc thờ ơ.

Các bậc thầy Kadampa vĩ đại thường nói rằng nếu khoảng cách giữa Pháp và tâm bạn quá lớn đến mức một người có thể bước qua, thì việc thực hành của bạn chưa thành công. Hãy đảm bảo rằng không có một khoảng cách nhỏ nhất nào giữa giáo lý và tâm bạn. Bạn cần phải hòa nhập và hợp nhất Pháp với tâm. Một thành ngữ Tây Tạng nói rằng bạn có thể làm mềm da bằng cách nhào nó với bơ, nhưng nếu miếng da đó cứng lại vì nó đã được dùng để đựng bơ, thì dù có cố gắng thế nào đi nữa, bạn cũng không bao giờ có thể làm mềm nó. Vì ở phương Tây, bạn không đựng bơ trong hộp da, nên có lẽ câu nói đó không hợp lý, nhưng bạn hiểu ý tôi rồi đấy.

Các bậc thầy Kadampa cũng thường nói rằng nước của
giáo Pháp có thể làm ẩm ướt tâm hồn tươi mới, tha thiết của những người mới bắt đầu, dù họ có thiếu kỷ luật đến đâu, nhưng không bao giờ có thể thấm nhuần tâm trí của những người đã chai sạn bởi kiến thức.

Vì vậy, học vấn và kiến thức không bao giờ được phép lấn át lòng nhiệt thành thực hành của bạn, nhưng sự tận tâm thực hành của bạn cũng không nên cản trở sự quyết tâm học tập của bạn. Hơn nữa, cả kiến thức và sự tận tâm thực hành của bạn phải được đặt trên nền tảng của trái tim nồng ấm và từ bi của bạn. Ba phẩm chất học thuật, sự tận tâm với kiến thức và sự tận tâm với thực hành phải được đặt nền tảng trên một nền tảng ấm áp, thực hành và từ bi - nên được kết hợp.

Nếu thầy và trò chuẩn bị tâm trí như trên, trò có thể trải nghiệm sự chuyển hóa, ngay cả khi đang lắng nghe giáo lý.

Cuối cùng, cả trò và thầy nên hồi hướng công đức của mình cho sự giác ngộ của tất cả chúng sinh.

** Thực Hành Nương Tựa

Về kiến thức thế gian thông thường, mặc dù trong sự phân tích cuối cùng, những gì chúng ta học tập đến từ sự nghiên cứu và sự trưởng thành thông hiểu, nhưng ngay từ đầu chúng ta cần ai đó giới thiệu chủ đề và dẫn dắt chúng ta vượt qua. Tương tự như vậy, khi nói đến sự chuyển hóa tâm linh, mặc dù những trải nghiệm thật sự của chúng ta đến từ sự phát triển kiến thức và thực hành, một lần nữa, chúng ta vẫn cần một vị thầy giàu kinh nghiệm để chỉ đường cho chúng ta.

Vì vị thầy tâm linh rất quan trọng đối với chúng ta, nên Lạt Ma Tông Khách Ba đã đi sâu vào chi tiết trong Đại Luận về Các Giai Đoạn của Con Đường Tu Tập, và thực hành, Lạt Ma Tông Khách
Ba đã trình bày chủ đề này theo ba phạm trù rộng: phẩm chất của vị thầy tâm linh, những phẩm chất cần thiết cho người học trò và mối quan hệ thầy trò đúng đắn.

** Phẩm Chất Của Vị Thầy Tâm Linh

Những phẩm chất của một vị thầy phù hợp có thể được tìm thấy trong các văn bản từ luật tạng cho đến Kim Cang thừa. Vì ở đây chúng ta đang thảo luận về giáo lý Đại Thừa (Mahayana) nói chung, chúng ta sẽ xem xét mười phẩm chất của vị thầy được trình bày trong Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Luận
của Di Lặc:

1. Tâm trí kỷ luật (ám chỉ phẩm chất đã thành thạo việc rèn luyện cao hơn về giới luật)
2.Tâm trí tĩnh lặng (ám chỉ phẩm chất đã thành thạo việc rèn luyện cao hơn về thiền định và tập trung)
3. Tâm trí hoàn toàn tĩnh lặng (ám chỉ phẩm chất đã thành thạo việc rèn luyện cao hơn về trí tuệ, đặc biệt là trí tuệ vô ngã [Phạn ngữ: anatman; Tạng ngữ: dag-med])
4. Kiến thức vượt trội hơn kiến thức của học viên về bất kỳ môn học nào được giảng dạy
5. Năng lượng và nhiệt huyết để giảng dạy cho học viên
6. Học rộng để có nguồn lực rút ra ví dụ và trích dẫn
7. Chứng ngộ tánh Không - nếu có thể, một sự chứng ngộ chân thật về tính Không, nhưng ít nhất phải có một cam kết mạnh mẽ với việc thực hành tính Không trên cơ sở sự ngưỡng mộ sâu sắc đối với những giáo lý về tính không.
8. Sự hùng biện và kỹ năng trong việc trình bày Pháp để việc giảng dạy được hiệu quả
9. Lòng từ bi sâu sắc và sự quan tâm đến hạnh phúc của học viên mà Giáo lý được truyền dạy (có lẽ là phẩm chất quan trọng nhất)
10. Khả năng kiên trì duy trì sự nhiệt tình và cam kết với học trò, không nản lòng dù phải lặp lại giáo lý bao nhiêu lần.

Ba phẩm chất đầu tiên liên quan đến việc thực hành và trải nghiệm Tam Học Cao Cấp về Giới, Định và Tuệ. Những phẩm chất quan trọng khác là chứng ngộ Tính Không như bản chất tối hậu của thực tại và lòng từ bi đối với học trò. Những người đảm nhận vai trò của một người thầy phải đảm bảo rằng những phẩm chất này hiện hữu trong chính họ.

Khi thảo luận về mười phẩm chất này trong Đại Luận về Các Giai Đoạn của Con Đường Đạo, Lạt Ma Tông Khách Ba đã nêu ra một điểm rất quan trọng. Ngài nói rằng nếu tâm ta chưa thuần hóa, thì không có cách nào ta thuần hóa tâm người khác. Do vậy, trước nhất ta phải tìm cách thuần hóa tâm thức mình. Ngài tiếp tục nói rằng cung cách những vị thầy tương lai nên thuần hóa tâm thức mình là qua sự thực hành về tam vô lậu học.

Hơn nữa, không nên giới hạn việc giảng dạy các giáo lý chỉ một hay hai vấn đề mà nên trình bày những sự thực hành cụ thể với vị trí kiến thức hoàn toàn trong toàn bộ giáo lý của Đức Phật.

Lạt Ma Tông Khách Ba kết luận phần này trong Đại Luận của mình, bằng cách
nhấn mạnh rằng những hành giả tìm kiếm một bậc thầy tâm linh nên làm quen với mười phẩm chất này rồi thì tìm kiếm chúng trong những người mà họ tin tưởng cho lợi ích tâm linh của họ. Ngay từ đầu, khi chọn một vị thầy tâm linh, hãy thẩm tra người mà bạn chọn xem họ có thực sự sở hữu những phẩm chất này hay không. Nếu làm như thế, bạn sẽ giảm thiểu hiểm họa về việc sẽ chạm trán với những rắc rối nghiêm trọng về sau.

Nếu không, bạn có thể sử dụng sai tiêu chí để đánh giá năng lực của một vị thầy. Điều này đã từng xảy ra ở Tây Tạng. Người Tây Tạng có niềm tin sâu sắc vào Phật pháp, nhưng trình độ hiểu biết của họ không phải lúc nào cũng ngang bằng với lòng sùng kính. Thay vì đánh giá các vị thầy tâm linh bằng sự tĩnh lặng bên trong, mọi người thường dựa niềm đam mê của mình vào biểu hiện bên ngoài, chẳng hạn như một số người theo hầu trong đoàn tùy tùng của một lạt ma. Nếu một vị lạt ma đang du hành trên đường phố, mọi người sẽ nói, "Ồ, chắc hẳn ngài là một vị lạt ma rất cao quý." Người ta thường coi việc vị lạt ma đội một chiếc mũ độc đáo, đeo khăn choàng, vân vân là một dấu hiệu cho thấy sự vĩ đại về mặt tâm linh của ngài.

Người ta kể rằng khi Atisha lần đầu tiên đến Tây Tạng, người phiên dịch của ngài, Nagtso Lotsawa, và vua Ngari, Jangchub O, đã gửi thư mời tất cả các lạt ma Tây Tạng cao cấp đến để tiếp đón vị đạo sư Ấn Độ vĩ đại này. Một đoàn lạt ma đã đến gặp Atisha, và khi họ cưỡi ngựa đến, có thể nhìn thấy họ từ khá xa. Tất cả họ đều mặc trang phục rất ấn tượng với mũ đội đầu cầu kỳ và những thiết kế kỳ lạ, chẳng hạn như đầu quạ. Khi Atisha nhìn thấy họ, họ, ngài trùm khăn choàng lên đầu với vẻ mặt giả vờ kinh hãi và thốt lên: "Ôi trời! Ma Tây Tạng đang đến!". Khi các lạt ma xuống ngựa, họ cởi bỏ áo gấm và trang phục cho đến khi chỉ còn mặc mỗi áo choàng tu sĩ, rồi bước về phía Atisha, ngài lúc đó rất hài lòng.

Về chủ đề này, chúng ta cũng có thể xem xét cuộc đời của Milarepa, người tỏa sáng như một trong những viên ngọc quý của các thiền giả Tây Tạng. Một ngày nọ, lạt ma Naro Bonchung, người đã nghe nói về danh tiếng vĩ đại của Milarepa, đã đến thăm ngài. Tuy nhiên, khi gặp Milarepa ngoài đời, ông hoàn toàn bất ngờ, và sau đó nhận xét với một người nào đó: "Milarepa này nổi tiếng lắm, nhưng khi thật sự gặp ông ấy, trông ông ấy chẳng khác gì một người ăn xin."

Điều này làm tôi nhớ đến sự khiêm nhường của một lạt ma vĩ đại khác, bậc thầy Kadampa Dromtonpa. Chuyện kể rằng, có lần, khi Dromtonpa đang du hành từ nơi này đến nơi khác, ngài gặp một nhà sư Tây Tạng đang đi bộ một lúc. Vị sư này rất mệt mỏi và đôi giày của ông bắt đầu làm đau chân, nên ông cởi giày ra và vì Dromtonpa trông giống như một cư sĩ tầm thường, nên đã nhờ ông mang giày cho mình. Dromtonpa không hề thắc mắc mà vác đôi giày nặng trĩu trên lưng. Sau đó, khi họ đến gần một tu viện, vị sư nhận thấy tất cả các nhà sư đều xếp hàng hai bên đường, rõ ràng là đang chờ đón ai đó. Ông tự nhủ: "Họ không biết mình sắp đến, và dù sao thì, sự đón tiếp này chắc chắn không dành cho mình", nên ông quay sang Dromtonpa và nói: "Sự chào đón này rõ ràng là dành cho một người quan trọng. Ông có biết ai không?" Dromtonpa đáp: "Có thể là dành cho tôi." Vị sư nhìn ông với vẻ kinh ngạc và nhận ra mình đã làm gì, liền bỏ chạy, bỏ lại đôi giày.

Cũng có một ví dụ gần đây hơn nhiều. Vào khoảng đầu thế kỷ, có một thiền sư và vị thầy vĩ đại tên là Dza Patrul Rinpoche, người thật sự là một vị Bồ tát vĩ đại và là hiện thân của giáo lý trong tác phẩm Nhập Bồ Tát Hạnh của Tịch
Thiên (Shantideva). Dza Patrul Rinpoche có rất nhiều đệ tử nhưng thường sống cuộc đời du hành—bất cứ khi nào định cư ở một khu vực, ngài sẽ bắt đầu thu hút các đệ tử và đặc biệt là các vị bảo trợ. Sau một thời gian, ngài sẽ thấy nó quá nhiều và đi nơi khác để tìm sự tĩnh lặng.

Một ngày nọ, Dza Patrul Rinpoche tìm đến trú ẩn tại nhà một bà lão và bắt đầu làm việc nhà trong khi tiếp tục theo đuổi việc thực hành tâm linh của mình. Một ngày nọ, khi đang ở bên ngoài đổ bô tiểu cho bà lão, một vài vị lạt ma ghé qua nhà bà lão. Họ nói với bà lão rằng họ nghe nói thầy của họ có thể đang cư trú ở đâu đó trong vùng và hỏi bà có nhìn thấy ông không. Bà hỏi ông trông như thế nào, và khi họ bắt đầu mô tả diện mạo chung của ông, loại quần áo ông mặc, vân vân, bà đột nhiên nhận ra rằng người đang ở ngoài đổ bô của bà chính là Dza Patrul Rinpoche vĩ đại. Bà xấu hổ đến nỗi, giống như nhà sư trong câu chuyện trước, bà cũng bỏ chạy. Tôi đã nghe câu chuyện này từ cố Lạt ma Khunu Tenzin Gyaltsen.
Mục đích của tất cả những điều này là một vị thầy Đại thừa chân chính phải là người yêu thích sự giản dị, khao khát được ẩn danh và, như người Tây Tạng vẫn nói, ẩn mình trong sự cô độc như một con thú bị thương. Truyền thống Tây Tạng quy định rằng các vị thầy Đại thừa phải có ít nhất hai phẩm chất cơ bản. Thứ nhất, từ sâu thẳm trái tim, họ nên xem đời sau quan trọng hơn đời này. Nếu không có điều này, không điều gì người ta làm trở thành Pháp. Thứ hai, các vị thầy nên xem hạnh phúc của người khác quan trọng hơn hạnh phúc của chính mình. Nếu không có điều này, không điều gì người ta làm trở thành Đại thừa.

*Những Phẩm Chất Của Người Học Trò

Trong Đại Luận, Lạt Ma Tông Khách Ba tiếp tục thảo luận về ba phẩm chất chính của một người học trò lý tưởng:

1. Một tâm trí khách quan và cởi mở
2. Trí tuệ để phân biệt đúng sai, phù hợp và không phù hợp
3. Nhiệt huyết và hứng thú với môn học

Tính khách quan và cởi mở là rất quan trọng, bất kể bạn muốn học gì. Thiên kiến là một trở ngại cho kiến thức. Tính khách quan đảm bảo rằng bạn đang thực hành Pháp đúng cách và với động lực đúng đắn. Kinh điển và tác phẩm Tràng Hoa Quý Báu
của Long Thọ đều nhấn mạnh điều này và mô tả bốn cách tiếp cận và thực hành Pháp sai lầm:

1. Thực hành Pháp vì bám víu vào một truyền thống hoặc phong tục cụ thể
2. Thực hành Pháp vì thù hận hoặc ác cảm
3. Thực hành Pháp để tìm kiếm sự giải thoát tạm thời khỏi một mối đe dọa thực sự hoặc nhận thức
4. Thực hành Pháp vì vô minh

Về điểm thứ hai, đôi khi người ta quá ghét một điều gì đó đến mức họ chấp nhận bất cứ điều gì đối lập với nó. Ví dụ, có những người ở Ấn Độ có động lực thực hành Pháp để phản kháng lại địa vị đẳng cấp truyền thống của họ là những người tiện dân. Họ tiếp nhận Phật giáo vì những cảm xúc tiêu cực đối với tôn giáo truyền thống mà họ được thừa hưởng.

Phẩm chất thứ hai của người đệ tử lý tưởng, trí tuệ, cũng rất quan trọng, bởi vì trí tuệ cho phép bạn phân biệt đúng sai, vân vân.

Khi bình luận về phẩm chất này và những thái độ khác nhau mà người hành trì phải có đối với thầy của mình, Lạt ma Tông Khách Ba viết rằng đệ tử nên đối xử với thầy như những đứa con trung thành và kính trọng. Điều này không có nghĩa là bạn nên trao dây xích cho bất kỳ ai sẵn lòng nắm lấy nó, mà chỉ nên trao cho người có đủ phẩm chất. Để chứng minh cho quan điểm này, ngài trích dẫn một đoạn kinh Luật tạng nói rằng nếu một vị thầy nói điều gì đó trái với Pháp, bạn không nên tuân theo lời dạy đó. Một đoạn khác nói rằng nếu một vị thầy nói điều gì đó trái ngược với khuôn khổ tổng thể của con đường Đức Phật, đệ tử phải chỉ ra lỗi sai đó cho thầy.

Điều này làm tôi nhớ đến một câu chuyện. Vị thầy Tây Tạng và học giả uyên bác Geshe Sherab Gyatso thường tham dự các buổi thuyết giảng của một trong những vị thầy của mình. Khi nghe một điểm chính xác, Geshe Sherab sẽ ngay lập tức khen ngợi và nói, "Vâng, thưa Muchog Rinpoche. Bất cứ khi nào Muchog Rinpoche đưa ra một số lời chỉ dạy hữu ích. Đây là những chỉ dẫn mạnh mẽ của Muchog. Thật truyền cảm hứng sâu sắc." Tuy nhiên, nếu Rinpoche nói điều gì đó trái ngược với giáo lý của Đức Phật, Geshe Sherab sẽ ngay lập tức bác bỏ những gì thầy mình đã nói, nói rằng, "Không, không, không. Không ai nên nói những điều như vậy."

Về phẩm chất thứ ba của người học trò, lòng nhiệt thành và sự quan tâm đến giáo lý, ngay từ đầu của Đại Diễn Giải về Các Giai Đoạn của Con Đường, khi Lạt
ma Tông Khách Ba tuyên bố ý định viết tác phẩm, chúng ta thấy một lời kêu gọi sự chú ý của những độc giả có phẩm chất khách quan, được ban cho khả năng thông minh và mong muốn làm cho cuộc sống của họ có ý nghĩa. Để làm cho cuộc sống của bạn có ý nghĩa, bạn cần lòng nhiệt thành và sự quan tâm đến việc thực hành giáo lý; Nếu không, bất cứ điều gì bạn học cũng giống như việc vẽ một ngọn đèn - nó không soi sáng được gì cả và kiến thức của bạn vẫn chỉ dừng lại ở mức độ thông tin đơn thuần.

Chúng ta tìm thấy những lời khuyên tương tự từ các bậc thầy Ấn Độ. Trong những câu kệ chào mừng trong bài bình luận về Hiện Quán Trang Nghiêm Luận của Đức Di Lặc, Haribhadra nói rằng thầy của ông, Vimuktisena (Giải Thoát Quân), đã viết một bài bình luận về Kinh Bát Nhã Ba La Mật. Thế Thân (Vasubandhu), thầy của Vimuktisena, cũng đã viết một bài bình luận về những kinh này, nhưng đã diễn giải ý nghĩa tối hậu của chúng theo triết lý Duy Thức. Nhận ra rằng thầy của mình, Thế Thân, chưa hiểu hết ý nghĩa của những kinh này, Vimuktisena đã tự viết bài bình luận của mình để sửa chữa. Điều này cho thấy rằng ngay cả những học trò hết sức sùng kính và tôn kính thầy của mình cũng nên có trí thông minh để chỉ ra bất kỳ sai lầm nào mà thầy họ mắc phải.

Một ví dụ khác liên quan đến bậc thầy Ấn Độ Pháp Xứng (Dharmakirti), người mà thầy của ông là học trò của học giả Dignaga vào thế kỷ thứ bảy. Dharmakirti đã sử dụng văn bản của Dignaga (Trần Na) trong quá trình nghiên cứu nhận thức luận. Khi cùng thầy đọc lại văn bản, Dharmakirti nhận ra rằng ngay cả thầy của mình cũng chưa hiểu hết ý nghĩa của Trần Na. Khi đề cập điều này với thầy mình, ngài đã mời thầy viết một bài bình luận, trong đó ngài sẽ lấy lời giải thích của mình làm đối tượng phê bình.

Tất cả những ví dụ này cho thấy rõ ràng rằng các bậc thầy vĩ đại thực sự ghi nhớ lời khuyên của Đức Phật rằng các đệ tử không nên chấp nhận lời Ngài chỉ vì lòng tôn kính mà nên xem xét kỹ lưỡng như người thợ kim hoàn kiểm tra vàng bằng cách chà xát, cắt và nung, và chỉ chấp nhận tính xác thực của giáo lý Ngài dựa trên sự phân tích của chính họ.

Đại thừa có truyền thống lâu đời trong việc phân tích và xem xét chi tiết lời dạy của Đức Phật, sau đó là phương pháp diễn giải để phân biệt giữa những giáo lý có thể hiểu theo nghĩa đen và những giáo lý cần được diễn giải sâu hơn. Điều này là cần thiết bởi vì có một số giáo lý trong kinh điển, nếu hiểu theo nghĩa đen, thực sự mâu thuẫn với lý luận và kinh nghiệm. Những diễn giải này được đưa ra bởi các hành giả và bậc thầy Đại thừa, những người có niềm tin kiên định, nhất quán vào Đức Phật, một số người trong số họ thực sự sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để phụng sự Giáo Pháp. Ngay cả những bậc thầy tâm linh lỗi lạc như vậy cũng phải chịu sự phân tích phê phán lời dạy của Đức Phật.


**Thiết Lập Sự Nương Tựa Đúng Đắn

Trong Đại Luận, Lạt ma Tông Khách Ba tiếp tục mô tả cách thức thực tế để phát triển và thiết lập sự nương tựa đúng đắn vào một vị thầy tâm linh. Ngài viết: "Nương tựa vào một vị thầy tâm linh là nền tảng của con đường, bởi vì vị thầy tâm linh là nguồn gốc của mọi lợi ích tạm thời và (đặc biệt là) tối hậu." Vấn đề ở đây là nếu chúng ta gặp được một vị thầy tâm linh chân chính, người này có thể giúp chúng ta khai mở con mắt tỉnh thức và dẫn dắt chúng ta trên con đường.

Việc thực hành nương tựa vào một vị thầy tâm linh được thực hiện thông qua cả tư tưởng và hành động, nhưng nương tựa thông qua tư tưởng là chìa khóa. Điều này đòi hỏi sự vun đắp hai phẩm chất chính yếu: tín tâm và lòng tôn kính. Trong Lam-rim, chúng ta thường tìm thấy những trích dẫn từ các bản văn Kim Cương thừa. …Chúng ta nên nhận thức vị thầy của mình như một bậc giác ngộ thực sự, điều quan trọng là phải hiểu được ý nghĩa của pháp tu này.

Bằng cách khuyến khích bạn vun trồng nhận thức về bậc thầy của mình, các bản văn Lam-rim không có nghĩa là sự nương tựa như vậy vào vị thầy tâm linh là không thể thiếu. Nếu bạn nhìn vào cấu trúc của giáo lý Lam-rim, mặc dù tất cả các pháp tu đều được tổ chức trong khuôn khổ của ba phạm vi, nhưng các pháp tu sơ cấp và trung cấp được coi là những pháp tu chung, thuật ngữ "chung" ngụ ý rằng chúng không phải là những pháp tu đầy đủ hay hoàn chỉnh trong chính chúng.

Các giáo lý sơ cấp thảo luận về nhu cầu vun trồng sự tu tập để có một sự tái sinh tốt đẹp hơn và bao gồm các pháp tu liên quan đến nguyện vọng đó. Các giáo lý trung cấp đề cập đến các pháp tu của Tam Học Cao Cấp là giới, định và tuệ, nhưng ngay cả ở đây chúng vẫn chưa được trình bày đầy đủ vì chúng vẫn nằm trong bối cảnh của con đường Mahayana
(Đại thừa). Vấn đề là các bản văn Lam-rim được viết với giả định rằng mục đích tối hậu của hành giả là bước vào con đường Kim Cương thừa để đạt đến giác ngộ (phạm vi rộng lớn). Do đó, mặc dù giáo lý Lam-rim trình bày ý tưởng về việc nhận thức vị thầy của bạn như một bậc giác ngộ thực sự, nhưng điều đó không có nghĩa là mọi thực hành tâm linh đều phụ thuộc vào loại nương tựa đó. Việc vun đắp nhận thức về vị thầy của bạn như một bậc giác ngộ viên mãn chỉ có ý nghĩa trong bối cảnh Kim Cương thừa chứ không phải trong các thực hành thông thường.

Sự nương tựa thực sự vào một vị thầy tâm linh được thực hiện thông qua việc vun đắp những tư tưởng nhất định, đặc biệt là đức tin, sự ngưỡng mộ và lòng tôn kính, dựa trên sự nhận thức về lòng từ bi vĩ đại của vị thầy. Tuy nhiên, mọi việc không dừng lại ở đó. Trên thực tế, mục đích của việc vun đắp những thái độ như vậy là khơi dậy lòng nhiệt thành và sự tận tâm với việc thực hành của bạn. Bằng cách vun đắp những tư tưởng như ngưỡng mộ và tôn kính, bạn sẽ phát triển sự trân trọng sâu sắc hơn về những gì vị thầy tâm linh của bạn hiện thân, và sự cam kết và tận tâm thực hành của bạn sẽ tự nhiên tăng lên. Cách tốt nhất để cúng dường thầy của bạn là thực hành những gì bạn đã được dạy. Như Milarepa đã viết: "Tôi không có bất kỳ vật chất nào để cúng dường thầy tôi, nhưng tôi vẫn có vật phẩm cúng dường tốt nhất - sự thực hành và kinh nghiệm của tôi."

Câu Hỏi

Hỏi: Nếu tôi không hiểu lầm những gì ngài đã nói trước đó, một phần của việc thực hành lòng sùng kính đạo sư là chỉ ra chỗ nào mà bạn nghĩ thầy mình đã sai. Thứ nhất, bạn sẽ làm gì khi gần như không thể bày tỏ quan điểm bất đồng với thầy mình vì những người xung quanh có xu hướng ngăn cản việc bày tỏ lời chỉ trích? Thứ hai, làm thế nào để dung hòa việc giữ những quan điểm khác biệt cơ bản về một số vấn đề với quan điểm của đạo sư?

Đức Đạt Lai Lạt Ma: Nếu một vị lạt ma hoặc đạo sư tâm linh đã làm điều gì đó sai trái cần được chỉ ra, có thể có hai loại động cơ cho những người xung quanh thầy, chẳng hạn như thị giả hoặc đệ tử thân cận, cố gắng che giấu hoặc ngăn cản mọi người tiết lộ hoặc chỉ ra điều đó cho thầy. Một mặt, động cơ của họ có thể hoàn toàn vô hại; họ có thể chỉ đang cố gắng bảo vệ và giúp đỡ thầy mình. Động cơ như vậy là kết quả của sự thiếu hiểu biết hơn là sự thao túng tình hình một cách cố ý. Tuy nhiên, ngay cả khi đó là trường hợp, vẫn có nguy cơ gây hại cho thầy. Trên thực tế, một câu thành ngữ Tây Tạng nói rằng những đệ tử cực kỳ sùng đạo có thể biến một vị thầy chân chính thành một vị thầy giả.

Mặt khác, động cơ của những người hầu cận và đệ tử thân cận có thể trần tục hơn; họ có thể không muốn công khai hành vi sai trái của thầy mình vì sợ làm tổn hại đến danh tiếng của người đó. Điều này hoàn toàn sai, và bạn phải tìm cách bày tỏ mối quan tâm của mình với thầy. Tuy nhiên, điều rất quan trọng là phải đảm bảo rằng động cơ của chính bạn là trong sáng. Bạn không nên hành động vì thù địch với thầy mình hoặc chỉ vì muốn bày tỏ sự bất mãn. Như giáo lý Đại thừa đã nêu, chúng ta phải đảm bảo rằng mọi điều thầy mình dạy đều phù hợp với những giáo lý chính yếu của Đức Phật. Chúng ta cũng phải thực hành phương châm nương tựa vào giáo lý chứ không phải vào người thầy.

Trả lời câu hỏi thứ hai của bạn, rất khó có khả năng bạn sẽ bất đồng quan điểm với thầy mình về mọi vấn đề. Điều đó gần như không thể. Về cơ bản, bạn nên tiếp nhận và thực hành những lời dạy phù hợp với giáo lý căn bản của Đức Phật và bỏ qua những điều không phù hợp.

Hỏi: Chúng ta có cần một vị thầy để giác ngộ hay chỉ cần học Phật, sống đạo đức, tham dự các buổi thuyết giảng và thực hành thiền định là đủ?


Đức Đạt Lai Lạt Ma: Tất nhiên, chúng ta có thể thực hành, học hỏi và sống một cuộc sống đạo đức mà không cần thực sự tìm kiếm một vị thầy. Tuy nhiên, bạn phải hiểu rằng khi nói về giác ngộ, bạn không nói về điều gì đó có thể đạt được trong vài năm tới mà là về một khát vọng tâm linh, trong một số trường hợp, có thể mất nhiều kiếp và một vị thầy đủ trình độ để bạn có thể giao phó hạnh phúc tâm linh của mình, thì tất nhiên, sẽ hiệu quả hơn nếu bạn giao phó bản thân cho giáo lý Phật thực sự và thực hành trên cơ sở đó. Nếu bạn không tìm thấy một vị thầy.

Tôi có thể kể cho bạn nghe một câu chuyện liên quan đến điều này. Dromtonpa là một bậc thầy tâm linh vĩ đại, người thực sự hiện thân cho giáo lý vị tha hoán đổi bản thân và tha nhân. Trên thực tế, vào cuối đời, ông đã cống hiến hết mình để phục vụ những người mắc bệnh phong. Ngài sống với họ và cuối cùng mất mạng vì căn bệnh này, đặc biệt là căn bệnh đã làm tổn thương cằm của ngài.

Khi Dromtonpa hấp hối, ngài tựa đầu vào lòng Potowa, một trong những đệ tử chính của mình, và ngài nhận thấy Potowa đang khóc. Potowa nói: "Sau khi thầy viên tịch, chúng con có thể phó thác hạnh phúc tâm linh cho ai? Chúng con có thể lấy ai làm thầy?" Dromtonpa đáp: "Đừng lo. Sau khi ta mất, con vẫn sẽ có một vị thầy - Tam Tạng, giáo lý của Đức Phật. Hãy phó thác bản thân cho Tam Tạng; hãy lấy Tam Tạng làm thầy của con."

Tuy nhiên, khi chúng ta tiến bước trên con đường tâm linh, đến một lúc nào đó, chúng ta chắc chắn sẽ gặp được một vị thầy phù hợp và xứng đáng.

Hỏi: Nhiều kinh điển mô tả mục tiêu của người hành trì là chính quả vị Phật, nhưng trong số những vị thầy Phật giáo phương Tây lão luyện, dường như có một xu hướng chấp nhận những kết quả cục bộ, như thể Phật quả là không thể đạt được. Thái độ mới là chấp nhận tâm thức luân hồi được phân chia thành các giai đoạn tâm linh và dường như dựa trên sự bất lực của những vị thầy tinh tấn trong việc tự mình đạt được sự giải thoát hoàn toàn. Liệu việc tìm kiếm Phật quả ngay trong kiếp này có còn là một mục tiêu khả thi trong thời kỳ mà Đức Phật tuyên bố sẽ là thời kỳ đen tối của Phật giáo hay không?

Đức Đạt Lai Lạt Ma: Nếu ngài hiểu quá trình đạt được Phật quả từ góc nhìn Đại thừa nói chung, thì việc đạt được Phật quả trong khoảng thời gian ba vô số kiếp thực ra được cho là phiên bản nhanh chóng. Một số kinh văn nói về bốn mươi vô số kiếp! Tuy nhiên, theo giáo lý Kim Cương thừa nói chung, những hành giả có trình độ chứng ngộ cao có thể kéo dài tuổi thọ và đạt được Phật quả chỉ trong một kiếp. Giáo lý Mật tông Du-già Tối thượng thừa nhận rằng ngay cả trong kiếp người ngắn ngủi này, khả năng giác ngộ hoàn toàn vẫn tồn tại.

Cũng có ý tưởng về việc ai đó có thể đạt được giác ngộ hoàn toàn sau một khóa tu ba năm, điều này không quá khác biệt so với tuyên truyền của Trung Quốc. Tôi đưa ra lời bình luận này một phần là đùa, nhưng một phần hoàn toàn nghiêm túc: thời gian kỳ vọng của bạn càng ngắn thì nguy cơ mất đi lòng dũng cảm và nhiệt huyết càng lớn. Bỏ qua câu hỏi liệu phải mất ba hay bốn mươi vô số kiếp để đạt được giác ngộ, khi bạn vun trồng sâu sắc những tình cảm mạnh mẽ như những tình cảm được nêu trong lời cầu nguyện của Tịch Thiên,

Chừng nào không gian còn tồn tại,
Chừng nào chúng sinh còn tồn tại,
Cho đến lúc đó, tôi cũng sẽ tồn tại
Và xua tan những đau khổ của thế gian,


Thời gian hoàn toàn không liên quan; bạn đang suy nghĩ theo hướng vô tận. Hơn nữa, khi bạn đọc trong kinh điển Đại thừa những đoạn văn liên quan đến việc thực hành cái gọi là nhẫn nhục như áo giáp của Bồ tát, một lần nữa, thời gian không có ý nghĩa gì. Đây là những tình cảm vô cùng truyền cảm hứng./.

CHƯƠNG 27: ĐẠO ĐỨC VÀ XÃ HỘI

***

*- Giáo dục và Truyền thông

Sống một cuộc sống thật sự có đạo đức, trong đó chúng ta đặt nhu cầu của người khác lên hàng đầu và mang lại hạnh phúc cho họ có ý nghĩa to lớn đối với xã hội chúng ta. Nếu chúng ta thay đổi nội tâm - giải trừ vũ khí bằng cách đối phó một cách xây dựng với những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực - chúng ta thật sự có thể thay đổi cả thế giới. Chúng ta đã có rất nhiều công cụ mạnh mẽ để tạo ra một xã hội đạo đức và hòa bình. Tuy nhiên, một số công cụ này chưa được sử dụng hết tiềm năng. Tại thời điểm này, tôi muốn chia sẻ một số quan điểm của mình về cách thức và lĩnh vực mà chúng ta có thể bắt đầu tạo ra một cuộc cách mạng tâm linh về lòng tốt, lòng từ bi, sự kiên nhẫn, lòng khoan dung, sự tha thứ và sự khiêm nhường.

Khi chúng ta cam kết với lý tưởng quan tâm đến tất cả mọi người, điều này sẽ định hình các chính sách xã hội và chính trị của chúng ta. Tôi nói điều này không phải vì tôi cho rằng nhờ đó chúng ta có thể giải quyết mọi vấn đề của xã hội chỉ sau một đêm. Thay vào đó, tôi tin rằng nếu lòng từ bi rộng lớn hơn mà tôi vẫn luôn thúc giục độc giả truyền cảm hứng cho những nhà chính trị của chúng ta, các chính sách của chúng ta có thể sẽ gây hại thay vì phục vụ toàn thể nhân loại. Tôi tin rằng chúng ta phải thực hiện các bước thiết thực để thừa nhận trách nhiệm của mình đối với tất cả mọi người, cả hiện tại và tương lai. Điều này đúng ngay cả khi có thể có rất ít sự khác biệt thực tế giữa các chính sách đó là những điều được thúc đẩy bởi lòng từ bi này và những điều được thúc đẩy bởi, ví dụ, lợi ích quốc gia.

Mặc dù chắc chắn rằng nếu tất cả những đề xuất của tôi về lòng từ bi, kỷ luật nội tâm, sự sáng suốt và việc tu dưỡng đức hạnh được thực hiện rộng rãi, thế giới sẽ tự động trở thành một nơi tử tế và hòa bình hơn; tôi tin rằng thực tế buộc chúng ta phải giải quyết các vấn đề của mình ở cấp độ xã hội đồng thời với cấp độ cá nhân. Thế giới sẽ thay đổi khi mỗi cá nhân nỗ lực chống lại những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực của mình và khi chúng ta thực hành lòng từ bi đối với cư dân của nó, bất kể chúng ta có mối quan hệ trực tiếp với họ hay không.

Theo quan điểm này, tôi tin rằng có một số lĩnh vực mà chúng ta cần đặc biệt xem xét dưới góc độ trách nhiệm toàn cầu. Những lĩnh vực này bao gồm giáo dục, truyền thông, môi trường tự nhiên, chính trị và kinh tế, hòa bình và giải trừ quân bị, và sự hòa hợp liên tôn. Mỗi lĩnh vực đều có vai trò quan trọng trong việc định hình thế giới chúng ta đang sống, và tôi đề nghị chúng ta hãy lần lượt xem xét chúng.

Trước khi làm như vậy, tôi phải nhấn mạnh rằng những quan điểm tôi bày tỏ là quan điểm cá nhân. Chúng cũng là quan điểm của một người tự nhận không có chuyên môn về các vấn đề kỹ thuật này. Nhưng nếu những gì tôi nói có vẻ khó chấp nhận, tôi hy vọng rằng ít nhất nó sẽ khiến người đọc dừng lại để suy nghĩ. Bởi vì mặc dù sẽ không ngạc nhiên khi thấy sự khác biệt trong quan điểm về cách chúng được chuyển thành các chính sách thực tế, nhưng nhu cầu về lòng từ bi, về các giá trị tinh thần cơ bản, về kỷ luật nội tâm và tầm quan trọng của hành vi đạo đức nói chung, theo quan điểm của tôi, là không thể chối cãi.

Tâm trí con người (lo) vừa là nguồn gốc, vừa là giải pháp cho mọi vấn đề của chúng ta, nếu được định hướng đúng đắn. Những người đạt được học vấn uyên bác nhưng thiếu một trái tim nhân hậu sẽ có nguy cơ trở thành nạn nhân của những lo lắng và bồn chồn xuất phát từ những ham muốn không thể thỏa mãn. Ngược lại, một sự hiểu biết chân chính về các giá trị tinh thần sẽ có tác dụng ngược lại. Khi chúng ta nuôi dạy con cái mình có kiến thức mà không có lòng từ bi, thì thái độ của chúng đối với người khác có thể là sự pha trộn giữa lòng đố kỵ với những người ở vị trí cao hơn mình, sự cạnh tranh gay gắt với bạn bè đồng trang lứa, và sự khinh miệt những người kém may mắn hơn. Điều này dẫn đến xu hướng tham lam, tự phụ, thái quá và rất nhanh chóng là đánh mất hạnh phúc. Kiến thức rất quan trọng. Nhưng mục đích sử dụng nó còn quan trọng hơn nhiều. Điều này phụ thuộc vào tấm lòng và khối óc của người sử dụng nó.

Giáo dục không chỉ đơn thuần là truyền đạt kiến thức để đạt được mục tiêu. Nó còn là sự mở mang và những kỹ năng giúp trẻ em nhận thức được nhu cầu và quyền lợi của người khác. Chúng ta phải cho trẻ em thấy rằng hành động của chúng mang tính phổ quát. Và bằng cách nào đó, chúng ta phải tìm cách phát huy cảm xúc đồng cảm tự nhiên của chúng để chúng có ý thức trách nhiệm với người khác. Chính điều này thúc đẩy chúng ta hành động. Thật vậy, nếu phải lựa chọn giữa học tập và đức hạnh, thì đức hạnh chắc chắn có giá trị hơn. Tấm lòng tốt, thành quả của đức hạnh, tự thân nó đã là một lợi ích to lớn cho nhân loại. Chỉ kiến thức đơn thuần thì không.

Nhưng làm thế nào chúng ta có thể dạy đạo đức cho con cái mình? Tôi có cảm giác rằng, nhìn chung, các hệ thống giáo dục hiện đại đang bỏ qua việc thảo luận về các vấn đề đạo đức. Điều này có lẽ không phải là cố ý mà là một hệ quả phụ của thực tế lịch sử. Các hệ thống giáo dục thế tục được phát triển vào thời điểm các tổ chức tôn giáo vẫn còn ảnh hưởng lớn trong toàn xã hội. Bởi vì các giá trị đạo đức và nhân văn đã và vẫn thường được coi là nằm trong phạm vi của tôn giáo, người ta cho rằng khía cạnh này trong giáo dục trẻ em sẽ được chăm sóc thông qua việc nuôi dạy theo tôn giáo. Điều này đã hoạt động khá tốt cho đến khi ảnh hưởng của tôn giáo bắt đầu suy giảm. Mặc dù nhu cầu vẫn còn đó, nhưng nó không được đáp ứng. Do đó, chúng ta phải tìm một cách khác để cho trẻ em thấy rằng các giá trị cơ bản của con người là quan trọng. Và chúng ta cũng phải giúp chúng phát triển những giá trị này.

Cuối cùng, tất nhiên, tầm quan trọng của việc quan tâm đến người khác không được học qua lời nói mà qua hành động: tấm gương mà chúng ta nêu ra. Đây là lý do tại sao môi trường gia đình lại là một thành phần thiết yếu trong việc nuôi dạy con cái. Khi gia đình thiếu vắng bầu không khí yêu thương và cảm thông, khi con cái bị cha mẹ bỏ bê, chúng ta thường sớm nhận ra những tác động tiêu cực của chúng. Trẻ em thường cảm thấy bất lực và bất an, và tâm trí chúng thường bị kích động. Ngược lại, khi trẻ em nhận được tình cảm và sự bảo vệ liên tục, chúng có xu hướng hạnh phúc hơn và tự tin hơn vào khả năng của mình. Sức khỏe thể chất của chúng không chỉ được quan tâm đến bản thân mà còn cho người khác. Môi trường gia đình cũng rất quan trọng vì trẻ em học được những hành vi tiêu cực từ cha mẹ. Ví dụ, nếu người cha luôn cãi vã với bạn bè, hoặc nếu cha mẹ luôn tranh cãi gay gắt, mặc dù lúc đầu trẻ có thể thấy khó chịu, nhưng cuối cùng chúng sẽ hiểu đó là điều hoàn toàn bình thường. Việc học hỏi này sau đó được đưa ra khỏi gia đình và cũng để tốt hơn. Và chúng ta thấy rằng chúng được đưa vào thế giới.

Cũng không cần phải nói rằng những gì trẻ em học được về ứng xử đạo đức ở trường phải được thực hành trước tiên. Trong việc này, giáo viên có một trách nhiệm đặc biệt. Bằng chính hành vi của mình, họ có thể khiến trẻ em ghi nhớ suốt đời. Nếu hành vi này có nguyên tắc, kỷ luật và giàu lòng từ bi, các giá trị của họ sẽ dễ dàng được khắc ghi vào tâm trí trẻ. Điều này là do những bài học được truyền đạt bởi một giáo viên với động lực tích cực (kun long) sẽ thấm sâu nhất vào tâm trí học sinh. Tôi biết điều này từ kinh nghiệm của chính mình. Khi còn nhỏ, tôi rất lười biếng. Nhưng khi tôi nhận thức được tình cảm và sự quan tâm của các giáo thọ sư, bài học của họ thường thấm nhuần hơn nhiều so với việc một trong số họ tỏ ra nghiêm khắc hoặc vô cảm vào ngày hôm đó.

Về những vấn đề cụ thể của giáo dục, đó là dành cho các chuyên gia. Do đó, tôi sẽ giới hạn bản thân trong một vài gợi ý. Đầu tiên là để đánh thức nhận thức của giới trẻ về tầm quan trọng của các giá trị cơ bản của con người, tốt hơn hết là không nên trình bày các vấn đề của xã hội chỉ đơn thuần là vấn đề đạo đức hay tôn giáo. Điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng điều đang bị đe dọa là sự tồn vong của chúng ta. Bằng cách này, các em sẽ hiểu rằng tương lai nằm trong tay các em. Thứ hai, tôi tin rằng đối thoại có thể và nên được dạy trong lớp học. Việc đưa ra cho học sinh một vấn đề gây tranh cãi và để các em tranh luận về nó là một cách tuyệt vời để giới thiệu cho các em khái niệm giải quyết xung đột một cách phi bạo lực. Thật vậy, người ta hy vọng rằng nếu các trường học biến điều này thành một ưu tiên, nó có thể mang lại tác động tích cực đến việc tranh cãi, thì nó có thể trở thành chính cuộc sống gia đình. Khi nhìn thấy cha mẹ mình, một đứa trẻ đã hiểu được giá trị của đối thoại sẽ ngay lập tức nói: "Ồ, không, đó không phải là cách. Cha mẹ phải nói chuyện, để thảo luận mọi việc cho đúng đắn."

Cuối cùng, điều cần thiết là chúng ta phải loại bỏ khỏi chương trình giảng dạy ở trường học bất kỳ xu hướng nào nhằm đánh giá người khác theo hướng tiêu cực. Có một số nơi trên thế giới, chẳng hạn như việc giảng dạy lịch sử, lại nuôi dưỡng sự cố chấp và phân biệt chủng tộc đối với các cộng đồng khác. Tất nhiên, điều này là sai. Nó không đóng góp gì cho hạnh phúc của nhân loại. Giờ đây, hơn bao giờ hết, chúng ta cần cho con em mình thấy rằng sự phân biệt giữa "quốc gia tôi" và "quốc gia bạn", "tôn giáo tôi" và "tôn giáo bạn" chỉ là những cân nhắc thứ yếu. Thay vào đó, chúng ta phải nhấn mạnh vào nhận định rằng quyền được hạnh phúc của tôi không có giá trị hơn quyền của người khác. Điều này không có nghĩa là tôi tin rằng chúng ta nên giáo dục trẻ em từ bỏ hoặc phớt lờ nền văn hóa và truyền thống lịch sử mà chúng được sinh ra. Ngược lại, điều rất quan trọng là chúng phải được nuôi dưỡng dựa trên những điều này. Trẻ em nên học cách yêu đất nước, tôn giáo, văn hóa của mình, v.v. Nhưng nguy hiểm sẽ đến khi điều này phát triển thành chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa vị chủng và sự cuồng tín tôn giáo. Tấm gương của Mahatma Gandhi là rất phù hợp ở đây. Mặc dù ông có trình độ học vấn phương Tây rất cao, nhưng ông không bao giờ quên hoặc trở nên xa lạ với di sản phong phú của nền văn hóa Ấn Độ của mình.

Nếu giáo dục là một trong những vũ khí mạnh mẽ nhất của chúng ta trong nỗ lực mang lại một thế giới tốt đẹp hơn, hòa bình hơn, thì phương tiện truyền thông đại chúng lại là một ví dụ khác. Như mọi chính trị gia đều biết, họ không còn là những người duy nhất có thẩm quyền trong xã hội. Bên cạnh báo chí và sách vở, phát thanh, phim ảnh và truyền hình cùng nhau có ảnh hưởng đến những cá nhân mà một trăm năm trước không thể tưởng tượng được. Quyền năng này mang lại một trách nhiệm lớn lao
của tất cả những người làm việc trong ngành truyền thông. Nhưng nó cũng mang lại trách nhiệm to lớn cho mỗi chúng ta, những người, với tư cách cá nhân, lắng nghe, đọc và xem. Chúng ta cũng có vai trò của mình. Chúng ta không bất lực trước truyền thông. Suy cho cùng, công tắc điều khiển nằm trong tay chúng ta.

Điều này không có nghĩa là tôi ủng hộ việc đưa tin nhạt nhẽo, thiếu sự thú vị. Ngược lại, đối với báo chí điều tra, tôi tôn trọng và đánh giá cao sự can thiệp của truyền thông. Không phải tất cả công chức đều trung thực trong việc thực thi nhiệm vụ của mình. Do đó, việc để các nhà báo, với cái mũi dài như vòi voi, rình mò và vạch trần những hành vi sai trái ngay tại chỗ là điều phù hợp. Chúng ta cần biết khi nào một cá nhân nổi tiếng này hay một cá nhân nổi tiếng khác lại che giấu một khía cạnh rất khác đằng sau vẻ ngoài dễ chịu. Không nên có sự khác biệt giữa vẻ bề ngoài và cuộc sống nội tâm của cá nhân đó. Suy cho cùng, đó là cùng một người. Những sự khác biệt như vậy cho thấy họ không đáng tin cậy. Đồng thời, điều quan trọng là người điều tra không được hành động vì động cơ không chính đáng. Nếu không khách quan và không tôn trọng quyền của người khác, bản thân cuộc điều tra sẽ bị vấy bẩn.

Liên quan đến vấn đề truyền thông nhấn mạnh vào tình dục và bạo lực, có nhiều yếu tố cần xem xét. Thứ nhất, rõ ràng là phần lớn khán giả thích thú với những cảm xúc mà loại hình tài liệu này khơi dậy. Thứ hai, tôi rất nghi ngờ rằng những người sản xuất tài liệu chứa nhiều cảnh tình dục và bạo lực rõ ràng có ý định gây hại. Động cơ của họ chắc chắn chỉ là thương mại. Việc điều này tự thân là tích cực hay tiêu cực, theo tôi, không quan trọng bằng việc liệu nó có thể có tác động lành mạnh về mặt đạo đức hay không. Nếu kết quả của việc xem một bộ phim có nhiều cảnh bạo lực là khơi dậy lòng từ bi của người xem, thì có lẽ việc miêu tả bạo lực đó là chính đáng. Nhưng nếu việc tích tụ những hình ảnh bạo lực dẫn đến sự thờ ơ, thì tôi nghĩ là không. Thật vậy, sự chai sạn lòng tin như vậy tiềm ẩn nhiều nguy hiểm. Nó dễ dàng dẫn đến sự thiếu đồng cảm.

Khi truyền thông tập trung quá nhiều vào những khía cạnh tiêu cực của bản chất con người, chúng ta có nguy cơ bị thuyết phục rằng bạo lực là những đặc điểm chính của nó. Đây là một sai lầm, tôi đã tin như vậy. Sự kiện rằng bạo lực được đưa tin rất trái ngược. Tin tức tốt lành không được nổi bật một cách chính xác vì có quá nhiều.
Đồng ý rằng tại bất kỳ thời điểm nào, chắc chắn phải có hàng trăm triệu hành động tử tế diễn ra trên khắp thế giới. Mặc dù chắc chắn sẽ có nhiều hành vi bạo lực diễn ra cùng một lúc, nhưng bạo lực chắc chắn ít hơn rất nhiều. Do đó, nếu muốn truyền thông đạo đức và có trách nhiệm, nó cần phản ánh sự thật đơn giản này.

Rõ ràng là cần phải quản lý truyền thông. Việc chúng ta ngăn cản trẻ em xem một số nội dung nhất định cho thấy chúng ta đã phân biệt được điều gì là phù hợp và điều gì không phù hợp tùy theo từng trường hợp. Nhưng liệu pháp luật có phải là cách đúng đắn hay không vẫn rất khó để đánh giá. Như trong mọi vấn đề đạo đức, kỷ luật chỉ thật sự có tác dụng khi nó xuất phát từ bên trong. Có lẽ cách tốt nhất để đảm bảo rằng thông tin mà các phương tiện truyền thông khác nhau cung cấp là lành mạnh nằm ở cách chúng ta giáo dục con cái mình. Nếu chúng ta giúp chúng nhận thức được trách nhiệm của mình, chúng sẽ có kỷ luật hơn khi tham gia vào lĩnh vực truyền thông.

Mặc dù có lẽ hơi quá khi hy vọng rằng truyền thông sẽ thật sự quảng bá các giá trị đạo đức và các nguyên tắc của lòng từ bi , nhưng ít nhất chúng ta cũng nên kỳ vọng rằng những người liên quan sẽ cẩn trọng khi có khả năng gây ra tác động tiêu cực. Ít nhất, không nên có chỗ cho việc khuyến khích những hành vi tiêu cực như bạo lực phân biệt chủng tộc. Nhưng ngoài điều này ra, tôi không biết. Có lẽ chúng ta có thể tìm ra cách kết nối trực tiếp hơn những người tạo tin tức và giải trí với người xem, người đọc và người nghe?

*
- Thế Giới Tự nhiên

Nếu có một lĩnh vực mà cả giáo dục và truyền thông đều có trách nhiệm đặc biệt, thì theo tôi, đó chính là môi trường tự nhiên của chúng ta. Một lần nữa, trách nhiệm này liên quan đến vấn đề đúng sai hơn là sự sống còn. Thế giới tự nhiên là nhà của chúng ta. Nó không nhất thiết phải là thiêng liêng hay thánh thiện, nó chỉ đơn giản là nơi chúng ta sống. Do đó, việc quan sát môi trường là điều chúng ta nên làm. Đây là lẽ thường tình. Nhưng chỉ gần đây, quy mô dân số và sức mạnh của khoa học công nghệ mới phát triển đến mức chúng có thể tác động trực tiếp đến thiên nhiên.
Nói cách khác, cho đến lúc này, Mẹ Trái Đất đã có thể chịu đựng được ngôi nhà bừa bộn của chúng ta. Giai đoạn này đã đến lúc Mẹ không thể im lặng chấp nhận hành vi của chúng ta nữa. Những vấn đề do suy thoái môi trường gây ra có thể được coi là phản ứng của Mẹ đối với hành vi vô trách nhiệm của chúng ta. Mẹ đang cảnh báo chúng ta rằng ngay cả sự khoan dung của Mẹ cũng có giới hạn.

Không nơi nào hậu quả của việc chúng ta không rèn luyện tính kỷ luật trong cách ứng xử với môi trường lại rõ ràng hơn trường hợp Tây Tạng ngày nay. Không ngoa khi nói rằng Tây Tạng từng là một thiên đường động vật hoang dã. Mọi du khách từng đến thăm Tây Tạng trước giữa thế kỷ 20 đều nhận xét về điều này. Động vật hiếm khi bị săn bắt, ngoại trừ ở những vùng xa xôi nhất, nơi không thể trồng trọt được. Thật vậy, theo thông lệ, hàng năm các quan chức chính phủ đều ban hành một tuyên bố bảo vệ động vật hoang dã: "Không ai," tuyên bố viết, "dù thấp hèn hay cao quý, được phép làm hại hoặc gây bạo lực với các sinh vật dưới nước hoặc hoang dã”. Ngoại lệ duy nhất cho điều này là chuột và chó sói."

Hồi còn trẻ, tôi nhớ mình đã nhìn thấy rất nhiều loài khác nhau mỗi khi đi ra khỏi Lhasa. Ký ức đáng nhớ nhất của tôi là chuyến hành trình ba tháng xuyên Tây Tạng từ nơi tôi sinh ra ở Takster ở phía đông đến Lhasa, nơi tôi được chính thức tôn phong làm Đạt Lai Lạt Ma khi mới bốn tuổi, trong cuộc sống hoang dã mà chúng tôi gặp phải trên đường đi. Vô số đàn kiang (lừa hoang) và drong (bò Tây Tạng hoang dã) đông đúc tự do lang thang trên những đồng cỏ rộng lớn. Thỉnh thoảng chúng tôi bắt gặp những đàn gowa lấp lánh, loài linh dương Tây Tạng nhút nhát, loài wa (hươu môi trắng), hoặc loài tso (hươu đồng cỏ oai vệ của chúng tôi). Tôi cũng nhớ mình đã từng mê mẩn những chú chibi nhỏ, hay pika, thường tụ tập trên những bãi cỏ. Chúng rất thân thiện. Tôi thích ngắm nhìn những con chim, con gho (đại bàng có râu) uy nghiêm bay cao bên trên những tu viện nằm cheo leo trên núi, những đàn ngỗng (nangbar), và thỉnh thoảng, vào ban đêm, nghe thấy tiếng gọi của wookpa (cú mèo tai dài).

Ngay cả ở Lhasa, người ta cũng không hề cảm thấy bị tách biệt khỏi thế giới tự nhiên. Trong những căn phòng của tôi trên đỉnh Potala, cung điện mùa đông của các Đức Đạt Lai Lạt Ma, hồi nhỏ tôi đã dành vô số giờ để nghiên cứu tập tính của loài chim khyungkar mỏ đỏ làm tổ trong các khe tường. Và phía sau Norbulingka, cung điện mùa hè, tôi thường thấy những cặp hạc
cổ đen Nhật Bản (trung trung), loài chim mà đối với tôi là biểu tượng của sự thanh lịch và duyên dáng sống ở vùng đầm lầy nơi đó. Và tất cả những điều này chưa kể đến vẻ đẹp lộng lẫy của hệ động vật Tây Tạng: gấu và cáo núi, chanku (sói), sazik (báo tuyết xinh đẹp) và sik (linh miêu), loài đã gieo rắc nỗi kinh hoàng vào lòng những người nông dân du mục, hay gấu trúc khổng lồ với khuôn mặt hiền lành, loài bản địa ở vùng biên giới giữa Tây Tạng và Trung Quốc.

Đáng buồn thay, sự phong phú của động vật hoang dã này giờ đây không còn nữa. Một phần do nạn săn bắn, nhưng chủ yếu là do mất môi trường sống, những gì còn sót lại sau nửa thế kỷ Tây Tạng bị chiếm đóng chỉ còn là một phần nhỏ so với những gì đã từng có. Không ngoại lệ, tất cả những người Tây Tạng mà tôi đã trò chuyện, những người đã quay trở lại Tây Tạng sau ba mươi đến bốn mươi năm, đều báo cáo về sự vắng bóng đáng kinh ngạc của động vật hoang dã. Trong khi trước đây, động vật hoang dã thường đến gần nhà, thì ngày nay hầu như không còn thấy chúng ở đâu cả.

Điều đáng lo ngại không kém là sự tàn phá của những cánh rừng Tây Tạng. Trước đây, những ngọn đồi đều được bao phủ bởi rừng rậm; ngày nay, những người đã quay trở lại đều kể rằng chúng đã trọc lóc như đầu của một nhà sư. Chính quyền Bắc Kinh đã thừa nhận rằng trận lũ lụt thảm khốc ở miền Tây Trung Quốc, và xa hơn nữa, một phần là do điều này. Vậy mà tôi vẫn liên tục nghe báo cáo về những đoàn xe tải chở gỗ từ Tây Tạng về phía đông suốt ngày đêm. Điều này đặc biệt bi thảm khi xét đến địa hình đồi núi và khí hậu khắc nghiệt của đất nước này. Điều đó có nghĩa là việc trồng lại rừng đòi hỏi sự chăm sóc và quan tâm liên tục. Thật không may, có rất ít bằng chứng về điều này.

Tất cả những điều này không có nghĩa là, trong lịch sử, người Tây Tạng chúng tôi đã cố tình "bảo tồn." Chúng tôi thì không. Ý niệm về thứ gọi là "ô nhiễm" đơn giản là chưa bao giờ xuất hiện trong đầu chúng tôi. Không thể phủ nhận rằng chúng tôi khá được nuông chiều về mặt này. Một bộ phận dân số nhỏ sinh sống trên một vùng đất rất rộng lớn với không khí trong lành, khô ráo và nguồn nước tinh khiết dồi dào từ núi rừng. Thái độ ngây thơ này đối với sự sạch sẽ đồng nghĩa với việc khi người Tây Tạng chúng tôi lưu vong, chúng tôi đã vô cùng kinh ngạc khi phát hiện ra, chẳng hạn, sự tồn tại của những dòng suối mà đứa con duy nhất của chúng, nước, lại không thể uống được. Giống như bất kể chúng tôi làm gì, Mẹ Trái Đất vẫn bao dung cho hành vi của chúng tôi. Kết quả là chúng tôi không hiểu đúng về sự sạch sẽ và vệ sinh. Mọi người thường khạc nhổ hoặc xì mũi trên đường phố mà không hề suy nghĩ. Thật vậy, khi nói điều này, tôi nhớ đến một Khampa lớn tuổi, một cựu vệ sĩ, người thường đến mỗi ngày để đi vòng quanh nơi ở của tôi ở Dharamsala (một nghi lễ phổ biến). Không may, ông ấy bị viêm phế quản rất nặng. Bệnh tình càng trầm trọng hơn vì hương trầm mà ông ấy mang theo. Vì vậy, ở mỗi góc phố, ông ấy đều dừng lại ho và khạc nhổ dữ dội đến nỗi đôi khi tôi tự hỏi liệu ông ấy đến để cầu nguyện hay chỉ để khạc nhổ!

Trong những năm đầu tiên chúng tôi đến nơi lưu vong, tôi đã rất quan tâm đến các vấn đề môi trường. Chính phủ Tây Tạng lưu vong đã đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục con em chúng tôi về trách nhiệm của chúng với tư cách là cư dân của hành tinh mong manh này. Và tôi không bao giờ ngần ngại lên tiếng về chủ đề này bất cứ khi nào có cơ hội. Đặc biệt, tôi luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải xem xét hành động của chúng ta, khi ảnh hưởng đến môi trường, có thể ảnh hưởng đến người khác như thế nào. Tôi thừa nhận rằng điều này thường rất khó đánh giá. Chúng ta không thể nói chắc chắn tác động cuối cùng của, ví dụ, nạn phá rừng, đối với đất đai và lượng mưa địa phương, chứ đừng nói đến những hệ lụy đối với hệ thống thời tiết của hành tinh. Điều duy nhất rõ ràng là con người chúng ta là loài duy nhất có khả năng hủy hoại Trái Đất như chúng ta đã biết. Chim chóc không có khả năng đó, côn trùng cũng vậy, và bất kỳ loài động vật có vú nào cũng vậy. Tuy nhiên, nếu chúng ta có khả năng hủy diệt Trái Đất, thì chúng ta cũng có khả năng bảo vệ nó.


Điều quan trọng là chúng ta phải tìm ra những phương pháp sản xuất không hủy hoại thiên nhiên. Chúng ta cần tìm cách cắt giảm việc sử dụng gỗ và các nguồn tài nguyên thiên nhiên hạn chế khác, tôi không phải là chuyên gia trong lĩnh vực này. Và tôi không thể gợi ý cách thực hiện điều này. Tôi chỉ biết rằng điều đó là khả thi, nếu có quyết tâm cần thiết. Ví dụ, tôi nhớ lại trong một chuyến thăm Stockholm vài năm trước, tôi đã nghe nói rằng, lần đầu tiên sau nhiều năm, cá đã quay trở lại dòng sông gần đây, không còn một con nào do ô nhiễm công nghiệp. Tuy nhiên, sự cải thiện này hoàn toàn không phải là kết quả của việc tất cả các nhà máy địa phương đóng cửa. Tương tự, trong một chuyến thăm Đức, tôi đã được chứng kiến một dự án phát triển công nghiệp được thiết kế để không gây ô nhiễm. Vì vậy, rõ ràng là có những giải pháp để hạn chế thiệt hại cho thế giới tự nhiên mà không làm đình trệ ngành công nghiệp. thông qua thành phố.

Đối với cá nhân, những vấn đề phát sinh từ việc chúng ta bỏ bê môi trường tự nhiên là một lời nhắc nhở mạnh mẽ rằng tất cả chúng ta đều có thể đóng góp. Và mặc dù hành động của một người có thể không có tác động đáng kể, nhưng tác động tổng hợp của hàng triệu hành động của cá nhân chắc chắn có. Điều này có nghĩa là đã đến lúc tất cả những người sống ở các quốc gia phát triển công nghiệp cần nghiêm túc suy nghĩ về việc thay đổi lối sống của họ. Một lần nữa, đây không hẳn là vấn đề đạo đức. Việc người dân của phần còn lại của thế giới có quyền bình đẳng trong việc cải thiện mức sống của họ, theo một số cách, còn quan trọng hơn việc người giàu có có thể tiếp tục lối sống của họ. Nếu điều này được thực hiện mà không gây ra bạo lực không thể cứu vãn đối với thế giới tự nhiên, cùng với tất cả những hậu quả tiêu cực đối với hạnh phúc mà nó mang lại, thì các quốc gia giàu có hơn phải làm gương. Cái giá phải trả cho hành tinh, và do đó là cái giá phải trả cho nhân loại, của việc mức sống ngày càng tăng là quá lớn.

*
- Chính trị và Kinh tế

Tất cả chúng ta đều mơ ước về một thế giới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Nhưng nếu muốn biến điều đó thành hiện thực, chúng ta phải đảm bảo rằng lòng từ bi truyền cảm hứng cho mọi hành động của chúng ta. Điều này đặc biệt đúng đối với các chính sách chính trị và kinh tế của chúng ta. Xét đến việc có lẽ một nửa dân số thế giới thiếu những nhu cầu cơ bản của thực phẩm, nhà ở, y tế và giáo dục. Tôi tin rằng chúng ta cần thật sự theo đuổi hướng đi khôn ngoan nhất trong vấn đề quan tâm này không. Tôi nghĩ là không. Nếu có vẻ như sau năm mươi năm nữa, sự bất bình đẳng trong phân phối của cải hiện tại có thể được biện minh. Tuy nhiên, nếu tiếp tục như hiện tại, chúng ta chắc chắn có thể xóa đói giảm nghèo, có lẽ ngược lại. Nếu xu hướng hiện tại tiếp tục, chắc chắn người nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn. Chỉ riêng ý thức cơ bản về công bằng và công lý của chúng ta đã cho thấy rằng chúng ta không nên bằng lòng để điều này xảy ra.

Tất nhiên, tôi không biết nhiều về kinh tế. Nhưng tôi thấy khó có thể tránh khỏi kết luận rằng sự giàu có của người giàu được duy trì bằng cách bỏ bê người nghèo, đặc biệt là thông qua nợ quốc tế. Nói như vậy, tôi không có ý nói rằng các nước kém phát triển không có phần trách nhiệm nào đối với các vấn đề của họ. Chúng ta cũng không thể đổ lỗi cho các chính trị gia và quan chức nhà nước về mọi tệ nạn xã hội và kinh tế. Tôi không phủ nhận rằng ngay cả ở những nền dân chủ lâu đời nhất thế giới, việc nghe các chính trị gia đưa ra những lời hứa phi thực tế và khoe khoang về những gì họ sẽ làm khi được bầu là điều khá bình thường. Nhưng những người này không rơi khỏi bầu trời đang lên. Vì vậy, nếu đúng là các chính trị gia của một quốc gia nào đó tham nhũng, chúng ta có xu hướng nhận thấy rằng bản thân xã hội đang thiếu đạo đức và những cá nhân tạo nên dân số không có cuộc sống đạo đức. Trong những trường hợp như vậy, việc cử tri chỉ trích các chính trị gia của mình là không hoàn toàn công bằng. Mặt khác, khi mọi người sở hữu những giá trị lành mạnh và thực hành kỷ luật đạo đức trong cuộc sống của chính mình vì sự quan tâm đến người khác, thì các công chức do xã hội đó sản sinh ra sẽ tự nhiên tôn trọng những giá trị đó. Do đó, mỗi người chúng ta đều có một vai trò đối với xã hội, trong đó sự tôn trọng và quan tâm đến người khác, dựa trên sự đồng cảm, đóng vai trò trong việc tạo ra một ưu tiên hàng đầu nhất định.

Về việc áp dụng chính sách kinh tế, những cân nhắc tương tự cũng được áp dụng ở đây như đối với mọi hoạt động của con người. Ý thức về trách nhiệm phổ quát là rất quan trọng. Tuy nhiên, tôi phải thừa nhận rằng tôi thấy hơi khó khăn khi đưa ra những đề xuất thực tế về việc áp dụng các giá trị tinh thần trong lĩnh vực thương mại. Điều này là do cạnh tranh cần đóng một vai trò quan trọng. Vì lý do này, mối quan hệ giữa sự đồng cảm và lợi nhuận nhất thiết phải mong manh. Tuy nhiên, tôi không hiểu tại sao lại không thể có sự cạnh tranh mang tính xây dựng. Yếu tố then chốt là động lực của những người tham gia vào nó. Khi ý định là bóc lột hoặc hủy hoại người khác, thì rõ ràng kết quả sẽ không tích cực. Nhưng khi cạnh tranh được tiến hành với tinh thần hào phóng và thiện chí, kết quả, mặc dù phải mang lại một mức độ đau khổ nhất định cho những người thua cuộc, ít nhất sẽ không gây hại quá nhiều.

Vấn đề chênh lệch kinh tế của chúng ta đặt ra một thách thức rất nghiêm trọng đối với toàn thể nhân loại. Tuy nhiên, khi chúng ta bước vào thiên niên kỷ mới, tôi tin rằng có rất nhiều lý do để lạc quan. Trong những năm đầu và giữa thế kỷ XX, có một nhận thức chung rằng quyền lực chính trị và kinh tế có hậu quả hơn là chân lý. Nhưng tôi tin rằng điều này đang thay đổi. Ngay cả những quốc gia giàu có và hùng mạnh nhất cũng hiểu rằng không có ích gì khi bỏ bê các giá trị cơ bản của con người. Quan niệm rằng có chỗ cho đạo đức trong quan hệ quốc tế cũng đang ngày càng được chấp nhận. Bất kể nó có được chuyển thành hành động có ý nghĩa hay không, thì ít nhất những từ như "hòa giải", "bất bạo động" và "lòng trắc ẩn" đang trở thành những cụm từ quen thuộc trong giới chính trị gia. Đây là một bước phát triển hữu ích. Sau đó, theo kinh nghiệm của bản thân, tôi nhận thấy rằng khi đi du hành nước ngoài, tôi thường được yêu cầu nói về hòa bình và lòng trắc ẩn trước một lượng khán giả khá lớn, thường lên đến hơn một nghìn người. Tôi rất nghi ngờ liệu những chủ đề này có thu hút được số lượng khán giả như vậy cách đây bốn mươi hay năm mươi năm hay không. Những diễn biến như vậy cho thấy rằng nhìn chung, con người chúng ta đang coi trọng hơn các giá trị cơ bản như công lý và chân lý.

Tôi cũng cảm thấy an ủi khi biết rằng khi nền kinh tế thế giới phát triển, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng rõ ràng. Kết quả là, mỗi quốc gia đều ít nhiều phụ thuộc vào các quốc gia khác. Nền kinh tế hiện đại, giống như môi trường, không có ranh giới. Ngay cả những quốc gia công khai thù địch với nhau cũng phải hợp tác trong việc sử dụng tài nguyên của thế giới. Ví dụ, thường thì họ sẽ phụ thuộc cùng những dòng sông. Càng phụ thuộc lẫn nhau thì các mối quan hệ kinh tế và chính trị của chúng ta càng phải phụ thuộc lẫn nhau. Ví dụ, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển của Liên minh Châu Âu từ một nhóm nhỏ các đối tác thương mại thành một liên minh các quốc gia với số lượng thành viên hiện đã lên đến hàng chục thành viên. Chúng ta cũng thấy những nhóm tương tự, mặc dù hiện nay chưa phát triển đầy đủ, trên khắp thế giới: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức Thống nhất Châu Phi (OSCE), Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), v.v. Mỗi tổ chức này đều minh chứng cho động lực chung của con người, cùng nhau đoàn kết vì lợi ích chung và phản ánh sự tiến hóa không ngừng của xã hội loài người. Khởi đầu từ những đơn vị bộ lạc tương đối nhỏ, nay đã phát triển thành các thành bang, rồi đến các quốc gia dân tộc và giờ đây là các liên minh bao gồm hàng trăm triệu người, ngày càng vượt qua ranh giới địa lý, văn hóa và sắc tộc. Đây là một xu hướng mà tôi tin rằng sẽ và phải tiếp tục./.


 

CHƯƠNG 28: KHOA HỌC VÀ TÂM LINH


***

Tôi cho rằng chủ đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là nơi mà triết học phương Đông - đặc biệt là triết học Phật giáo - và khoa học phương Tây có thể gặp gỡ. Tôi nghĩ đây sẽ là một cuộc hôn nhân hạnh phúc, không có ly hôn! Nếu chúng ta cùng nhau nỗ lực, không chỉ bởi các học giả Phật giáo, mà còn bởi những người có kinh nghiệm - và những nhà vật lý hoàn toàn khách quan, để nghiên cứu, học hỏi và tham gia sâu hơn vào lĩnh vực mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, thì đến thế kỷ tới, chúng ta có thể tìm thấy những điều tuyệt vời hữu ích. Điều này không nhất thiết phải được coi là một thực hành tôn giáo, mà có thể được thực hiện đơn giản chỉ để mở rộng kiến thức của nhân loại.

Ngoài ra, các nhà khoa học đang nghiên cứu trong lĩnh vực thần kinh học về não bộ con người có thể được hưởng lợi từ những giải thích của Phật giáo về ý thức, cách thức hoạt động, cách thức nó thay đổi theo các cấp độ, v.v.

Vì Phật giáo nhấn mạnh vào sự tự sáng tạo, nên không có một vị thần sáng tạo nào cả, và do đó, theo quan điểm này, một số người coi Phật giáo, nói một cách nghiêm ngặt, không phải là một tôn giáo. Một học giả Phật giáo phương Tây nói với tôi: "Phật giáo là một loại khoa học về tâm trí." Theo nghĩa này, Phật giáo không thuộc về phạm trù tôn giáo. Tôi cho rằng điều này thật đáng tiếc, nhưng dù sao đi nữa, nó cũng có nghĩa là Phật giáo đang tiến gần hơn đến khoa học. Hơn nữa, theo quan điểm của một nhà khoa học thuần túy, Phật giáo tự nhiên được coi là một loại của con đường tâm linh. Một lần nữa, thật không may là nó không thuộc phạm trù khoa học.

Quan điểm hay triết lý cơ bản của Phật giáo là duyên khởi. Khi nói về duyên khởi, người ta muốn nói rằng vạn vật tồn tại trong sự phụ thuộc, hoặc chúng được quy gán tùy thuộc vào điều này hay điều khác. Trong trường hợp một hiện tượng vật lý, người ta sẽ nói rằng nó tồn tại trong sự phụ thuộc vào các thành phần của nó, trong khi các hiện tượng phi vật lý tổng hợp sẽ được mô tả là tồn tại trong sự phụ thuộc vào tính liên tục của chúng hoặc một khía cạnh của tính liên tục của chúng. Do đó, dù là hiện tượng bên ngoài hay bên trong, không có gì tồn tại, ngoại trừ sự phụ thuộc vào các thành phần hoặc khía cạnh của nó.

Nếu người ta nghiên cứu để tìm ra cơ sở cho sự quy gán trong bất kỳ hiện tượng nào, vì người ta sẽ không tìm thấy bất cứ thứ gì thật sự là hiện tượng, không một khối vật chất cụ thể nào mà người ta có thể chỉ tay vào để đại diện cho hiện tượng - thì người ta kết luận rằng hiện tượng tồn tại thông qua sự quy gán của tâm.

Vì hiện tượng không tồn tại độc lập với tâm quy gán, nên người ta nói đến tính Không, nghĩa là sự thiếu vắng bất kỳ sự tồn tại nội tại nào không phụ thuộc vào tâm quy gán. Vì sự vật không tồn tại tự thân, mà phụ thuộc vào các điều kiện, nên chúng thay đổi bất cứ khi nào gặp phải các điều kiện khác nhau. Do đó, chúng tồn tại phụ thuộc vào các điều kiện và chúng chấm dứt phụ thuộc vào các điều kiện. Chính sự thiếu vắng bất kỳ sự tồn tại nội tại nào, độc lập với nhân và duyên, là cơ sở cho tất cả những thay đổi có thể xảy ra trong một hiện tượng, chẳng hạn như sinh, diệt, v.v.

Có thể sẽ rất thú vị khi so sánh cách diễn giải khoa học về vai trò của người quan sát hoặc người tham gia với quan điểm Phật giáo rằng các hiện tượng được quan sát không chỉ tồn tại như một hình ảnh tinh thần, một sự phóng chiếu hay tầm nhìn của tâm trí, mà là những thực thể riêng biệt với tâm trí. Tâm trí và vật chất là hai thực thể riêng biệt. Vật chất tách biệt với tâm trí vốn nhận thức và chi phối nó. Điều này có nghĩa là, xét về tất cả các hiện tượng không có ngoại lệ - mặc dù chúng không chỉ đơn thuần là sự sáng tạo hay biểu hiện của tâm trí mà không có thực thể riêng của chúng-Phương thức tồn tại tối hậu của chúng phụ thuộc vào tâm thức quy gán chúng, tức là người quy gán. Do đó, phương thức tồn tại của chúng hoàn toàn tách biệt với người quy gán, nhưng bản thân sự tồn tại của chúng lại phụ thuộc vào người quy gán. Quan điểm này có lẽ phù hợp với cách giải thích khoa học về vai trò của người quan sát. Mặc dù các thuật ngữ khác nhau được sử dụng để giải thích chúng, nhưng ý nghĩa của chúng phần nào có liên quan.

Thoạt nhìn, duyên khởi và tính Không có vẻ hoàn toàn trái ngược nhau. Tuy nhiên, nếu phân tích chúng ở một mức độ sâu sắc hơn, ta có thể hiểu rằng các hiện tượng, do tính chất trống rỗng của chúng, là duyên khởi hoặc tồn tại; và bởi vì sự tồn tại phụ thuộc đó, nên bản chất là trống rỗng. Do đó, ta có thể thiết lập cả tính Không và duyên khởi trên cùng một nền tảng; và hai mặt, nhìn chung có vẻ mâu thuẫn, nhưng khi được hiểu ở một mức độ sâu sắc hơn, sẽ được thấy là phù hợp với nhau một cách rất bổ sung.

Phương thức tồn tại của các hiện tượng được phân biệt với phương thức xuất hiện của chúng. Các hiện tượng xuất hiện trước tâm trí khác với phương thức tồn tại thật sự của chúng.

Khi tâm trí nắm bắt cách chúng xuất hiện, chấp nhận sự xuất hiện đó là đúng, và đi theo ý tưởng hay khái niệm cụ thể đó, thì ta sẽ phạm sai lầm. Vì khái niệm đó hoàn toàn bị bóp méo trong cách nó nắm bắt đối tượng, nên nó mâu thuẫn với phương thức tồn tại thực tế, hay chính thực tại. Vì vậy, sự khác biệt hay mâu thuẫn này giữa cái đang tồn tại và cái xuất hiện là do thực tế rằng, mặc dù các hiện tượng trên thực tế không có bất kỳ bản chất nội tại nào, nhưng chúng lại xuất hiện với tâm trí thông thường như thể chúng tồn tại một cách cố hữu, mặc dù chúng không có bất kỳ phẩm chất nào như vậy. Tương tự như vậy, mặc dù trên thực tế, những thứ phụ thuộc vào nguyên nhân là vô thường và tạm bợ, trải qua sự thay đổi liên tục, chúng lại xuất hiện như thể chúng là thường hằng và bất biến. Một lần nữa, một điều gì đó trong bản chất thật sự của nó là đau khổ lại xuất hiện như hạnh phúc. Và một điều gì đó trong thực tế là sai lầm lại xuất hiện như đúng. Có nhiều cấp độ tinh tế liên quan đến mâu thuẫn này giữa phương thức tồn tại của các hiện tượng và phương thức xuất hiện của chúng. Kết quả của mâu thuẫn giữa cái đang tồn tại và những gì xuất hiện, đủ loại sai lầm đều được mắc phải. Lời giải thích này có thể có nhiều điểm chung với quan điểm của các nhà khoa học về sự khác biệt trong cách thức xuất hiện và tồn tại của một số hiện tượng.

Chúng ta có thể hỏi: "Làm thế nào các cấp độ khác nhau của ý thức hay tâm thức lãnh hội một vật thể thật sự tồn tại?". Các cấp độ ý thức khác nhau được thiết lập liên quan đến các cấp độ tinh tế khác nhau của năng lượng bên trong, thứ kích hoạt và dẫn dắt ý thức hướng đến một vật thể nhất định. Vì vậy, mức độ tinh tế và sức mạnh của chúng trong việc dẫn dắt ý thức hướng đến vật thể quyết định và thiết lập các cấp độ ý thức khác nhau. Việc suy ngẫm về mối quan hệ giữa ý thức bên trong và các chất liệu vật chất bên ngoài là rất quan trọng. Nhiều triết lý phương Đông, đặc biệt là Phật giáo, nói về bốn yếu tố: đất, nước, lửa và khí; hay ngũ đại, cộng thêm không gian. Bốn yếu tố đầu tiên - đất, nước, lửa và khí - được hỗ trợ bởi các yếu tố không gian, cho phép chúng tồn tại và hoạt động. Do đó, không gian hay bầu trời (ether) đóng vai trò là nền tảng cho sự hoạt động của tất cả các yếu tố khác.

Năm yếu tố này có thể được chia thành hai loại: ngũ đại bên ngoài và ngũ đại bên trong. Có một mối quan hệ nhất định giữa ngũ đại bên ngoài và ngũ đại bên trong. Các nguyên tố. Về nguyên tố không gian hay bầu trời (ether), theo một số văn bản Phật giáo, chẳng hạn như Thời Luân Mật Tông (Kalachakra Tantra), không gian không chỉ là một khoảng không hoàn toàn trống rỗng, không có bất cứ thứ gì, mà nó được biểu thị dưới dạng các hạt rỗng. Do đó, các hạt rỗng này đóng vai trò là cơ sở cho sự tiến hóa và tan rã của bốn nguyên tố còn lại. Chúng được tạo ra từ nó và cuối cùng được hấp thụ trở lại vào nó.

Quá trình tan rã diễn ra theo thứ tự này: đất, nước, lửa và khí; và quá trình sinh ra theo thứ tự này: khí, lửa, nước và đất. Bốn nguyên tố này được hiểu rõ hơn dưới dạng rắn (đất), lỏng (nước), nhiệt (lửa) và năng lượng (khí). Bốn nguyên tố được tạo ra từ cấp độ vi tế đến thô, từ cơ sở các hạt rỗng này, và tan rã từ cấp độ thô đến vi tế thành các hạt rỗng. Không gian, hay hạt rỗng, là cơ sở cho toàn bộ quá trình. Mô hình vụ nổ lớn big bang về sự khởi đầu của vũ trụ có lẽ có một số điểm chung với hạt rỗng này. Những điểm tương đồng như vậy cho thấy điều gì đó mà tôi cảm thấy đáng để suy ngẫm.

Theo quan điểm tâm linh của Phật giáo, trạng thái tâm trí của chúng ta, dù có kỷ luật hay không, đều tạo ra cái gọi là nghiệp. Điều này được chấp nhận trong nhiều triết lý phương Đông. Nghiệp, nghĩa là hành động, có ảnh hưởng đặc biệt đến các yếu tố bên trong, từ đó ảnh hưởng đến các yếu tố bên ngoài. Đây cũng là một điểm cần được nghiên cứu thêm.

Một lĩnh vực khác trong Phật giáo Tây Tạng, có thể được các nhà khoa học quan tâm, là mối quan hệ giữa các yếu tố vật lý với các dây thần kinh, và ý thức; cụ thể là mối quan hệ giữa các yếu tố trong não bộ và ý thức. Liên quan ở đây là những thay đổi trong ý thức, trạng thái tâm trí vui vẻ hay buồn bã, v.v.; loại ảnh hưởng mà chúng gây ra cho các yếu tố bên trong não bộ; và hậu quả của chúng đối với cơ thể. Một số bệnh lý thể chất sẽ cải thiện hoặc trở nên tồi tệ hơn tùy thuộc vào trạng thái của tâm trí. Về mối quan hệ giữa thân và tâm này, Phật giáo chắc chắn có thể đóng góp cho khoa học hiện đại.

Phật giáo cũng giải thích, với độ chính xác cao, các cấp độ vi tế khác nhau trong chính ý thức. Những điều này được mô tả rất rõ ràng trong các Mật điển. Ý thức được phân loại, từ góc độ các cấp độ vi tế của nó, thành ba cấp độ: trạng thái thức hay cấp độ ý thức thô; ý thức của trạng thái mơ, vi tế hơn; và ý thức trong giấc ngủ sâu, không mơ, vi tế hơn nữa.

Tương tự, ba giai đoạn sinh, tử và trung ấm cũng được thiết lập dựa trên mức độ vi tế của các cấp độ ý thức của chúng. Trong quá trình chết, một người trải nghiệm ý thức vi tế sâu thẳm nhất; ý thức trở nên thô hơn sau khi chết ở trạng thái trung ấm, và dần dần thô hơn trong quá trình sinh ra. Trên cơ sở sự liên tục của dòng ý thức, sự tồn tại của tái sinh và hiện thân được thiết lập. Hiện nay, có một số trường hợp được ghi chép rõ ràng về những cá nhân nhớ rõ tiền kiếp của mình, và việc nghiên cứu những hiện tượng này dường như rất đáng giá, nhằm mục đích mở rộng kiến thức của nhân loại./.

CHƯƠNG 29: QUAN NIỆM CỦA PHẬT GIÁO VỀ TỰ NHIÊN

***

Long Thọ nói rằng đối với một hệ thống mà tính Không khả thi, thì nó cũng khả thi về mặt chức năng, và vì tính năng khả thi, tính Không cũng khả thi. Vì vậy, khi chúng ta nói về tự nhiên, bản chất tối hậu là tính Không. Tính Không, hay Shunyata, nghĩa là gì? Nó không phải là tính Không của sự tồn tại mà là tính Không của chân lý hay sự tồn tại độc lập, nghĩa là mọi vật tồn tại nhờ sự phụ thuộc vào các yếu tố khác.

Vì vậy, dù là môi trường sống hay cư dân, cả hai đều được cấu thành từ năm hoặc bốn nguyên tố cơ bản. Các nguyên tố này là đất, gió, lửa, nước và chân không, tức là không gian. Về không gian, trong Mật điển Thời Luân (Kalachakra), có đề cập đến cái được gọi là nguyên tử của không gian, các hạt của không gian. Vì vậy, nó tạo thành lực trung tâm của toàn bộ hiện tượng. Khi toàn bộ hệ thống vũ trụ lần đầu tiên tiến hóa, nó tiến hóa từ lực trung tâm này, tức là hạt không gian, và một hệ thống vũ trụ cuối cùng cũng sẽ hòa tan vào hạt không gian này. Vì vậy, trên cơ sở năm yếu tố cơ bản này, có một mối liên hệ mật thiết hay tương hỗ giữa môi trường sống, tức là môi trường tự nhiên, và các cư dân, tức là chúng sinh sống trong đó.

Ngoài ra, khi chúng ta nói về các yếu tố, có những yếu tố bên trong vốn tồn tại bên trong chúng sinh; chúng cũng ở nhiều cấp độ khác nhau, một số vi tế và một số thô thiển.

Vì vậy, cuối cùng, theo giáo lý Phật giáo, yếu tố ý thức vi tế sâu thẳm nhất là bản thân đấng sáng tạo duy nhất, bao gồm năm yếu tố, những dạng thức rất vi tế của các yếu tố. Những yếu tố vi tế này đóng vai trò là điều kiện để tạo ra các yếu tố bên trong hình thành nên chúng sinh hữu tình, và điều đó lại tạo ra sự tồn tại hoặc tiến hóa của các yếu tố bên ngoài. Vì vậy, có một sự phụ thuộc lẫn nhau hoặc mối quan hệ tương hỗ rất chặt chẽ giữa môi trường và cư dân. Trong ý nghĩa của sự phụ thuộc lẫn nhau, có nhiều cấp độ khác nhau, rằng sự vật lệ thuộc vào các nhân tố nhân quả của chúng, hoặc trên các bộ phận của chính chúng hoặc tâm trí khái niệm vốn thật sự đặt tên, quyết định.

Và, một điều rất quan trọng nữa, như tôi vẫn luôn nói, là tầm quan trọng của tư tưởng từ bi. Như tôi đã đề cập trước đó, ngay cả từ quan điểm ích kỷ của bản thân, người ta vẫn cần người khác. Vì vậy, bằng cách thể hiện sự quan tâm đến phúc lợi của người khác, chia sẻ nỗi đau khổ của người khác và giúp đỡ người khác, cuối cùng người ta sẽ được lợi. Nếu một người chỉ nghĩ đến bản thân và quên đi người khác, cuối cùng người ta sẽ bị lạc lối. Điều này cũng giống như quy luật tự nhiên. Tôi nghĩ nó khá đơn giản. Nếu bạn không mỉm cười với người khác, mà lại nhìn người khác với ánh mắt khó chịu hay gì đó tương tự, thì đối phương cũng sẽ có phản ứng tương tự. Phải không? Nếu bạn thể hiện thái độ chân thành và cởi mở với người khác, họ cũng sẽ có phản ứng tương tự. Vậy nên, đây là một logic khá đơn giản.

Về mặt này, một điều khác mà tôi cảm thấy rất quan trọng là, ý thức là gì, tâm trí là gì? Cho đến nay, tôi nghĩ đặc biệt là ở thế giới phương Tây, trong một hoặc hai thế kỷ qua, khoa học và công nghệ đã được chú trọng rất nhiều và chủ yếu liên quan đến vật chất.

Ngày nay, một số nhà vật lý hạt nhân và thần kinh học đã bắt đầu nghiên cứu và phân tích các hạt một cách chi tiết và sâu sắc. Trong quá trình đó, họ đã tìm thấy một sự tham gia nào đó từ phía người quan sát, mà đôi khi họ gọi là "người biết". "Người biết" là ai? Nói một cách đơn giản, đó là con người, giống như nhà khoa học. Các nhà khoa học biết thông qua những cách nào? Tôi nghĩ là thông qua bộ não. Hiện tại, về các nhà nghiên cứu về cảm giác, vẫn chưa xác định được đầy đủ hàng tỷ tế bào của bộ não. Tôi nghĩ trong số hàng trăm tỷ, cho đến nay chỉ có vài trăm được xác định. Vậy nên, bây giờ, tâm trí, dù bạn gọi là tâm trí hay một năng lượng đặc biệt của não bộ hay ý thức, bạn sẽ thấy có một mối quan hệ giữa não bộ và tâm trí, giữa tâm trí và vật chất. Tôi nghĩ đây là điều quan trọng. Tôi cảm thấy cần có một cuộc đối thoại nào đó giữa triết học phương Đông và khoa học phương Tây dựa trên mối quan hệ giữa tâm trí và vật chất./.

CHƯƠNG 30: MỘT NGUYỆN ƯỚC CHO SỰ HÒA HỢP (GIỮA NHỮNG TÔN GIÁO)
***

Các truyền thống tôn giáo vẫn luôn quan trọng như xưa. Tuy nhiên, cũng như trong quá khứ, xung đột và khủng hoảng lại nảy sinh dưới danh nghĩa của các truyền thống tôn giáo khác nhau. Điều này thật sự rất đáng tiếc. Chúng ta phải nỗ lực hết sức để vượt qua tình trạng này. Theo kinh nghiệm của bản thân, tôi nhận thấy phương pháp hiệu quả nhất để vượt qua những xung đột này là sự tiếp xúc gần gũi và trao đổi giữa những người có tín ngưỡng khác nhau, không chỉ trên phương diện trí tuệ mà còn ở những trải nghiệm tâm linh sâu sắc hơn. Đây là một phương pháp mạnh mẽ để phát triển sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Thông qua sự trao đổi này, một nền tảng vững chắc cho sự hòa hợp đích thực có thể được thiết lập!

Vì tôi tin rằng sự hòa hợp giữa các truyền thống tôn giáo khác nhau là vô cùng quan trọng và cần thiết, tôi muốn đề xuất một vài ý tưởng về cách thức thúc đẩy sự hòa hợp này. Trước hết, tôi đề nghị chúng ta nên khuyến khích các cuộc gặp gỡ giữa các học giả từ các nền tảng tôn giáo khác nhau để thảo luận về những điểm khác biệt và tương đồng trong truyền thống của họ, nhằm thúc đẩy sự đồng cảm và nâng cao hiểu biết của chúng ta về nhau. Một số bạn có thể đã nghe tôi kể rằng trong một lần đến thăm tu viện lớn ở Montserrat, Tây Ban Nha, tôi đã gặp một tu sĩ dòng Biển Đức ở đó. Ông ấy đến chỉ để gặp tôi, và tiếng Anh của ông ấy kém hơn tôi rất nhiều, nên tôi cảm thấy can đảm hơn khi nói chuyện với ông ấy. Sau bữa trưa, chúng tôi dành thời gian riêng tư, mặt đối mặt, và tôi được biết vị tu sĩ này đã sống vài năm trên những ngọn núi ngay phía sau tu viện. Tôi hỏi ông ấy loại quán chiếu nào ông đã thực hành trong những năm tháng cô độc, câu trả lời thật đơn giản: "thương, thương, thương “. Thật kỳ diệu, đôi khi ông cũng ngủ. Nhưng trong suốt những năm tháng đó, ông đã thiền tập về tình thương. Và ông không chỉ thiền tập về từ ngữ. Qua đôi mắt ông, tôi thấy bằng chứng về tâm linh sâu sắc và tình yêu thương-mà tôi có trong những lần gặp gỡ Thomas Merton.

Đây là hai lần gặp gỡ đã giúp tôi phát triển một mối quan tâm chân thành đối với truyền thống Kitô giáo và khả năng tạo ra những con người tốt lành của nó. Tôi tin rằng mục đích của tất cả các truyền thống tôn giáo lớn không chỉ tạo ra những ngôi đền to lớn bên ngoài mà là tạo nên những ngôi đền của thánh thiện và từ bi ở bên trong, trong trái tim chúng ta. Mọi tôn giáo lớn đều có tiềm năng tạo ra điều này. Chúng ta càng nhận thức sâu sắc về giá trị và hiệu quả của các truyền thống tôn giáo khác, thì sự tôn trọng và kính trọng của chúng ta đối với các tôn giáo khác sẽ càng sâu sắc. Đây là cách thích hợp để chúng ta thúc đẩy lòng từ bi chân thành và tinh thần hòa hợp giữa các tôn giáo trên thế giới.

Ngoài những cuộc gặp gỡ giữa các học giả và các nhà thuyết giảng giàu kinh nghiệm, điều quan trọng nữa, đặc biệt là trong mắt công chúng, là các nhà lãnh đạo của các truyền thống tôn giáo khác nhau thỉnh thoảng cùng nhau gặp gỡ và cầu nguyện, như trong cuộc gặp gỡ quan trọng tại Assisi năm 1986. Cách thứ ba, đơn giản nhưng hiệu quả này để thúc đẩy lòng khoan dung và sự hiểu biết.

Một phương tiện thứ tư để hướng tới sự hòa hợp giữa các tôn giáo trên thế giới là để những người thuộc các truyền thống tôn giáo khác nhau cùng nhau hành hương đến thăm các thánh địa của nhau. Vài năm trước, tôi đã bắt đầu thực hành điều này ở Ấn Độ. Kể từ đó, tôi đã có cơ hội hành hương đến Lourdes, thánh địa ở Pháp, và đến Jerusalem. Tại những nơi này, tôi đã cầu nguyện cùng với các tín đồ của nhiều tôn giáo khác nhau, đôi khi trong sự thiền định im lặng. Và trong lời cầu nguyện và thiền định này, tôi đã cảm nhận được một trải nghiệm tâm linh đích thực. Tôi hy vọng điều này sẽ tạo nên một ví dụ - một dạng tiền lệ, để trong tương lai, việc mọi người cùng nhau hành hương để chia sẻ kinh nghiệm về các nền tảng tôn giáo khác nhau của họ sẽ được coi là điều bình thường.

Cuối cùng, tôi muốn quay lại chủ đề thiền tập và với những anh chị em Cơ Đốc giáo của tôi, những người thực hành thiền tập trong cuộc sống hàng ngày. Tôi tin rằng việc thực hành này vô cùng quan trọng. Theo truyền thống ở Ấn Độ, có thiền Samādhi, tức là "làm tĩnh tâm", phổ biến trong tất cả các tôn giáo Ấn Độ, bao gồm Ấn Độ giáo, Phật giáo và Kỳ Na giáo. Và trong nhiều truyền thống này, một số loại thiền vipaśyanā, tức là "thiền phân tích" hay thiền quán, cũng rất phổ biến. Chúng ta có thể tự hỏi tại sao Samādhi, tức là "làm tĩnh tâm", lại quan trọng đến vậy. Bởi vì Samādhi, thiền định hay thiền tập trung, là phương tiện để huy động tâm trí, để dẫn dắt năng lượng tinh thần. Samādhi được coi là một phần thiết yếu của thực hành tâm linh trong tất cả các truyền thống tôn giáo lớn của Ấn Độ bởi vì nó mang lại khả năng dẫn dắt toàn bộ năng lượng tinh thần và khả năng hướng tâm trí đến một đối tượng cụ thể một cách nhất quán.

Tôi tin rằng nếu cầu nguyện, thiền định và quán chiếu - vốn mang tính phân tích và suy tư nhiều hơn - được kết hợp trong thực hành hàng ngày, thì hiệu quả đối với tâm trí và trái tim của người thực hành sẽ càng lớn hơn. Một trong những mục đích và mục tiêu chính của việc thực hành tôn giáo đối với mỗi cá nhân là sự chuyển hóa nội tâm từ trạng thái tâm trí vô kỷ luật, hỗn loạn, không tập trung sang trạng thái kỷ luật, thuần hóa và cân bằng. Một người đã hoàn thiện khả năng nhất tâm chắc chắn sẽ có khả năng đạt được mục tiêu này tốt hơn. Khi thiền tập trở thành một phần quan trọng trong đời sống tâm linh của bạn, bạn có thể mang lại sự chuyển hóa nội tâm này một cách hiệu quả hơn.

Một khi sự chuyển hóa này đã đạt được, thì khi theo đuổi truyền thống tâm linh của riêng mình, bạn sẽ khám phá ra rằng một loại khiêm nhường tự nhiên sẽ nảy sinh trong bạn, cho phép bạn giao tiếp tốt hơn với những người thuộc các truyền thống tôn giáo và nền văn hóa khác. Bạn sẽ ở vị thế tốt hơn để trân trọng giá trị và sự quý báu của các truyền thống khác bởi vì bạn đã nhìn thấy giá trị này từ chính truyền thống của mình. Mọi người thường có cảm giác bị cô lập trong tín ngưỡng tôn giáo của mình - cảm giác rằng con đường của riêng mình là con đường đúng đắn duy nhất - điều này có thể tạo ra cảm giác lo lắng khi kết nối với những người có tín ngưỡng khác. Tôi tin rằng cách tốt nhất để chống lại sức ép đó là trải nghiệm giá trị của con đường thông qua đời sống thiền định, điều này sẽ cho phép mỗi người tự mình nhìn thấy giá trị và sự quý báu của các truyền thống khác.

Để phát triển tinh thần hòa hợp đích thực từ nền tảng kiến thức vững chắc, tôi tin rằng việc hiểu biết những khác biệt cơ bản giữa các truyền thống tôn giáo là rất quan trọng. Và chúng ta có thể hiểu được những khác biệt cơ bản, đồng thời nhận ra giá trị và tiềm năng của mỗi truyền thống. Bằng cách này, một người có thể phát triển một nhận thức cân bằng và hài hòa. Một số người tin rằng cách hợp lý nhất để đạt được sự hòa hợp và giải quyết các vấn đề liên quan đến sự bất khoan dung tôn giáo là thiết lập một tôn giáo phổ quát cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, tôi luôn cảm thấy rằng chúng ta nên có các truyền thống tôn giáo khác nhau bởi vì con người sở hữu rất nhiều khuynh hướng tinh thần khác nhau: Một tôn giáo đơn giản là không thể đáp ứng nhu cầu của rất nhiều người. Nếu chúng ta cố gắng thống nhất các tín ngưỡng trên thế giới thành một tôn giáo, chúng ta cũng sẽ đánh mất nhiều phẩm chất và sự phong phú của từng truyền thống cụ thể. Vì vậy, tôi cảm thấy tốt hơn hết là nên duy trì sự đa dạng của các truyền thống tôn giáo, bất chấp nhiều tranh cãi nhân danh tôn giáo. Đáng tiếc là, mặc dù sự đa dạng của các truyền thống tôn giáo phù hợp hơn để phục vụ nhu cầu của những khuynh hướng tinh thần đa dạng trong nhân loại, nhưng sự đa dạng này tự nhiên cũng tiềm ẩn nguy cơ xung đột và bất đồng. Do đó, những người thuộc mọi truyền thống tôn giáo đều phải nỗ lực hơn nữa để cố gắng vượt qua sự bất khoan dung và hiểu lầm, đồng thời tìm kiếm sự hòa hợp.

Tôi thật sự cảm thấy rất vinh dự và đặc ân khi được mời bình luận về một số đoạn Kinh Thánh được chọn lọc - một đoạn Kinh Thánh mà tôi phải thừa nhận là mình không quen thuộc lắm. Tôi cũng phải thừa nhận rằng đây là lần đầu tiên tôi thử làm một việc như vậy. Liệu nó sẽ thành công hay thất bại, tôi không biết! Nhưng dù sao đi nữa, tôi sẽ cố gắng hết sức.
/.


 

CHƯƠNG 31: QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO VỀ GIÁO LÝ CỦA CHÚA GIÊ-SU

***

Vì cuộc đối thoại này được tổ chức bởi Cộng đồng Thiền định Kitô giáo Thế giới và đối tượng tham dự chính là những người thực hành Phật giáo, những người có sự cam kết nghiêm túc với việc thực hành và đức tin của mình, nên bài thuyết trình của tôi sẽ chủ yếu hướng đến đối tượng đó. Do đó, tôi sẽ cố gắng giải thích những kỹ thuật hoặc phương pháp Phật giáo mà một người thực hành có thể áp dụng mà không cần phải gắn liền với triết lý Phật giáo sâu xa hơn. Một số khác biệt sâu sắc, siêu hình giữa hai truyền thống này có thể được nêu ra trong buổi thảo luận.

Mối quan tâm chính của tôi là: Làm thế nào tôi có thể giúp đỡ hoặc phục vụ người thực hành Phật giáo? Điều cuối cùng tôi muốn làm là gieo mầm mống nghi ngờ và hoài nghi trong tâm trí họ. Như đã đề cập trước đó, tôi hoàn toàn tin chắc rằng sự đa dạng của các truyền thống tôn giáo ngày nay là có giá trị và phù hợp. Theo kinh nghiệm của bản thân, tất cả các truyền thống tôn giáo lớn trên thế giới đều cung cấp một ngôn ngữ và thông điệp chung mà chúng ta có thể xây dựng một sự hiểu biết chân chính.

Nhìn chung, tôi ủng hộ việc mọi người tiếp tục theo đuổi tôn giáo của nền văn hóa và di sản riêng của họ. Tất nhiên, mỗi người đều có quyền thay đổi nếu họ thấy một tôn giáo mới hiệu quả hơn hoặc phù hợp hơn với nhu cầu tâm linh của mình. Nhưng nhìn chung, tốt hơn hết là nên trải nghiệm giá trị của truyền thống tôn giáo của chính mình. Dưới đây là một ví dụ: Những khó khăn có thể phát sinh khi thay đổi tôn giáo. Trong một gia đình Tây Tạng vào những năm 1960, người cha của gia đình qua đời, người mẹ sau này đến với tôi và nói với tôi rằng kiếp này tôi đổi theo đạo Thiên Chúa, nhưng kiếp sau thì không có sự thay đổi nào cả ngoài đạo Phật. Thật phức tạp! Nếu bạn là người theo đạo Thiên Chúa, hãy tìm hiểu về mặt tâm linh trong tôn giáo của mình và hãy là một người theo đạo Thiên Chúa chân chính, tốt bụng. Nếu là một Phật tử thì hãy là một Phật tử chân chính. Không có nửa này nửa nọ, ngoài việc chúng ta có thể gây ra sự rối rắm trong tâm.

Trước khi bình luận văn bản, tôi muốn thảo luận về thiền định. Thuật ngữ Tây Tạng về thiền là “gom”, vốn bao gồm việc làm quen với một sự thực hành hay đối tượng cụ thể. Quá trình "làm quen" là một chìa khóa bởi vì sự nâng cao hoặc phát triển của tâm trí đi kèm với sự phát triển của sự quen thuộc với đối tượng đã chọn. Thông qua việc áp dụng liên tục các kỹ thuật thiền định và nuôi dưỡng tâm trí, người ta có thể mong đợi đạt được sự chuyển hóa nội tâm về kỷ luật trong tâm trí. Trong truyền thống Tây Tạng, có những loại thiền chính sau: thiền định phân tích và lập luận. Một loại sử dụng một kỹ thuật phân tích và lập luận cụ thể, được gọi là thiền phân tích hoặc thiền quán. Loại còn lại mang tính hấp thụ và tập trung hơn, được gọi là thiền nhất niệm hay thiền định.

Hãy lấy ví dụ về thiền định về tình yêu thương và lòng từ bi trong nội dung Kitô giáo. Về mặt phân tích của thiền định này, chúng ta sẽ tìm thấy những dòng cụ thể, chẳng hạn như sau: Để thực sự yêu thương Thượng Đế, người ta phải thể hiện tình yêu thương đó thông qua hành động yêu thương đồng loại một cách chân thành, yêu thương người lân cận. Người ta cũng có thể suy ngẫm về tấm gương của chính Chúa Jesus Christ, cách Ngài thực hiện đức hạnh, hành động vì lợi ích của chúng sinh, và cách Ngài sống một cuộc đời từ bi. Loại tư duy này được thể hiện trong khía cạnh phân tích của thiền định về lòng từ bi. Người ta có thể tìm thấy cách thức thúc đẩy sự kiên nhẫn và khoan dung.

Những sự phản chiếu này sẽ giúp bạn phát triển niềm tin sâu sắc vào tầm quan trọng và giá trị của lòng từ bi và sự khoan dung. Một khi bạn đến một điểm nhất định mà bạn cảm thấy hoàn toàn tin tưởng vào sự quý giá và nhu cầu của lòng tử bi và sự cần thiết của lòng khoan dung, bạn sẽ sự cảm nhận được chạm đến, một cảm giác được chuyển hóa từ bên trong. Về điểm này, bạn nên đặt tâm trí của mình một cách nhất quán vào suy nghĩ đó, đồng thời áp dụng bất kỳ phân tích nào khác. Bạn nên tập trung một cách nhất quán vào sự cân bằng, đây là điểm hấp thụ hoặc đặt trọng tâm của thiền định về lòng từ bi. Do đó, cả hai loại thiền đều được áp dụng trong một buổi thiền.

Tại sao chúng ta có thể, thông qua việc áp dụng các kỹ thuật thiền định, không chỉ phát triển mà còn tăng cường lòng từ bi? Điều này là bởi vì lòng từ bi là một loại cảm xúc có tiềm năng phát triển. Nói chung, chúng ta có thể chỉ ra hai loại cảm xúc. Một loại mang tính bản năng hơn và không dựa trên lý trí. Loại cảm xúc khác, chẳng hạn như lòng từ bi hay sự khoan dung, không mang tính bản năng như vậy mà dựa trên lý trí và kinh nghiệm. Khi bạn thấy rõ những cơ sở logic khác nhau cho sự phát triển của chúng và bạn phát triển niềm tin vào những lợi ích này, thì những cảm xúc này sẽ được tăng cường. Điều chúng ta thấy ở đây là sự kết hợp giữa trí tuệ và trái tim. Lòng từ bi tượng trưng cho cảm xúc, hay trái tim, và việc áp dụng thiền phân tích sẽ áp dụng trí tuệ. Vì vậy, khi bạn đạt đến trạng thái thiền định, nơi lòng từ bi được tăng cường, bạn sẽ thấy sự hòa nhập đặc biệt giữa trí tuệ và trái tim.

Nếu bạn xem xét bản chất của những trạng thái thiền tập này, bạn cũng sẽ thấy rằng có những yếu tố khác nhau trong những trạng thái này. Ví dụ, bạn có thể đang tham gia vào quá trình phân tích, suy nghĩ rằng tất cả chúng ta đều là tạo vật của cùng một Đấng Sáng Tạo, và do đó, tất cả chúng ta thật sự là anh chị em. Trong trường hợp này, bạn đang tập trung tâm trí vào một đối tượng cụ thể. Nghĩa là, chủ thể phân tích của bạn đang tập trung vào ý tưởng hoặc khái niệm mà bạn đang phân tích. Tuy nhiên, một khi bạn đã đạt đến trạng thái nhất tâm, khi bạn trải nghiệm sự chuyển hóa bên trong đó, niềm từ bi bên trong bạn, thì không còn tâm trí thiền định và đối tượng thiền định nữa. Thay vào đó, tâm trí của bạn được tạo ra dưới dạng lòng từ bi.

Đây là một vài nhận xét sơ bộ về thiền định. Bây giờ tôi sẽ đọc Phúc Âm.

Các con đã nghe nói rằng: "Mắt đền mắt, răng đền răng." Nhưng Ta bảo các con: Đừng chống cự kẻ làm hại các con. Nếu ai vả má bên phải, hãy đưa cả má bên kia cho họ nữa. Nếu ai muốn kiện các con và lấy áo trong của các con, hãy để họ lấy luôn cả áo ngoài. Nếu có người có thẩm quyền bắt các con đi một dặm, hãy đi với họ hai dặm. Ai xin thì hãy cho, ai mượn thì đừng ngoảnh mặt làm ngơ. (Ma-thi-ơ: 5:38-42)

Việc thực hành lòng khoan dung và nhẫn nại được đề cao trong những đoạn văn này rất giống với việc thực hành lòng khoan dung và nhẫn nại được đề cao trong Phật giáo nói chung. Và điều này đặc biệt đúng trong Phật giáo Đại thừa, trong bối cảnh lý tưởng Bồ tát, khuyến khích cá nhân khi đối mặt với những tổn hại nhất định sẽ phản ứng theo cách bất bạo động và từ bi. Thực tế, người ta gần như có thể nói rằng những đoạn văn này có thể được đưa vào kinh điển Phật giáo, và chúng thậm chí sẽ không được công nhận là kinh điển Kitô giáo truyền thống.

Bạn đã nghe nói rằng họ được dạy rằng: "Hãy yêu thương người lân cận và hãy ghét kẻ thù của bạn." Nhưng điều Ta nói với bạn là: Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi bạn; chỉ như vậy bạn mới có thể là con cái của Cha trên trời, Đấng khiến mặt trời mọc lên cho cả người tốt lẫn kẻ xấu, và ban mưa cho cả người vô tội lẫn kẻ độc ác. Nếu bạn chỉ yêu thương những người yêu thương bạn, thì bạn mong đợi phần thưởng gì? Ngay cả những người thu thuế cũng làm như vậy. Nếu bạn chỉ chào hỏi anh em mình, thì có gì lạ thường? Ngay cả những người ngoại đạo cũng làm như vậy. Lòng tốt của bạn không được có giới hạn, vì lòng tốt của Cha trên trời không có giới hạn. (Ma-thi-ơ 5:43-48)

Điều này làm tôi nhớ đến một đoạn trong kinh điển Phật giáo Đại thừa được gọi là Thực hành Tập yếu, trong đó Shantideva hỏi: "Nếu bạn không thực hành lòng từ bi với kẻ thù của mình thì bạn có thể thực hành với ai?" Bạn có hiểu không?" Điều này ngụ ý rằng ngay cả động vật cũng thể hiện tình yêu thương, lòng từ bi và sự đồng cảm với những con vật thân yêu của chúng. Vì chúng ta tự nhận mình là những người thực hành tâm linh và con đường tâm linh, chúng ta nên có thể làm tốt hơn động vật.

Những đoạn Phúc Âm này cũng gợi cho tôi nhớ đến những suy ngẫm trong một văn bản Đại thừa khác có tên là Hướng Dẫn Lối sống Bồ Tát, trong đó Tịch Thiên nói rằng việc phát triển thái độ đúng đắn đối với kẻ thù là rất quan trọng. Nếu bạn có thể vun đắp thái độ đúng đắn, kẻ thù của bạn chính là những người thầy tâm linh tốt nhất của bạn bởi vì sự hiện diện của họ mang đến cho bạn cơ hội để nâng cao và phát triển lòng khoan dung, kiên nhẫn và sự hiểu biết. Bằng cách phát triển lòng khoan dung và kiên nhẫn hơn, bạn sẽ dễ dàng phát triển khả năng từ bi và, thông qua đó, lòng vị tha. Vì vậy, ngay cả đối với việc thực hành con đường tâm linh của riêng bạn, sự hiện diện của kẻ thù là rất quan trọng. Phép ẩn dụ được rút ra trong Phúc Âm về việc mặt trời không phân biệt nơi nó chiếu sáng là rất quan trọng. Mặt trời chiếu sáng cho tất cả mọi người và không phân biệt đối xử. Đây là một ẩn dụ tuyệt vời cho lòng từ bi. Nó cho bạn cảm giác về sự công bằng và bao dung của thiên nhiên.

Khi đọc những đoạn này, tôi cảm thấy Phúc Âm đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hành lòng khoan dung và cảm giác công bằng đối với mọi loài. Theo tôi, để phát triển khả năng khoan dung đối với mọi loài, đặc biệt là đối với kẻ thù, điều quan trọng là phải có cảm giác bình thản đối với tất cả. Nếu ai đó nói với bạn rằng bạn không nên thù địch với kẻ thù hoặc bạn nên yêu thương kẻ thù, thì chỉ riêng lời nói đó sẽ không thể khiến bạn thay đổi. Việc tất cả chúng ta cảm thấy thù địch với những người làm hại mình và cảm thấy gắn bó với những người thân yêu là điều hoàn toàn tự nhiên. Đó là một cảm xúc tự nhiên của con người, vì vậy chúng ta phải có những kỹ thuật hiệu quả để giúp chúng ta chuyển đổi từ những cảm xúc thiên vị cố hữu này sang trạng thái bình thản hơn.

Có những kỹ thuật cụ thể để phát triển cảm giác bình thản này đối với tất cả các loài hữu tình. Ví dụ, trong bối cảnh Phật giáo, chúng ta có thể liên hệ khái niệm tái sinh để hỗ trợ việc thực hành tạo ra sự bình thản. Tuy nhiên, khi chúng ta đang thảo luận về việc vun đắp sự bình thản trong bối cảnh thực hành Kitô giáo, có lẽ chúng ta có thể gợi lên ý tưởng về đấng Sáng tạo và rằng tất cả các sinh vật đều bình đẳng vì chúng đều là sản phẩm sáng tạo của cùng một Thượng đế. Trên cơ sở niềm tin này, người ta có thể phát triển cảm giác bình thản. Ngay trước buổi học buổi sáng, tôi đã có một cuộc thảo luận ngắn với Cha Laurence. Ngài nêu rõ rằng trong thần học Kitô giáo, có niềm tin rằng tất cả con người, hình ảnh của Thượng đế, đều có chung một bản chất thiêng liêng. Tôi thấy điều này khá giống với ý tưởng về Phật tính trong Phật giáo. Trên cơ sở niềm tin rằng tất cả con người đều có chung một bản chất thiêng liêng, chúng ta có một nền tảng rất vững chắc, một lý do rất mạnh mẽ, để tin rằng mỗi người chúng ta đều có thể phát triển một cảm giác bình thản thật sự đối với tất cả chúng sinh.

Tuy nhiên, chúng ta không nên coi sự bình thản là mục đích tự thân. Chúng ta cũng không nên cảm thấy mình đang phấn đấu để đạt đến trạng thái thờ ơ hoàn toàn, không còn cảm xúc hay cảm xúc dao động nào đối với kẻ thù, người thân và bạn bè. Đó không phải là điều chúng ta đang tìm kiếm. Điều chúng ta khao khát đạt được, trước hết, là đặt nền móng, tạo ra một khoảng không gian trống trải để ta có thể gieo trồng những suy nghĩ khác. Sự bình thản chính là nền tảng vững chắc mà chúng ta đặt ra đầu tiên. Trên cơ sở đó, chúng ta nên suy ngẫm về những giá trị của lòng khoan dung, sự kiên nhẫn, tình yêu thương và lòng từ bi đối với tất cả. Chúng ta cũng nên quán chiếu về những bất lợi và tiêu cực của lối suy nghĩ vị kỷ, những cảm xúc dao động đối với bạn bè và kẻ thù, và những tiêu cực của việc có những cảm xúc thiên vị đối với người khác.

Điểm mấu chốt là cách bạn sử dụng sự bình thản cơ bản này. Điều quan trọng là tập trung vào những tiêu cực của sự tức giận và thù hận, vốn là những trở ngại chính cho việc nâng cao khả năng từ bi và bao dung của một người. Bạn cũng nên suy ngẫm về những giá trị và đức tính của việc nâng cao lòng khoan dung và kiên nhẫn. Điều này có thể được thực hiện trong bối cảnh Kitô giáo mà không cần phải viện đến bất kỳ niềm tin nào vào sự tái sinh. Ví dụ, khi suy ngẫm về công đức và đức tính của lòng khoan dung và kiên nhẫn, bạn có thể suy nghĩ theo hướng sau: thượng đế tạo ra bạn như một cá thể và ban cho bạn quyền tự do hành động theo cách tương ứng và phù hợp với ý muốn của Đấng Tạo Hóa, hành động một cách nhân từ, có đạo đức, và sống một cuộc đời của một cá nhân có kỷ luật đạo đức, có trách nhiệm. Bằng cách cảm nhận và thực hành lòng khoan dung và kiên nhẫn đối với đồng loại, bạn đang thực hiện mong muốn đó: Bạn đang làm hài lòng Đấng Tạo Hóa. Theo một cách nào đó, đó là món quà tuyệt vời nhất, là sự dâng hiến tốt nhất mà bạn có thể dành cho Đấng Tạo Hóa thiêng liêng.

Trong Phật giáo, có một khái niệm gọi là "cúng dường thực hành" (drupai chöpa): Trong tất cả những lễ vật bạn có thể dâng lên người mà bạn kính trọng, chẳng hạn như lễ vật vật chất, hát những bài ca ngợi khen hoặc những món quà khác, thì lễ vật tốt nhất bạn có thể dâng lên là sống một cuộc đời theo đúng nguyên tắc của đấng thiêng liêng đó. Trong bối cảnh Kitô giáo, bằng cách sống một cuộc đời có kỷ luật đạo đức, dựa trên lòng khoan dung và kiên nhẫn, theo một cách nào đó, bạn đang dâng tặng một món quà tuyệt vời cho Đấng Tạo Hóa. Theo một nghĩa nào đó, điều này hiệu quả hơn nhiều so với việc chỉ cầu nguyện là phương pháp thực hành chính. Nếu bạn cầu nguyện nhưng sau đó không sống theo lời cầu nguyện đó, thì cũng chẳng mang lại nhiều lợi ích.

Một trong những yogi vĩ đại của Phật giáo Tây Tạng, Milarepa, đã nói trong một bài ca về trải nghiệm tâm linh của mình: "Về việc cúng dường vật chất, tôi rất túng thiếu; tôi không có gì để cúng dường. Điều tôi có thể cúng dường dồi dào chính là sự thực hành tâm linh của tôi." Chúng ta có thể thấy rằng, nhìn chung, người có lòng kiên nhẫn và bao dung dồi dào thường có một mức độ thanh thản và tĩnh lặng nhất định trong cuộc sống. Một người như vậy không chỉ hạnh phúc và vững vàng hơn về mặt cảm xúc, mà còn có vẻ khỏe mạnh hơn về mặt thể chất và ít mắc bệnh tật hơn. Người đó có ý chí mạnh mẽ, ăn ngon miệng và có thể ngủ với lương tâm trong sáng. Đây là tất cả những lợi ích của lòng khoan dung và kiên nhẫn mà chúng ta có thể thấy trong cuộc sống hàng ngày của mình.

Một trong những niềm tin cơ bản của tôi là bản chất cơ bản của con người thiên về lòng từ bi và tình cảm. Bản chất cơ bản của con người là dịu dàng, không hung hăng hay bạo lực. Điều này phù hợp với tuyên bố của Cha Laurence rằng tất cả con người đều có cùng một bản chất thiêng liêng. Khi chúng ta xem xét mối quan hệ giữa lòng từ bi và sự khoan dung, chúng ta thấy rằng những thái độ, cảm xúc và đức tính lành mạnh, chẳng hạn như lòng từ bi, sự khoan dung và sự tha thứ, đều liên quan đến sức khỏe thể chất và hạnh phúc. Chúng nâng cao hạnh phúc tinh thần, trong khi những thái độ tiêu cực hoặc không lành mạnh, sự tức giận, thù hận, trạng thái tâm trí bất ổn làm suy yếu sự hiểu biết. Sự tương ứng này cho thấy bản chất con người của chúng ta gần gũi với những thái độ và cảm xúc lành mạnh.

Sau khi bạn đã suy ngẫm về các đức tính khoan dung và kiên nhẫn và cảm thấy cần phải phát triển và nâng cao chúng bên trong mình, bạn nên xem xét các loại và cấp độ khác nhau của sự kiên nhẫn và khoan dung. Ví dụ, trong các kinh điển Phật giáo, ba loại khoan dung và nhẫn nại được mô tả. Loại thứ nhất là trạng thái thờ ơ kiên quyết - người ta có thể chiến thắng nỗi đau hoặc đau khổ mà không bị chúng áp đảo. Đó là cấp độ đầu tiên. Ở trạng thái thứ hai, người ta không chỉ có thể chịu đựng những đau khổ như vậy, mà còn, nếu cần thiết, sẵn sàng và thậm chí sẵn lòng gánh chịu những khó khăn, đức tin và đau khổ liên quan đến con đường tâm linh. Điều này bao gồm việc tự nguyện chấp nhận những khó khăn vì một mục đích cao cả hơn. Thứ ba là một loại kiên nhẫn và khoan dung phát sinh từ một cam kết vững chắc về bản chất của thực tại. Trong bối cảnh thực hành Kitô giáo, loại kiên nhẫn này sẽ dựa trên một đức tin và niềm tin vững chắc vào những điều huyền bí của Tạo hóa. Mặc dù sự phân biệt giữa ba cấp độ khoan dung này được tìm thấy trong các văn bản Phật giáo, chúng cũng có thể áp dụng trong bối cảnh Kitô giáo. Điều này đặc biệt đúng với loại khoan dung và kiên nhẫn thứ hai - chủ động gánh chịu những khó khăn và thử thách liên quan đến con đường tâm linh của bạn./.


 

CÂY CHE CHỞ TƯƠNG THUỘC


Đức Như Lai sinh ra từ cây Iksvakus (Ích-xoa-câu),
Đấng Vô Song,
Người thấy bản chất lan tỏa khắp nơi
Của sự tương thuộc
Giữa môi trường và chúng sinh
Luân hồi và Niết bàn
Động và bất động
Dạy thế gian bằng lòng từ bi
Xin hãy ban lòng nhân từ cho chúng con

Đấng Cứu Độ
Đấng được gọi là Quán Thế Âm,
Hiện thân của lòng từ bi
Của tất cả chư Phật,
Chúng con cầu xin Người làm cho tâm hồn chúng con chín muồi
Và trổ quả để quán sát thực tại
Tuyệt đối thoát khỏi ảo tưởng

Tính ích kỷ ngoan cố của chúng con
Ăn sâu vào tâm trí chúng con
Từ vô thủy
Làm ô nhiễm, làm vẩn đục và làm ô nhiễm môi trường
Được tạo ra bởi nghiệp chung
Của tất cả chúng sinh

Hồ ao đã mất đi sự trong trẻo, mát mẻ
Bầu không khí bị đầu độc
Mái vòm thiên đường của thiên nhiên trên bầu trời rực lửa
Đã vỡ tan
Và chúng sinh mắc bệnh
Chưa từng thấy

Những ngọn núi tuyết quanh năm rực rỡ trong vinh quang
Cúi xuống và tan thành nước
Đại dương hùng vĩ mất đi sự cân bằng vĩnh cửu
Và nhấn chìm các hòn đảo

Mối nguy hiểm của lửa, nước và gió là vô hạn
Nắng nóng thiêu đốt những khu rừng tươi tốt của chúng ta
Làm thế giới chúng ta bằng những cơn bão chưa từng có
Và đại dương đầu hàng muối của các yếu tố

Mặc dù con người không thiếu của cải
Họ không đủ khả năng hít thở không khí trong lành
Mưa và suối không làm sạch
Nhưng vẫn là những chất lỏng trơ lì và bất lực

Con người
Và vô số chúng sinh
Sống dưới nước và đất liền
Lảo đảo dưới ách thống trị của nỗi đau thể xác
Gây ra bởi những căn bệnh ác độc
Tâm trí họ trở nên đờ đẫn
Với sự lười biếng, mê man và vô minh
Niềm vui của thể xác và tinh thần
Thật xa vời

Chúng ta vô tình làm ô nhiễm lòng mẹ đất tươi đẹp của chúng ta
Chặt cây cối để nuôi dưỡng lòng tham thiển cận
Biến đất đai màu mỡ của chúng ta thành sa mạc cằn cỗi

Bản chất tương thuộc của môi trường bên ngoài
Và bản chất bên trong của con người
Được mô tả trong Mật tông
Các tác phẩm về y học và thiên văn học
Đã thật sự được chứng minh
Bằng kinh nghiệm hiện tại của chúng ta

Trái đất là nhà của chúng sinh;
Bình đẳng và công bằng với cả động và tĩnh
Đức Phật đã nói như vậy bằng giọng chân thật
Với đại địa làm chứng

Như một chúng sinh cao quý nhận ra lòng tốt
Của một người mẹ hữu tình
Và đền đáp lại lòng tốt đó
Cũng vậy, trái đất, người mẹ vũ trụ
Nuôi dưỡng tất cả mọi người một cách bình đẳng
Nên được đối xử với tình cảm và sự quan tâm

Từ bỏ sự lãng phí
Đừng làm ô nhiễm bản chất trong sáng, tinh khiết
Của bốn yếu tố Và phá hủy hạnh phúc của mọi người
Nhưng hãy đắm mình vào những hành động
Có lợi cho tất cả

Dưới một gốc cây
Đức Phật Hiền triết vĩ đại đã sinh ra
Dưới một tàng cây, ngài đã chiến thắng đam mê
Và đạt giác ngộ
Dưới ta la song thọ, Ngài nhập niết bàn.
Quả thật, Đức Phật vô cùng tôn kính cây ấy.

Nơi đây, hóa thân của Văn Thù Sư Lợi,
thân thể của Lạt ma Tông Khách Ba nở hoa.
Được đánh dấu bằng một cây đàn hương.
Mang trăm ngàn hình ảnh của Đức Phật.

Chẳng phải ai cũng biết
rằng một số vị bổn tôn siêu việt,
Những vị bổn tôn và linh thức địa phương cao quý,
Đã trú ngụ trong cây cối sao?

Những cây xanh tươi làm sạch gió.
Giúp chúng ta hít thở không khí trong lành của sự sống.
Chúng làm dịu mắt và xoa dịu tâm trí.
Bóng mát của chúng tạo nên một nơi nghỉ ngơi dễ chịu.

Trong Luật tạng, Đức Phật dạy các vị sư.
Chăm sóc cây non.
Từ đó, chúng ta học được đức tính.
Trồng trọt, nuôi dưỡng cây cối.

Ngày xưa, tổ tiên chúng ta đã ăn quả của cây.
Mang lá của chúng.
Phát hiện ra lửa bằng cách mài mòn gỗ.
Trú ẩn giữa tán lá của cây.
Khi họ gặp nguy hiểm.

Ngay cả trong thời đại khoa học công nghệ này,
Cây cối vẫn cho chúng ta nơi trú ẩn.
Những chiếc ghế chúng ta ngồi.
Những chiếc giường chúng ta nằm.
Khi trái tim rực cháy.

Với ngọn lửa giận dữ
Được tiếp thêm sức mạnh bởi sự tranh cãi
Cây cối mang đến sự mát mẻ, sảng khoái

Trong cây cối là cội nguồn
Của mọi sự sống trên trái đất
Khi chúng biến mất
Vùng đất được tượng trưng bởi tên gọi
Của cây Jambu
Sẽ không còn gì hơn
Một sa mạc ảm đạm, hoang vắng

Không gì quý giá hơn sự sống đối với người sống
Nhận ra điều này, trong Luật tạng Đức Phật đặt ra những điều cấm kỵ
Giống như việc sử dụng nước với các sinh vật sống

Trong vùng hẻo lánh của dãy Himalaya
Ngày xưa, vùng đất Tây Tạng Tuân thủ lệnh cấm săn bắn, đánh cá
Và, trong những thời kỳ được chỉ định, ngay cả việc xây dựng.
Những truyền thống này thật cao quý
Vì chúng bảo tồn và trân trọng
Sinh mạng của những sinh vật khiêm nhường, yếu đuối, không có khả năng tự vệ

Chơi đùa với sinh mạng của những sinh vật khác
Không chút nhạy cảm hay do dự
Như trong hành động săn bắn hay câu cá thể thao
Là một hành động bạo lực vô ý, không cần thiết
Vi phạm các quyền thiêng liêng của tất cả chúng sinh

Chú ý đến bản chất
Sự phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các sinh vật
Cả hữu tình lẫn vô tình
Không bao giờ được chểnh mảng nỗ lực của mình
Để gìn giữ và bảo tồn năng lượng của thiên nhiên

Vào một ngày, tháng và năm nào đó
Ta nên thực hiện nghi lễ
Trồng cây Như vậy, ta hoàn thành trách nhiệm của mình
Phục vụ đồng loại
Điều đó không chỉ mang lại hạnh phúc cho bản thân
Mà còn mang lại lợi ích cho tất cả

Nguyện sức mạnh của việc tuân thủ điều đúng đắn
Và tránh xa những hành vi sai trái và ác nghiệp
Nuôi dưỡng và tăng cường sự thịnh vượng của thế giới
Nguyện nó tiếp thêm sinh lực cho chúng sinh và giúp họ nở rộ
Nguyện niềm vui rừng xanh và hạnh phúc nguyên sơ
Luôn tăng trưởng, luôn lan tỏa và bao trùm tất cả mọi thứ./.

QUỸ TRÁCH NHIỆM TOÀN CẦU

Để đối mặt với những thách thức của thời đại, tôi tin rằng nhân loại cần có Trách nhiệm Toàn cầu. Mỗi người, vì bản thân, gia đình và xã hội, phải học cách làm việc không chỉ vì lợi ích của quốc gia, mà còn vì lợi ích của toàn thể nhân loại.

-Đức Đạt Lai Lạt Ma

Quỹ Trách nhiệm Toàn cầu của Đức Đạt Lai Lạt Ma được thành lập với Giải Nobel Hòa bình được trao cho Ngài vào năm 1989.* Theo tinh thần của Hiến chương Liên Hợp Quốc, Quỹ tập hợp nam nữ thuộc các tín ngưỡng, nghề nghiệp và quốc tịch khác nhau, thông qua một loạt các sáng kiến ​​và hợp tác bền vững. là một tổ chức phi lợi nhuận, phi giáo phái, phi tôn giáo được thành lập.

Tổ chức hoạt động nhằm thúc đẩy Trách nhiệm Toàn cầu theo cách tôn trọng sự khác biệt và khuyến khích sự đa dạng về tín ngưỡng và thực hành; làm phong phú các mô hình giáo dục khai thác tiềm năng chuyển hóa của tâm trí con người; xây dựng đạo đức toàn cầu về bất bạo động, cùng tồn tại, bình đẳng giới và hòa bình bằng cách thúc đẩy các quá trình thay đổi cá nhân và xã hội.

 

***


 

Bình luận