Thiền và Văn hóa Nhật Bản
Điều khó khăn là mô tả chính xác con người của những  thiền sư và những tín đồ vĩ đại, vì sự vĩ đại không nằm ở nơi những gì  họ nói hay làm, mà nơi bản chất của họ, nơi ấn tượng mà họ gây nên đối  với những người tiếp xúc. Trong khi sự thật là nhiều thiền sư đồng thời  cũng là những nghệ sĩ viết, đặc tính cốt yếu của họ cũng như của Thiền  Đạo là, mặc dù là không lầm lẫn về sự vĩ đại ấy, người ta lại không thể  nào định nghĩa được nó. Chúng ta đành hiểu qua cách giáo hóa của các  ngài, và qua những bức tranh do những nghệ sĩ thấm nhuần tinh thần  thiền, đã phác họa. Tựu trung có một cái gì mạnh mẽ, tự nhiên không do  dự. Họ không phí lời, không có thói khoe chữ, và khi trả lời những câu  hỏi, họ không bao giờ tránh né vấn đề bằng cách lý luận quanh co, trừu  tượng, mà nói một điều đi thẳng vào tâm người đối thoại, theo một cách  đặc biệt có thể khó hiểu đối với người khác. Họ có trực giác bén nhạy về  tâm trạng của người khác đến nỗi họ không bao giờ mắc bẫy một kẻ nói  hay, mà không thực chứng. Khi thiền sư Châu Hoằng viết một tác phẩm về  mười điều tốt của một tu sĩ, có một người hợm hĩnh đến hỏi ngài:
 
 - Ngài viết làm gì một quyển sách như thế, vì đối với thiền, không có gì tốt cũng không có gì xấu.
 
 Thiền sư trả lời:
 - Năm uẩn trói buộc, bốn đại như rắn độc, sao ông lại bảo không có gì xấu ?
 - Bốn đại vốn là không, năm uẩn vô ngã.
 
 Thiền sư liền tát cho ông một cái và bảo:
 - Những điều ấy ông chỉ học trong sách vở, ông chưa thực chứng. Trả lời cách khác đi !
 
 Vị kia tức giận không trả lời được, toan bỏ đi thì thiền sư liền bảo:
 - Đấy, tại sao ông không lau bụi nơi mặt ông đi ?
 
 Ở Nhật, ta thường thấy những người theo Thiền Đạo có những vai trò tương  phản nhau như thi sĩ và chiến sĩ, vừa lý tưởng vừa thực tế. Khi thiền  sư Sogen sắp bị một bọn cướp chặt đầu, người im lặng ngồi xuống viết  những dòng thơ: 
 
 Trời đất không cho ta chỗ trú,
 Ta vui mừng vì thân và tâm đều không thật.
 Hoan nghênh khí giới của người, hỡi khổ đau,
 Ta cảm thấy gươm của ngươi như làn chớp cắt ngọn gió xuân.
 
 Cũng như ta tìm thấy hay yếu tố đặc biệt ấy trong bản chất các thiền sư  và đồ đệ, ta cũng thấy rằng Thiền đã ảnh hưởng nền văn hóa Nhật Bản theo  hai chiều hướng - mỹ thuật và chiến thuật. Một mặt chính, Thiền đã sản  xuất ra trà đạo, hoa đạo, những tác phẩm của các nghệ sĩ, thơ của Basho,  và kiến trúc của Nhật Bản đầy vẻ bình dị lặng lẽ. Nhưng mặt khác, cũng  chính Thiền đã sản xuất ra kiếm đạo, và những nguyên tắc khắc khe của võ  sĩ đạo. Sự mâu thuẫn trong Thiền là nó vừa có thể phối hợp niềm an  nhiên của Niết Bàn với hoạt động mãnh liệt của sự chiến đấu và những  công việc thường nhật. Hãy trích dẫn lời thiền sư Takuan:
 
 Điều quan trọng nhất là có một thái độ tinh thần được gọi là trí tuệ bất  động... Bất động không có nghĩa là cứng cỏi nặng nề, như tảng đá hay  khúc gỗ. Nó có nghĩa là sự di động cao độ với một trọng tâm đứng yên.  Tâm thức đạt đến cao độ của sự linh mẫn, sẵn sàng hướng chú ý đến bất cứ  chỗ nào cần. Nhưng có một cái gì bất động bên trong sự chuyển động một  cách tự nhiên cùng với vạn vật.
 
 Những đặc tính kể trên cũng được tìm thấy trong một họa phẩm thuộc  trường phái Sumie (Mặc Hội, tranh vẽ mực tàu) của Nhật Bản. Những bức  tranh thuộc trường phái Sumie được thực hiện trên một loại giấy thô đặc  biệt vẽ bằng bút lông mềm, mực tàu, không màu sắc, không sửa đi sửa lại.  thuật vẽ trên loại giấy thô này một khi đã họa một nét thì không thể  nào xóa, và phải họa thật mau. Với những vật liệu như thế, nghệ sĩ cần  phải vẽ: "giống như là có một trận cuồng phong đang nhập vào tay mình";  một lỗi nhỏ cũng hiện rõ, và nếu nghệ sĩ dừng lại để suy nghĩ giữa lúc  đang phát họa một nét vẽ, hậu quả sẽ là một vết mực xấu xí. Kỹ thuật này  hoàn toàn thích hợp với Thiền Đạo, vì nó ngụ ý rằng, nghệ sĩ phải đưa  nguồn cảm hứng của mình lên giấy ngay khi nó đang còn sống; không thể  làm một nét họa thô sơ rồi từ từ thêm chi tiết, vì đến khi đó, cảm hứng  đã bị giết chết bởi vô số thay đổi và biến dịch. Người họa sĩ phải hoàn  thành bức tranh trong vài phút, vì nó cũng như cái tát tay bất chợt của  thiền sư, không thể lấy lại, có tính cách xác định và linh động. Một cái  tát được đưa ra từ từ và dò dẫm thì không phải là một cái tát mà chỉ là  một sự vuốt ve, nó không có vẻ tự nhiên sinh động. Cũng thế, một bức  tranh mà không tóm ngay được nguồn cảm hứng khi nó đang sống, mà phải  cần cù khó nhọc khôi phục cảm hứng khi nó đã chết, chỉ như con chim độn  bông vào cho họa sĩ nhìn cái thi hài của nó. Họa sĩ trường phái Sumie  phải luôn luôn "bước lên", vì cái chết theo sau sự sống chỉ trong gang  tấc. Tuy nhiên, dưới tất cả tính cách đột ngột, tức thì của trường phái  Sumie, còn có một vẻ an tĩnh đặc biệt và điểm này nằm ở chỗ nó loại bỏ  những gì không thiết yếu. Nguyên tắc này bắt nguồn từ Thiền và còn xa  hơn, từ triết lý Lão Trang về sự tiết kiệm năng lực. Đạo Đức Kinh nói:
 
 "Gió mát không qua buổi sớm, mưa rào không đổ trọn ngày, đấy là vận hành  của thiên nhiên. Ngay đến thiên nhiên cũng không dễ duy trì nỗ lực được  lâu dài, huống chi con người"
 
 và
 "Người đi giỏi không để dấu chân, người nói giỏi không gây lầm lỗi".
 
 Vì người đi giỏi chỉ sử dụng đúng năng lực cần thiết để bước, không để  dấu vết vì đi nhẹ nhàng không tung bụi. Lão Trang cho rằng, nếu một  người đi tung bụi lên thì đấy là dấu hiệu y đang phung phí năng lực.  Nguyên tắc căn bản để trong hình thức hoạt động nào, ấy là sử dụng vừa  đúng năng lực cần thiết để hoàn thành hoạt động ấy. Thường, người ta ưa  làm cho đời sống của mình khó khăn vất vả một cách không cần thiết, phí  phạm rất nhiều năng lực trong việc làm. Chỉ vì một phần nhỏ năng lực ấy  thật sự được dùng cho công việc, thường nó bị phung phí ra chung quanh  trong khi chỉ cần tập trung vào một điểm. Tổ Bách Trượng bảo:
 
 "Đói ăn, khát uống, mệt thì đi ngủ... Phần đông người ta không chịu ăn,  mà tâm rộn ràng nghĩ đến hàng trăm chuyện khác; họ không ngủ mà mơ mộng  đến ngàn lẻ một chuyện".
 
 Một tâm thức chưa được điều phục thường lãng phí năng lực vào những lo  âu bất tận, những ý tưởng tản mác lang thang, thay vì mỗi lúc chỉ nghĩ  một chuyện. Chính vì lý do này, nó không bao giờ làm cái nó đang làm, vì  khi vừa bắt đầu một công việc, tâm đã chạy đến công việc khác, nó kiệt  sức vì một khối lượng khổng lồ hoạt động bị lãng phí. Về điểm này, ta  thấy Lão Trang và Thiền có vẻ lười biếng, song chính là vì muốn bảo tồn  năng lượng. Thái độ an nhiên của họ là hậu quả của một tâm thức chỉ tập  trung mỗi lúc vào một việc. Cả Thiền lẫn Lão Trang đều nắm lấy sự việc  ngay khi nó đến, hoàn thành nó rồi bước sang công việc kế tiếp, tránh sự  chạy qua lại vô ích, sự lo lắng về quá khứ vị lai làm cho hoạt động  thất bại. Như vậy, sự tiết kiệm năng lực trong Lão Trang chính là nguyên  tắc "bước tới" của Thiền, và trong đời sống cũng như trong nghệ thuật,  Thiền không bao giờ phí phạm năng lực bằng cách dừng lại để giải thích  mà chỉ "cho thấy". Trong địa hạt triết lý, thì chỉ cho thấy cây bách  trước sân, hay bụi tre dưới chân đồi, không bàn luận gì thêm, không đi  vào một cuộc phân tích siêu hình nào. Cũng thế, trong nghệ thuật, Thiền  chấm phá những nét chính yếu, không cần chi tiết. Vì Thiền có nghĩa là  để cho người ta tự mình nhìn thấy cuộc đời, và nếu triết gia cũng như  nghệ sĩ mô tả hết những gì cần phải thấy thì sự mô tả của họ để trở  thành thay thế kinh nghiệm sống. Bởi thế, mục đích triết lý và nghệ  thuật không phải cung cấp một bản sao của cuộc đời bằng danh từ hay nét  vẽ, vì sự thật luôn luôn tốt hơn bất cứ một bản sao nào. Mà mục đích là  đem lại cho người ta sự ám chỉ hãy tự mở mắt ra để nhìn. Uống trà đi đôi  với Thiền, từ ngàn xưa, tu sĩ sử dụng trà để được tỉnh táo trong những  thời Thiền định. Trà đạo được du nhập vào Nhật Bản thì trà không phải  chỉ là một thức uống làm bằng lá khô. Một thiền sư nói:
 
 "Hãy để ý rằng thiền vị và trà vị chỉ là một".
 
 Đây không phải là một cuộc chơi chữ, dần dần mọi lý tưởng nghệ thuật  trong thiền đều liên kết với nghi thức uống trà, vì trong khi các thiền  sinh dùng trà cho tỉnh người suốt thời gian vật lộn với công án thiền,  họ bắt đầu xem trà như người bạn đem lại sự an tĩnh tâm hồn. Chẳng bao  lâu thói quen uống trà trong thiền đường bị bãi bỏ, thay vào đó dùng một  gian phòng đặc biệt dành riêng cho việc uống trà. Từ đấy phòng uống trà  gọi là "nhà không", tức trà thất, là một căn nhà bằng giấy mong manh  với một mái tranh đơn sơ ẩn sau một khu vườn. Với lối ấy, trà đạo trở  thành một cách giải tỏa tâm hồn hiệu nghiệm nhất; đấy là lối thoát tạm  thời khỏi mọi lo âu bận trí, một thời gian ngơi nghỉ và trầm tư, để hồn  lắng trong vẻ đẹp của thiên nhiên và nghệ thuật.
 
 Dần dà, khu vườn trong đó trà thất được dựng lên trở thành thiết yếu  trong trà đạo, và con đường nhỏ làm bằng những phiến đá phẳng, băng qua  khu vườn cây cảnh và biến mất trong lùm cây nhỏ, tượng trưng cho những  sự cách biệt với thế gian. Cây cảnh trong vườn không có màu sắc lòe  loẹt, vì Thiền chỉ chọn những màu nhạt gợi lên sự an tĩnh. Những nhà  chuyên môn về vườn cảnh ở Nhật đã tài tình đến độ, chỉ trong một khu đất  nhỏ, họ cũng có thể tạo nên một ấn tượng về một vùng thung lũng với núi  non cô tịch thanh bình. Đây không có nỗ lực nhằm bắt chước thiên nhiên,  mà nhắn vào sự gợi lên một không gian mà Kobori Enshu đã tả:
 
 Một chòm cây mùa hạ 
 Một nét biển xa xăm,
 Một vừng trăng mờ nhạt.
 
 Trên con đường dẫn đến trà thất, có một tảng đá lớn, mặt tảng đá được  khoét lõm thành một cái tô đựng đầy nước từ một cành tre rót xuống. Ở  đây người ta rửa tay trước khi vào ngôi trà thất tịch liêu đằng cuối con  đường: 
 
 Tôi nhìn ra,
 không có hoa, 
 cũng không có lá. 
 Trên bờ biển,
 một chòi tranh đứng trơ trọi
 trong ánh nắng nhạt chiều thu.
 
 Trà thất với những vật liệu mong manh làm cho ta nghĩ đến sự vô thường  và tánh rỗng không của mọi sự. Không có một vẻ gì là chắc chắn hay cân  đối trong kiến trúc. Vì đối với Thiền, sự cân đối là chết, là thiếu tự  nhiên, nó quá toàn bích không còn chỗ nào cho sự phát triển và đổi thay.  Điều thiết yếu là ngôi trà thất phải hài hòa với cảnh vật chung quanh,  nét thiên nhiên của cây lá và đất đá. Lối vào trà thất thì nhỏ và thấp  để người bước vào phải cuối đầu xuống trong vẻ khiêm cung, trong khi  người võ sĩ đạo muốn vào phải để lại thanh kiếm dài bên ngoài. Ngay bên  trong, một không gian cô tịch đang ngự trị: không màu sắc, có chăng là  màu vàng nhạt của tấm thảm dày bằng rơm và màu tro nhạt của những bức  vách bằng giấy, được trang hoàn bằng một vài kiệt tác của các họa sĩ  phái Sumie và Kano, đôi khi chỉ là một bức họa đen trắng. Trước bức  tranh chỉ đặt một bình hoa đơn độc với một cành lá được trình bày bởi  một nghệ sĩ cắm hoa điêu luyện. Khi tất cả khách tham dự đã tụ họp,  trong khi ấm nước được đặt nấu trên một chiếc hỏa lò. Trong khi ấm kim  loại, nước reo sôi tạo thành âm thanh, mà Kobori Enshu đã ví, như là  tiếng thông reo trên đồi xa, hay tiếng nước suối đổ quanh trên ghềnh đá.  Những chén trà hình dáng thô sơ bằng sành có màu sắc giống như những  cánh lá mùa thu trong thiền vị, khác với những đồ xứ làm bằng vỏ trứng  tinh xảo được tô vẻ hình chim và hoa mà những nhà sưu tầm Tây Phương  thường ưa chuộng. Ý nghĩa trà đạo là sử dụng tối đa những vật liệu tầm  thường nhất; nó nói lên niềm kính trọng của Thiền đối với những vật tầm  thường trong sự sống. Người tham dự trà đạo phải hiểu để thưởng thức,  không phải giá trị nội tại của vật liệu, mà là sự cẩn trọng và nét mỹ  thuật được diễn bày. Trà đạo cốt ở thái độ tâm thức hơn là ở vật liệu sử  dụng. Sen No Rikyu, một trà chủ danh tiếng, đã nói:
 
 “Chỉ cần một chiếc ấm là chúng ta có thể tổ chức một buổi trà đạo. Thế  mà, có những người luôn luôn buộc phải có đầy đủ dụng cụ thông thường,  điều ấy thật là điên rồ”.
 
 Trong trà đạo, chúng ta tìm thấy Thiền qua khía cạnh an tĩnh của nó, đó  là sự giải thoát tâm linh cao độ và sự buông thả hoàn toàn, hài lòng với  những gì thiên nhiên sẵn có. Đấy là biểu tượng của thanh bần, tách rời  của cải thế tục. Nguyên lý căn để của nó là làm nổi bật tính chất mong  manh của ngoại giới, lòng trân quý sâu xa đối với thiên nhiên, với những  biến chuyển bất tận của cuộc đời muôn vàn sắc thái, tránh sự trùng lập  và cân đối của nó, và cuối cùng là đặc tính không thể định nghĩa trong  Yugen (Huyền Môn), mà Waley gọi là:
 
 “Cái huyền diệu đối với cái rõ rệt, sự ám chỉ thay cho sự lập ngôn”.
 
 Nếu công án thiền là một phương tiện tôn giáo, thì Yugen là phương tiện  của nghệ thuật, đấy là phương pháp chứng minh một sự thật bằng cách khai  thị thay vì mô tả, để cho người ta có thể trực tiếp với cuộc sống, thay  vì qua sự mô tả của người khác. Bởi thế, Yugen là sự tiết kiệm của hội  họa qua trường phái Sumie, đấy là các chứng minh sự sống không để bị  trói buộc lại để cho nghệ sĩ trình bày nét bút, đó là cái không thể nắm  bắt, luôn luôn vụt thoát, mà người họa sĩ chỉ có thể gợi ý của ta bằng  một ám chỉ xa xôi. Một thi sĩ Nhật Bản đã nói rằng cái cách đi sâu của  Yugen nhằm tìm ra cái gì bên dưới của bề mặt, chính là
 
 “Ngắm mặt trời lặn sau ngọn đồi đầy hoa; lang thang trong khu vườn mênh  mông không tính chuyện trở về; đứng bên bờ dõi mắt trông theo con thuyền  trôi khuất sau những quần đảo xa xăm; trầm tư về một hành trình của  những con thiên nga mất hút sau những đám mây”.
 
 Những lời này như chứa đựng toàn thể tinh túy của trà đạo, vì những cảm  giác chúng gợi cho ta, chính là nền tảng của nghệ thuật Nhật Bản thấm  nhuần Thiền Đạo. Chúng có vẻ đẹp lạ lùng ám ảnh; bầu không khí tuyệt  đối, vượt ngoài mọi lo âu, bệnh hoạn, đã làm nên “tín ngưỡng trà” được  công nhận khắp nơi ở Nhật Bản, xem đây là một phương tiện tuyệt hảo để  đem lại sự an tĩnh cho tinh thần và soi sáng tuệ giác tâm linh.
 
 Trái ngược hẳn vẻ an tĩnh của trà đạo, Thiền trở nên mãnh liệt như bão  táp qua võ sĩ đạo. Mặc dù vẫn có sự an tĩnh bên dưới tảng đá rắn chắc.  Tinh thần võ sĩ đạo phải là thái độ mà người ta gọi là trạng Mura –  nghĩa là không có cái cảm giác rằng: “tôi đang làm việc ấy”. Cảm giác  nầy được xem là một trở ngại lớn, vì cũng như khi nghe nhạc, cái ý thức  về chính mình đang lắng nghe hay chính mình đang đánh kiếm đã kéo sự chú  ý ra khỏi khúc nhạc hay khỏi hành động đánh kiếm. Ý thức về bản ngã  phải phục tùng sự tập trung vào công việc đang làm, tâm phải theo dõi  bén gót những động tác của đối phương để phản ứng lại một cách tức thì,  làm cho sự tấn công và tự vệ trở thành một. Chính tâm thức này là trọng  tâm của võ dĩ đạo. Ở Nhật Bản vào thời phong kiến, thường xuyên xảy ra  những cuộc nội chiến giữa các sứ quân, nên các võ sĩ đạo phải luôn luôn  trong trạng thái tỉnh thức, có thể lâm chiến bất cứ lúc nào. Chính nhờ  tinh thần Thiền mà họ duy trì được sự bình tĩnh, và người võ sĩ đạo  thường đến viếng các thiền sư để thêm sức mạnh tinh thần phát xuất từ  tôn giáo “đi thẳng tới trước không ngoái nhìn lui”, một tôn giáo dạy  rằng, sống và chết chỉ là hai khía cạnh của một hiện hữu, và chỉ cho  người ta thấy, có thể quên bản ngã bằng cách nhập làm một với sự sống.  Võ sĩ đạo đòi hỏi sự trung thành tuyệt đối, lòng dũng cảm vô biên. Tâm  niệm của người võ sĩ đạo là:
 
 Tôi không có cha mẹ nào ngoài trời đất
 Tôi không có thần linh nào ngoài lòng cương trực
 Tôi không có của cải nào ngoài sự phục tùng 
 Tôi không có phép lạ nào ngoài sức mạnh nội tâm
 Tôi không có sinh tử nào ngoài sự bất diệt
 Tôi không có mắt nào ngoài tia chớp
 Tôi không tai nào ngoài sự bén nhạy
 Tôi không có tay chân nào ngoài sự nhanh nhẹn
 Tôi không có mục đích nào ngoài cơ hội
 Tôi không có thần thông nào ngoài chánh pháp 
 Tôi không có nguyên tắc nào ngoài sự thích ứng 
 Tôi không có bạn nào ngoài tâm tôi
 Tôi không có kẻ thù nào ngoài sự bất cẩn
 Tôi không có khí giới nào ngoài thiện chí và chánh đạo
 Tôi không có lâu đài nào ngoài tâm bất động
 Tôi không có gươm nào ngoài giấc ngủ của tâm.