Niềm Tin và Trí Tuệ
Chỉ cần Thầy tu thôi !
 Quý vị biết không, gần đây có nhiều người đến khuyên tôi thế nầy: “Thầy  ơi, lúc nầy Thầy cứ tu đi thì mọi việc sẽ tốt đẹp, Thầy đừng làm chi  hết, bởi vì Thầy có làm chi thì sẽ đụng tới người ta, chỉ cần Thầy tu  thôi là yên hết.”
 Tôi cười và nói: Xin cảm ơn quý vị - đó là một lời khuyên và lời khuyên  ấy đã được nói một cách thật lòng, nhưng chưa đúng hoàn toàn.
 Giả như quý vị là tôi thì quý vị sẽ nghĩ như thế nào về lời khuyên đó? Và phải trả lời người đó như thế nào?
 
Trước hết mình cũng xin ghi nhận cái tâm của họ rất là tốt. Nhưng, chúng ta phải ghi nhận và phải thực hiện như thế nào?
 
Chúng  ta đưa đôi mắt thiền quán để nhìn vào cuộc đời của đức Phật trước và  sau khi Ngài thành đạo, để chúng ta có thể thấy được giá trị của lời  khuyên ấy. Là Phật tử, tất cả chúng ta đều biết rằng, trước khi đức Phật  thành đạo Ngài có làm gì đâu, Ngài chỉ ngồi yên lắng trên núi Tuyết,  thế mà thiên ma vẫn hoạt động rất dữ dội, họ tìm đủ mọi cách để quấy phá  sự thành đạo của đức Phật. Ngài đã ngồi yên lặng thiền định không phải  giữa phố thị mà Ngài ngồi trên núi, rồi sau khi thành đạo Ngài cũng chưa  định đi chuyển pháp luân thì thiên ma yêu cầu Ngài nhập Niết Bàn.
 
Đức Phật nói rằng: Trước sau gì Như Lai cũng nhập Niết Bàn thôi, nhưng mà để Như Lai giáo hóa cho có chúng Tỳ kheo đã!
 
Sau  khi có chúng Tỳ kheo, thiên ma khuyên Phật nhập Niết Bàn, Ngài nói đợi  có chúng Tỳ kheo ni đã. Khi đã có chúng Tỳ kheo ni, thiên ma yêu cầu  Ngài nhập Niết Bàn, Ngài lại nói: trước sau gì rồi ta cũng nhập Niết Bàn  thôi, để ta giáo hóa cho có chúng Ưu Bà Tắc đã. Sau khi thấy có chúng  Ưu Bà Tắc, thiên ma lại thúc: Xin Ngài nhập Niết Bàn! Lúc này đức Phật  trả lời: Để có chúng Ưu Bà Di đã.
 
Sau  khi đức Phật giáo hóa và thành lập được chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu  Bà Tắc, Ưu Bà Di xong, thiên ma lại đến yêu cầu Ngài nhập Niết Bàn như  đã hứa, vì bấy giờ đã có người gánh vác Phật pháp. Quý vị thử đoán xem,  đức Phật đã trả lời thế nào với thiên ma? Ngài nói: Chưa gấp, hễ thấy  đúng thời là Như Lai nhập Niết Bàn thôi!
 
Trong  suốt 45 năm hoằng hóa, thiên ma luôn luôn đi theo đức Phât và họ tìm  mọi cách để khiến đức Phật sớm nhập Niết Bàn. Khi Ngài đến xứ Câu Thi  La, đức Phật nói với Tôn giả A Nan là Ngài dự định ba tháng nữa, sẽ nhập  Niết Bàn. Bấy giờ thiên ma ba tuần đã che khuất sự hiểu biết của ngài A  Nan, cho nên ngài A Nan đã không hiểu được ý của Phật, để thỉnh Ngài  tiếp tục ở lại giữa cuộc đời. Đức Phật đã ba lần thể hiện ý định nhập  Niết Bàn của mình, nhưng vì bị ma ba tuần che khuất, nên Ngài A Nan  không hiểu hết ý của Ngài, và đã không nhận ra được, nên đã không có sự  thỉnh cầu Ngài tiếp tục trụ thế, và cuối cùng đức Thế Tôn tuyên bố buông  bỏ thọ mạng. Đến lúc đó, ngài A Nan mới nhận ra và vội vã đến thỉnh  Phật tiếp tục trụ thế, nhưng đức Phật dạy: ”Như Lai đã nói là làm, Như  Lai đã tuyên bố buông bỏ thọ mạng. Bây giờ đã có đủ bốn chúng Tỳ kheo,  Tỳ kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, có giới luật rồi, có pháp của Như Lai  rồi, đã đến lúc Như Lai nhập Niết Bàn!”
 
Quý  vị thấy, đức Phật trước khi thành đạo, Ngài không tranh giành chi với  ai cả, Ngài chẳng giành uy tín chi của ai hết, Ngài chỉ ngồi im lặng  thiền định thôi, thế mà thiên ma đâu có buông bỏ việc quấy phá sự thành  đạo và giáo hóa của Ngài. Ngài chỉ ngồi trên núi thôi, chứ có đi giữa  đồng bằng, phố thị treo bảng này, bảng nọ để quảng cáo gì đâu!
 
Sau  khi thành đạo, Ngài đi giáo hóa đem lại lợi ích cho con người và cho xã  hội. Ngài đâu có giành cơm của ai để ăn, giành áo của ai để mặc, giành  tiền của ai để xây lâu đài tráng lệ cho riêng mình! Vậy mà, thiên ma vẫn  luôn đeo đẳng để yêu cầu Ngài nhập Niết Bàn.
 
Như  vậy, quý vị thấy chuyện “mình cứ tu đi thì mọi chuyện nó yên hết, mình  chỉ cần tu thôi thì không ai đụng tới mình cả”, câu nói đó quý vị nghiệm  lại thấy có đúng không? ”Thầy cứ tu đi, Phật tử cứ tu đi thì không ai  đụng tới Thầy, không ai đụng tới Phật tử đâu!”
 
Đúng  là đức Phật chỉ tu thôi, Ngài có đụng tới ai đâu. Giờ đây, mình là đệ  tử phật, mình cũng chỉ tu và cũng chỉ làm công việc của nhà tu thôi, chứ  mình có làm gì khác đâu!
 
- Tu là đụng chạm:
 
Mình  không tu có thể mình sẽ đụng chạm tới thiên hạ, đó là điều dễ hiểu,  nhưng mình có tu, quý vị cũng đừng nghĩ là chúng ta không đụng chạm gì  đến ai.
 
Mình  tin Phật thì sẽ đụng đến người tin ma. Mà giữa đời này ma nhiều hơn  Phật chứ, cho nên, chỉ tin Phật thôi là đã đụng nhiều người lắm rồi!
 
Mình  tin Pháp thì sẽ đụng đến các tà thuyết bất chính. Vì thế, mình nói đúng  chánh pháp và hết sức tuyên dương chánh pháp là đã đụng đến các tà  thuyết, tà pháp của thế gian!
 
Mình  tin Tăng thì đụng chạm tới ai? Tới các tà sư ác hữu. Thật sự mình chỉ  biết đi chùa, biết tụng kinh, ngồi thiền và niệm Phật thôi, mình đâu có  thì giờ để đi nói xấu các tà sư ác hữu, thế mà vẫn đụng chạm tới họ!
 
Mình  tin Giới là đụng tới những sinh hoạt phi đạo đức, phi luân thường đạo  lý của xã hội! Mình chỉ tin Giới thôi, thì những người buôn lậu, những  người tham nhũng,... họ ghét dữ lắm. Mà sự thật, mình đâu có giành chi  của họ, mình cũng chẳng tham nhũng, chẳng hối lộ chi ai. Chính cái phi  lương tâm, phi đạo đức của hành động họ, làm cho họ cảm thấy không thích  mình, nên cứ như thế mà đụng!
 
Cho nên, việc mình thực hiện niềm tin đối với Tam Bảo thôi là mình đã đụng tới tất cả những người không có niềm tin Tam Bảo rồi.
 
Người  đời thích giết hại sinh vật để ăn, tranh giành nhau để sống, tàn hại  người khác để mưu sinh cho riêng mình, còn những ai đã tin Phật rồi thì  lại không thích tàn hại bất cứ ai, hay dẫm đạp lên bất cứ loài vật nào  để tồn sinh. Họ bảo giết người, giết vật, mình không giết, thế là đụng  họ rồi. Thế thì ai đụng ai? Mình có thích đụng đâu mà! Mình chỉ thích  giữ giới, thích không tàn hại chúng sinh thôi, vậy mà vẫn đụng!
 
Mình  ưa tôn trọng công bằng lẽ phải. Cái gì làm được thì mình hưởng, người  khác làm được thì người khác hưởng. Nhân ngang đâu thì Quả ngang đó. Bởi  mình ưa như vậy, nên mình mới giữ giới thứ hai là giới không trộm cắp.  Nhưng giờ đây, giữa thiên hạ, người ta ưa làm ít mà hưởng nhiều, nghĩ  cách để chạy mánh chạy mung... thế là đụng nhau thôi à!
 
Người  đệ tử Phật ưa sống tiết hạnh thanh bạch. Vậy, những người mua dâm, bán  dâm, những người làm phim ảnh đồi trụy không lôi kéo được sự đồng tình  của người đệ tử Phật. Chỉ đơn giản vậy thôi, thì những người kinh doanh  về mặt này trong xã hội đã ghét mình lắm rồi.
 
Người  đệ tử Phật chỉ thích nói lời chân thật, nói đúng lẽ phải. Nhưng, hễ nói  lời ngay thẳng thì sẽ đụng kẻ xảo quyệt điêu ngoa, hễ nói thiệt thì sẽ  đụng đến người nói láo. Mà giữa đời này có những kẻ làm chuyên gia nói  láo, nói láo có truyền thống, nói láo có hệ thống, nói láo có súng đạn,  nói láo có băng đảng, nói láo có tổ chức từ trên xuống dưới... Là người  con Phật ai lại đi nói láo phải không quý vị, chỉ cần mình nói thiệt  thôi, là đã đụng đến người ta rồi, thực ra mình đâu có nói xấu chi họ.
 
Người  ta uống bia uống rượu, mình không uống rượu bia, vậy là họ ghét. Có  người ăn chay trường, đi ăn tiệc cưới ngồi chung bàn với bạn bè, chắc  chắn người ta sẽ xầm xì: tu làm gì không biết nữa, tu để mau thành Phật  à?! Mình đâu có giành bia, giành thịt của họ mà ăn đâu chứ , thế mà vẫn  đụng!
 
Cho  nên, quý vị thấy, mình tu thật là đụng tới những tâm ý của người phàm,  đụng tới tất cả chúng sinh phàm tục, đụng hết. Bời vậy mà thiên ma ba  tuần đã tìm mọi cách làm cho Phật đừng thành Phật chứ ! Đến khi thành  Phật rồi, thiên ma lại muốn Ngài nhập Niết Bàn để cho họ được tự tung tự  tác giữa cuộc đời, ưa làm gì thì làm, ưa phỉnh gạt ai thì phỉnh gạt. Đó  là ý đồ của thiên ma mà!.
 
Bởi  vậy, tu là đụng tới cái tham của chúng sinh. Mình muốn đẩy họ đi lên,  lên cao đến vô cùng , thế nhưng chúng sinh đâu có chịu, họ cứ ưa níu kéo  nhau đi xuống chỗ thấp kém thôi!
 
Quý  vị biết, ngay cả Sư ông Nhất Hạnh, đi đâu cũng chỉ muốn giáo hóa cho  người ta tu học, và trong biến cố tại Mỹ ngày 11 tháng 9 cách đây hai  năm, khi xuất hiện tại Mỹ, Sư Ông đã khuyên họ hãy yêu thương nhau và  đừng tạo ra hận thù. Vậy mà đã có một số người đã tìm cách để làm khó Sư  Ông. Sư Ông chỉ khuyên họ những lời từ ái dễ thương thôi mà họ đâu có  chịu nghe, không những không chịu nghe mà còn chống báng nữa ! Cho nên,  sống giữa đời, người biết nói lời từ ái với nhau đã khó, huống gì là  người biết lắng nghe lời từ ái để sống! Không tu thì đụng theo kiểu phàm  tục, không tu thì đem cái phàm đụng tới cái phàm, đem cái chúng sinh  đụng với cái chúng sinh. Có tu thì cái thánh thiện của người tu sẽ đụng  đến cái chất phàm trong chúng sinh. Mình phải biết được điều đó để có sự  kham nhẫn trong quá trình tu học. Đừng có nghĩ rằng, mình tu rồi thì ai  cũng thương, ai cũng kính và ai cũng tạo thuận lợi. Không có đâu, đừng  có ảo tưởng! Càng tu càng bị nhiều người chống đối, vì giữa này phàm  nhiều hơn thánh mà! Đức Phật đã dạy: pháp của ta không phải để cho chúng  sinh công nhận, mà để cho người trí trong đời công nhận thôi. Giáo pháp  ấy được người trí thực tập, người trí tuyên dương. Thực vậy, nếu chúng  sinh có công nhận, có tuyên dương, có ca ngợi thì cũng theo kiểu phàm  tục của họ, chứ chẳng có giá trị gì. Thấy được điều đó, qúy vị mới có cơ  hội sống và đi trọn vẹn với niềm tin của mình, trọn vẹn với con đường  tu tập của mình. Tu tập không phải là phong trào, là ủng hộ, là lấy  phiếu, nên quý vị đừng buồn và đừng có cảm giác cô đơn, khi thấy rằng,  người ta đi chùa thì ít mà tới các quán càphê hay các hý trường lại  nhiều.
 Lại có người đã thấm thía nhân tình thế thái nầy lắm, nên họ đã than:
 Đường đời chật hẹp lắm người đi
 
Cửa đạo thênh thang hiếm kẻ tìm.
 
Cũng  phải thôi, bởi người đời vốn quen sống theo mùi tục lụy, cho nên hễ rủ  ai đi uống bia uống rượu, ăn thịt, ăn cá, đánh bạc, tắm hơi, đua tranh  danh lợi ... thì dễ kiếm tìm và có nhiều nguời theo lắm. Còn rủ người ta  đi thiền, lạy Phật, ăn chay thì mười người hết chín người lúc lắc rồi.  Nên, không phải điều gì được nhiều người phàm tục công nhận đều có giá  trị cả đâu. Do đó, chúng ta phải có cái nhìn sâu sắc, có tuệ giác lớn và  niềm tin kiên định, để nhận diện sự có mặt của mình trong cuộc đời và  để chúng ta tránh khỏi những cảm giác cô đơn, lạc loài giữa xã hội.
 
Đức  Phật dạy tu tập là phải biết kham nhẫn. Trong cõi Ta Bà này, chúng sinh  thì kham nhẫn và chịu đựng với sự khổ đau; Bồ tát thì kham nhẫn sự khổ  đau của chúng sinh để tuyên dương chánh pháp. Chúng sinh phải kham nhẫn  theo nghiệp báo của mình để mà thọ khổ, còn Bồ tát và Phật kham nhẫn với  cái nghiệp của chúng sinh để tuyên dương chánh pháp đem lại niềm tin và  trí tuệ cho họ.
 
 
- Niềm tin và trí tuệ:
 
Niềm tin phát sinh có 4 trường hợp:
 
1- Niềm tin phát khởi do hiện kiến : Hiện kiến là gì? Đức Phật dạy cuộc đời là khổ. Vậy, nó khổ như thế nào? Nó khổ mặt nào?
 
Ngài  nói: Già là khổ. Vì sao già lại khổ? Trí năng kém cỏi, thân thể mất chủ  quyền, chân tay run rẩy, nói năng điều được, điều mất, mắt mờ, tai  điếc,... già như vậy có khổ không?
 
Ngài nói: Bệnh là khổ. Bệnh có khổ không quý vị?
 Ngài nói: Bị sống là khổ. Mình sống mà không có chủ quyền chi cả, luôn  luôn bị thụ động, ngay cả thụ động chết. Mình sinh ra đây mà chẳng biết  vì sao mình lại sinh ra nữa. Khi không nằm trong bụng mẹ và rồi chín  tháng mười ngày chui ra, rồi khóc oe oe... Ví dụ bây giờ lớn như thế này  mà bảo mình chui vào trong bụng mẹ, mình có chịu không, chắc chắn là  mình không chịu, mặc dù mình rất thương mẹ.
 
Ngài nói: Chết là khổ. Mình ưa sống, nhưng lại bị chết và cái chết đến không biết khi nào, cho nên bị chết là khổ.
 
Giữa  đời này có mấy ai được sinh và có mấy ai được chết. Toàn là sống và  chết một cách thụ động, không biết khi nào bị sinh ra và không biết lúc  nào bị chết đi. Cuộc sống vì thế luôn ở trong trạng thái lo âu và sợ  hãi.
 
Cho  nên, mình tin vào lời Phật dạy rằng, chúng sinh bị sinh, bị già, bị  bệnh, bị chết là đúng. Đức tin này do cái thấy thực tế đem lại.
 2 - Niềm tin có từ sự suy nghiệm: Có nhiều người nói rất khoa học: cái  gì thấy tôi mới tin, không thấy thì không tin. Câu nói đó đúng, nhưng  chỉ trong giới hạn một chừng mực nào đó mà thôi. Có bệnh nhân nào thấy  vi trùng lao không? Ngay cả bác sĩ chữa bệnh lao có thấy vi trùng lao  không? Thực sự chỉ có những nhà nghiên cứu về vi trùng lao mới thấy và  biết rõ về vi trùng lao. Bác sĩ có thể chữa lành bệnh lao là do có kinh  nghiệm về bệnh ấy, nên bác sĩ nói thì bệnh nhân sẽ tin. Niềm tin này là  do sự suy nghiệm mà phát sinh.
 
Có  vị hỏi: có thế giới Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà không? Lời Phật dạy:  có cái này thì có cái kia, có thế giới này thì có thế giới kia. Cho nên,  có thế giới Ta Bà thì có thế giới Tịnh Độ, có Phật Thích Ca Mâu Ni, thì  có Phật A Di Đà. Có Phật ở cõi này thì có Phật ở cõi kia. Có Nam bán  cầu thì có Bắc bán cầu, có Đông thì có Tây, có trên thì có dưới, rõ ràng  như vậy thôi, có gì là khó hiểu ! 
 
Thực  ra, không phải chỉ có thế giới Tịnh độ của đức Phật A Di Đà, mà còn có  vô số thế giới Tịnh độ ở phương Tây.Cảnh giới Tịnh độ của đức Phật A Di  Đà chỉ là một trong vô số cảnh giới Tịnh độ ở phương Tây mà thôi. Các  phương khác cũng vậy. Ngay ở thế giới Ta bà này cũng có vô số thế giới  Tịnh độ, chứ đâu phải chỉ toàn là khổ đau thôi đâu.
 
Riêng  thành phố Huế thôi cũng có vô số thế giới Tịnh độ. Mỗi người là một  cảnh giới Tịnh độ. Có những gia đình nghèo khổ tan tác toàn mặc áo rách  áo vá, nhưng cũng có những gia đình người ta sống rất hạnh phúc. Có  những người đụng đâu khổ đó, đụng đâu bất mãn đó, nhưng cũng có những  người rất là an lạc thảnh thơi.
 
Chính  vì vậy, niềm tin phải được soi rọi bằng trí tuệ, thì niềm tin đó mới  không bị lung lay. Niềm tin phát sinh bằng sự suy nghiệm, tức là từ sự  biết học hỏi và từ sự biết lắng nghe. Biết lắng nghe rồi, lại phải biết  chiêm nghiệm và sau khi chiêm nghiệm rồi, lại phải biết áp dụng vào  trong đời sống.
 
3-Niềm  tin phát sinh từ sự thực nghiệm: Nghe, chiêm nghiệm, rồi đem áp dụng  vào đời sống của mình. Nhờ sự thực tập đời sống mỗi ngày mà niềm tin  được lớn mạnh và bản thân mình cũng lớn mạnh theo với niềm tin đó. Ví  dụ, người bị bệnh, biết bệnh, chẩn đoán trúng bệnh, sắc thuốc uống rồi  thì bệnh lành.
 
Chúng  ta phải tu tập hàng ngày để niềm tin của chúng ta ngày mỗi lớn mạnh,  trí tuệ ngày mỗi sắc bén và sâu thẳm hơn. Nếu niềm tin không lớn lên từ  sự thực tập, thì trí tuệ làm sao có. Chúng ta cần có trí tuệ chứ không  phải là trí thức quý vị ạ. Trí thức khác trí tuệ một trời một vực. Có  trí thức mà không có trí tuệ vẫn khổ đau, và vẫn chưa vượt ra khỏi cái  tầm thường của thế tục, dù họ có cả chục bằng tiến sĩ đi nữa. Vì vậy, tu  tập là nuôi dưỡng đức tin, để từ đức tin đó, trí tuệ được phát sinh.  Vừa rồi quý vị xem tivi có biết trường hợp một ông giáo sư tiến sĩ lại  làm tình với một em bé 13 tuổi 4 tháng. Học hành cho đến học vị tiến sĩ,  được xã hội công nhận là trí thức, nhưng có vượt ra khỏi cái dục vọng  tầm thường phi luân lý như vậy đâu! Cho nên, trí thức chưa là cái gì cả,  trí thức không đủ khả năng chế ngự được dục vọng, mà chỉ có trí tuệ mới  có khả năng làm thay đổi cái thấp kém và nâng cái thấp kém đó đi lên.  Người Phật tử không ham cầu trí thức, người Phật tử nếu có mơ ước thì mơ  ước có được trí tuệ. Trí tuệ đó có gốc rễ từ niềm tin, phát sinh do sự  thực tập giới và định. Niềm tin phát xuất từ sự thực nghiệm và trí tuệ,  mới là niềm tin đích thực, bởi vì niềm tin đó có khả năng chế ngự dục  vọng.
 Một người nữ có thể họ không học trường lớp nào cả, nhưng họ có niềm tin  sâu sắc đối với Phật Pháp Tăng. Họ sống cuộc đời rất đẹp, đẹp lắm và  những hành xử của họ rất dễ thương mà một đôi khi người có hai, ba bằng  tiến sĩ cũng không thể so sánh bằng được. Có vị Phật tử sống trong gia  đình với người giúp việc, khi dọn cơm lên người giúp việc bưng chén kiểu  bị té, và vị đó đã không la đứa bé đó, vị đó chỉ hỏi: “Con có can gì  không? Chén bể không quan trọng, con không can chi là tốt rồi!”
 
Để  có được hành xử như vậy phải là người có trí tuệ, trí tuệ có được từ  niềm tin tam bảo. Trong trường hợp đó, nếu những người có trí thức mấy  đi nữa, nhưng không có được niềm tin thì sẽ hành xử cách khác, có thể  người đó bước tới và tát tai em bé và mắng: “Đồ vô ý vô tứ, cái chén  người ta quý như thế đó mà để cho bể.” Thực sự, cái chén đâu quý bằng  con người. Con người đang bị té, đang đau nằm đó không hỏi, lại đi hỏi  cái chén đã bể chưa! Hỏi như vậy thuộc về những người tranh danh đoạt  lợi tầm thường giữa đời, chứ không thuộc về người có niềm tin. Một người  có đức tin trong sáng và từ đức tin trong sáng đó trí tuệ phát sinh,  người đó có đời sống rất đẹp, đẹp vô cùng. Người có niềm tin và trí tuệ  phát sinh từ sự thực nghiệm, là người biết áp dụng lời Phật, lời Tổ và  lời các bậc Thánh hiền trong đời sống hàng ngày của mình. Nhìn vào dáng  đi, cách ngồi, cách nói cười, mình có thể biết được người đó có niềm tin  và trí tuệ hay không, mà không cần phải hỏi người đó học trường lớp  nào, học ngang đâu.
 
4-Niềm  tin phát sinh từ lời nói của các bậc Thánh trí: Là người phàm tục, mình  đâu có biết vô thường là gì nên mọi việc mình đều cho là thường hết.  Phật dạy: “Các pháp vô thường, thế gian vô thường, chế độ chính trị nào  cũng dễ sụp đổ.” Cái biết đó là cái biết của Phật, của Tổ, của Thánh  hiền. Mình tin vào lời dạy của quý ngài mà ra sức thực tập, khởi tâm  buông xả, tâm không bám thủ vào bất cứ cái gì, nhờ đó mình có được hạnh  phúc, an lạc.
 
Đối  với phàm tục, ta nhìn cái gì cũng thấy thường cả. Làm ra cái nhà mình  nói cái nhà của mình là thường, nhưng thực ra cái nhà của mình cũng là  vô thường thôi à. Nay chủ này, mai chủ khác, bản thân cái nhà rồi cũng  sẽ sụp đổ, bởi vì vô thường là tự tính của vạn hữu. Không ai làm cho  mình chết, nhưng rồi tự mình cũng phải chết, vì cái vô thường nó thuộc  về ở nơi mỗi chúng ta. Chúng ta biết được như vậy là nhờ Phật, nhờ Tổ,  nhờ các bậc Thánh trí nói lại. Chúng ta tin như vậy, thực tập như vậy,  và hành xử đúng như vậy, cho nên chúng ta là những người có niềm tin và  trí tuệ. Đối với thế gian này, có những người đến gần chết rồi mà vẫn  còn ôm nhà ôm cửa, ôm bạc ôm tiền. Họ nói không được nữa, mắt họ cũng  không còn thấy gì nữa, nhưng tay họ thì cứ mò mẫm nắm bắt . Hạt giống  chấp thủ là hạt giống lâu đời, lâu kiếp, nó tàng trữ trong tâm thức và  chúng luôn luôn biểu hiện theo nghiệp chủng vậy.
 ý thức được vô thường và nói ra trên mặt ngôn ngữ, chưa quan trọng, ta  phải ý thức được sự vô thường đó bằng chính sự thực tập của mình. áp  dụng sự hiểu biết về vô thường trong đời sống của mình, tức là người đó  có đời sống vô trú, không bám víu bất cứ đối tượng nào và bất cứ cái gì.  Nó đến thì chấp nhận nó đến, nó đi thì chấp nhận nó đi, đón nhận cái  đến, cái đi một cách rất bình thản. Thực tập được như vậy mới là người  có niềm tin và trí tuệ. Niềm tin và trí tuệ đó do cái thấy mà phát khởi,  do suy nghiệm mà phát khởi, do thực tập mà phát khởi, do nghe lời dạy  của chư Phật, của chư Tổ, của các bậc thánh hiền, của các bậc thiện tri  thức mà mình phát khởi.
 
Biết như vậy, thấy như vậy, sống như vậy, hành xử như vậy, đó là công trình thực tập niềm tin và trí tuệ.
 -Tin và hiểu sâu rộng:
 Niềm tin của người Phật tử là gì? Đó là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng,  tin Giới và sâu thẳm hơn nữa là tin rằng, mình có Bồ đề tâm và tin rằng  hết thảy chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Đó là đức tin của người  Phật tử Đại thừa.
 Vì tin rằng mình có Bồ đề tâm, có khả năng thành Phật, nên mình phải  nuôi dưỡng Bồ đề tâm đó trong sự đi, đứng, nằm, ngồi, nói, cười, thở  vào, thở ra, ăn uống, làm việc, ngủ nghỉ,... Sự phát khởi Bồ đề tâm đó ở  nơi cái gì? ở nơi các động tác của thân, ở nơi các cảm thọ, ở nơi các  tâm hành và ở nơi nội pháp cũng như ngoại pháp của mình.
 
Người  Phật tử có đức tin Đại thừa thì người đó tin như thế nào? Người đó tin  tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật, cho nên không khinh bất cứ  một ai. Người đó tìm cách gần gũi, thân cận mọi người để tạo điều kiện  cho họ phát khởi được Bồ đề tâm, nuôi dưỡng được Bồ đề tâm, làm cho Bồ  đề tâm đó lớn mạnh trong gia đình của họ, dòng họ của họ, quê hương xứ  sở của họ. Bởi vậy, Phật giáo đi tới quốc gia nào, thì gắn liền với quốc  gia đó để nuôi lớn quốc gia đó trong chiều hướng tốt đẹp. Đạo Phật có  mặt trong làng xóm nào, thì làm cho làng xóm đó đẹp lên, lớn mạnh lên và  có giá trị lên. Đạo Phật có mặt ở trong gia đình nào, thì gia đình đó  thật sự có được chất liệu đạo đức và nuôi dưỡng được Bồ đề tâm ở trong  gia đình đó. Cha ra cha, mẹ ra mẹ, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ,  ai cũng nỗ lực phát triển Bồ đề tâm của mình, phát triển Phật tính của  mình và hỗ trợ cho nhau cùng phát triển Bồ đề tâm. Như vậy, gia đình đó  là rất đẹp, gia đình đó trở thành gia đình Tịnh độ.
 
Bởi  vậy, trong công cuộc chấn hưng Phật giáo vào thời cận đại, các Thầy Tổ,  các Hòa thượng của mình đã đưa ra chương trình gọi là Gia Đình Phật Hóa  Phổ. Phật Hóa Gia Đình là tên gọi đầu tiên của GĐPT. Đức tin đại thừa  liên kết lại những con người có Bồ đề tâm hỗ trợ cho nhau và nuôi lớn Bồ  đề tâm đó cho nhau, từ đời sống bản thân đến đời sống gia đình. Từ bản  thân đẹp, gia đình đẹp, thì xã hội đẹp. Từ đó ta mới xây dựng một quê  hương Tịnh độ trên đất nước này, trên dân tộc này, trên thế giới Ta bà  này. Ta bà cũng có thể thành Tịnh độ, khi mà tất cả chúng ta có đức tin  đại thừa, biết nuôi dưỡng và phát triển đức tin đại thừa đó.
 
Đức  tin Đại thừa chính là đức tin của trí tuệ, là đức tin biết hiến tặng  tình thương rộng lớn và cao cả đến cho hết thảy mọi người, mọi loài.
 
Có  người nông dân giỏi làm ruộng, khi mùa gặt đến ông ta gặt hái được hơn  hai trăm thùng lúa, chất đầy cả nhà, nhưng công sức bỏ ra hết sức vất vả  và khổ cực. Rồi khi có biến cố lụt lội, người nông dân giàu có ấy phải  hì hục chuyển lúa lên cao, lỡ như giặc giã đến, họ cũng vất lúa đó mà  chạy, có giỏi thì gánh đi vài thùng, chứ không thể gánh hết được.
 
Trái  lại, cái giàu của người thành phố, họ có một hột xoàn bỏ trong túi  thôi. Nhà cửa rộng thênh thanh, hột xoàn lại có giá trị gấp trăm nghìn  thùng lúa, nhưng không ai biết. Khi cần họ bỏ hột xoàn vào trong chéo áo  và đi như một người ăn xin vậy. Đi đâu thì đi, tới đâu an toàn thuận  lợi thì bán ra mua nhà cửa,...
 
Cũng  vậy, cái giàu có của người có đức tin, nhưng đức tin sai lạc với chánh  pháp, không phải đức tin Đại thừa, cũng giống như cái giàu của người  nông dân vậy.
 
Người  giàu có đức tin Đại thừa tức là người biết rằng, mình có Phật tính. Đi  đâu cũng phát triển và nuôi dưỡng Phật tính đó, thì ở đâu họ cũng có  tịnh độ, ở đâu họ cũng có thân hữu, có bạn bè và ở đâu họ cũng gặp được  Phật Pháp Tăng hết.
 
Đức  tin của người Phật tử Đại thừa là đức tin vĩ đại. Trí tuệ của người  Phật tử Đại thừa là trí tuệ vĩ đại, trí tuệ có gốc rễ từ niềm tin của Bồ  đề tâm. Chúng ta phải tu tập làm sao để đức tin đó luôn có mặt trong  đời sống của chúng ta.
 
- Con đường thực nghiệm:
 
Tôi rất thích bài thi kệ thiền tập sau đây:
 
ý về muôn vạn nẻo
 Thiền lộ tâm an nhiên
 Từng bước gió mát dậy
 Từng bước nở hoa sen.
 ý ta đang dong ruổi từ muôn vạn nẻo, ta đưa nó trở về với tâm duy nhất  của mình trong từng giây phút của sự sống, thì bất cứ con đường nào ta  đang đi, cũng đều là con đường của thiền hành cả. Ta đi với tâm an  nhiên, với tâm có chánh niệm tỉnh giác, nên khi ta đi trên vạn nẻo đường  của quê hương, thì vạn nẻo đường trên quê hương ấy, đều là vạn nẻo  đường của thiền hành. ý bị trói buộc trong tam giới, nhưng mình đi với  tâm an nhiên, bằng chất liệu của tâm chánh niệm tỉnh giác, thì tất cả  nẻo đường trong tam giới cũng đều trở thành đạo tràng và thiền lộ. Hoa  sen nở trong biển lửa là vậy. Mỗi bước đi làm gió mát trổi dậy, mỗi bước  đi làm nở hoa sen, tức là sự giác ngộ có mặt trong từng bước chân đi và  trong từng hơi thở của sự sống.
 
Bước  chân chỉ là tiêu biểu thôi, chứ mỗi bước chân hay mỗi thế ngồi, mỗi thế  đứng hay mỗi thế nằm, mỗi thế ăn hay mỗi hơi thở ra vào,... tất cả  những cái đó, chúng ta đều phải thực tập sao cho tất cả đều nở hoa sen  và những động tác đó phải là những động tác của niềm tin trí tuệ.
 
Vậy,  xin quý vị hãy thực tập hết lòng trong mọi lúc, mọi nơi, để lúc nào  cũng là lúc của an lạc, niềm tin và trí tuệ; để nơi nào cũng là nơi của  niềm tin, an lạc và thảnh thơi. Chúng ta thực tập được như vậy, thì chắc  chắn Tịnh độ không phải là một ước mơ, Niết bàn không còn là một sự hứa  hẹn hão huyền và Phật không phải là một cái gì đó không thể đạt tới, mà  tất cả đều có thể có mặt trong đời sống của chúng ta và chúng ta có thể  đạt tới bây giờ và ở đây.
Học trò: Nhuận Hạnh Châu và Nhuận Khánh Như
 kính ghi từ băng giảng.
 
Thích Thái Hòa 
- Pháp thoại của Thượng tọa Thích Thái Hòa giảng trong khoá tu ngày 7/ 2 / Giáp Thân (26/02/2004 ) cho các phật tử tại thiền đường Trăng Rằm, Tổ đình Từ Hiếu Huế.