Đình, chùa Đức Liễn và Hán Quận công
Thời Hậu Lê, Triều vua Lê Thánh Tông niên hiệu Quang Thuận thứ 10 (1460 - 1497), Triều đình nhà Lê đã cho định lại bản đồ hành chính ở các địa phương trong cả nước, khi đó làng Đức Liễn thuộc tổng Phúc Tằng, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, Trấn Kinh Bắc. Đầu thế kỉ XVIII, thời Lê Trung Hưng, đình, chùa Đức Liễn thuộc xã Điêu Liễn, tổng Phúc Tằng, huyện Yên Dũng. Trước Cách mạng tháng Tám, đình, chùa Đức Liễn thuộc thôn Cổ Liễn Trung, xã Điêu Liễn, tổng Hoàng Mai, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Ngày nay, đình, chùa Đức Liễn thuộc thôn Đức Liễn, xã Hồng Thái, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
Đây là cụm công trình văn hoá tín ngưỡng, tôn giáo được xây dựng từ lâu đời, có cấu trúc độc đáo, nghệ thuật chạm khắc điêu luyện. Chùa Sùng Ân là một công trình kiến trúc đẹp, là ngôi cổ tự quy mô lớn, văn bia lưu lại bên trái toà tiền đường cho biết ngôi chùa được tu sửa vào thời Lê Trung Hưng (thế kỉ XVII) có bình đồ kiến trúc hình chữ đinh với bộ khung được làm bằng gỗ lim chắc khoẻ. Hiện chùa Sùng Ân còn bảo lưu được hệ thống tượng Phật cổ có giá trị thẩm mĩ cao, đặc biệt là pho tượng Adiđà, tác phẩm nghệ thuật điêu luyện, là một trong những pho tượng cổ, có kích thước vào loại lớn nhất tỉnh Bắc Giang. Phía hồi sau thượng điện còn trường tồn một cây thị hằng trăm năm tuổi, gốc cây đã bị rỗng giữa. Trong thời kì chiến tranh, cây thị là địa điểm hội họp và che giấu bộ đội, du kích địa phương. Hiện nay, ngôi cổ tự mới được trùng tu, tu bổ thêm 12 gian nhà mẫu, nhà tổ hình chữ Nhị; chùa một cột bằng đá xanh được tạo tác công phu; vườn tháp và khuôn viên chùa được quy hoạch lại khang trang, có cảnh sắc đẹp. Ngày 15 tháng giêng âm lịch là ngày hội chùa và ngày mùng 8 tháng 9 âm lịch hằng năm là ngày việc làng, dân làng mở cửa đình.
![]() |
Đình Đức Liễn. |
Đình Đức Liễn thờ 2 vị Cao Sơn - Quý Minh đại vương thời Vua Hùng thứ 18 và hậu thờ bà Tiền tặng Thái Bảo Nham Quận công Thân Quý Thị (mẹ Hán quận công Thân Công Tài) và phối thờ quan Tả phủ Thân Công Tài. Trong đình còn lưu giữ được tấm bia đá long đình cổ, trên bia khắc ghi các dòng họ cung tiến tiền, của và ghi ơn Hán Quận công Thân Công Tài đã hưng công xây dựng đình.
Hán Quận công Thân Công Tài (1620-1683) quê xã Như Thiết, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Như Thiết, xã Hồng Thái, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang). Ông vốn là quan võ, làm đến chức Tả đô đốc, tước Hán Quận công, từng trấn thủ Bắc đạo, gồm Kinh Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn, một vùng rộng lớn, nhiều sông ngòi, rừng núi, có biên ải và quan trọng là cửa Nam Quan, trên đường Thiên lí từ kinh thành Đông Đô (Thăng Long) đi sang Trung Quốc. Năm Cảnh Trị thứ năm (1667) sứ nhà Thanh sang phong vương cho vua Lê, ban cho ấn bạc mạ vàng, ông được cử vào phái đoàn triều đình lên cửa ải đón tiếp sứ. Năm Chính Hòa thứ ba (1682) ông được cử lên Nam Quan, cùng Phó đô ngự sử Võ Duy Đoán, nhận tù binh nhà Mạc, do nhà Thanh trao trả. Ông ra sức ổn định tình hình biên giới vì lúc ấy quân Thanh thường gây rối. Ông lại được nhận chức Đồng tri, cùng Vi Đức Thắng ở Lạng Sơn, trấn giữ biên thùy. Ngoài nhiệm vụ quân quản chốn cửa ải biên cương, Thân Công Tài đã để tâm nhiều đến kinh tế cửa khẩu. Ông cho san đồi mở núi, làm rộng đường sá, lập nên phố chợ Kỳ Lừa, thu hút thương khách Trung Quốc sang buôn bán, khiến trấn lị Đoàn Thành (tên thành Lạng Sơn ngày ấy) trở nên phồn thịnh, manh nha một đô thị mới. Đặt vào bối cảnh nước ta ở đàng ngoài cuối thế kỉ XVII mới thấy tầm nhìn, việc làm của Thân Công Tài, có ý nghĩa xã hội lớn. Chiến tranh Lê - Mạc vừa chấm dứt ở đàng trong, thì chúa Nguyễn cho mở cảng Hội An đón thương khách người Hoa, người Nhật… Mở mang thương nghiệp, của Thân Công Tài quả thực là một tư tưởng mới đương thời. Ông thuyết phục các vị quan và chỉ đạo dân chúng địa phương thực hiện kết quả theo ý muốn. Bảy phường chợ ở Đoàn Thành (Lạng Sơn) trước hết là phố chợ Kỳ Lừa và 13 phường buôn Trung Quốc ra đời. Khi ông mất, các thương nhân hai nước Việt - Trung, có tới trên 70 điểm di tích thờ phụng ông.
Làng Đức Liễn là quê ngoại của Hán Quận công Thân Công Tài nơi Ngài sinh ra và lớn lên, khi đạt được nhiều công danh, tước phận, Ngài về quê Hồng Thái vinh quy bái tổ, hưng công trùng tu quần thể di tích đình Đức Liễn và chùa Sùng Ân to đẹp, cùng với đình Sen Hồ, Nghè Nếnh, đền Miễu, đình Như Thiết, chùa Sùng Nham… Đình, chùa Đức Liễn có quy mô bề thế là nhờ công lớn của Hán Quận công.
Nghệ thuật chạm khắc ở đình, chùa Đức Liễn chủ yếu là đề tài tứ linh (long, li, quy, phượng), và tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai). Các cổ vật hiện còn như sắc phong, ngai thờ, kiệu bát cống, bát bửu, hệ thống tượng Phật cổ, bia đá, hương ước những năm 1936, 1938, 1942, là những hiện vật quý là bằng chứng mang tính chất xã hội sâu sắc, thể hiện tính nhân văn cao cả.
Nguồn: Người Cao Tuổi