Hướng Dẫn Bồ Tát Đạo Luận Giải Về Lối Sống Bồ Tát
MỤC LỤC
Chương 1: Giới thiệu: Bồ tát đạo
Chương 2: Lợi ích của Tâm Bồ Đề
Lời nói đầu
Đức Đức Đạt Lai Lạt Ma, Tenzin Gyatso, sinh ra tại tỉnh Amdo, miền Đông Tây Tạng. Khi mới hai tuổi, ngài được công nhận là vị hóa thân thứ mười bốn trong dòng dõi Đức Đạt Lai Lạt Ma, những bậc thầy tâm linh đã cai trị một đất nước rộng gấp ba lần nước Pháp, thống nhất và độc lập trong suốt hai nghìn năm lịch sử của đất nước này trong ba thế kỷ.
Năm 1950, Trung Quốc Cộng sản xâm lược Tây Tạng với lý do mang lại "giải phóng hòa bình". Trên thực tế, điều này dẫn đến sự hủy diệt toàn bộ một dân tộc và nền văn hóa của họ. Ngày nay, cả hai đều đang bị đe dọa tuyệt chủng.
Một người, Đức Đạt Lai Lạt Ma, đã trở thành biểu tượng của cuộc đấu tranh đầy kịch tính vì sự tồn vong của Tây Tạng như một quốc gia. Từ năm 1959, với tư cách là một người tị nạn ở Dharmasala, Bắc Ấn Độ, ngài đã lãnh đạo và truyền cảm hứng cho cộng đồng người Tây Tạng lưu vong. Là người phát ngôn cho chủ nghĩa bất bạo động, ngài đã làm việc không mệt mỏi vì hòa bình thế giới. Là một vị thầy tâm linh truyền đạt trí tuệ và kinh nghiệm vị tha của mình một cách giản dị, ngài được hàng triệu Phật tử trên toàn thế giới kính trọng và tôn kính như Đức Phật của Lòng Từ Bi. Đối với ngài, Phật giáo không phải là một giáo điều hay tôn giáo mà là một cách sống, hạnh phúc, bình an nội tâm và trí tuệ. Phật giáo đánh thức lòng tử tế ân cần và tình yêu thương trong chúng ta, dạy chúng ta cách bảo vệ mọi sinh vật trên trái đất này. Đây là lý do tại sao ngài nhấn mạnh đến trách nhiệm toàn cầu, nhận thức rằng mỗi người chúng ta, với tư cách là thành viên của gia đình nhân loại, có thể là một người làm việc vì hòa bình và là người bảo vệ môi trường: "Giải trừ vũ khí bên ngoài đến từ giải trừ vũ khí bên trong. Sự bảo đảm thật sự duy nhất cho hòa bình nằm trong chính chúng ta."
Chính trong tinh thần này, Đức Thánh Thiện đã giảng dạy trong suốt một tuần vào tháng 8 năm 1991 tại Dordogne, miền tây nam nước Pháp. Bình luận về một trong những tác phẩm thi kệ vĩ đại nhất trong văn học Phật giáo, Bodhicharyāvatāra (Hướng Dẫn Bồ tát Đạo) của Tịch Thiên, ngài đã giới thiệu cho hàng ngàn người về con đường từ bi, con đường của các vị Bồ tát, những người, bị choáng ngợp bởi nỗi đau khổ của chúng sinh, đã phát nguyện hoàn thiện bản thân để giải thoát cho người khác. Mặc dù Đức Thánh Thiện đã giảng dạy điều này nhiều lần, nhưng Ngài sống với lý tưởng này một cách chân thành và trọn vẹn đến nỗi đôi khi chính Ngài cũng rơi nước mắt trước vẻ đẹp của văn bản của Tịch Thiên.
Giống như bậc thầy Ấn Độ vĩ đại của thế kỷ thứ tám này, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói về bản chất con người bằng những thuật ngữ đơn giản và cảm động. Ngài thúc giục chúng ta phát triển tiềm năng mà tất cả chúng ta đều có về tình yêu thương và lòng tử tế ân cần. Hấp dẫn với kinh nghiệm hàng ngày của chúng ta, ngài chỉ cho chúng ta cách trở thành những người tốt bụng và mang lại cho cuộc sống của chúng ta phương hướng và ý nghĩa.
Tulku Pema Wangyal
Tháng 1 năm 1992
Tạ ơn
Chúng tôi vô cùng biết ơn các lạt ma Tây Tạng đã mời Đức Đạt Lai Lạt Ma đến Dordogne vào tháng 8 năm 1991: Shenphen Dawa Rinpoche, Lama Jigme Rinpoche, Taklung Tsetrul Rinpoche (Tulku Pema Wang- yal) và cố Nehnang Pawo Rinpoche. Nhờ những nỗ lực chung của các ngài, rất nhiều người đã có thể gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma và tham dự, lần đầu tiên tại Pháp, một chu kỳ đầy đủ các bài giảng của ngài.
Các thành viên của Nhóm dịch thuật Padmakara đã làm việc trên bản dịch các bài giảng này từ tiếng Tây Tạng bao gồm Jigme Khyentse Rinpoche, Stephen Gethin, Wulstan Fletcher, Michal Abrams, Vivian Kurz, John Canti và Kristina Permild, với sự giúp đỡ vô giá của Konchog Tenzin và Christine Fondecave.
Các trích đoạn từ Hướng Dẫn Bồ tát Đạo của Tịch Thiên đã được in với sự cho phép của Nhóm dịch thuật Padmakara.
Lời người dịch sang Anh ngữ
Mặc dù Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trở thành một nhân vật quen thuộc ở phương Tây, với nhiều ấn phẩm và các buổi gặp gỡ thường xuyên trên truyền hình và tại các hội trường, cuốn sách này đánh dấu một sự kiện bất thường trong chuyến thăm của ngài tới Châu Âu và Bắc Mỹ. Trong suốt một tuần, trước một thính chúng hơn hai nghìn người dưới một tấm biển lớn, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đưa ra một bài giảng truyền thống về một tác phẩm kinh điển vĩ đại của văn học Phật giáo.
Hướng Dẫn Bồ tát Đạo của Tịch Thiên là một văn bản bao gồm toàn bộ con đường giác ngộ, và mặc dù nó không bao giờ ngừng truyền cảm hứng, nhưng nó chứa đựng những phần cần có bình luận chi tiết nếu muốn hiểu đầy đủ. Một bình luận bằng miệng hoàn chỉnh có thể mất vài tháng và trong thời gian cho phép, Đức Đạt Lai Lạt Ma không thể trình bày nhiều hơn những điểm thiết yếu do Tịch Thiên trình bày. Đặc biệt, ngài chỉ giới thiệu vắn tắt về chương thứ hai rất khó của văn bản, mà ngài đã giảng chi tiết hơn vào tháng 11 năm 1993. Những lời dạy này kể từ đó đã được xuất bản với tựa đề Thực hành Trí tuệ (Wisdom Publications, 2004). Ngài cũng không có thời gian để bình luận về chương thứ mười.
Một hoặc hai chi tiết cụ thể liên quan đến hoàn cảnh của giáo lý xuất hiện trong cuốn sách này. Trong chương thứ ba, khi Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích phần này của văn bản, ngài đã mời những người có mặt phát nguyện Bồ Tát, sử dụng lời của Đức Shātideva làm cơ sở. Chương 10 ở đây chủ yếu bao gồm lời khuyên kết thúc của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi lễ cống hiến đánh dấu sự kết thúc của giáo lý.
Trong bản dịch của cuốn sách này, cả bản gốc và chú giải đã cố gắng tránh sử dụng chung đại từ chỉ nam giới trong khi tiếng Tây Tạng, tiện thể, thường không sử dụng đại từ nào cả. Tuy nhiên, vì lý do về phong cách, đặc biệt là trong các câu gốc, nơi sự súc tích và nhịp điệu cũng là những cân nhắc quan trọng, điều này không phải lúc nào cũng khả thi. Nếu tin vào lời kể huyền thoại về lần đầu tiên Đức Shantideva thuyết giảng văn bản này vào thế kỷ thứ tám, thì giáo lý này được truyền đạt cho các nhà sư đồng tu của ngài tại Nālandā, và ngôn ngữ cùng các ví dụ mà ngài sử dụng tương ứng với đối tượng toàn nam giới này. Trong lời bình luận của mình, Đức Thánh Cha yêu cầu độc giả nữ chỉ cần chuyển đổi giới tính khi áp dụng các ý tưởng của Shantideva (ví dụ như trong cuộc thảo luận của ngài về ham muốn thể xác trong chương thứ tám) vào trải nghiệm của riêng họ.
Trong cuốn sách này, Đức Đạt Lai Lạt Ma chứng minh kiến thức sâu rộng của mình, thành quả của quá trình đào tạo chuyên sâu mà ngài nhận được tại các trung tâm học thuật tu viện ở Tây Tạng và sự hiểu biết sâu sắc phi thường của ngài về tình trạng của con người và ý nghĩa của việc trở thành một người có trách nhiệm và thiện lương, cách đơn giản và cảm động mà ngài so sánh những điều minh họa cho cuộc sống của mình đã được nhấn mạnh là một giáo lý Phật giáo truyền thống. Những phần của cuốn sách chứa đựng tài liệu khá kỹ thuật, cung cấp kiến thức cơ bản về một số thuật ngữ và khái niệm của Phật giáo. Các giải thích ngắn gọn về các thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong Phật giáo đã được đưa ra trong Bảng Thuật ngữ, Tên và thuật ngữ chỉ xuất hiện không thường xuyên được bình luận trong phần phụ thích ở cuối sách.
Chương 1: Giới thiệu: Bồ tát đạo
Tôi tiếp nhận sự trao truyền Nhập Bồ tát Hạnh từ Tenzin Gyaltsen. Kunu Rinpche, người đã tiếp nhận từ một đệ tử của Dza Patrul Rinpoche, bây giờ được xem như một trong những người thừa kế chính của giáo huấn này. Như được kể rằng khi Patrul Rinpoche giảng giải luận điển này, thì những điềm lành sẽ xuất hiện, chẳng hạn như sự rộ nở những bông hoa vàng, đáng chú ý là số lượng lớn của những cánh hoa. Tôi cảm thấy rất may mắn rằng tôi lần lượt có thể giảng giải đại luận điển Phật giáo cổ xưa này.
Tôn Giả Tịch Thiên đã sang tác tác phẩm này dưới hình thức của một cuộc đối thoại nội tại. Ngài đã quay vũ khí của ngài vào chính ngài, tuyên chiến với chính những cảm xúc tiêu cực của ngài. Do thế, khi chúng ta giảng dạy hay lắng nghe luận bản này, thật quan trọng để chúng ta làm như vậy nhằm để tăng tiến tâm linh, hơn là chỉ làm như đó chỉ đơn giản là một chủ đề chuyên môn của trường Phật học.Với tâm niệm như vậy, chúng ta bắt đầu buổi thuyết giảng tu học bằng việc bày tỏ lòng tôn kinh đến Đức Phật và trì tụng những điều được trích ra từ kinh điển.
Từ bỏ việc làm xấu ác;
Rèn luyện đức hạnh lành;
Điều phục tâm ý của bạn
Đây là lời dạy của Đức Phật,
Giống như ngôi sao, ảo ảnh quang học, hay ngọn lửa,
Ảo ảnh huyển hoá, giọt sương, hay bong bóng,
Như giấc mơ, tia chớp, hay đám mây -
Người ta nên xem xét tất cả các pháp hữu vi như vậy.
Trong khi trì tụng những lời này, chúng ta nên suy ngẫm về sự vô thường và sự thiếu vắng thực tại trong các hiện tượng và kết thúc bằng một lời cầu nguyện hồi hướng:
Nhờ công đức này nguyện chúng con đạt được toàn giác
Và chiến thắng kẻ thù của chúng con, những hành động có hại của chúng con,
Và cầu mong chúng sinh, bị vùi dập bởi những làn sóng sinh, lão, bệnh, và tử,
Được giải thoát khỏi đại dương của sự tồn tại.
Tiếp theo chúng ta nên trì tụng Tâm Kinh, Ca ngợi Văn Thù Sư Lợi, và cúng dường mạn đà la. Những ai trong các bạn không thể trì tụng những điều này chỉ nên nghĩ đến lòng từ bi của Đức Phật và quán chiếu về tri kiến tánh Không, đó là ý nghĩa của Kinh Bát Nhã Ba La Mật.
Cuối cùng, chúng ta nên tái phát nguyện, quy y và phát bồ đề tâm ba lần.
Trong Tam Bảo Phật, Pháp và Tăng, Chúng con quy y cho đến khi đạt được giác ngộ. Bằng công đức thực hành bố thí cho đến ... tuệ trí, Nguyện chúng con đạt được Phật quả vì lợi ích của chúng sinh.
Bây giờ chúng ta sẽ bắt đầu nghiên cứu về Nhập Bồ tát Hạnh (Bodhicharyavatāra). Bậc thầy của những giáo lý này, Đức Phật, bắt đầu bằng cách phát khởi ước nguyện giác ngộ. Sau đó, vị ấy đã tích tập những thiện hạnh qua nhiều kiếp sống trong khoảng thời gian ba đại kiếp không thể tính đếm được. Cuối cùng, vào thời đại mà tuổi thọ trung bình của con người là một trăm năm, Ngài bước vào thế giới này và đạt được giác ngộ trên Kim Cang Tòa tại Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya) ở Ấn Độ. Trong hai mươi lăm thế kỷ kể từ lần đầu tiên Ngài chuyển Bánh xe Pháp với những giáo lý bao la và thâm sâu, con đường Phật giáo đã trở thành một trong những truyền thống tâm linh quan trọng nhất của thế giới.[1]
Tôi thường xem xét những lời dạy của Đức Phật dưới hai tiêu đề: hành động và quan điểm. Hành động có nghĩa là kiềm chế không làm hại người khác. Đây là điều hữu ích chung, điều mà tất cả mọi người đều đánh giá cao, cho dù họ có theo tôn giáo không. Quan điểm liên quan đến nguyên tắc phụ thuộc lẫn nhau. Hạnh phúc và đau khổ, và những chúng sinh trải nghiệm chúng, không phát sinh mà không có nguyên nhân, chúng cũng không phải do một đấng tạo hoá vĩnh cửu nào đó gây ra. Trên thực tế, mọi sự vật phát sinh từ những nguyên nhân tương ứng với chúng. Ý tưởng này được duy trì bởi tất cả những trường phái của Phật Giáo, và vì thế tôi thường nói rằng quan điểm của là lệ thuộc tương duyên, hay duyên sanh.
Quan điểm duyên sanh làm nên một sự rộng mở của tâm thức. Nói chung, thay vì nhận thức rằng những gì chúng ta trải nghiệm sinh khởi từ một mạng lưới phức tạp của những nguyên nhân, thì chúng ta có xu hướng quy cho những hạnh phúc và buồn đau, thí dụ thế, đến những nguồn gốc đơn lẻ, cá nhân. Nhưng nếu là như thế, thì chúng ta sẽ nhanh chóng đi đến chạm trán với những gì chúng ta xem là tốt, thì chúng ta sẽ tự động vui mừng,và trái lại, trong những trường hợp xấu, thì sẽ luôn luôn buồn bã. Những nguyên nhân của vui mừng và buồn khổ sẽ dễ dàng để nhận dạng và nhắm tới. Tất cả sẽ rất đơn giản, và sẽ có lý do tốt cho sự giận hờn và dính mắc của chúng ta. Trái lại, khi chúng ta cho rằng mọi thứ chúng ta trải nghiệm là những kết quả từ một sự tác động lẫn nhau của các nguyên nhân và điều kiện, thì chúng ta thấy rằng không có một thứ đơn lẻ nào để tham muốn và bực tức, và thật khó khăn hơn cho những phiền não và dính mắc hay giận hờn sinh khởi. Trong cách này, quan điểm duyên sanh làm cho tâm tư chúng ta thư giản và cởi mở hơn.
Bằng việc rèn luyện tâm thức chúng ta và làm quen với quan điểm này, chúng ta thay đổi cung cách chúng ta trong việc thấy mọi thứ, và như một kết quả, thì chúng ta dần dần thay đổi thái độ của chúng ta và ít làm tổn hại người khác hơn. Như được nói trong kinh:
Từ bỏ những việc làm xấu ác;
Thực hành đạo đức tốt;
Thuần hoá tâm thức chúng ta;
Đấy là lời dạy của Đức Phật.
Chúng ta phải tránh ngay cả những hành vi tiêu cực nhỏ nhất, và chúng ta nên thực hành thậm chí những hành vi tích cực ít đáng chú ý nhất mà không đánh giá thấp giá trị của chúng. Lý do cho điều này là vì hạnh phúc là điều mà tất cả chúng ta mong muốn và khổ đau là thứ mà tất cả cố gắng tránh phát sinh một cách chính xác bởi những hành động của chúng ta hay nghiệp (karma). Mọi thứ chúng ta trải nghiệm, như nó là, được lập trình bởi những hành vi của chúng ta, và những thứ này thì ra tùy thuộc vào thái độ của chúng ta. Bất cứ điều gì chúng ta làm, nói như thế, và suy nghĩ trong tuổi trẻ của chúng ta là nguyên nhân của hạnh phúc và khổ đau mà chúng ta trải nghiệm trong tuổi già của chúng ta. Hơn thế nữa, những gì chúng ta làm trong đời sống này sẽ quyết định hạnh phúc và khổ đau của đời sống tới. Và những hành vi của kiếp (kalpa[2]) này sẽ cho kết quả trong những trải nghiệm của những kiếp tươnglai. Đây là những gì chúng ta muốn nói bởi luật nghiệp báo, luật nhân quả.
Trên căn bản này, một hành vi được gọi là tiêu cực hay xấu ác nếu nó cho kết quả trong khổ đau, đó là điều gì đó mà chúng mong ước tránh. Nó được gọi là tích cực hay đạo đức nếu nó đưa đến kết quả hạnh phúc, là điều mà chúng ta muốn. Chúng ta quan tâm đến một hành vi tích cực hoặc tiêu cực không phải trên lợi ích của chính nó mà tùy thuộc vào việc nó đưa đến vui sướng hoặc buồn đau. Tất cả những điều này tùy thuộc vào động cơ, và vì thế luận bản nói, “Hãy khuất phục tâm thức của bạn.” Một tâm thức vô nguyên tắc sẽ trải nghiệm khổ đau, nhưng một tâm thức dưới sự kiểm soát sẽ là hạnh phúc và hòa bình.
Thật quan trọng để biết tất cả những phương thức cho việc chinh phục tâm thức qua những kiến thức trao truyền của con đường rộng lớn và thậm thâm. Sự đối trị của thù oán là thiền tập về từ ái (love). Để vượt thắng dính mắc, chúng ta nên thiền tập về tính xấu xí của những gì hấp dẫn chúng ta. Sự đối trị về tự hào kiêu căng là thiền quán về skandha, hay các uẩn. Để đối mặt với si mê, thì chúng ta nên tập trung về sự chuyển động của hơi thở và về sự tương duyên sanh khởi. Gốc rể về sự rối loạn của tâm thức trong thực tế là si mê, nguyên nhân mà chúng ta thất bại trong việc thấu hiểu bản chất thật sự của mọi thứ. Tâm thức dưới sự kiểm soát tịnh hoá quan niệm sai lầm của chúng ta về thực tại. Đây là giáo huân của Đức Phật. Đó là qua việc rèn luyện tâm thức mà chúng ta có thể chuyển hoá cung cách mà chúng ta hành động, nói năng, và suy nghĩ.
Thật hữu ích để ở tại điểm này mà nói vài điều gì đó tổng quát về giáo huấn của Đức Phật. Theo Đại thừa, sau khi thành tựu Giác Ngộ, Đức Phật đã chuyển bánh xe Pháp, trình bày giáo huấn của Ngài trong ba giai tầng. Thứ nhất, Ngài dạy về Tứ diệu đế mà toàn bộ giáo lý của Phật Giáo căn cứ vào đấy. Đấy là khổ đế, tập đế, đạo đế, và diệt đế. Với lần chuyển pháp luân thứ hai (trung đạo), Ngài đã ban bố giáo lý về tánh không và những khía cạnh thậm thâm và chi tiết về con đường, vốn tạo nên những kinh điển Bát Nhã Ba La Mật Đa. Với lần chuyển pháp luân thứ ba, Ngài đã trình bày những giáo lý về tánh không trong một phong cách dễ tiếp cận hơn. Trong những kinh điển chẳng hạn Kinh Bản Chất của Phật (Kinh về Phật Tánh hay kinh Như Lai Tạng),[3]Ngài đã nói về một bản chất tuyệt đối vốn không có khái niệm nhị nguyên về chủ thể và đối tượng. Đây cũng là chủ đề của Tối Cao Mật Điển (Sublime Continuum) / Đại Thừa Tối Cao Mật Điển luận (Maitreya) / Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tính Luận (Hoa).
Nguồn gốc của khổ đau – chính là, những cảm xúc tiêu cực – có thể được thấu hiểu với những cấp độ khác nhau của vi tế, và điều này đòi hỏi một sự thông hiểu về bản chất của các hiện tượng. Trong lần chuyển luân lần thứ hai, Đức Phật đã giải thích chi tiết diệt đế, sự thật của chấm dứt. Ngài đã chỉ cho thấy rằng một sự phân tích vi tế luỹ tiến các hiện tượng đưa đến một sự thấu hiểu lớn hơn về những cảm xúc tiêu cực và cuối cùng đến một tuệ giác tế nhị hơn bao giờ hết trong bản chất của tánh không. Điều này lại đưa đến một sự thấu hiểu thâm sâu hơn về đạo đế, sự thật của con đường.
Trong lần chuyển luân thứ ba, chúng ta thấy một sự giải thích chi tiết về con đường để thành tựu Giác Ngộ. Nó nhấn mạnh năng lực mà tất cả chúng ta có cho sự Giác Ngộ tương lai. Năng lực này, được gọi là Phật tánh, hay Như Lai Tạng, Tathāgatagarbha, là điều gì đấy mà tất cả chúng ta luôn có, từ thời vô thỉ. Khi chúng ta nói về đạo đế, chúng ta không đang nói về điều gì đó hoàn toàn bên ngoài bản chất của chúng ta, thứ mà có thể đột nhiên xuất hiện như một tai nấm, giống như không có một hạt giống hay nguyên nhân. Vì chúng ta có nền tảng hay tiềm năng này cho sự toàn giác tối hậu mà chúng ta có thể thành tựu Giác Ngộ.
Những kinh luận thuộc lần chuyển luân thứ hai chứng minh bản chất trống rỗng của các hiện tượng, trong Kinh về Phật Tánh hay kinh Như Lai Tạng và những giáo huấn liên hệ khác đến lần chuyển luân thứ ba nhấn mạnh tuệ trí, khía cạnh trong suốt và rực sáng của tâm thức.
Đức Phật đã dạy Tứ Diệu Đế trước nhất, như nền tảng của toàn bộ giáo của lý Ngài. Khi Ngài diễn giải chi tiết giáo huấn của Ngài, Ngài đã dung hợp những từ ngữ để thích ứng với những nhu cầu và năng lực tinh thần khác nhau. Cung cách Ngài giảng dạy đa dạng hơn rất nhiều, và những gì Ngài nói thâm sâu nhiều hay ít, tuỳ thuộc tầng lớp nào mà Ngài trình bày. Do thế, thật quan trọng để biết những giáo huấn nào trình bày ý nghĩa rốt ráo và những thứ nào vốn thích ứng với những năng lực đặc thù của những người đệ tử. Trong việc phân tích, nếu chúng ta thấy rằng những từ ngữ của Đức Phật, trên phương diện văn ngữ, thấy phi lý hay đưa đến mâu thuẩn, thì chúng ta phải thấu hiểu rằng những giáo lý ấy là một sự
diễn đạt tương đối về lẽ thật nhất thiết thích nghi đến sự lãnh hội của những chúng sanh đặc biệt nào đó. Trái lại, nếu ngôn từ của Ngài có thể hiểu theo từng chữ và không có bất cứ sự mâu thuẩn hay sai lầm nào, thì chúng ta có thể chấp nhận những giáo huấn này như diễn đạt lẽ thật tối hậu.
Niềm tin rất quan trọng trong Phật Giáo, nhưng tuệ trì thậm chí hơn thế nữa. Niềm tin đúng đắn phải được căn cứ trên lý trí. Đơn giản nói rằng, “Tôi quy y,” hay “Tôi hy hiến,” một cách mù quáng và không có sự phản chiếu, thì không có giá trị. Không có sự khảo sát rõ ràng, thì thật không thể phân biệt Đức Phật đang nói trong một ý nghĩa thích nghi, hay tương đối hay từ ngữ của Ngài đang được thực hiện từng chữ như đang diễn tả ý nghĩa tối hậu. Đây là tại sao kinh điển đề cập đến tứ y, bốn sự nương tựa:
- Y pháp bất y nhân, hay không nương tựa vào những cá nhân mà nương tựa vào giáo lý.
- Y nghĩa bất y ngữ, hay không nương tựa vào ngôn ngữ mà nương tựa vào ý nghĩa.
- Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa, hay không nương tựa vào ý nghĩa tương đối mà nương tựa vào ý nghĩa tuyệt đối.
- Y trí bất y thức, hay không nương tựa vào hiểu biết tri thức mà nương tựa vào trí tuệ.
Trái lại với sự thấu hiểu tri thức thông thường, thì bản chất thật sự của tâm thức là trong sáng và thông hiểu và không bao giờ bị che ám với các chướng ngại. Sự thực hành của Đại thừa hoàn toàn căn cứ trên sự thông hiểu này.
Ở Tây Tạng, tất cả những giáo huấn của Đức Phật, từ Tứ Diệu Đế cho đến những tantra yoga tối thượng, đã được bảo tồn, và được thực tập trong những trình tự truyền thống như sau. Giai tầng thứ nhất là ThanhVăn Thừa, hay Cổ Xe Căn Bản, con đường của Tứ Diệu Đế. Bắt đầu với Luật Tạng[4] , vốn dạy việc tu tập về nguyên tắc hay giới, hành giả tiến hành qua 37 sự thực tập đưa đến Giác Ngộ, do vậy phát triển hai sự tu tập định và tuệ.
Giai tầng thứ hai là Đại thừa, hay Cổ Xe Lớn, và bao gồm sự thực hành về sáu ba la mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và tuệ trí. Giai tầng thứ ba là Kim Cang Thừa, Cổ Xe của Những Mật Ngôn, vốn trình bày những phương tiện phi thường cho việc thực chứng định lực thậm thâm qua sự kết hợp sự tĩnh lặng tinh thần và tuệ giác trong sáng (shamatha và vipashyana) và tiến trình qua bốn lớp tantra: kriya, upa, yoga, và anuttara.
Phật Giáo đã phát triển hàng thế kỷ trong nhiều quốc gia, nhưng ở Tây Tạng thì tất cả ba con đường, Thanh Văn Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa được bảo tồn một cách hoàn toàn. Trong thực tế, có thể đi qua những thực hành của tất cả ba giai tầng này của một phiên thực tập. Hơn thế nữa, những học giả Tây Tạng không bao giờ bác bỏ khía cạnh thực tập,và những hành giả kinh nghiệm không lãng quên học tập. Điều này đối với tôi là một cung cách rất tốt để tu tập.
Thời gian trôi qua, những dòng truyền thừa khác nhau đã xuất hiện trong truyền thống toàn diện này, đã bị ảnh hưởng bởi những bậc thầy phi thường, ở những thời điểm khác nhau và trong những địa điểm khác nhau, đã trình bày giáo huấn trong những cung cách hơi khác nhau[5]. Do đó, chúng tôi có một truyền thống cổ xưa của Nyingma, và những truyền thống mới hơn của Kadam, Sakya, và Kagyu. Truyền thống Gelug hiện tại tiến hoá từ dòng truyền thừa Kadam. Mặc cho những khác biệt giữa các dòng truyền thừa này, thì tất cả kết hợp với những giáo huấn của Đức Phật một cách toàn vẹn, phối hợp những sự thực hành của Thanh Văn Thừa và Đại thừa. Truyền thống đạo Bon, vốn đã tồn tại ở Tây Tạng trước khi Phật Giáo đến, cũng đã đi đến sở hữu toàn bộ giáo lý nhà Phật.
Bồ Tát Đạo được các bậc thầy trong tất cả những trường phái Tây Tạng quan tâm cao độ, và có lẽ nhiều đến hàng trăm vị đã viết những luận giải về chủ đề ấy. Khi tôi tiếp nhận Nhập Bồ tát Hạnh (Bodhicharyavatāra) từ Kunu Rinpoche, Ngài thường đề cập đến một luận giải tuyệt vời của Minyak Kunzang Sonam[6], một đệ tử của Jamyang Khyentse Wangpo[7].
Nhập Bồ tát Hạnh cô đọng giáo lý của Đức Phật từ ba lần chuyển luân. Tôi sẽ đọc lớn vì thế các bạn nhận được sự trao truyền tâm linh, vốn là một nguồn gốc của phước lành gia hộ. Tôi sẽ không giải thích luận bản từ chữ một, nhưng tốt hơn tôi sẽ bình luận ở những điểm chính yếu.
Khi tiếp nhận giáo lý này, thật quan trọng để có một thái độ đúng đắn. Lắng nghe giáo lý với xu hướng đạt được những lợi ích vật chất hay tiếng tăm thì không phải là sự thực hành đúng đắn. Cũng không phải mục tiêu của chúng ta là để có được sự tái sanh cao hơn vào kiếp sống tới, thí dụ, những chúng sanh ở cõi trời hay những con người có đầy quyền lực. Cũng không phải là mong ước của chúng ta là chỉ vì sự giải thoát của riêng mình khỏi cõi luân hồi. Đây là tất cả những thái độ mà chúng ta phải bác bỏ. Thay vì thế, hãy để chúng ta lắng nghe giáo lý này với nguyện ước quyết tâm đạt đến thể trạng toàn giác vì lợi ích của tất cả chúng sanh, vồn là vô số. Để đạt được mục đích này, nhất thiết phải thực hành con đường thậm thâm và rộng lớn được diễn tả trong luận bản này. Nếu chúng ta có thể duy trì động cơ này, thì bất cứ hành vi tích cực nào chúng ta làm sẽ trở thành nguyên nhân cho sự Giác Ngộ tối thượng. Thậm chí nếu một nguyện ước không đến với chúng ta một cách thanh thoát, thì chúng ta có thể tối thiểu cố gắng phát triển một thái độ tích cực khi chúng ta lắng nghe.
Ẩn Tâm Lộ, 2023
Chương 2: Lợi ích của Tâm Bồ Đề
Nhập Bồ Tát Đạo mở đầu với sự tôn kính chư Phật và chư Bồ tát, những bậc tiếp nhận vô thượng của cúng dường.
1-
Đến những bậc thâm nhập hạnh phúc tối thượng, Pháp thân mà họ sở hữu, và tất cả những vị thừa kế của họ,
Đến tất cả những bậc đáng để tôn sùng, tôi thành kính đảnh lễ.
Theo kinh điển, bây giờ tôi sẽ diễn tả tóm tắt
Sự thực hành của nguyên tắc Bồ tát.
Cụm từ ‘những bậc thâm nhập hạnh phúc tối thượng’ là đồng nghĩa với Đức Phật và là sự chuyển dịch của chữ Sugata, (tiếng Việt: Thiện Thệ). Từ ngữ này được hình thành với hai yếu tố: sukha có nghĩa là “hạnh phúc [nhất]” hay lạc, và gata nghĩa là “đến.” Một Thiện Thệ do thế là “người đã đạt đến hạnh phúc” - [bậc thâm nhập tối lạc] hay theo Luận điển về Logic[8], “một bậc đã đạt được, hay thâm nhập một cách hoàn hảo.” Việc thành tựu thể trạng hạnh phúc có hai khía cạnh: thực chứng và loại trừ.
Khi tâm phát triển những phẩm chất tâm linh và loại trừ tất cả những trở ngại chúng, nó đạt được một cách tăng tiến năng lực để thấy rõ ràng bản chất của mọi hiện tượng, cho đến khi nó nhận thấy bản chất tối hậu mà không có bất cứ trở ngại nào. Sự nhận thấy này về các hiện tượng như ‘chúng thật sự là’ là tuệ trí vốn biết mọi thứ mà không có sự sai lầm tối thiểu nào.
Khía cạnh thực chứng liên hệ đến việc hành thiền về sự vắng mặt của thực tế trong các hiện tượng. Điều này đưa đến (1) sự hiểu biết hoàn hảo về vô số hiện tượng và (2) sự hiểu biết hoàn hảo về bản chất của chúng. Sau đó, qua năng lực của những đối trị, chúng ta loại trừ tất cả những màn che giả dối chướng ngại sự thông hiểu của chúng ta, vốn có thể làm cho chúng ta nhận thức mọi hiện tượng trong hình thức chân thật của chúng và đạt đến (3) sự hiểu biết hoàn hảo về tất cả mọi hiện tượng mà không có ngoại lệ. Ba loại hiểu biết hoàn hảo này cấu thành ba đặc trưng của việc thành tựu hạnh phúc tối thượng qua thực chứng.
Quan kiến hay sự thông hiểu không sai lầm này phát triển dần dần qua sự thực hành. Khi nó trở nên mạnh mẽ hơn và rõ rệt hơn, nó hoạt động như một sự đối trị đến niềm tin sai lầm trong tự ngã và trong thực tại của các hiện tượng, vốn như một kết quả trở thành yếu hơn và yếu hơn. Cuối cùng, khi sự đối trị này đã đạt đến một năng lực trọn vẹn, thì tuệ trí vô niệm vốn thấy sự vắng bóng của tự ngã sinh khởi[9] - (thực chứng vô ngã). Tuệ trí này vì thế làm mất tác dụng của những chướng ngại, và nó loại trừ những cảm xúc tiêu cực đơn giản qua việc thấy mọi hiện tượng như chúng thật sự là. Đây là những gì chúng ta gọi là sự loại trừ hoàn hảo.
Đây không phải là vấn đề của việc làm giảm thiểu sức mạnh cuả những cảm xúc tiêu cực một cách tạm thời qua việc hành thiền tập trung của những cấp độ vi tế khác nhau. Một khi những cảm xúc phiền não đã được loại trừ bởi những phương tiện của tuệ trí vô niệm, thì chúng bị loại trừ vĩnh viễn. Chúng không thể tái diễn trở lại ngay cả trong những trường hợp chúng bị kích thích trước đây. Điều này được biết như sự loại trừ không thể bị đảo ngược. Khi tuệ trí vô niệm phi thường được hoàn thành qua thực hành và tất cả những chướng ngại với nó đã bị xoá bỏ qua đối trị, rồi thì chúng ta nói rằng sự loại trừ đã được hoàn tất.
Ba khía cạnh này – tuyệt hảo, không thể đảo ngược,và hoàn tất – là ba đặc tính của việc thực chứng qua loại trừ. Một Thiện Thệ, thế thì, là một bậc “đã đến” qua ba thực chứng này và ba loại trừ này.
Một Thiện Thệ [bậc thâm nhập tối lạc], bậc có Pháp thân bắt đầu bởi việc từ bỏ những cảm xúc tiêu cực, tại điểm ấy, thì vị ấy đạt đến cấp độ đầu tiên [thấy đạo] trong mười cấp độ của Bồ tát đạo[10]. Vị ấy sau đó tiến tới theo con đường Phật Quả cho đến khi đạt đến cấp độ không cần học nữa [vô học]. Ở thời điểm ấy, vị ấy nhận ra không gian tuyệt đối thanh tịnh một cách hoàn hảo, bản chất tuyệt đối, và thân thể tuyệt đối, hay Pháp thân. Khi những chướng ngại đến vô minh tan biến hết, thì tất cả những phẩm chất của tuệ trí nguyên sơ xuất hiện, đặc biệt là hai mươi mốt phẩm chất thuần khiết của Pháp thân. Điều còn lại sau khi tất cả những chướng ngại đã bị loại trừ được gọi là tuệ trí nguyên sơ.
Khía cạnh thực chứng của Pháp thân là cực điểm sự thật của con đường [đạo đế], trong khi khía cạnh loại trừ của nó là cực điểm của sự thật chấm dứt [diệt đế]. Cùng với nhau, hai sự thật này cấu thành Pháp Bảo, yếu tố thứ hai của Tam Bảo mà chúng ta quy y. Pháp thân vì thế là khía cạnh tối hậu của giáo Pháp. Báo thân và Hoá thân, vốn biểu hiện từ Pháp thân, cấu thành Tăng Bảo, những vị đã đạt đến con đường không phải học nữa (những bậc vô học). Và Đức Phật hay Phật Bảo, là bậc thoát khỏi mọi khiếm khuyết và thành tựu mọi phẩm chất tốt đẹp, là bậc sở hữu sự thật của con đường (đạo đế) và sự thật chấm dứt (diệt đế). Ba thứ này – Phật, Pháp và Tăng – là ba quy y tuyệt đối.
Hội chúng của Đại thừa Bồ tát, Thanh Văn, và Duyên Giác, những bậc tiến tới trên con đường, có thể được gọi cộng đồng vô thượng, hay Tăng bảo, Sangha. Đấy là đối với các ngài, cùng với tất cả các vị phàm tăng tôn kính khác, mà Tịch Thiên (Shantideva) đảnh lễ ở đây.
Đã đảnh lễ Tam Bảo, ngài tuyên bố mục tiêu của ngài để viết nên luận văn này, vốn là sự biên soạn hành vi của các vị Bồ tát, hay con cái của Đức Phật. Đức Phật được nói là có ba loại thừa kế. Con huyết thống của Ngài là La Hầu La. Thừa kế lời nói của Phật là các vị Thanh Văn và Duyên Giác. Và thừa kế tâm Phật là các vị Bồ tát. Những vị được đề cập sau cũng được liên hệ như những bậc thừa kế chính yếu của Phật, vì họ khao khát, vì lợi ích của tất cả chúng sanh, đến tất cả những phẩm chất siêu phàm của Phật Quả, việc áp dụng những phương pháp không sai lầm của con đường từ bi và tánh không. Họ là những vị thừa kế của Đức Phật mà Tịch Thiên đang liên hệ đến ở đây, và chính là những hành vi của họ, bao trùm những điểm tinh yếu của con đường tâm linh.
Việc rèn luyện một vị Bồ tát bao gồm sự thực hành mười ba la mật[11]. Điều này có thể được tóm tắt như ba nguyên tắc (tam tụ tịnh giới): tránh làm các việc tổn hại (nhiếp luật nghi giới), thực hành những việc đạo đức (nhiếp thiện pháp giới), và hành động vì lợi ích của chúng sanh (nhiêu ích hữu tình giới). Tịch Thiên diễn tả con đường này trong ba giai tầng: thâm nhập, tu tập, và hoàn thành. Sự thâm nhập liên hệ đến việc thọ Bồ tát giới, và việc nhận thức đầu tiên nguyện vọng cho việc Giác Ngộ, được gọi là tâm bồ đề. Phần chính của luận điển này diễn tả việc tu tập vốn theo sau việc phát tâm bồ đề, đó là sự thực hành sáu ba la mật. Mục tiêu của việc này, hoàn thành Phật Quả, được diễn tả một cách tóm tắt ở cuối chương thứ chín.
Chúng ta muốn nói gì với từ ngữ Bồ tát – Bồ Đề Tát Đoả - Bodhisattva? Bodhi – Bồ đề, có nghĩa là Giác Ngộ, thể trạng vắng mặt mọi khiếm khuyết và được phú cho tất cả mọi phẩm chất tốt đẹp. Sattva – Tát đoả, liên hệ đến vị nào đó can đảm và tự tin và người cố gắng để thành tựu Giác Ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Những ai có nguyện ước tự phát, chân thành để đạt được Giác Ngộ vì lợi ích rốt ráo cho tất cả chúng sanh thì được gọi là những vị Bồ tát. Qua tuệ trí, họ hướng tâm thức đến Giác Ngộ, và qua lòng từ bi, họ quan tâm cho chúng sanh. Nguyện ước này cho Giác Ngộ toàn hảo vì lợi ích của kẻ khác là điều mà chúng tôi gọi là tâm bồ đề, và nó là điểm khởi đầu trên con đường. Bằng việc nhận biết Giác Ngộ là gì, sự thông hiểu của chúng ta không chỉ là có một mục tiêu để hoàn thành mà cũng là thật có thể để làm như vậy. Được lèo lái bởi khát vọng hổ trợ chúng sanh, chúng ta nghĩ, vì lợi ích của họ, tôi phải thành tựu Giác Ngộ! Một suy nghĩ như vậy hình thành lối vào Đại thừa. Tâm bồ đề, thế thì, là một nguyện ước gấp đôi: thành tựu Giác Ngộ trong tự nó, và làm như vậy vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
Dĩ nhiên, chúng ta có thể có một nguyện ước mơ hồ nào đó để thành tựu Giác Ngộ hay cảm thấy đó là điều đấy mà chúng ta phải đạt được. Nhưng không có một niềm tin chắc chắn rằng Giác Ngộ tồn tại và điều ấy có thể thành tựu được, thì chúng ta sẽ không giờ hoàn thành nó. Do vậy, thật quan trọng để biết Giác Ngộ có nghĩa là gì.
Trong phạm trù này, sự giải thích về tánh không được trình bày trong chuyển luân lần thứ hai là cực kỳ quan trọng. Tất cả mọi hiện tượng bản chất vốn là trống rỗng, không có sự tồn tại thật sự. Điều này được giải thích rõ ràng trong những kinh luận Bát Nhã Ba La Mật Đa và trong những luận giải của Long Thọ[12] và môn đồ của ngài. Nhưng chúng ta nhận thức về các hiện tượng như thế nào tại một thời điểm? Những gì ngài Long Thọ diễn tả không là những gì chúng ta thật sự nhận thức hiện tại. Những gì chúng ta trải nghiệm chỉ là đối lập. Thay vì nhận thức mọi hiện tượng như trống rỗng, thì chúng ta thấy mọi thứ là tồn tại và thật. Nếu, qua nghiên cứu và thực hành, chúng ta đạt được một sự thông hiểu nào đó và tin chắc rằng bản chất của mọi thứ là tánh không, rồi thì chúng ta nhận thấy rằng những nhận thức của chúng ta cho đến nay hoàn toàn không tương ứng với cung cách mà mọi thứ thật sự là và rằng chúng ta mê lầm bám víu vào cung cách sai lầm của việc thấy biết mọi thứ. Hơn thế nữa, sự mê lầm này là gốc rể của tham lam và thù hận; nói cách khác, đấy chính là gốc rể của luân hồi.
Sự mê lầm, si mê, hay vô minh, sự tin tưởng rằng mọi thứ là thật, là cực kỳ mạnh mẽ. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng đấy không gì hơn là một sai lầm; nó chỉ đơn thuần là một sự thông hiểu sai lầm mà chúng ta bám chấp nhưng trong thực tế gì đi nữa thì chúng cũng không có nền tảng. Đối lập với chúng, thì sự thông hiểu rằng mọi hiện tượng không có thực tại, được căn cứ trên một sự thật chắc chắn đứng vững trên mọi sự tranh luận. Nếu chúng ta làm quen thuộc mình với sự thông hiểu này, thì nó có thể được phát triển một cách vô hạn, vì nó là phẩm chất cả sự thật và tự nhiên của tâm thức. Khi nó phát triển và lớn mạnh hơn, thì nó hoạt động như sự đối trị với niềm tin sai lầm rằng mọi thứ là thật, mà nó bắt buộc trở nên yếu ớt hơn một cách tương ứng.
Chúng ta có thể loại trừ sự thông hiểu sai lầm này hoàn toàn không? Như được nói:
Bản chất của tâm là trong suốt và sáng rở,
Nhưng những chướng ngại là ngoại lai.
Mặc dù những chướng ngại này có thể đã hiện diện từ lâu xưa, nhưng chúng không có cùng bản chất với tâm. Cho nên, như sự đối trị - nhận thức đúng đắn về mọi thứ - phát triển, thì những chướng ngại này có thể bị xua tan một cách hoàn toàn.
Bản chất của tâm, trong suốt và tỉnh giác, thoát khỏi mọi khuyết điểm; nó không thể bị tác động bởi những chướng ngại. Không có hiện tượng nào cho dù tinh thần hay xuất hiện trong thế giới bên ngoài có thể tác động nó. Không gì có thể thay đổi phẩm chất bản nhiên của nó, vốn là đặc điểm bẩm sinh của tự tâm thức. Niềm tin trong sự có thật của mọi thứ căn cứ trên nhận thức sai lầm và là hoàn toàn mâu thuẩn với bản chất của tâm thức. Nhưng do bởi những điều kiện hiện tại và những cung cách của nhận thức có thói quen phát triển lâu dài, cho nên chúng ta có xu hướng trải nghiệm mọi thứ một cách sai lầm. Do thế, về một mặt, tâm thức vốn thấy mọi thứ không thật như thế nào là có thể phá huỷ sự đối kháng của nó, sự tin chắc rằng mọi hiện tượng là thật. Về mặt khác, cho dù niềm tin tưởng sai lầm này mạnh mẽ như thế nào đi nữa trong thực tiển có thể, thì nó không thể tác động bản chất bẩm sinh của tâm. Như nó được nói trong Đại Thừa Tối Cao Mật Điển (Sublime Continuum):
Các nhiễm ô là ngẫu nhiên,
Những phẩm chất là cố hữu.
Đây chính là tư tưởng rất khó chịu. Vì những chướng ngại này trong thực tế là riêng biệt với tâm, chúng ta có thể loại trừ nó, miễn là chúng ta tiếp tục và áp dụng những đối trị liên tục. Tất cả những cảm xúc tiêu cực có thể bị nhổ tận gốc rể, và vì chúng không bao giờ có thể thâm nhập bản chất của tâm, ngay cả những khuynh hướng thói quen chúng để lại khi tìm thấy cũng sẽ bị loại trừ sau đó.
Khi tâm hoàn toàn thoát khỏi những cảm xúc và khuynh hướng tiêu cực này, nó thông hiểu và nhận biết mọi hiện tượng. Khi chúng ta cố gắng và sử dụng những phương pháp đúng đắn, thì chúng ta có thể thực chứng tiềm năng mà chúng ta có cho sự toàn giác như vậy. Đó là bởi vì có những ngăn che chướng ngại giữa tâm và đối tượng của nó mà chúng ta không thể biết mọi thứ. Một khi những ngăn che này được loại bỏ, thì không có năng lực mới nào cần đến. Việc thấy và tỉnh giác là chính tự bản chất của tâm. Khi nào tâm còn tồn tại, thì nó có khả năng để nhận biết, nhưng đây là khả năng không tự bộc lộ cho đến khi tất cả mọi chướng ngại đã được loại trừ. Đây là điều có nghĩa là thành tựu Giác Ngộ. Nếu chúng ta suy nghĩ theo những dòng này, thì khát vọng cho sự Giác Ngộ sẽ lớn mạnh trong chúng ta.
Như cho nguyện ước làm lợi ích cho mọi người, thì điều này đến từ nhận thức rằng giống như chính chúng ta, tất cả mọi chúng sanh, không chỉ con người, đều muốn hạnh phúc và không ai muốn khổ đau. Trong thực tế, tất cả chúng ta có lòng từ bi: chúng ta muốn giải thoát kẻ khác khỏi đau khổ. Và đến một mức dộ nào đó, tất cả chúng ta thương yêu và muốn kẻ khác được hạnh phúc. Những cám giác này có thể không mạnh mẽ và rộng rãi lắm, nhưng mọi người có chúng trong mức độ nào đấy. Thí dụ, khi chúng ta thấy người nào đó đau đớn, thì chúng ta tự nhiên nghĩ, Thật kinh khiếp thay! và chúng ta muốn an ủi họ về sự thống khổ của họ. Giống như chính chúng ta không muốn đau khổ mà muốn hạnh phúc, thì chúng ta có thể có cùng nguyện ước ấy cho kẻ khác. Mặc dù chúng ta có thể chỉ có lòng từ bi và yêu thương nho nhỏ lúc ấy, nhưng đây là những thứ mà chúng ta có thể phát triển. Khi chúng lớn mạnh, thì nguyện ước của chúng ta cũng vậy để hành động vì kẻ khác.
Để có khát vọng đạt đến Giác Ngộ, ngay cả nếu nó là chỉ cho lợi ích của chúng ta, thì chúng ta phải biết điều gì đạt được bằng việc thành tựu Giác Ngộ và điều gì mất đi nếu thành công. Vì điều này chúng ta phải phản chiếu sự không hoàn hảo của luân hồi – và thậm chí những thứ của niết bàn khi được quan tâm như một cực đoan khác. Như được nói trong Tinh Yếu Trung Đạo (Essence of the Middle Way):
Vì họ thấy những khiếm khuyết của nó,
Họ tránh cõi luân hồi.
Vì trái tim họ đang yêu thương,
Niết bàn không thể giữ họ.
Bậc thông tuệ nguyện ước hạnh phúc cho chúng sanh
Cư trú thậm chí giữa luân hồi.
Họ không bị giam giữ bởi luân hồi, khi họ đã thấy sự không hoàn hảo của nó. Do bởi lòng từ bi lớn của họ, cho nên họ không thể nấn ná ở niết bàn. Khi họ biết rằng có những khiếm khuyết cho cả hai, thì họ ngưỡng vọng đến sự Giác Ngộ vốn siêu việt cả hai cực đoan này.
Cho nên trước nhất chúng ta phải nhận biết điều gì sai lầm với luân hồi, vì đây là căn bản cho nguyện ước thành tựu Giác Ngộ. Để quay đi và giải thoát cho chính mình, chúng ta phải phản chiếu xem điều gì được xem là khổ đau của luân hồi; điều này sẽ làm phát sinh khát vọng giải thoát cho kẻ khác.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta chiến thắng với những hy vọng và hoài bảo với lưu tâm cho những sự hiện hữu tương lai, thì trước nhất chúng ta phải đối mặt với sự bám chấp của chúng ta với đời sống hiện tại. Đây là điều gì đó mà chúng ta có thể rèn luyện từng bước một.
Tâm bồ đề là một thể trạng rất tốt của tâm, được thấm nhuần với tuệ trí, mà trong ấy sự ân cần được phối hợp với sự thông minh cao tột. Đó là điều gì đấy thật phi thường. Lòng tốt và sự ân cần này lập tức làm cho chúng ta bình an, cho nên chúng ta ít hẹp hòi và hung hăn hơn. Khi chúng ta gặp gở những người khác, chúng ta không cảm thấy bị ám ảnh và xa cách. Trái lại, chúng ta cảm thấy gần gũi với mọi người. Với một tâm như thế này, chúng ta không bao giờ lo sợ, mà mạnh mẽ và can đảm. Đây là một thái độ rất hữu dụng để có được.
Bồ Tát Đạo, hay Nhập Bồ Tát Hạnh không phải là một biên soạn từ những ý kiến cá nhân của Tịch Thiên tôn giả, cũng không phải lập lại y chang những gì từ kinh điển. Đúng hơn, đó là hình thức cô đọng những giáo huấn từ kinh điển. Và ngài nói:
1.
Ở đây tôi không nói những gì đã từng được nói trước đây,
Và trong nghệ thuật làm thơ tôi không có khiếu.
Do vậy, tôi không có tư tưởng gì có thể làm lợi lạc cho người khác;
Tôi đã viết nó chỉ là thói quen của tâm tư tôi.
“Ở đây tôi không nói những gì đã từng được nói trước đây, và trong nghệ thuật làm thơ tôi không có khiếu” được nói một cách giản dị để tránh khỏi lòng ngã mạn. Đối với những người có mong ước chỉ để tích luỹ tri thức, thì ngài không có gì mới để nói. Và khi ngài không nghĩ là ngài có thể giúp đở người khác, thì ngài đang viết luận điển này để tiến xa hơn trong sự thực hành tâm linh của chính ngài và đến với những người đang ở cùng giai tầng với ngài.
Mười chương đầu của Bồ tát đạo, Bodhisattvacaryāvatāra, đối diện với những phẩm chất của tâm bồ đề. Như một sự chuẩn bị cho tâm bồ đề, chúng ta cần thực hành bảy phần [nhân quả][13] như để tích luỹ công đức và tự tịnh hoá mình. Những chương tiếp theo giải thích vấn đề việc đưa tâm bồ đề vào thực hành như thế nào qua sáu ba la mật. Thứ nhất là bố thí ba la mật, hay rộng lượng, được gặp suốt luận điển, và không có chương đặc biệt nào dành cho nó. Thực hành trì giới ba la mật, hay nguyên tắc thanh khiết, như thế nào được giải thích trong hai chương với sự cẩn thận và chu đáo. Những điều này được tiếp theo sau bởi các chương dành cho bốn ba la mật sau cùng: nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và tuệ trí. Cuối cùng, Tịch Thiên kết luận luận điển với một chương về hồi hướng công đức vì lợi ích của chúng sanh.
Minyak Kunzang Sonam, theo truyền thống của Patrul Rinpoche, giải thích cấu trúc của Bồ Tát Đạo chung quanh câu kệ nổi tiếng của Tịch Thiên:
Nguyện cho tâm bồ đề, quý báu và siêu phàm,
Phát sanh nơi nó chưa từng phát sanh;
Và nơi nó đã phát sanh nguyện cho nó không bao giờ mai một
Mà lớn mạnh và phát triển mãi mãi không ngừng.
Đối với những người chưa phát tâm bồ đề, ba chương đầu của Bồ Tát Đạo giải thích làm thế nào để phát tâm. Sau đó, để ngăn ngừa tâm bồ đề bị thối thất, thì có những hướng dẫn về sự chu đáo, lưu tâm, và nhẫn nại. Sau điều này, là những chương về tinh tấn, thiền định và tuệ trí diễn tả tâm bồ đề có thể được phát triển một cách liên tục như thế nào. Cuối cùng, chương thứ mười và chương kết luận bàn luận về vấn đề chia sẻ và hồi hướng tâm bồ đề này đã được phát sinh, bảo vệ khỏi sự suy thoái, và được phát triển một cách tăng tiến. Đây là vấn đề mà Patrul Rinpoche đã giải thích nó như thế nào,và tôi thấy nó rất sâu sắc:
4.
Rất khó để có sự thoải mái và giàu có[14]
Bằng cách nào để mục tiêu của chúng sanh thành tựu.
Nếu bây giờ tôi chỉ hướng nó đến lợi ích của riêng tôi,
Thì làm sao tôi có cơ hội như vậy một lần nữa?
Để có thể thực hành tâm bồ đề, mà nó vốn có nhiều phẩm chất tốt đẹp, thì chúng ta cần thông minh, những điều kiện thích hợp, và đặc biệt là điều kiện tối thượng của đời sống như một con người. Đời sống con người là khó để có được và rất đáng giá nếu chúng ta có nó. Chúng ta không nên phung phí đời sống của chúng ta mà phải tận dụng nó một cách tốt đẹp.
5.
Giống như trong một đêm đen tối đầy mây,
Chợt một tía chớp sáng lên và tất cả đều được thấy một cách rõ ràng,
Giống hiếm hoi như vậy, qua năng lực của chư Phật,
Những tư tưởng đạo đức sanh khởi, ngắn ngủi và nhất thời, trên thế gian.
6.
Đạo đức, như vậy, thì yếu đuối,và luôn luôn
Sự xấu ác thì to lớn và và sức mạnh tràn ngập.
Ngoại trừ tâm bồ đề tuyệt vời,
Thì đạo đức khác nào có thể làm cho nó lắng xuống?
Do bởi những nghiệp duyên quá khứ, cho nên rất hiếm hoi và khó khăn để có một tâm tích cực, trong khi thật dễ dàng để có những tư tưởng tiêu cực, vì đây là những gì chúng ta quen thuộc. Cho nên, chúng ta phải nuôi dưỡng những tư tưởng tích cực, chẳng hạn như thành tâm với chư Phật và từ bi với chúng sanh. Đó là qua điều này mà chúng ta phát triển tâm bồ đề.
Không có gì mạnh mẽ hơn tâm bồ đề cho việc tịnh hóa những hành vi tiêu cực và chướng ngại, cho việc đạt đến hạnh phúc tạm thời và tối hậu, và cho việc giúp đở chúng sanh. Nếu chúng ta mong ước giải thoát chính mình và kẻ khác khỏi khổ đau của luân hồi, thì chúng ta nên phát tâm bồ đề. Ngay khi chúng ta làm việc này, vô số phẩm chất của nó như thế ấy, mặc dù chúng ta vẫn hiện là những con người bình thường đối tượng của khổ đau, thì chúng ta cũng sẽ được tuyên bố như những kẻ thừa kế của chư Phật, đáng được sự tôn kính của chư thiên và loài người.
Tâm bồ đề của chúng ta có thể chưa tự nhiên thanh thoát, nhưng nó vẫn là điều gì đó mà chúng ta phải xây dựng. Tuy nhiên, một khi chúng ta đã đi theo và bắt đầu phát triển thái độ phi thường này, thì bất cứ hành vi tích cực nào mà chúng ta làm – lễ phủ phục, đi nhiễu Phật, trì tụng, hay những hành động của bố thí, ..., cho đến tuệ trí – trong khi không thấy xuất hiện gì khác, nhưng sẽ mang đến những kết quả tăng tiến lớn lao.
Tâm bồ đề tự nó có hai khía cạnh: ngưỡng mộ và thực hành. Ngưỡng mộ chỉ đơn thuần là nguyện ước thành tựu Giác Ngộ cho tất cả chúng sanh, khát vọng theo đuổi con đường. Sự thực hành bắt đầu với việc thọ giới Bồ tát và hứa sẽ đem nó vào trong hành động. Ngưỡng mộ đơn thuần chỉ giống như mong muốn đi đến nơi nào đó; thực hành là thật sự lên đường.
Những phẩm chất tốt đẹp của thậm chí là tâm bồ đề ngưỡng mộ là bao la; thì những phẩm chất của người đã thọ giới là hơn nhiều biết bao nhiêu! Ngay từ thời khắc thọ giới, bất cứ điều gì một vị Bồ tát làm, cho dù bước đi hay ngủ nghỉ, sẽ tạo nên công đức lớn lao chỉ qua năng lực tuyệt đối của mục đích. Và nếu có công đức lớn lao trong việc muốn giảm nhẹ chúng sanh khỏi một sự khó chịu đơn thuần, thì có cần đề cập đến lợi ích vô hạn của việc nguyện ước giúp đở vô số chúng sanh không?
Như được nói rằng suy nghĩ tiêu cực về Bồ tát như vậy có những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Do vậy, chúng ta phải thật cẩn thận bảo vệ mình khỏi loại lỗi lầm này và xem người khác như những vị thầy của chúng ta. Và chúng ta phải không bao giờ, không vì một lý do đặc biệt nào, nói đến lỗi lầm của những người khác. Như bậc toàn tri Gendun Drubpa[15] đã nói: “Hãy biết ơn tất cả chúng sanh và kính trọng tất cả các hành giả với một cái nhìn thanh tịnh. Hãy khuất phục kẻ thù bên trong.” Chúng ta hãy tuân theo lời dạy của ngài.
Ẩn Tâm Lộ, 2023
Chương 3: Cúng dường và tịnh hóa
Theo truyền thống Phật Pháp, thì rèn luyện tâm thức là một tiến trình dần dần. Chúng ta tịnh hoá chính chúng ta bằng việc loại bỏ những nhược điểm lớn nhất của chúng ta trước tiên. Và chúng ta phát triển những phẩm chất tốt đẹp bằng việc mở rộng trên một ít điều chúng ta đã có. Thánh Thiên[16], người đệ tử chính của Long Thọ, đã nói:
Trước tiên loại bỏ xấu ác,
Sau đó loại bỏ tự ngã,
Cuối cùng loại bỏ các tư tưởng.
Thông tuệ là người biết điều này.
Đây là con đường mà người thông tuệ phải tiếp nhận. “Trước tiên loại bỏ xấu ác.” Để đạt được toàn giác rốt ráo và có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, thì thật cần thiết có một sự sống của con người, vốn là sự hổ trợ tốt nhất cho quá trình tiến đến Giác Ngộ. Để có được sự sống của con người, là một sự tái sanh may mắn, thì cần thiết tránh những hành vi phi đạo đức vốn sẽ đưa đến việc sanh vào những cõi thấp hơn của kiếp luân hồi.
“Sau đó loại bỏ tự ngã.” Đã từ bỏ những hành vi tiêu cực, thì chúng ta cũng phải loại bỏ những nguyên nhân của chúng, vốn là những cảm xúc tiêu cực. Đối trị duy nhất của những điều này là tuệ trí biết mọi thứ là không thật. Theo Long Thọ và những con cháu tâm linh của ngài, thì gốc rễ của những cảm xúc tiêu cực là sự mê lầm tin tưởng rằng mọi hiện tượng là thật. Điều này có nhiều khía cạnh, thô thiển và vi tế. Tuy nhiên, nhằm để làm tan biến khái niệm của tính chất chắc thật, thì trước hết chúng ta phải từ bỏ niềm tin trong sự tồn tại của cá thể như thực thể, hay tự ngã. Nhưng có một sự hiểu thấu mơ hồ vào vấn đề này đơn giản là không đủ. Thật cần thiết để làm tinh tế hơn sự thông hiểu và tuệ giác của chúng ta, và đạt đến một tuệ trí vi tế nhờ đó khái niệm về tự ngã mới được trừ tiệt.
“Cuối cùng loại bỏ các tư tưởng.” Để đạt đến Giác Ngộ, chúng ta phải loại trừ không chỉ những cảm xúc tiêu cực và các nguyên nhân của chúng mà cũng làn những thói quen làm chướng ngại tri thức của chúng ta. Một khi chúng ta đã tiêu diệt những chướng ngại này thì chúng ta thành tựu toàn giác toàn tri. Con đường dẫn đến điều này là tuệ trí thông hiểu rằng mọi thứ không có thực chất.
Qua việc hành thiền, thì chúng ta có thể thiết lập một cách vững vàng quan kiến về tánh không. Quan kiến phi thường này, được thấm nhuần với từ bi và phối hợp việc tích luỹ công đức, hoàn toàn phá huỷ những bức màn làm chướng ngại tri thức. Mục tiêu của việc hành thiền là để hoạt động như sự đối trị đến những cảm xúc tiêu cực của chúng ta và những dấu vết của chúng, một cách gián tiếp, đến những chướng ngại của tất cả những chúng sanh khác. Một khi mục đích này đã đạt được, thì tất cả mọi khái niệm, kể cả về tánh không, phải được từ bỏ.
“Thông tuệ là người biết điều này.” Điều này chỉ cho những người biết các giai đoạn khác nhau của con đường những điểm tinh yếu của nó và những người thực hành chúng trong một trình tự đúng đắn vì thế họ đạt được sự thực chứng hoàn toàn. Do vậy, thật rất quan trọng để biết thực hành một cách chính xác như thế nào và không thoả mãn với một tri thức mơ hồ hay cục bộ của con đường. Tác phẩm Bồ Tát Đạo cống hiến một sự giải thích đầy đủ của toàn bộ con đường. Xin hãy học hỏi nó với xu hướng đưa vô lượng chúng sanh, những người từng là cha mẹ chúng ta, đến Giác Ngộ.
Nếu chúng ta có nguyện ước hổ trợ chúng sanh, thì chúng ta phải có thể giải thoát họ khỏi khổ đau và xua tan sự si mê của họ. Điều này có nghĩa là tự chính chúng ta phải có sự thực chứng chân thật, và điều này có thể không chỉ là việc thành tựu qua nổ lực và việc phát triển tuệ giác trong sáng và sự tĩnh lặng của tâm. Đây là vấn đề phát triển tâm bồ đề tương đối và bắt đầu hổ trợ chúng sanh như thế nào.
Trước khi tiếp nhận thệ nguyện tâm bồ đề, chúng ta nên giữ trong tâm những gì chúng ta đang hướng tới và chúng ta tiến hành như thế nào. Sau đó khi chúng ta trì tụng Bảy Chi Cầu Nguyện, với tư tưởng của chúng ta trực tiếp đến lý tưởng của tâm bồ đề. Điều thứ nhất của Bảy Chi là tôn kính:
1.
Đến chư Phật, những Đức Như Lai,
Và đến thánh Pháp, không tì vết và cực kỳ quý hiếm,
Và đến con cháu của Đức Phật, những đại dương của các phẩm chất tốt đẹp.
Mà con có thể đạt được thái độ quý báu này, tôi xin cúng dường trọn vẹn.
Điều này tiếp theo chi cúng dường:
2.
Tôi cúng dường mọi quả trái và bông hoa,
Tất cả các loại dự thảo chữa bệnh
Và tất cả ngọc châu quý giá của thế gian,
Với tất cả những loại nước tinh khiết giải khát;
3.
Mọi núi non đã nung đúc nên những đồ trang sức quý giá,
Tất cả ngọt ngào và riêng biệt lớn lên từ rừng thẳm,
Những cây cối của thiên đàng được trang hoàng với sự rộ nở,
Cây cối với những cành lá nặng trĩu với quả trái hoàn hảo.
4.
Mùi nước hoa thơm ngát của thiên thần và những thế giới khác,
Tất cả khói hương trầm, những cây như ý, và những cây châu báu,
Tất cả những mùa màng sinh trưởng mà không cần sự chăm sóc của nông dân,
Và mọi sự lộng lẫy xa hoa thế gian được cúng dường;
5.
Những hồ và ao được trang hoàng với các bông sen,
Hoan hỉ với những giọng kêu ngọt ngào của các con vịt nước.
Và mọi thứ tự do và không đòi hỏi
Mở rộng đến chân trời vô tận.
6.
Tôi ôm ấp tất cả chúng trước tâm tôi, và đến bậc Hiền Nhân, vĩ đại nhất trong chủng loại của chúng ta,
Và đến những vị thừa kế của ngài, tôi thực hiện một sự cúng dường tuyệt vời.
Những bậc tiếp nhận siêu phàm, những bậc uy đức từ bi,
Ôi xin hãy nghĩ về tôi với lòng thương yêu; chấp nhận mọi cúng phẩm này của tôi!
Ở đây chúng ta thực hiện sự cúng dường mọi thứ chúng ta có cùng với mọi thứ khác trong vũ trụ, những thứ thuộc sở hữu của những người nào đó và những thứ không thuộc về ai. Sau đó chúng ta cúng dường chính thân thể của chúng ta. Cho dù chúng ta có hay không có một thân thể hoàn hảo, thì chúng ta cũng cúng dường nó một cách chân thành. Đây là một phương pháp để ngoảnh mặt với những hành vi tiêu cực trên cấp độ vật chất. Tiếp theo chúng ta thực hiện sự cúng dường bồn tắm nước thơm, áo quần chư thiên, nước hoa tuyệt hảo, hương, những bài hát ca ngợi, và v.v...
Với tất cả những thứ cúng dường này không phải số lượng mà phẩm chất được tính đến. Phẩm chất liên hệ cả những thứ vật chất và mục tiêu mà với nó chúng được cúng dường. Những thứ vật chất cúng dường không nên là những thứ thu được một cách không trung thực. Mục tiêu của chúng ta không nên bị ô nhiễm bởi tám thứ bận tâm thế gian: được hay mất, vui hay khổ, ca ngợi hay phê phán, và danh dự hay bỉ ổi.
Khi chúng ta nói về những thứ cúng dường vốn không thuộc về ai, chẳng hạn như những phong cảnh xinh đẹp trên thế giới và tất cả vũ trụ khác nhau vốn không thuộc về ai, nhìn thoáng qua thì chúng dường như không gì liên hệ với chúng ta. Điều gì đó cúng dường một cách tinh thần mà chúng ta không sở hữu có ích gì? Nhưng trong Abhidharma[17] có nói, “Tất cả những hệ thống thế giới là kết quả của nghiệp.” Và theo Lối Vào Trung Đạo[18]:
Sự đa dạng vô số của chúng sanh và vũ trụ
Đã được tạo ra bởi tâm.
Tất cả những vũ trụ và chúng sanh là kết quả của nghiệp.
Vũ trụ mà chúng ta sinh sống và sự chia sẻ nhận thức của chúng ta về nó là kết quả của một nghiệp duyên chung. Giống như thế, những nơi chốn mà chúng ta sẽ trải nghiệm trong tương lai tái sanh sẽ là biểu hiện của nghiệp duyên mà chúng ta chia sẻ với những chúng sanh khác sống ở đấy. Những hành vi của mỗi chúng ta, của những con người hay không phải người, được đóng góp đến thế giới mà chúng ta sống. Tất cả chúng ta có một trách nhiệm chung cho thế giới của chúng ta và được nối kết với mọi thứ trong ấy. Đây là tại sao mà chúng ta có thể thực hiện một sự cúng dường về nó.
Tiếp theo là chi phần về sự tôn kính.
24.
Đến tất cả chư Phật của quá khứ, hiện tại và mọi thời trong tương lai,
Và đến chư Pháp cùng Hải Hội Tăng Già CaoThượng,
Với những thân thể nhiều như những hạt bụi
Trên mặt đất, tôi sẽ phủ phục và lễ lạy.
Những sự phủ phục là một sự đối trị đối với kiêu ngạo và tự phụ. Trước khi những vị thầy bắt đầu giảng dạy, thì họ lễ phủ phục đến bảo toạ mà họ sẽ ngồi trên ấy. Họ làm điều này như một sự phòng hộ chống lại lòng tự phụ. Ở đây chúng ta phải phân biệt giữa sự tự phụ và lòng tự tin. Tự phụ thì không đáng ưa thích, trái lại chúng ta cần có một lòng tự tin và sức mạnh nội tại đến từ ấy.
Chi phần sám hối đến trước bởi sự quy y.
26.
Cho đến khi tinh hoa Giác Ngộ đạt được,
Tôi xin quy y đến chư Phật.
Tôi cũng quy y đến chư tôn Pháp
Và trong tất cả hải hội Bồ tát.
Để thực hiện một sự sám hối đúng đắn, thì cần thiết phải làm như vậy với bốn năng lực. Điều thứ nhất, là năng lực gia hộ, đó là quy y Tam bảo và phát tâm bồ đề. Điều thứ hai đòi hỏi một sự ăn năn sâu xa và hối hận chân thành cho tất cả những hành vi tiêu cực mà chúng ta đã làm cho đến bây giờ và những cảm xúc tiêu cực mà chúng ta đã mê lầm. Điều này đòi hỏi sự phản chiếu về những ảnh hưởng tổn hại của những hành vi tiêu cực. Điều thứ ba là sự quyết tâm không bao giờ phạm phải những hành vi tiêu cực này, ngay cả nếu là cái giá của tính mạng chúng ta. Điều thứ tư là năng lực của những đối trị, chẳng hạn như lễ phủ phục, trì tụng mật ngôn, và những thực hành tịnh hoá đặc thù nào đó.
Cũng như suy nghĩ về những hậu quả của những hành vi tiêu cực, thì chúng ta phải thực hiện sự sám hối của chúng ta một cách sâu sắc và mạnh mẽ hơn bằng việc phản chiếu về sự chết không thể tránh khỏi và không biết khi nào nó xảy ra. Khi chúng ta chết, tương lai của chúng ta sẽ được quyết định duy chỉ bởi những hành vi tích cực và tiêu cực mà chúng ta đã làm.
33.
Chúng ta không thể tin tưởng sự đùa giỡn của Thần Chết.
Nhiệm vụ hoàn thành hay vẫn đang làm, ông ấy sẽ không chờ.
Do vậy, trong khoẻ mạnh hay bệnh hoạn không ai trong chúng ta có thể tin cậy.
Sự sống của chúng ta lướt nhanh theo thời khắc.
34.
Và chúng ta sẽ qua đời, bỏ lại tất cả.
Nhưng tôi, không thông hiểu,
Vì lợi ích của những người bạn cũng như kẻ thù,
Kích động và mang đến rất nhiều sai lầm.
35.
Nhưng tất cả những kẻ thù của tôi sẽ không còn,
Và tất cả những người bạn của tôi sẽ không còn,
Và tôi cũng sẽ không còn,
Và giống như thế mọi thứ sẽ không còn.
38.
Tư tưởng đó đã không bao giờ đến tâm tôi
Rằng tôi cũng vậy là một thứ ngắn ngủi và thoáng qua.
Và cũng thế, qua thù hận, tham muốn, và si mê,
Tôi đã phạm phải nhiều tội lỗi.
Nếu chúng ta nghĩ về sự chết trong cách này, thì tự nhiên chúng ta sẽ hối hận về những hành vi tiêu cực trong quá khứ và mong ước sám hối chúng ngay lập tức, cảm nhận xấu ác sẽ giải được giải toả cho đến khi chúng ta hoàn toàn tịnh hoá chúng. Đó là với một sự cảm xúc thúc đẩy như vậy trong tâm mà Tịch Thiên đã nói:
47.
Vì vậy, từ ngày hôm nay trở đi tôi quy y
Trong chư Phật, những đấng bảo hộ của chúng sanh,
Những bậc đã gắng công để bảo vệ tất cả những kẻ lang thang,
Những đấng quyền năng làm tan biến mọi nỗi sợ hãi.
Đức Phật bậc cho chúng ta quy y đã chinh phục bốn loài ác ma[19]: các uẩn (skandhas), các cảm xúc tiêu cực, sự chết, và sự kiêu căng.[20] Tuy nhiên, chúng ta không thể dựa vào sự bảo hộ của chư Phật nếu không có lòng từ bi lớn của Ngài. Ngay từ thời khắc Ngài phát tâm bồ đề cho đến khi Ngài thành tựu Giác Ngộ, Đức Phật không bao giờ ngừng hành động vì lợi ích của chúng sanh, phù hợp với năng lực và nguyện vọng của mỗi cá nhân. Vì lý do này Ngài được biết như Đấng Bảo Hộ của Chúng Sanh. Cho nên chính là trong năng lực này, mà Đức Phật từ bi, có thể xua tan mọi sợ hãi, từ lúc chúng ta phát tâm quy y. Chúng ta cũng quy trong những lời dạy của Ngài và trong hội chúng Bồ tát vốn đã thông hiểu những giáo huấn này.
Liên quan đến việc quy y Phật, Trần Na[21], mở đầu Tập lượng luận (Compendium of Logic), như vầy:
Ngài đã trở thành xác thật và biết giúp đở chúng sanh như thế nào:
Con lễ phủ phục đến Đức Phật, Đấng Thiện Thệ, Đấng Bảo Hộ.
Chúng ta muốn nói với bậc xác thật (authentic) là đấng thoát khỏi khổ đau và sợ hãi và là đấng biết giải thoát chúng sanh như thế nào. Ngài giúp đở chúng sanh một cách vô tư và với lòng từ bi lớn, bảo hộ tất cả những ai cần. Tuy nhiên, Ngài không xuất hiện một cách tự nhiên và không có nhân duyên gì, như một đấng tạo hoá. Ngài không phải lúc nào cũng xác thật. Ngài đã trở thành một đấng quy y xác thật như một kết quả của những nguyên nhân và điều kiện rõ ràng, trước nhất là khát vọng cứu giúp chúng sanh. Khi chính Đức Phật là một chúng sanh bình thường muốn hạnh phúc và tránh khổ đau, Ngài nhận ra rằng những cảm giác này là tất cả mọi người chia sẻ với nhau, và Ngài rung động bởi lòng từ bi lớn để giải thoát tất cả khỏi buồn khổ và đem hạnh phúc đến cho họ.
Nhưng để giúp cho những kẻ khác, chỉ nguyện ước thì không đủ. Thực tế thì những tư tưởng vị tha có thể trở thành một nỗi ám ảnh và làm chúng ta thêm lo lắng. Khi những tư tưởng tốt lành và tích cực được phối hợp với tuệ trí, thì chúng ta biết giúp đở chúng sanh một cách hiệu quả và có thể làm như thế một cách thật sự. Đức Phật, tràn ngập với lòng từ bi, thấy chúng sanh khổ đau như thế nào, và biết nguyên nhân làm cho họ đau khổ là sự náo động không thể kiểm soát của tâm thức họ, Ngài biết giúp đở họ như thế nào. Ngài biết rằng tâm thức của họ không thể kiểm soát được cuối cùng bởi vì sự si mê, niềm tin sai lầm trong thực tại của mọi thứ. Ngài cũng biết đối phó điều này với tuệ trí của tánh không. Vì Đức Phật là một bậc biết hổ trợ chúng sanh bằng việc chỉ cho họ những gì họ nên làm và những gì họ nên tránh và trên tất cả, Ngài chỉ bày cho họ tuệ trí thực chứng tánh không.
Vì mục tiêu này Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dạy con đường chọn lọc Tứ Diệu Đế với mười sáu phần. Trước nhất Ngài tập họp chung quanh Ngài những người chưa bắt đầu trên con đường và trưởng dưỡng tâm thức họ bằng việc chỉ bày cho họ sự vô thường và khổ đau, hướng tư tưởng họ khỏi vòng luân hồi. Sau đó Ngài giải thoát những ai đã trưởng thành bằng việc dạy họ về sự không thật của mọi thứ, làm cho sự thông hiểu về tánh không sinh khởi trong tâm thức họ và hướng họ đến sự giải thoát tối hậu.
Chúng ta gọi Đức Phật là là vị Thầychúng ta vì Ngài chỉ cho chúng ta những gì để tránh và những gì nên tiếp nhận. Chính Ngài đã phát triển tuệ trí vô thượng thông hiểu tánh không đến mức độ mà tất cả những nhận thức nhị nguyên biến mất, và sự thực chứng của Ngài hoàn toàn. Trên căn bản kinh nghiệm của chính Ngài, thì Ngài có thể làm tan biến khổ đau của người khác và cho họ sự nương tựa. Tuy nhiên, giống như trong đời sống hàng ngày, chúng ta sẽ không tin ai cả cho đến khi chúng ta đã kiểm chứng rằng những gì người ấy đã nói đáng tin cậy và chân thật, giống như vậy, chúng ta phải thẩm tra giáo huấn của Đức Phật một cách cẩn thận trước khi chấp nhận. Nói một cách tổng quát, những giáo huấn này có hai loại: những thứ chỉ cho chúng ta đạt được hạnh phúc trần gian trong những sự tái sanh cao hơn và những thứ dạy cho chúng ta con đường đến sự tự do tuyệt đối của Phật Quả.
Nhập Lăng Già Kinh (Sutra Of The Visit To Lankara) nói về ngũ thừa hay năm cổ xe[22]: nhân thừa, thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, và Bồ tát thừa. Hai thừa đầu là thông thường cho cả truyền thống Phật Giáo và không Phật Giáo. Ba thừa sau là đặc biệt cho con đường Phật Giáo nói về giáo lý đến sự tự do rốt ráo và tánh không, vốn là những gì chúng ta thường liên hệ đến khi chúng ta nói về giáo lý nhà Phật.
Khi chúng ta thẩm tra một giáo lý, chúng ta thường phân tích những điểm chính yếu. Nếu nó đứng vững với sự phân tích và chứng tỏ là đúng đắn, rồi thì bất cứ sự mâu thuẩn nào rõ ràng trong những chi tiết nhỏ nhặt là không quan trọng. Như nó được nói trong Luận Lý Pháp (Treatise On Logic):
Nếu điểm chính yếu là đáng tin cậy,
Thì tất cả những gì còn lại là thứ yếu.
Và chính Đức Phật đã nói:
Này chúng tăng, giống như kiểm tra vàng nhằm để biết phẩm chất của nó,
Các ông phải đem những lời của ta mà kiểm nghiệm.
Một người thông tuệ không chấp nhận chúng chỉ vì sự tôn kính.
Đừng lấy những lời Đức Phật từng chữ một đơn giản chỉ vì sự tôn trọng. Hãy thẩm tra chúng và tôn trọng chúng chỉ khi bạn một lý do tốt đẹp cho việc làm như thế. Dĩ nhiên, đức tin là rất quan trọng cho sự thực hành tâm linh, nhưng sự thành tâm mù quáng với Đức Phật là không đủ. Chúng ta phải có những lý do vững chắc cho việc tôn trọng giáo lý của Ngài. Trong Phật Pháp, và đặc biệt trong giáo lý Đại thừa thì sự phân tích logic là vô cùng quan trọng.
Những luận điển và logic Phật Giáo nói về quả và hai khía cạnh của nó: khía cạnh biểu hiện và khía cạnh bị che dấu. Đối với những chúng sanh thông thường, Quả Phật vẫn bị che mờ. Nếu chúng ta mong ước thực chứng nó mà không đi lạc đường, thì chúng ta phái tiếp nhận con đường phối hợp phương tiện và tuệ trí, vì nó được căn cứ trên những nguyên tắc vững chắc và phản chiếu bản chất chân thật của mọi thứ.
Để thực hành một cách đúng đắn, bất cứ đi theo con đường nào, thì chúng ta phải không bao giờ mâu thuẩn với ý nghĩa chung. Trong Phật Giáo có nhiều giáo lý khác nhau cho chúng sanh ở các vị trí khác nhau và trình độ cùng sự thông minh của người tiếp nhận. Đó là tại sao có sự hiện hữu của những cổ xe khác nhau như Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, và Bồ tát thừa. Cùng lý do ấy, bốn trường phái triết học – Tỳ Ba Sa, Kinh Lượng Bộ, Duy Tâm luận, và Trung Đạo – và vô số chi phái sinh khởi để đáp ứng cho những năng lực thông minh khác nhau.
Ẩn Tâm Lộ, 2023
Chương 4: Đi theo Tâm Bồ Đề
***
Trong chương thứ ba, liên hệ đến việc phát tâm bồ đề, Tịch Thiên bắt đầu bằng việc tùy hỉ:
1.
Với niềm hoan hỉ tôi tán dương đạo đức cứu độ tất cả chung sanh
Từ những nỗi buồn đau của các trạng thái mất mát,
Việc hân hoan trong các trạng thái hạnh phúc thụ hưởng
Của những người còn đang đau khổ.
2.
Tôi thích thú với những sự phong phú của đạo đức,
Làm cho đạt được thể trạng Giác Ngộ,
Và ca ngợi sự tự do giành được
Qua việc chúng sanh thoát khỏi vòng khổ đau.
3.
Và trong Phật quả của những Đấng Bảo vệ tôi hoan hỉ
Và trong những nền tảng thực chứng của các vị thừa kế của Đức Phật.
4.
Thái độ Giác Ngộ của các ngài, đại dương của những điều tốt lành,
Vốn tìm cách để đưa tất cả chúng sanh đến thể trạng hạnh phúc,
Và mỗi hành vi làm lợi ích cho chúng sanh:
Như vậy là sự hoan hỉ và vui sướng của tôi.
Khi chúng ta tuỳ hỉ trong những phẩm chất tốt đẹp và những hành vi tích cực của người khác, thì chúng ta tự tích luỹ phước đức cho chính mình. Bằng việc tuỳ hỉ trong những hành vi tích cực của chính chúng ta, thì chúng ta làm gia tăng và làm mạnh thêm ảnh hưởng của chúng. Trái lại, nếu chúng ta khoe khoang một ít hành tốt lành mà chúng ta có và ganh tỵ với những thứ như vậy của kẻ khác, thì chúng ta thậm chí không được gọi là những hành giả Phật Giáo. Cho nên chúng ta nên tuỳ hỉ là cùng vui trong tất cả những hành vi tích cực, cho của chư Phật, Bồ tát, hay những chúng sanh bình thường.
Tiếp theo là thỉnh cầu chư Phật chuyển Pháp Luân và đừng nhập niết bàn. Điều này theo sau sự hồi hướng công đức:
5.
Và vì vậy tôi chấp tay và cầu nguyện
Chư Phật thường trú ở mọi phương
Hãy khơi dậy ánh sáng của giáo Pháp
Cho những ai đang mò mẫm, hoang mang, trong bóng tối của khổ đau!
6.
Tôi chấp tay khẩn cầu những đấng Giác Ngộ
Những bậc muốn nhập niết bàn:
Đừng xa rời chúng tôi lang thang và mù mịt,
Hãy ở lại với chúng tôi trong vô lượng kiếp!
7.
Qua những hành vi này bây giờ được biểu hiện
Và tất cả những đạo đức mà tôi đã đạt được,
Nguyện cho tất cả khổ đau của mỗi chúng sanh
Hoàn toàn tan biến và tiêu trừ!
Bây giờ bắt đầu với việc thật sự phát tâm bồ đề, cả ngưỡng mộ và áp dụng:
23.
Giống như tất cả chư Phật trong quá khứ
Đã phát sanh tâm bồ đề ,
Và trong những giới điều của chư Bồ tát
Từng bước tuân theo và thực tập,
24.
Giống như thế, để làm lợi ích cho chúng sanh,
Tôi cũng sẽ phát tâm bồ đề,
Và trong những giới điều ấy, từng bước một,
Tôi sẽ tự mình tuân theo và tu tập.
Tâm bồ đề ngưỡng mộ hay tâm bồ đề nguyện vọng là nguyện phát sinh cùng mục đích như chư Phật và chư Bồ tát của quá khứ. Áp dụng hay thực hành là nguyện hoàn thành, như các ngài đã làm, tất cả những hành vi của con đường đến Giác Ngộ, vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
Hôm nay chúng ta sẽ chỉ lời nguyện ngưỡng mộ. Để làm điều này, chúng ta sẽ đọc qua chương hai và chương ba của Bồ Tát Đạo hay Nhập Bồ tát Hạnh cho đến dòng thứ hai của kệ 23. Hãy cố gắng để tập trung vào ý nghĩa và sau đó tuỳ hỉ với những gì chúng ta đã làm.
Nhằm để tiếp thọ thệ nguyện này, tâm bồ đề ngưỡng mộ, chúng ta nên tưởng tượng rằng phía trước chúng ta là Đức Phật và tám người đệ tử thân cận của Ngài, sáu điều lành, hai vị thầy tối cao, kể cả Tịch Thiên; và tất cả những vị thầy chứng ngộ của truyền thống Phật Giáo, đặc biệt là những vị thượng thủ của các trường phái Tây Tạng: Sakya, Gelug, Kagyu, và Nyingma trong thực tế là tất cả chư Phật và chư Bồ tát. Cũng hãy nghĩ rằng chúng ta được bao quanh bởi tất cả chúng sanh trong vũ trụ. Với sự quán tưởng như vậy, bây giờ chúng ta đọc Bảy Chi Cầu Nguyện:
18.
Nguyện cho tôi là người bảo vệ cho những ai không người bảo vệ,
Một người hướng dẫn cho những ai du hành trên đường.
Cho những ai mong ước vượt qua dòng nước,
Nguyện cho tôi là một chiếc thuyền, một chiếc bè, một cây cầu.
19.
Nguyện cho tôi là một hòn đảo cho những ai khao khát đất liền,
Một ngọn đèn cho những ai mong mõi ánh sáng;
Cho tất cả những ai cần một nơi ngơi nghĩ, một chiếc giường;
Cho tất cả những ai cần một người phục vụ, tôi nguyện là kẻ tôi tớ của họ.
20.
Nguyện cho tôi là một viên ngọc ước, chiếc bình của sự giàu có,
Một lời nói quyền lực và một sự cứu chữa tối thượng,
Nguyện cho tôi là một cây cối của phép mầu,
Cho mỗi chúng sanh là con bò dư dã.
21.
Giống như tự chính trái đất và bầu không gian
Và tất cả những yếu tố hùng mạnh khác,
Cho chúng sanh đa dạng vô số
Nguyện cho tôi luôn luôn là nền tảng của sự sống, nguồn gốc của phương tiện sống đa dạng.
22.
Vì vậy cho mọi thứ sinh sống,
Xa như những giới hạn của bầu trời,
Nguyện cho tôi liên tục là cội nguồn của kế sinh nhai
Cho đến khi tất cả vượt qua khổ đau.
Hai câu cuối cùng này là rất mạnh mẽ, có phải không? Sự sống của vô số chúng sanh tùy thuộc vào sự hiện diện của năm yếu tố hay năm đại, vì vậy chúng ta hãy nghĩ: Giống như trái đất, nguyện cho tôi hổ trợ chúng sanh số lượng rộng rãi như bầu trời. Và cho đến khi họ chưa đạt đến Giác Ngộ, tôi nguyện dâng hiến mình hoàn toàn cho hạnh phúc của họ. Chúng ta hãy thành tâm nguyện ước thành tựu Phật Giáo vì lợi ích của họ và nguyện không bao giờ từ bỏ tư tưởng này. Nếu một số người trong các bạn không phải là Phật tử và cảm thấy rằng không thể giữ một thệ nguyện như vậy, thế thì hãy đơn giản nghĩ, Nguyện cho tất cả chúng sanh được hạnh phúc. Những ai trong quý vị nguyện ước tiếp nhận thệ nguyện này, xin hãy ngồi thẳng lên, hay quỳ gối bên phải lên,và chấp tay lại. Lập lại sau tôi, ba lần, những dòng tôi sẽ đọc bằng tiếng Tây Tạng. Đây là hai dòng đầu của kệ 23 và 24, đến trước bằng “Đạo sư, chư Phật, chư Bồ tát, hãy lắng nghe!”
Tôi đã quán tưởng Đức Phật ngay phía trước tôi, và các bạn nên xem tôi như một sứ giả hay một người trung gian. Hãy xem như rằng chúng ta được vây quanh bởi tất cả những chúng sanh trong vũ trụ và phát lòng từ bi cho họ. Hãy nghĩ về Đức Phật và cảm thấy thành tâm vô cùng đối với Ngài. Bây giờ, với lòng từ bi và thành tâm, “Nguyện cho tôi đạt đến Phật Quả!” và trì tụng:
Đạo sư, chư Phật, chư Bồ tát, hãy lắng nghe!
Giống như tất cả chư Phật trong quá khứ
Đã phát tâm bồ đề,
Giống như thế, vì lợi ích của chúng sanh
Con sẽ mang đến sự sanh ra tâm Giác Ngộ.
Khi trì tụng những dòng này đến lần thứ ba, như những chữ, “Con sẽ mang đến sự sinh ra tâm Giác Ngộ,” hãy nghĩ rằng bạn đã phát khởi tâm bồ đề này trong chiều sâu của tâm thức bạn, trong chính tuỷ của xương bạn, và rằng bạn sẽ không bao giờ đi ngược lại sự hứa nguyện này.
Một cách truyền thống, bây giờ chúng ta trì tụng chín kệ cuối cùng của chương này như một sự kết luận để tiếp nhận thệ nguyện.
Bây giờ chúng ta đã tiếp nhận thệ nguyện, thì chúng ta phải cố gắng để là những con người tốt lành trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Chúng ta không nên, thí dụ, giả vờ rất tử tế trong khi chúng ta trong căn lều này và bắt đầu đấu đá với nhau ngay khi chúng ta đi ra ngoài! Từ giờ trở đi chúng ta phải cố gắng để có một tâm thức tích cực và ân cần: chúng ta đang hạnh phúc trong đời sống. Tôi thật sự nghĩ rằng tương lai tùy thuộc vào phẩm chất của tâm thức mỗi người, trong một tâm tư tốt lành. Cho nên chúng ta phải cố gắng để là những người tốt lành và là những mẫu mực lương thiện cho những người chung quanh chúng ta. Năng lực hành động như thế này phải đến từ mỗi người chúng ta.
Cảm ơn tất cả đã lắng nghe một cách chăm chú. Chính tôi cố gắng để thực hành tâm bồ đề trong mọi tình huống, và tôi cố gắng tối đa như có thể để khuyến khích người khác cũng hành động như vậy. Tôi thấy rằng đó là một sự thực hành hoàn toàn không có gì nguy hiểm và mang đến lợi ích vô vàn.
Ẩn Tâm Lộ, 2023
Chương 5: Thận trọng
***
Tư tưởng của tâm bồ đề bây giờ đã được phát sinh trong tâm chúng ta. Tiếp theo chúng ta đi đến ba chương hy hiến để bảo vệ nó không suy thoái.
Tâm thức này của chúng ta có năng lực cho việc hoàn thành tất cả những phẩm chất của Phật Quả. Nhưng những phẩm chất này tạm thời bị che chướng bởi những niềm tin sai lầm của chúng ta trong sự tồn tại của một cái “tôi” và bởi sự vị kỷ và các cảm xúc tiêu cực. Đây là những kẻ thù đầy quyền lực của thái độ tích cực mà chúng ta đã phát sinh. Chúng sống trong tâm thức chúng ta; chúng không phải ở bên ngoài.
Chúng là có thật, những kẻ thù bên ngoài, chúng ta có thể, thậm chí nếu chúng được vũ trang với các hoả tiển, chúng ta có một tí thời gian để mà chạy khỏi chúng. Nhưng không có đường để mà chạy trốn và không có nơi nào để trốn tránh khỏi những kẻ thù bên trong này. Khi các tình huống sinh khởi, thì tất cả những loại cảm xúc tiêu cực, chẳng hạn như tham muốn hay sân hận, có thể đột nhiên bật khởi. Có vô số sự đối trị cho những thứ này. Điều quan trọng nhất, mặc dù, được áp dụng cẩn thận, ân cần, và chánh niệm. Chúng ta cần luôn luôn đề phòng, vì thế nếu một cảm xúc hay tư tưởng tiêu cực sinh khởi, hay nó sắp sinh khởi, thì chúng ta có thể sử dụng những phương thức này để dùng đối trị ngay lập tức, ngay thời khắc mà tâm thức bị quấy rầy. Khi chúng ta thực hành trong cách này, với sự thận trọng, thì các cảm xúc tiêu cực trở nên ngày càng kém mạnh mẽ hơn.
Thận trọng là chủ đề cho chương thứ tư này.
1.
Con cái của Đấng Chinh Phục vì vậy
Đã gắn bó chặc chẽ với tâm bồ đề này,
Không bao giờ lìa bỏ nó,
Cố gắng không bao giờ vi phạm những nguyên tắc của nó.
4.
Vì nếu chính tôi kết nối với các hứa nguyện
Nhưng không thực hiện lời nói của tôi trong hành động
Thế thì mọi chúng sanh sẽ bị phản bội.
Số phận nào dành cho tôi trong tương lai?
Tâm bồ đề này mà chúng ta phát khởi đã không thúc đẩy chúng ta – chúng ta đã tiếp nhận thệ nguyện tâm bồ đề một cách tự nguyện. Chúng ta đã tiếp nhận nó với tất cả chư Phật và chư Bồ tát như chứng minh và vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Cho nên một lần nữa thệ nguyện này cho thấy sự tôn trọng chư Phật và chư Bồ tát không nhiều lắm. Chúng ta đã lừa dối các ngài và cũng phản bội tất cả chúng sanh. Đây là một thất bại rất nghiêm trọng.
Do vậy, chúng ta phải dành mọi nỗ lực để không làm đổ nát tâm bồ đề của chúng ta. Chúng ta phải hy hiến tất cả mọi năng lượng của chúng ta cho mục tiêu này. Hơn thế nữa, không ai biết sự chết sẽ đến với chúng ta khi nào. Vào thời khắc ấy, chúng ta có thể rất khoẻ mạnh, nhưng sự sống có thể chấm dứt một cách đột nhiên. Chúng ta hãy sử dụng thật tốt những ngày tháng của chúng ta, hãy thận trọng trong mọi lúc. Thật là sai lầm lớn để thong thả hôm nay, nói rằng chúng ta sẽ nghiêm khắc hơn ngày mai. Chúng ta phải cố gắng để rèn luyện tâm tâm thức chúng ta một cách liên tục vì thế chúng ta có thể trở thành những con người tốt lành mà chúng ta hứa khi chúng ta thọ nhận thệ nguyện. Điều này liên hệ đến việc quán sát tâm thức một cách bền bĩ liên tục.
Tất cả chúng ta mong muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau – chúng ta không cần phải được nói cho nghe điều này. Nhưng về một mặt, chúng ta không biết những gì chúng ta nên làm và hay tránh để có những gì làm cho chúng ta hạnh phúc. Trái lại, do bởi những cảm xúc tiêu cực của chúng ta rất mạnh mẽ, cho nên chúng ta dấn thân trong những cảm xúc tiêu cực mặc dù chúng ta có thể thấy điều gì sai với chúng. Đó là các cảm xúc những kẻ thù thật sự với mỗi chúng ta là một con người tốt.
28.
Sân hận, tham muốn, những kẻ thù này của tôi,
Không có tay chân và không có khả năng.
Chúng không có lòng can đảm, không có sự lanh lợi;
Làm thế nào chúng biến tôi thành nô lệ như vậy?
29.
Chúng ở trong tâm thức tôi
Và theo niềm vui của chúng làm tổn thương tôi.
Tất cả điều này tôi chịu đựng một cách ngoan ngoãn, không phật ý
Vì vậy, sự kiên nhẫn khốn khổ của tôi, tất cả đã bị thay thế!
32.
Ôi kẻ thù của tôi, niềm đam mê tai hoạ,
Đồng hành không bao giờ dứt và không có bắt đầu!
Thực tế không kẻ thù nào khác
Có thể tồn tại kéo dài như vậy!
Những kẻ thông thường mà chúng ta xem là kẻ thù chỉ có thể sống một đời mà thôi, là tối đa. Nhưng những cảm xúc tiêu cực đã làm tổn hại chúng ta từ thời vô thỉ, không có bắt đầu. Chúng thật sự là những kẻ thù tệ hại nhất.
33.
Tất cả những kẻ thù khác mà tôi nhân nhượng và chờ đợi
Sẽ cho tôi thấy những sự thiện ý, cho tôi mọi thứ giúp đở,
Nhưng nếu tôi phục vụ các cảm xúc ô nhiễm đen tối,
Thì chúng sẽ chỉ tổn hại tôi, lôi tôi xuống buồn đau.
Luôn luôn có những cung cách mà trong đó người ta kết bạn dần dần với kẻ thù. Nhưng nếu chúng ta càng cố để làm bạn với những cảm xúc tiêu cực thì chúng càng có thể làm tổn hại chúng ta. Nếu chúng ta nghĩ về nó, thì khi mà chúng vẫn còn ở trong tâm thức chúng ta, ở với chúng ta như những người thân cận, thì chúng ta sẽ không bao giờ hạnh phúc. Khi mà lòng sân hận, kiêu ngạo, và ganh tỵ vẫn ở trong tâm thức chúng ta, thì chúng ta sẽ luôn luôn có những kẻ thù ở bên ngoài. Nếu chúng ta loại trừ một kẻ thù hôm nay, ngày mai một kẻ thù khác sẽ xuất hiện. Không bao giờ chấm dứt. Trong khi chúng ta có thể tạm thời tự mình thoát khỏi các kẻ thù, thì với những cảm xúc tiêu cực bám chặc trong tâm thức chúng ta, thì chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy hạnh phúc bền lâu.
43.
Điều này sẽ là niềm đam mê tiêu tốn của tôi tất cả.
Với đầy thù hận tôi sẽ tiến hành cuộc chiến của mình!
Nhiễm ô loại này sẽ làm dừng lại nhiễm ô
Và vì lý do này nó sẽ bị vứt bỏ.
Bất cứ ai thực hành giáo pháp có một bổn phận để lâm trận với kẻ thù – các cảm xúc tiêu cực. Nếu chúng ta mong ước đạt được hạnh phúc rốt ráo, thì chúng ta phải sử dụng sự đối trị để chống lại kẻ thù này. Để làm như vậy, thì chúng ta có thể phải luôn chạm trán với các khó khăn. Nhưng trong một cuộc chiến thông thường, thì những thử thách và khó khăn mà người ta trải qua được chấp nhận và thậm chí khuyến khích họ chiến đấu can trường hơn để chống lại kẻ thù. Hơn thế nữa, trong một thế giới thông thường, những vết thương của một chiến sĩ được xem những dấu hiệu của lòng dũng cảm, như những huy chương. Cho nên như những hành giả Phật tử chiến đấu với kẻ thù thật sự này, những thứ bản chất là tổn hại, thì chúng ta phải tiên liệu những khó khăn, và đối xử với chúng như những dấu hiệu của chiến thắng.
Một kẻ thù thông thường có thể trốn thoát đến một nơi an toàn chỉ khi tái trật tự hàng ngũ của kẻ ấy lại và tấn công chúng ta một lần nữa. Nhưng một khi chúng ta đã trục xuất những cảm xúc tiêu cực khỏi tâm thức chúng ta bằng việc sử dụng sự đối trị chính xác, thì chúng không có nơi nào để trốn tránh và không thể trở lại để gây hại cho chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta không cần bất cứ điều gì đầy năng lực vũ khí nguyên tử mà người ta có thể sử dụng để tiêu diệt một kẻ thù thông thường. Đối với những cảm xúc tiêu cực là thật sự bất lực, căn cứ trên sự si mê, vốn tự nó không có sức mạnh. Kẻ thù nội tại này bị đánh bại một cách dễ dàng với vũ khí của tuệ trí phân biệt, vốn được biết là bản chất chân thật của các cảm xúc.
47.
Các nhiễm ô không ở trong đối tượng,
Cũng không trong các căn, cũng không nơi nào đó ở giữa.
Và nếu không ở nơi nào khác, thì chúng ở chốn nào,
Từ đâu chúng gây ra sự tàn phá trên thế gian?
Chúng đơn giản chỉ là ảo ảnh, và nên tâm niệm điều này!
Hãy xua đuổi tất cả những sự sợ hãi và cố gắng để biết bản chất của chúng.
Tại sao đau khổ như địa ngục một cách không cần thiết?
Khi thẩm tra một cách cẩn thận, thì chúng ta không thể tìm thấy điều gì, một kẻ thù đầy năng lực nào đó, gọi là cảm xúc tiêu cực. Trong thực tế, không có gì ở đấy. Thí dụ, khi chúng trải nghiệm sự oán ghét hay dính mắc, những cảm xúc này không ở trong đối tượng xấu xí hay xinh đẹp làm nên chúng, cũng không ở trong chính tâm thức chúng ta, chúng không thể được tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác. Khi chúng ta nhìn chúng một cách gần gũi, thì chúng ta nhận ra nó thông qua sự kết hợp của các nguyên nhân và điều kiện với nhau mà những cảm xúc này có một sức mạnh như vậy – chúng không có bất cứ một năng lực nào của chính chúng. Chúng đơn giản là một mối quan hệ của các nhân tố mà chúng ta xác định và đặt tên. Trong thực tế, các cảm xúc tiêu cực hoàn toàn tuỳ thuộc vào những thứ khác. Tổn hại mà chúng gây ra cho chúng ta là qua sự vọng tưởng. Nếu chúng ta thật sự thông hiểu điều này, thì những cảm xúc tiêu cực không thể làm tổn hại chúng ta.
Những gì chúng ta trải nghiệm bên trong là qua những điều kiện bên ngoài đến với nhau. Nếu chúng ta thông hiểu tất cả những hiện tượng này, bên trong và bên ngoài, giống như một giấc mơ hay ảo ảnh, thế thì chúng ta sẽ phơi bày điểm yếu của các cảm xúc tiêu cực. Cho nên để chinh phục chúng, chúng ta không cần cả một kho phương pháp. Chúng ta chỉ cần nhận diện bản chất của chúng và nhận ra rằng chúng không có bản chất thật sự.
Ẩn Tâm Lộ, 2023
Chương 6: Thái Độ Ân Cần
***
1.
Những ai mong ước giữ gìn sự tu tập
Phải với sự tự chủ hoàn hảo bảo vệ tâm thức của họ
Không có sự bảo vệ này trên tâm,
Những sự rèn luyện không thể bảo tồn.
Đã tiếp nhận thệ nguyện tâm bồ đề, thì chúng ta phải biết những giới điều gì cần tuân theo – những gì chúng ta phải làm và những gì chúng ta phải tránh làm. Chúng ta cần luôn luôn cẩn thận trong các tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta. Chính là ở đây mà sự lưu tâm, hay sự xem xét tinh thần kỹ lưỡng, giữ gìn chúng ta trong sự bảo vệ của chúng ta, vì thế khi chúng ta ở trên đỉnh điểm của việc liên luỵ đến một hành vi tiêu cực, thì chúng ta tỉnh thức rằng chúng ta đang ở trong hiểm hoạ của việc làm như thế và do thế có thể áp dụng một sự đối trị thích ứng. Sự lưu tâm vì thế là một sự cảnh giới, một con chó giữ nhà, ngăn ngừa chúng ta khỏi việc làm bất cứ điều gì tiêu cực. Cùng lúc, nó giữ gìn tâm chúng ta chánh niệm về những hành vi tích cực, vì thế những hành vi Bồ tát của chúng ta gia tăng và chúng ta có thể phát triển tâm bồ đề trong mọi hoàn cảnh.
Việc rèn luyện tâm linh theo những quy giới tu sĩ và cư sĩ của Luật tạng chủ yếu bao hàm việc rèn luyện những hành vi thân thể và lời nói, mặc dù tâm là quan trọng đối với phạm vi mà nó chi phối cả hai thứ này. Trong Bồ tát thừa và Mật thừa, về một mặt, chính là tâm vốn có tầm quan trọng tột bậc. Gốc rễ của những nguyên tắc Bồ tát là tránh bất cứ thái độ vị kỷ nào. Chúng ta không bao giờ theo đuổi những quan tâm của chính mình trong khi quên lãng những người khác hay làm như vậy trong sự tiêu hao của người khác. Dĩ nhiên, thân thể và lời nói của chúng ta là liên hệ với nhau, nhưng chúng ta quan tâm ở đây chủ yếu đến tâm thức. Chính là trong phạm vi này mà một vị Bồ tát, mà tâm thức của họ là trong sáng, ổn định, và hoàn toàn dưới sự kiểm soát, có thể hành động vì lợi ích của người khác trong những cung cách mà khác đi có thể sinh ra tổn hại. Do thế, nguyên tắc chính yếu quan tâm đến những việc làm sai trái của tâm.
6.
Vì tất cả những lo lắng và sợ hãi,
Và đau đớn trong hạn lượng vô biên,
Cội rễ và suối nguồn là chính tự tâm thức
Bậc Đạo Sư đã nói thì sự thật được tuyên bố.
Tất cả những khổ đau trong kiếp sống này và những kiếp khác được tạo nên bởi những tâm thức không được chinh phục. Tương tự thế, căn bản của tất cả những thực hành trong sáu ba la mật, chẳng hạn như bố thí, trì giới, và v.v..., là tâm.
18.
Do vậy tôi sẽ nắm trong tay
Và bảo vệ tốt đẹp tâm thức này của tôi.
Nhiều môn tu tập thì có lợi gì với tôi,
Nếu tôi không bảo vệ và rèn luyện tâm thức tôi?
Không có gì quan trọng hơn việc bảo vệ tâm. Chúng ta hãy liên tục giữ gìn việc xem xét con voi hoang trong tâm, kiềm chế nó với sự chánh niệm và cảnh giác. Đó là vấn đề tránh bị ảnh hưởng bởi những điều kiện khác bên ngoài như thế nào. Nhưng ngay cả ẩn tu trong một nơi rất hẻo lánh, nếu tâm không được giữ gìn dưới sự kiểm soát, thì nó sẽ lang thang khắp mọi nơi. Thậm chí hoàn toàn đơn độc, thì chúng ta có thể có vô số cảm xúc tiêu cực.
Chúng ta canh giữ tâm chúng ta như thế nào? Chúng ta nên sử dụng sự lưu tâm để xem các tư tưởng của chúng ta và sử dụng sự chánh niệm để phán xét chúng ta có đang hành động một cách đúng đắn. Với hai thứ này, chúng ta có phương tiện để xua tan những điều kiện bất lợi. Nhưng không có chúng, thì chúng ta sẽ không thấy các tư tưởng của chúng ta là tích cực hay tiêu cực hay chúng ta đang làm đúng hay làm sai, rồi thì chúng ta cũng sẽ không thể sử dụng những sự đối trị khi cần thiết.
23.
Tất cả các bạn, những người bảo vệ tâm của các bạn,
Hãy duy trì sự chánh niệm và nội quán của các bạn;
Canh giữ cả hai thứ, bằng cái giá của sự sống và tay chân,
Tôi chấp hai tay, khẩn cầu các bạn.
29.
Do vậy, từ cổng vào của tâm tôi
Sự chánh niệm của tôi sẽ không rời để thành tản mạn
Và nếu nó lang thang, nó sẽ được nhắc nhở
Bằng những tư tưởng thống khổ của các cõi thấp hơn.
Liên tục nghĩ về những khổ đau của những cảnh giới thấp và những hệ quả của các cảm xúc tiêu cực sẽ giúp chúng ta phát triển sự lưu tâm, chánh niệm, và nguyên tắc mạnh mẽ hơn. Xa hơn nữa, Tịch Thiên đã giải thích:
30.
Qua sợ hãi, và bằng những lời chỉ bảo của những vị chủ trì,
Và an trú mãi mãi trong sự đồng hành với Thầy của họ -
Trong những ai được ban cho may mắn và thành tâm
Chánh niệm được trau dồi một cách dễ dàng.
31.
“Cả chư Phật và chư Bồ tát
Sở hữu quan kiến rực sáng, thấy mọi thứ:
Tất cả nằm trong cái nhìn chăm chú của các ngài,
Và giống như thế tôi luôn luôn ở trong sự hiện diện của các ngài.”
32.
Người nào có tư tưởng như thế này
Sẽ đạt được sự thành tâm và một cảm giác của sợ hãi và hổ thẹn.
Đối với một người như vậy, lòng nhớ tưởng về Đức Phật
Phát khởi thường xuyên trước tâm họ.
Khi chúng ta phát triển chánh niệm, không bao giờ quên lãng những gì nên làm và những gì nên tránh, sự lưu tâm dần dần trở thành một bộ phận của chúng ta.
33.
Khi chánh niệm được an trí như một lính canh,
Một sự đề phòng trên ngưỡng cửa của tâm
Sự nội quán sẽ giống như thế ở đấy,
Trở lại khi bị lãng quên và phân tán.
Trong tất cả mọi hoàn cảnh cần thiết để định lượng nhu cầu cho một hành vi đặc thù trong mối quan hệ đến những giới điều. Tuỳ thời gian và hoàn cảnh, nhu cầu cho một hành động có thể có giá trị hơn sự thật mà nó bị cấm đoán bởi những giới điều, trong những trường hợp như vậy chúng ta không chỉ được phép vi phạm một thệ nguyện, mà đó là bổn phận của chúng ta.[23] Trong thực tế, có những giới điều vốn ở trong Luật tạng mà sau này phải được thay đổi cho phù hợp những trường hợp thực tế.
Sự lưu tâm phải được áp dụng đối với mọi việc chúng ta làm, và trong mọi lúc chúng ta phải tỉnh giác đối với thái độ thân thể của chúng ta, liên tục kiểm soát xem chúng ta có thành công trong hành động không đối với những gì thích đáng và những gì nên tránh. Trong cách này, tâm thức, giống như một con voi say, điên cuồng trong ba thứ độc, sẽ được xiềng vào cột trụ của những hành vi tích cực với những sợi dây của chánh niệm và được thuần hoá trong móc sắt của sự lưu tâm.[24] Nếu chúng ta không thể giữ tâm thức hòa hợp với đạo đức trong mọi lúc thì chúng ta có thể để nó nghĩ ngơi trong một trạng thái trung tính, không phải tích cực hay tiêu cực. Nhưng bằng mọi giá, chúng ta phải tránh những tư tưởng tiêu cực. Trong việc hành thiền của chúng ta, khi chúng ta đang tập trung vào những đối tượng đặc thù nào đó, thì chúng ta cần lưu tâm hơn thế nữa, cho một sự tập trung định niệm như vậy thì chúng ta không nên bị xao lãng ngay cả đối với những tư tưởng tích cực, không cần phải nói đến những thứ trung tính và tiêu cực.
Mặc dù các vị Bồ tát có thể tập trung vào một sự thực hành đặc thù nào đó, nhưng các ngài phải có thể tạm thời đặt nó qua một bên nhằm hổ trợ những hoàn cảnh như vậy khi tham gia trong những nghi lễ làm lợi ích cho kẻ khác, tiến hành những hành động của bố thí, bảo vệ chính họ nếu sự sống của họ trong hiểm hoạ, ban bố giáo lý, hay tích luỹ công đức và giúp người khác làm như thế. Thí dụ, nếu một người thợ săn đang theo đuổi một con nai và hỏi chúng ta có thấy con mồi đâu không, thì hoàn toàn có thể chấp nhận, nhằm để bảo vệ mạng sống của con nai, để nói với người thợ săn một cách không đúng đắn rằng chúng ta không nó đâu. Ở đây chúng ta có thể cho sự ưu tiên với việc bố thí của việc bảo vệ khỏi nguy hiểm đối với nguyên tắc không nói dối. Chúng ta phải đánh giá những hoàn cảnh như vậy một cách cẩn thận, và chúng ta phải luôn luôn cảnh giác để ngăn ngừa các cảm xúc tiêu cực khỏi thâm nhập vào những tư tưởng của chúng ta và quyết định lời lẽ cùng hành động của chúng ta.
Thật quan trọng để chắc chắn sự thực hành của chúng ta, xua tan tất cả mọi nghi ngờ, và chắc chắn rằng chúng ta đã thông hiểu mọi thứ một cách đúng đắn. Sự vững vàng này trong thực hành phải được căn cứ trên một lý trí và đức tin trong sáng, quyết đoán và ổn định, và tôn trọng cho sự thực hành chúng ta đang làm. Các hành động của chúng ta phải được hướng dẫn bởi chính lương tri của chúng ta, bằng việc quan tâm cho những gì người khác có thể nghĩ, và bởi sự đe doạ của những hậu quả của những hành vi tiêu cực. Giữ gìn các cảm giác của chúng ta dưới sự kiểm soát, chúng ta hãy an định và cố gắng để làm cho những người khác hạnh phúc.
56.
Đừng để chúng ta chán nản bởi xung khắc ham muốn
Của những kẻ cải vả như con nít
Tư tưởng của họ được sanh ra từ xung đột và cảm xúc.
Chúng ta hãy thấu hiểu và đối xử họ một cách yêu thương.
57.
Khi hành động không chê trách vào đâu được,
Vì lợi ích của chúng ta và lợi ích của người khác,
Chúng ta hãy giữ trong tâm tư tưởng
Rằng chúng ta vô ngã, như một sự hiện ra.
Người trẻ con (childish person) ở đây liên hệ đến những người thông minh chưa trưởng thành, đó là, những người bình thường không có thực chứng. Nếu chúng ta lẫn lộn với những người trẻ con như vậy, thì chúng ta có hiểm hoạ đánh mất phương hướng của chúng ta và sẽ không thể giúp đở người khác. Cho nên trong khi chúng ta nên tránh ảnh hưởng bởi họ, thì chúng ta cũng đừng chán nản và khó chịu. Đúng hơn, chúng ta phải cảm thấy từ bi, khi họ đang ở trong sự nắm chặc bởi các cảm xúc tiêu cực của họ.
Chúng ta hãy cố gắng tránh tất cả các cảm xúc tiêu cực, cả những thứ vốn là bản chất tiêu cực và những thứ bị Đức Phật bài trừ trong mối liên hệ với bất cứ thệ nguyện nào chúng ta đã tiếp thọ. Cùng lúc, chúng ta phải giữ ưu ái trước nhất trong tâm thức chúng ta mục tiêu làm lợi ích cho người khác. Thí dụ, Nếu cho phép ai đó không bị mất mặt sẽ là điều tốt nhất cho họ, thì chúng ta phải hành động một cách tuyệt với nhất phù hợp. Và luôn luôn trong mọi lúc chúng ta nên hiểu rằng tự chính chúng ta, các hành vi của chúng ta, và tất cả những ai chịu ảnh hưởng bởi các hành động của chúng ta tất cả giống như ảo tưởng, hoàn toàn không có thực tế.
Sự sống của con người là đặc biệt và là cơ hội thuận lợi và không dễ có được. Nếu chúng ta không sử dụng nó để làm lợi ích cho người khác, thì bao giờ chúng ta có được một cơ hội khác? Chúng ta hãy đánh giá cơ hội này, và trau dồi niềm vui trong sự quý trọng người khác hơn là chính mình. Sự quyết tâm của chúng ta trong điều này phải vững vàng như một ngọn núi.
Tịch Thiên thảo luận tiếp theo hiểm hoạ của việc dính mắc quá đáng vào thân thể của chúng ta, mà nó vốn có thể ngăn cản việc làm những hành động tích cực của chúng ta.
61.
Tại sao, Ô tâm thức ngu ngơ,
Bạn có chiếm đoạt một hình dáng khéo léo được chạm trong gỗ không?
Nó được canh gác thích hợp như thế nào
Một máy móc bất tịnh cho việc làm không tinh khiết?
62.
Đầu tiên, với sự tưởng tượng của tâm,
Hãy lột làn da bao phủ,
Và với thanh kiếm của tuệ trí, tước đi
Lớp thịt khỏi khung của bộ xương.
63.
Và khi bạn phân chia tất cả những đốt xương,
Và tìm kiếm ngay bên dưới của chính tuỷ xương,
Tự bạn phải hỏi:
Đâu là cốt lõi chính yếu?
64.
Nếu, bền bĩ trong tìm kiếm,
Bạn không thấy điều gì chính yếu,
Tại sao bạn bảo vệ với một sự tham muốn như vậy
Thân thể mà bạn đang sở hữu bây giờ?
Đôi khi chúng ta dành tất cả thời gian của mình để chăm sóc thân thể của chúng ta, đến mức độ mà chúng ta gần như là nô lệ của chúng. Chúng ta bắt đầu một ngày bằng việc tắm rữa thân thể chúng ta, sau đó chúng ta nuôi dưỡng nó, và chúng ta tiếp tục phục vụ những nhu cầu của chúng suốt cả ngày. Thân thể thay vì được sử dụng như một cổ xe cho sự thông minh biểu thị đặc điểm của con người tồn tại vì thế chúng ta có thể phát triển tâm linh. Trong những thuật ngữ thông thường, nô lệ hay phục dịch là những kẻ không làm những gì mà người ấy được yêu cầu không bao giờ được trả. Những công nhân nhà máy mất việc làm nếu họ không làm những gì họ được trả. Tương tự thế, nếu thân thể chúng ta, vốn được chúng ta nuôi dưỡng và mặc áo quần cho đến bây giờ, không nghe lời chúng ta, điều này hoàn toàn sai. Chính lý do chúng ta chăm sóc thân thể chúng ta phải là có thể để chúng ta phát triển một tâm thức tích cực.
70.
Hãy xem thân thể bạn như một chiếc thuyền,
Một chiếc thuyền đơn giản để đi dây và đi đó.
Hãy làm cho nó thành một thứ trả lời mọi mong ước
Để mang đến lợi ích cho người khác.
Chúng ta nên sử dụng thân thể, vốn được cấu tạo bằng những thành phần bất tịnh, để hổ trợ mục tiêu của chúng ta để giúp đở người khác. Nếu chúng ta sử dụng nó một cách đúng đắn cho sự lớn mạnh tâm linh của chúng ta, phối hợp với tuệ trí và phương tiện, thì chúng ta có thể phát triển một sự thực chứng mới và đạt được sắc thân vô tận của Như Lai (Tathagatas), là một thứ giống như viên ngọc ước như ý.[25]
71.
Hãy là vị thầy của chính bạn
Và có sắc mặt mỉm cười mãi mãi.
Tự từ bỏ vẻ mặt cau có, dữ tợn,
Và là người bạn chân thành và ân cần với tất cả.
Những hành giả chân chính thì không bị tác động bởi những áp lực bên ngoài và những cảm xúc của chính họ, và họ tự do để bảo đảm những lợi ích tạm thời và tối hậu của cả chính họ và người khác. Họ duy trì sự độc lập, không sợ hãi điều gì, và không bao giờ kỳ quặc với chính họ. Luôn luôn an bình, họ thân hữu với tất cả, và mọi thứ họ nói là hữu ích. Bất cứ nơi nào chúng ta đến, hãy khiêm tốn và tránh ồn ào cùng hách dịch. Chúng ta đừng làm tổn thương người khác hay làm cho họ hành động một cách tiêu cực. Tốt hơn, chúng ta hãy thân thiện và hãy nghĩ tốt về người khác, động viên họ tích luỹ những hành vi tích cực.
Nếu những người khác cho ta những lời khuyên bảo, thay vì nghĩ, Người ấy có trách nhiệm gì mà đưa ra những lời đề nghị như vậy? hãy tôn trọng những gì người ta nói và tự nghĩ mình như người học trò của tất cả chúng sanh. Nếu lời góp ý của người khác hợp lý, hãy làm như vậy thay vì kiêu kỳ phủ nhận nó. Hãy cho thấy sự ủng hộ cho bất cứ việc tích cực nào người khác nói, và tuỳ hỉ khi thấy người khác làm điều gì đó tốt lành, khuyến khích họ với lời ca ngợi. Tuy nhiên, nếu một lời khen ngợi như vậy xem ra giống như một lời tâng bốc hay làm họ kiêu hảnh, thì hãy ca ngợi họ trong riêng tư. Và nếu chính bạn là người xứng đáng được ca ngợi, thì đừng tự cho phép mình trở thành kiêu hảnh và tự quan trọng. Hãy đơn giản nhận ra phẩm chất của người khác có để đánh giá cao lòng tốt.
Niềm vui chúng ta có từ việc đánh giá những hành vi tích cực của người khác là vô giá. Chúng ta không mất mát gì từ việc ấy trong kiếp sống này, và đó là nguyên nhân của hạnh phúc lớn trong những kiếp tương lai. Nếu, về mặt khác, nếu chúng ta phản ứng một cách tiêu cực khi người khác muốn sửa sai chúng ta, một cách ganh tỵ khi người khác được khen ngợi, nó sẽ làm cho người ta mất vui, và chúng ta trở thành cô đơn và mất bạn. Và trong những kiếp sống tương lai chúng ta sẽ phải trải nghiệm khổ đau vô cùng.
Bất cứ điều gì chúng ta nói, chúng ta hãy nói một cách rõ ràng và thẳng thắn, trong một giọng điệu điềm tĩnh và vui vẻ, không bị tác động bởi dính mắc hay thù oán. Hãy nhìn người khác một cách ân cần tử tế, hãy nghĩ, để cảm ơn họ mà tôi phải thành tựu Phật Quả.
Những phương cách để tích luỹ các hành vi tích cực là gì? Trên tất cả, chúng ta cần một tâm thức tích cực vốn mạnh mẽ và liên tục. Điều này tự nó sẽ đem lại những hành vi tích cực. Rồi thì chúng ta phải áp dụng một cách phù hợp các phương pháp đối trị với tham muốn, thù oán, và si mê. Hơn thế nữa, những hành vi lợi lạc chúng ta thực hiện cho những người có học và thành tựu; cho cha mẹ chúng ta, và đến những người chúng ta mang ơn rất nhiều; cho những người bệnh, già, và yếu đuối; cho những người đang cực kỳ đau khổ. Trong tất cả những thứ này, chúng ta không nên đơn giản tiến hành với người khác một cách thụ động mà phải hành động với một nổ lực độc lập để khai tâm những hành vi tích cực cho chính mình.
Sự phát triển tâm linh của chúng ta phải đi theo những giai tầng của sáu ba la mật, lần lượt hoàn thiện mỗi thứ. Nhưng chúng ta phải không nên hy sinh một nguyên nhân lớn của công đức cho thứ một bé nhỏ. Điều quan trọng nhất là giữ trong tâm lợi ích của người khác.
84.
Do vậy thông hiểu điều này rõ ràng,
Và luôn luôn hành động vì lợi ích của chúng sanh.
Bậc Từ Bi nhìn xa trông rộng cho phép,
Vì mục đích này, [hành động] ngay cả những gì bị cấm.
Thi kệ này có thể được diễn dịch cả trong hai cách. Một nghĩa là Đức Phật từ bi, người thấy không chỉ tương lai tức thời mà cả trong tương lai lâu xa, đã thấy rằng điều gì không cho phép những chúng sanh nào đó lại có thể cho phép những người khác. Hiểu một cách khác, điều này là, những gì không cho phép người khác thì có thể cho phép những Bậc Từ Bi, có nghĩa là những vị Bồ tát, những người được phú cho tuệ trí và lòng từ bi.
85.
Hãy ăn những gì cần thiết;
Hãy chia sẻ với những ai chấp nhận nguyên tắc,
Với những ai bất lực hay đã rơi vào tình trạng xấu ác
Hãy ban cho mọi thứ ngoại trừ ba y.
Dòng cuối cùng của thi kệ này quan tâm đến những người đã thọ giới xuất gia. Ngoài ba y, là những thứ họ phải giữ gìn, thì họ nên ban cho những người cần đến.
Bây giờ là chúng ta đã hồi hướng thân, khẩu, ý của chúng ta để hoàn thành thánh Pháp, chúng ta không nên tổn hại thân thể chúng ta một cách không cần thiết. Vì thân thể chúng ta là cổ xe cho sự thực hành, và nếu chúng ta chăm sóc chúng, thì chúng ta sẽ nhanh chóng có thể hoàn thành mọi mong ước của tất cả chúng sanh.
87.
Họ không nên từ bỏ thân thể của họ
Những người mà tư tưởng từ bi chưa thanh tịnh.
Nhưng hãy để chúng bị từ bỏ, cả bây giờ và trong những kiếp sống tương lai,
Nhờ đó lợi lạc lớn lao đạt được.
Trong Bồ Tát Hạnh Luận (Compendium Of All Pracitces) Tịch Thiên đã giải thích rằng cho đến khi mà lòng từ bi của chúng ta chưa hoàn toàn thanh tịnh và sự thực chứng về tánh không của chúng ta chưa hoàn thiện, thì cho đi thân thể và toàn bộ tài sản và công đức của chúng ta là không thích đáng. Chúng ta cần bảo vệ thân thể của chúng ta, trong khi chúng ta tịnh hoá bất cứ động cơ vị kỷ nào chúng ta có thể có và gia tăng thái độ vị tha của chúng ta. Nếu chúng ta làm điều này, chúng ta có thể hoàn thành nguyện ước của tất cả chúng sanh. Trong khi đó, chúng ta không hiến dâng sự sống của chúng ta một cách vội vàng. Thay vì thế, chúng ta nên trau dồi lòng ngưỡng mộ để có thể hy sinh chính mình, cho đến thời điểm mà làm như thế thì lợi lạc thật sự.
Nhập Bồ Tát Hạnh tiếp tục với lời khuyên quan tâm đến thái độ hàng ngày của chúng ta, đến vấn đề chúng ta ngủ như thế nào. Chúng ta nên nằm nghiêng về bên phải với đầu hướng về phía bắc, như Đức Phật đã làm khi Ngài nhập niết bàn, và sẳn sàng thức dậy đúng giờ vào buổi sáng.
Tóm lại, với tất cả những hành vi rộng rãi của các vị Bồ tát thì điều quan trọng nhất là rèn luyện tâm thức, mà chúng ta nên thực hiện ngay từ lúc bắt đầu.
97.
Những hành vi của Bồ tát
Là không bị giới hạn, Giáo Huấn nói như vậy.
Trong tất cả những điều này, cho đến khi đạt được mục tiêu,
Hãy nắm lấy những sự thực tập tịnh hoá tâm thức bạn.
Nếu trong ngày chúng ta có vi phạm lỗi lầm nào, chúng ta nên nhận biết nó.
98.
Trì tụng ba lần ban ngày, và ba lần ban đêm,
Kinh Ba Phần[26] : lễ Phật, sám hối và hồi hướng
Nương tựa vào chư Phật và chư Bồ tát,
Tịnh hoá tất cả những vi phạm còn lại của bạn.
Để có thể giúp đở chúng sanh, những người mà nhu cầu và tính khí rất đa dạng, thì cần sử dụng đến vô số phương pháp đa dạng. Những người trội hơn người khác trong phương tiện thiện xảo thì tích luỹ vô lượng công đức. Như Tịch Thiên nói:
100.
Quả thật không lãnh vực tri thức nào
Mà con cháu của chư Phật không phải học.
Đối với những người đã thành thạo trong tất cả những cung cách này,
Thì không có hành vi nào mà không có công đức.
101.
Rồi thì, một cách trực tiếp hay gián tiếp,
Không làm việc gì mà không vì lợi ích của người khác.
Và chỉ vì sự dâng hiến hạnh phúc của họ.
Mỗi hành động của bạn để thành tựu Giác Ngộ.
Để thiết lập tiến trình trong sự thực tập của chúng ta, thì chúng ta phải nương tựa vào những vị thầy phẩm hạnh, học hỏi trong những khía cạnh thậm thâm và rộng lớn của giáo huấn chứa đựng trong những kinh luận Đại thừa. Mặc dù vậy, chỉ học hỏi thôi thì không đủ, những vị thầy như vậy phải thực hành những gì họ đã học, trong việc phối hợp nó trong đời sống hàng ngày và kết hợp tri thức với sự thực chứng tâm linh thật sự. Chúng ta không nên bao giờ từ bỏ chúng, ngay cả bằng cái giá của mạng sống chúng ta, và chúng ta phải học vấn đề tuân theo chúng một cách thích đáng như thế nào.
Để làm sâu xa hơn sự thông hiểu của chúng ta, Tịch Thiên đề nghị rằng chúng ta học hỏi những kinh luận khác, chẳng hạn như Bồ tát Hạnh Luận của chính ngài, vốn là tác phẩm ngài viết trước luận Nhập Bồ tát Hạnh (Bodhicharyavatara). Trường phái Kadam thường giảng dạy sáu luận điển chính yếu, hai bộ một lần: Bồ tát Địa và Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận, Nhập Bồ Tát Hạnh và Bồ Tát Hạnh Luận, Những Câu Chuyện Về Tiền Thân Của Đức Phật và Biệt Khuyến Luận. Do thế, thật tốt để học Nhập Bồ Tát Hạnh và Bồ Tát Hạnh Luận chung với nhau, khi có những điểm được đề cập một cách súc tích trong tác phẩm này thì được giải thích giải thích chi tiết trong tác phẩm kia và ngược lại. Nếu chúng ta không có thời gian để đọc Bồ Tát Hạnh Luận, chính Tịch Thiên đã khuyến khích chúng ta đọc Kinh Điển Tập Luận. Tuy nhiên, Tạng ngữ bản sau đã không còn tồn tại, cho nên chúng ta có thể liên hệ thay thế bằng bản của Long Thọ cũng cùng tên. Những luận điển này phải được đưa vào thực tập hoàn toàn vì thế chúng ta có thể làm lợi ích cho người khác.
108.
Thẩm tra một lần nữa và lại một lần nữa
Tình trạng và những hành động của thân thể và tâm thức chúng ta-
Chỉ điều này xác định rõ một cách tóm tắt
Việc duy trì nội quán thận trọng.
109.
Nhưng tất cả điều này phải được thể hiện trong sự thành thật,
Vì bằng lời lẽ của miệng thì có được gì?.
Những gì không giá trị có bao giờ giúp được gì
Bằng việc chỉ đọc trong những luận án của bác sĩ?
Ẩn Tâm Lộ, 2023
Chương 7: Nhẫn nhục
***
Chương này đối diện với sự nhẫn nhục, cùng với thiền định, chủ đề của chương tám, cấu thành những khía cạnh then chốt của việc rèn luyện trong tâm bồ đề.
Những hướng dẫn chứa đựng trong hai chương này là những hổ trợ rất mạnh mẽ cho sự thực hành.
1.
Tất cả những việc làm được thu hoạch trong một nghìn kiếp
Chẳng hạn như những hành vi bố thí,
Và những cúng dường đến những Đức Phật-
Một thoáng đơn thuần của sân hận làm tiêu tan chúng.
2
Không có sự xấu ác nào ở đó tương tự như sân hận,
Không có sự khổ hạnh nào so sánh với nhẫn nhục.
Do thế hãy ngâm mình trong nhẫn nhục,
Trong những cách đa dạng, khăng khăng như thế.
Như một năng lực tàn phá không có gì mạnh mẽ như sân hận. Một thoáng của sân hận có thể phá huỷ tất cả những hành vi tích cực được tích luỹ hàng trăm nghìn kiếp qua sự thực hành bố thí, cúng dường đến chư Phật, trì giới, và v.v... Thực tế, không có lỗi lầm nào nghiêm trọng như sân hận.
Trái lại, nhẫn nhục như một nguyên tắc vô hiệu hoá và ngăn ngừa chúng ta khỏi thất bại với sân hận, là vô địch. Qua nó, thì khổ đau mà chúng ta phải chịu đựng từ sức nóng của các cảm xúc tiêu cực được giảm bớt. Do thế, điều quan trọng nhất là chúng ta quyết chí thực hành nhẫn nhục, đạt được qua việc quán chiếu về những thuận lợi của nó và trên những ảnh hưởng kinh khiếp của sân hận.
Ở đây, thuật ngữ những hành vi tích cực liên hệ đến bố thí, cúng dường chư Phật và chư Bồ tát, và trì giới, như được giải thích trong Nhập Trung Luận. Nó không liên hệ đến công đức đạt được qua thực chứng tánh không. Sân hận không thể bị phá huỷ bởi loại công đức này. Sân hận của một trạng thái tâm thức thấp cũng không thể tàn phá những hành vi tích cực được tích luỹ với một trạng thái thượng thừa của tâm thức.[27] Tóm lại, có hai loại công đức mà sân hận không thể hủy hoại: công đức của việc thực chứng tánh không và công đức của những phẩm chất tâmlinh có từ việc hành thiền. Ngoài những điều này, những ảnh hưởng tốt đẹp của tất cả các hành vi tích cực thông thường có thể bị tàn phá bởi sân hận. Tuy nhiên, việc này tùy thuộc vào cường độ của sân hận, trên tầm sâu rộng của những hành vi tích cực, và trên con người mà sự sân hận của chúng ta hướng đến. Trong cách này, một hành vi tích cực có thể bị làm cho yếu kém hay bị tiêu tan hoàn toàn.
Các hành vi tích cực thì khó khăn để thực hiện, và do thế không thường xảy ra. Thật khó để có những tư tưởng tích cực khi tâm thức chúng ta bị tác động bởi những cảm xúc và rối rắm bởi những điều kiện đối nghịch. Những tư tưởng tiêu cực tự sanh khởi, và thật khó khăn để thực hiện các hành vi của chúng ta một cách thật sự tích cực khi mục tiêu của chúng ta và cung cách của chúng ta thực hiện thì không trong sáng một cách hoàn thiện. Tư lương ít ỏi khó có được được đưa ra bất lực trong một sự sân hận tức thời. Sự tổn thất là vô vàn nghiêm trọng hơn nếu chúng ta đánh mất điều gì đó dễ dàng hơn có được.
3.
Những ai bị dày vò bởi nổi đau của sân hận,
Không bao giờ biết sự tĩnh lặng của tâm thức-
Họ sẽ là những người xa lạ đối với mọi niềm hỉ lạc;
Họ cũng sẽ không an giấc hay cảm thấy an toàn.
Khi người ta nổi sân thì họ đánh mất tất cả mọi cảm giác hạnh phúc. Ngay cả nếu họ tướng đẹp và thông thường điềm tĩnh, thì gương mặt của họ biến sang tái mét và xấu xí. Sân hận làm rối loạn sự cát tường của thân thể họ và quấy rầy mọi thứ còn lại; nó tàn phá khẩu vị của họ và làm cho họ già đi sớm. Hạnh phúc, bình an, và ngủ nghỉ lẫn tránh họ, họ không còn biết ơn những người đã giúp đỡ họ và xứng đáng với sự tin tưởng và lòng biết ơn của họ. Dưới ảnh hưởng của cơn giận, những người bình thường có tính cách tốt thay đổi hoàn toàn và không còn có thể tin tưởng được nữa. Họ bị cơn giận của mình hủy hoại và họ cũng hủy hoại người khác. Nhưng bất cứ người nào dồn hết tâm lực vào việc hủy diệt sân hận sẽ được hạnh phúc trong đời này và những đời sau.
7.
Có được điều tôi không muốn,
Và tất cả những gì cản trở ham muốn của tôi -
Trong sự bất mãn, cơn giận của tôi bùng phát.
Từ đó nó lớn mạnh và hạ gục tôi.
Khi chúng ta nghĩ về một người nào đó đã làm điều sai trái với chúng ta hoặc ai đó đang làm (hoặc có thể làm) điều gì đó mà chúng ta hoặc bạn bè của chúng ta không thích - tước đoạt những gì chúng ta muốn - tâm thức của chúng ta, vừa yên bình chỉ một giây trước, đột nhiên trở nên hơi bị khuấy động. Trạng thái tâm thức này thúc đẩy những suy nghĩ tiêu cực. Thật là một người dễ sợ! chúng ta nghĩ, và sự không thích của chúng ta biến thành sự thù ghét. Chính giai đoạn đầu tiên này, cảm giác bất ổn này đã khơi dậy lòng oán thù của chúng ta, mà chúng ta nên cố gắng loại bỏ. Đó là lý do tại sao Tịch Thiên nói:
8.
Vì vậy, tôi sẽ hoàn toàn tiêu diệt
Nguồn sống của kẻ thù của tôi,
Kẻ thù của tôi không có mục đích nào khác
Ngoài việc làm tổn thương và gây hại cho tôi.
Chúng ta nên cố gắng dùng mọi cách để thoát khỏi cảm giác khó chịu ban đầu này.
9.
Cho nên dù chuyện gì xảy ra, tôi sẽ không làm đảo lộn
Niềm hạnh phúc vui vẻ trong tâm thức của tôi.
Sự thất vọng không bao giờ mang lại điều tôi muốn;
Đức hạnh của tôi sẽ bị biến dạng và hoen ố bởi nó.
10.
Nếu có một phương thuốc nào khi khó khăn ập đến,
Có lý do gì để chán nản?
Và nếu không có sự giúp đỡ nào cho nó,
Buồn lothì có ích gì?
Chúng ta phải nỗ lực để duy trì trạng thái tinh thần thoải mái. Bởi vì nếu chúng ta không thoát khỏi cảm giác bất an này, nó sẽ nuôi dưỡng sự thù ghét của chúng ta, làm cho nó lớn lên và cuối cùng hủy hoại chúng ta.
Sự tức giận tồi tệ hơn bất kỳ kẻ thù thông thường nào. Tất nhiên, những kẻ thù thông thường làm hại chúng ta: đó là lý do tại sao chúng ta gọi chúng là kẻ thù. Nhưng điều sai trái họ làm với chúng ta là nhằm mục đích giúp đỡ chính họ hoặc bạn bè của họ chứ không phải chỉ để làm cho chúng ta không vui. Mặt khác, kẻ thù bên trong, tức giận, không có chức năng nào khác hơn là phá hủy những hành động tích cực của chúng ta và khiến chúng ta đau khổ. Đó là lý do tại sao Tịch Thiên nói, "Kẻ thù của tôi không có mục đích nào khác ngoài việc làm phương hại và làm tổn thương tôi." Ngay từ khi nó xuất hiện, nó tồn tại với mục đích duy nhất là làm hại chúng ta. Vì vậy, chúng ta nên đối đầu nó với tất cả các phương tiện chúng ta có. Chúng ta hãy duy trì trạng thái tinh thần an tịnh và tránh bực bội.
Những gì làm chúng ta khó chịu trước hết là mong muốn của chúng ta không được đáp ứng trọn vẹn. Nhưng sự buồn bã còn lại không giúp gì được để thực hiện những mong muốn đó. Vì vậy, chúng ta không thực hiện được mong muốn của mình cũng như không lấy lại được sự vui vẻ của mình! Trạng thái bối rối này, từ đó sự tức giận có thể phát triển, là nguy hiểm nhất. Chúng ta nên cố gắng không bao giờ để cho niềm hạnh phúc của tâm thức mình bị quấy rầy. Cho dù chúng ta đang khổ đau trong hiện tại hay từ quá khứ, thì không có lý do gì để không hạnh phúc. Nếu chúng ta có thể khắc phục nó, tại sao lại không vui? Và nếu chúng ta không thể, thì có ích gì khi chán nản về điều đó? Điều đó chỉ làm tăng thêm bất hạnh và không tốt chút nào.
Trạng thái bối rối ban đầu này, làm nảy sinh sự tức giận, là do những điều chúng ta không muốn gây ra. Ví dụ, chúng ta không muốn bạn bè hoặc bản thân mình đau khổ hoặc bị xúc phạm, chỉ trích hoặc bị đối xử khinh bỉ. Khi chúng ta không thể tránh những điều này, chúng ta trở nên buồn bã. Mặt khác, chúng ta cảm thấy hài lòng khi chính kẻ thù của mình phải chịu đựng những điều như vậy, và chúng ta không hài lòng khi mọi việc suôn sẻ với họ.
12.
Nguyên nhân của hạnh phúc là hiếm hoi,
Và có nhiều hạt giống đau khổ!
Nhưng nếu tôi không đau đớn, tôi sẽ không bao giờ khao khát tự do;
Vì vậy, hỡi tâm thức của tôi, đừng dao động
Nói chung, chúng ta phải nỗ lực rất nhiều để có được hạnh phúc, trong khi đau khổ đến một cách tự nhiên. Thực tế là có một thân thể chắc chắn liên quan đến đau khổ. Đau khổ thì nhiều và nguyên nhân cũng phong phú. Một người thông tuệ có thể đạt được hạnh phúc bằng cách chuyển hóa những nguyên nhân của bất hạnh thành những điều kiện thuận lợi. Chúng ta có thể sử dụng đau khổ như một phương tiện để tiến bộ. Như Tịch Thiên nói, "Nếu tôi không có đau đớn, tôi sẽ không bao giờ khao khát tự do."
Chúng ta không thích đau khổ là điều tự nhiên. Nhưng nếu chúng ta có thể phát triển ý chí chịu đựng khó khăn, thì chúng ta sẽ ngày càng khoan dung hơn. Như đã nói trong luận điển:
14.
Không có gì mà không có khả năng
Thông qua tập quán và sự quen thuộc.
Hãy quan tâm một tí
Tôi sẽ rèn luyện chính mình để chịu đựng những nghịch cảnh lớn!
16.
Nóng và lạnh, gió và mưa,
Ốm đau, tù tội, đánh đập -
Tôi sẽ không bực bội về những điều đó.
Làm như vậy chỉ làm trầm trọng thêm rắc rối của tôi.
Nếu chúng ta thật kiên nhẫn, thì điều gì đó mà chúng ta thường cho là rất đau đớn rốt cuộc sẽ không tệ đến thế. Nhưng nếu không có sự kiên nhẫn chịu đựng thì việc nhỏ nhất cũng trở nên không thể chịu nổi. Rất nhiều phụ thuộc vào thái độ của chúng ta.
17.
Có một số người dũng cảm tăng lên,
Khi nhìn thấy máu của chính mình,
Trong khi một số mất hết sức lực và ngất đi
Khi họ nhìn thấy máu của người khác!
Tương tự như vậy, nếu chúng ta có thể phát triển tính kiên nhẫn chịu đựng, chúng ta sẽ có thể chịu đựng ngay cả những khó khăn lớn khi chúng ta gặp phải.
Nhẫn nhục có nghĩa là ngay cả khi đối mặt với đau khổ hay tổn hại to lớn, chúng ta cũng không để nó quấy rầy tâm mình. Tất nhiên, thật khó để coi đau khổ là điều đáng mong muốn và biến chúng thành những điều kiện thuận lợi. Chúng ta phải kiên nhẫn khi quyết tâm chiến đấu chống lại những cảm xúc tiêu cực như hận thù, những kẻ thù tồi tệ nhất. Đương nhiên là bạn sẽ bị thương khi chiến đấu với một kẻ thù bình thường, vì vậy chiến đấu với kẻ thù thiết yếu, lòng hận thù, sẽ không phải là không gặp khó khăn. Nhưng nếu chúng ta bỏ qua tất cả những thử thách như vậy và chiến thắng những cảm xúc tiêu cực, thì chúng ta thật sự có thể được gọi là anh hùng. Mặt khác, không kiềm chế được sự tức giận và giết một kẻ thù bình thường thì không có gì can đảm hơn là đâm một người đã chết. Không có gì phi thường về điều đó.
21.
Đau khổ cũng có giá trị của nó.
Qua buồn đau, niềm tự hào bị xua đuổi
Và cảm thấy thương xót cho những người lang thang trong luân hồi;
Điều ác được tránh; lòng tốt có vẻ thú vị.
Đau khổ của chúng ta cũng có mặt tích cực. Trước hết, chúng ta đánh mất ý thức về tầm quan trọng của bản thân. Chúng ta học để hiểu rõ giá trị về sự đau khổ của người khác, và lòng từ bi của chúng ta phát triển. Và chúng ta trở nên cẩn thận hơn để không tích lũy những nguyên nhân của đau khổ.
Mọi người đều có ít nhất một số khuynh hướng vị tha nào đó, tuy nhiên có giới hạn. Để phát triển những điều này cho đến khi mong ước giúp đỡ người khác trở thành vô hạn được gọi là tâm bồ đề. Những chướng ngại chính cho sự phát triển này là mong muốn làm hại người khác, phẩn uất và tức giận. Do đó, để chống lại những điều này, điều cần thiết là hành thiền về nhẫn nhục. Chúng ta càng thực hành sâu sắc thì càng ít có cơ hội để sân hận phát sinh. Nhẫn nhục là cách tốt nhất để tránh nóng giận, sân hận.
Bây giờ chúng ta hãy nói về lòng yêu thương hay từ ái. Theo tôi, tất cả chúng sanh đều muốn được yêu thương. Điều này là tự nhiên và tự phát. Ngay cả động vật cũng thích những người tử tế với chúng. Khi ai đó nhìn bạn với vẻ yêu thương, điều đó làm bạn hạnh phúc, phải không? Tình yêu thương hay từ ái là một phẩm chất được đánh giá cao trong toàn nhân loại, trong tất cả các tôn giáo. Tất cả các tôn giáo, kể cả Phật giáo, trước hết mô tả những bậc khai sáng của họ về khả năng từ ái yêu thương của họ. Những người nói về một đấng tạo hoá đề cập đến lòng thương xót của đấng sáng tạo. Và phẩm chất chính của những người cho nơi nương tựa tâm linh là tình yêu thương-từ ái.
Khi chúng ta nói về một Cõi Tịnh độ tràn ngập sự hiện diện của tình yêu thương, người ta cảm thấy muốn đến đó.[28] Nhưng nếu chúng ta mô tả một Cõi Tịnh độ như một vùng đất của chiến tranh và xung đột, người ta sẽ không còn cảm thấy muốn được tái sinh ở một nơi như vậy. Mọi người tự nhiên coi trọng tình yêu thương, và họ không thích những cảm xúc và hành động có hại như phẩn uất, sân hận, tranh đấu, trộm cắp, tham lam tài sản của người khác và muốn làm hại người khác. Vì vậy, nếu tình yêu là thứ mà tất cả mọi người đánh giá cao, thì đó chắc chắn là thứ mà chúng ta có thể phát triển nếu chúng ta nỗ lực.
Nhiều người nghĩ rằng kiên nhẫn chịu đựng mất mát là một dấu hiệu của sự yếu đuối. Tôi nghĩ đó là một sai lầm. Chính sân hận mới là dấu hiệu của sự yếu đuối, trong khi nhẫn nhục là dấu hiệu của sức mạnh. Ví dụ, một người tranh luận về một điểm dựa trên lập luận hợp lý duy trì sự tự tin và thậm chí có thể mỉm cười trong khi chứng minh trường hợp của mình. Mặt khác, nếu lý luận của người ấy không hợp lý và sắp bị mất mặt, người ấy sẽ tức giận, mất kiểm soát và bắt đầu nói những lời vô nghĩa. Mọi người hiếm khi tức giận nếu họ tự tin vào những gì họ đang làm. Sự tức giận đến dễ dàng hơn trong những khoảnh khắc bối rối.
22.
Tôi không tức giận với sự cáu gắt và các tính khí khác của con-
Nguồn gốc màu mỡ của khổ não và đớn đau!
Vậy tại sao chúng sanh phải phạm tội,
Họ cũng vậy do hoàn cảnh thúc đẩy?
Đau khổ có thể là kết quả của cả những nguyên nhân hữu tình và vô tình. Chúng ta có thể nguyền rủa những thứ vô tri vô giác như thời tiết, nhưng chúng ta thường tức giận nhất với những sinh vật có tri giác. Nếu chúng ta phân tích những nguyên nhân hữu tình sinh động này làm chúng ta không vui, chúng ta thấy rằng chính chúng cũng bị ảnh hưởng bởi những điều kiện khác. Họ không làm cho chúng tôi tức giận đơn giản chỉ vì họ muốn như thế. Về phương diện này, bởi vì họ bị ảnh hưởng bởi các điều kiện khác, nên thực tế họ thật sự bất lực. Vì vậy, không cần phải tức giận với họ.
24.
Không bao giờ nghĩ, "Bây giờ tôi sẽ sân hận,"
Mọi người bị cuốn vào cơn giận dữ một cách bốc đồng.
Tình trạng bị chọc tức, tương tự, đến
Mặc dù không bao giờ dự kiến để trải nghiệm!
25.
Mọi ô nhiễm thuộc bất cứ loại nào,
Toàn bộ các hành động xấu xa khác nhau
Do hoàn cảnh đưa đến:
Không ai là độc lập, không ai tự trị.
26.
Các điều kiện, một khi đã được tập hợp lại, không hề nghĩ rằng
Bây giờ chúng sẽ đưa đến kết quả nào đó.
Cái được tạo ra cũng không nghĩ
Rằng nó đã được tạo ra.
Ở điểm này trong bản văn, Tịch Thiên bác bỏ những lập luận của phái Số Luận (Samkhyas), một trong những truyền thống phi Phật giáo của Ấn Độ cổ đại.
27.
Thực thể nguyên thủy, như họ nói,
Và cái được gọi là bản ngã,
Không sinh khởi một cách cố ý,
Và không nghĩ, "Tôi sẽ trở thành."
28.
Vì cái không sanh ra không tồn tại,
Vì vậy, điều gì có thể muốn trở thành?
(Nếu nó có) và bị lôi kéo vĩnh viễn về phía đối tượng của nó,
Thì nó không bao giờ có thể ngừng hiện hữu.
Theo Phật giáo, không có gì phát sinh mà không có nguyên nhân. Mọi thứ đều bị điều kiện hoá bởi một cái gì đó khác. Điều tương tự cũng áp dụng cho các hành động tiêu cực.
Theo phái Số Luận, có 25 đối tượng của tri thức, trong đó đối tượng chính, thực thể nguyên thủy (Skt., prakṛiti), được coi là chân lý tuyệt đối: tuyệt đối, vĩnh cửu, toàn khắp và độc lập. Tất cả các hiện tượng được gây ra bởi chất nguyên thủy này. Các nhà Số Luận cũng công nhận sự tồn tại của một Bản ngã, hay nguyên tắc ý thức (purusha), cũng vĩnh cửu và độc lập và trải nghiệm những biểu hiện của chất nguyên thủy.
Phật giáo bác bỏ khả năng của một cái gì đó độc lập mà không phụ thuộc vào một nguyên nhân. Mọi thứ đều phụ thuộc lẫn nhau. Không có hiện tượng nào phát sinh một cách tự nhiên, có thể nói là đột ngột quyết định rằng nó sẽ biểu hiện. Nếu chất nguyên thủy là nguyên nhân của mọi thứ mà nó sinh ra, thì nó sẽ phải tự sinh ra nó. Nhưng vì nó không tự tạo ra nó, làm sao nó có thể tạo ra cái gì?
Đạo Phật dạy rằng vạn vật đều do nhân duyên sinh ra, do đó không có cái gì gọi là một thứ không nguyên nhân cả. Nếu có một thứ như vậy, thì có thể nói mọi thứ đều phát sinh từ hư không (hay từ không có gì)! Ngoài ra, thực thể nguyên thủy sẽ phải liên tục làm phát sinh (gây ra) một cái gì đó. Nhưng như chúng ta có thể thấy, các hiện tượng đôi khi biểu hiện và đôi khi thì không. Điều này là do các nguyên nhân và điều kiện mà chúng phụ thuộc vào đôi khi đến với nhau và vào những lúc khác thì không.
Nếu nguyên nhân độc lập và có thể sáng tạo không ngừng thì tất nhiên kết quả của nó cũng phải không đổi. Vì các kết quả không phải là hằng số nên chúng ta có thể lập luận rằng nguyên nhân của chúng cũng không phải là hằng số: nó là vô thường. Nếu có một thứ như một đấng sáng tạo độc lập, do đó là duy nhất và bao trùm tất cả, thì tất cả các biểu hiện hoặc kết quả của nó phải là vĩnh viễn. Niềm tin vào một người sáng tạo như vậy đơn giản là không hợp lý.
Đối với Bản Ngã thường hằng và bất biến, nếu nó thật sự là bất biến, thì mọi nhận thức của nó cũng sẽ phải thường hằng, và sẽ không có lúc nào nó không trải nghiệm chúng. Luận lý thông thường cho chúng ta biết rằng điều này là không đúng. Đôi khi chúng ta nhận thức được mọi thứ, đôi khi chúng ta không. Nhưng nhận thức sẽ phải trường tồn nếu Bản Ngã là một thực thể không thay đổi.
Theo Kinh Nhân Duyên, mọi thứ đều phát sinh từ một nguyên nhân. Nhưng một nguyên nhân như vậy không thể là một đấng sáng tạo vào lúc này hay lúc khác đưa vũ trụ hiện hữu. Theo định nghĩa, nguyên nhân này là vô thường, và vì vậy bản thân nó phải có một nguyên nhân. Cuối cùng, một kết quả phải có cùng bản chất với nguyên nhân tạo ra nó. Tuy nhiên, nếu như chúng ta đã tin vào một nguyên nhân thường hằng, thì sẽ hoàn toàn mâu thuẫn nếu đồng thời tin vào sự giải thoát.[29]
Những người theo trường phái Số Luận tin rằng thực thể nguyên thủy biểu hiện luân hồi và rằng Bản Ngã, được cho là một thực thể trường tồn, trải nghiệm hạnh phúc và đau khổ trong luân hồi. Thông qua việc hành thiền theo chỉ dẫn của một vị thầy tâm linh, Bản Ngã nhận ra rằng mọi hiện tượng đều là biểu hiện của thực thể nguyên thủy. Với nhận thức này, tất cả các biểu hiện của thực thể nguyên thủy tan biến, chỉ còn lại Bản Ngã. Trạng thái này là điều mà những người theo trường phái Số Luận coi là giải thoát. Tất cả điều này là khá mâu thuẫn. Nếu chúng ta tin rằng nguyên nhân của luân hồi, thực thể nguyên thủy, là thường hằng, thì làm sao chúng ta có thể giải thích được sự giải thoát?
31.
Vậy thì vạn vật tùy thuộc vào những thứ khác,
Và những thứ này cũng phụ thuộc; chúng không độc lập.
Biết điều này, chúng ta sẽ không khó chịu
Ở những thứ giống như do huyển thuật hiển hiện.
Đây là lý do tại sao chúng ta nói rằng tất cả chúng sanh đều bị ảnh hưởng bởi những thứ khác, nghĩa là cảm xúc của chính họ, và do đó không độc lập. Quá trình nguyên nhân dẫn đến kết quả là do các điều kiện đến với nhau. Không có gì là độc lập. Nếu chúng ta hiểu được điều này, thì hạnh phúc và đau khổ mà chúng ta thường cho là có thật và vững chắc sẽ được xem như một điều gì đó không thực chất, giống như những ảo ảnh phép thuật. Trong ánh sáng này, chúng ta nên cố gắng không tức giận với bất kỳ ai.
Một số người có thể hỏi, Nếu mọi thứ đều là vọng tưởng, thì việc loại bỏ đau khổ vọng tưởng bằng một phương thuốc giải độc tự nó chính là vọng tưởng có ích lợi gì? Câu trả lời là khổ huyễn là kết quả của những nguyên nhân và điều kiện cũng là huyễn. Mặc dù đau đớn là vọng tưởng, chúng ta vẫn đau khổ vì nó, và chắc chắn chúng ta không muốn nó. Điều này cũng đúng với hạnh phúc. Đó là một vọng tưởng, nhưng nó vẫn là thứ chúng ta muốn. Như vậy, những thuốc giải độc huyễn hóa được sử dụng để đoạn trừ những đau khổ huyễn hóa, giống như một nhà ảo thuật sử dụng một ảo ảnh phép thuật này để chống lại một ảo ảnh phép thuật khác. Trên thực tế, đây là một điểm quan trọng, được giải thích chi tiết hơn trong chương thứ chín của Bồ tát Đạo hay Nhập Bồ tát Hạnh (Bodhicharyāvatāra).
33.
Vì vậy, khi kẻ thù hoặc bạn bè
Được xem là hành động không đúng đắn,
Hãy giữ thanh thản và nhắc nhở tâm
Rằng mọi thứ phát sinh từ các điều kiện.
Chúng ta hãy coi rằng mọi thứ, dù thân thiện hay thù địch, đều là một màn vọng tưởng, và cố gắng không phản ứng bằng tham luyến hay sân hận.
34.
Nếu mọi thứ có thể theo ý muốn của họ,
Sẽ không có đau khổ nào đến
Với bất kỳ ai trong tất cả chúng sinh hiện thân,
Vì không ai trong số họ muốn đau đớn dưới bất kỳ hình thức nào.
38.
Mặc dù hầu như chúng ta không bao giờ động lòng từ bi
Đối với những người, do ô nhiễm,
Mang lại sự trầm luân của chính họ,
Thì sự tức giận của chúng ta phục vụ cho mục tiêu gì?
Nếu tất cả chúng ta đều được lựa chọn giữa hạnh phúc và đau khổ, thì không ai chọn đau khổ, và sẽ không có đau khổ trên đời này. Nhưng bởi vì mọi thứ đều phụ thuộc lẫn nhau và tùy thuộc vào những nguyên nhân khác, nên cả hạnh phúc và đau khổ đều tồn tại. Người ta khổ mà không muốn. Và khi tâm không được kiểm soát, khi chúng ta bị ảnh hưởng bởi hận thù, chúng ta thậm chí còn tự làm hại chính mình. Nếu chúng ta có thể làm hại chính mình với lòng thù hận như vậy, thì chắc chắn chúng ta có thể làm hại người khác.
39.
Nếu những kẻ giống như những đứa trẻ tinh nghịch
Bản chất dễ làm tổn thương người khác,
Không có lý do gì cho cơn thịnh nộ của chúng ta;
Nó giống như lửa phẫn nộ vì nóng.
40.
Và nếu lỗi lầm của họ thoáng qua và ngẫu nhiên,
Khi chúng sanh có bản chất nhu mì,
Căm giận họ cũng là vô nghĩa-
Cũng như nổi giận với bầu trời khi nó đầy mây khói!
Chúng ta phải từ bi và không bao giờ tức giận với những người làm hại họ. Và khi những người khác làm hại chúng ta, chúng ta nên kiểm tra xem bản chất của họ là làm hại hay chỉ là điều gì đó tạm thời. Nếu đó là bản chất của họ, thì tức giận với họ cũng chẳng ích gì. Nếu đó chỉ là một điều nhất thời, thì bản chất của chúng không phải là xấu, và họ chỉ đang làm hại chúng ta vì những ảnh hưởng nhất thời. Vì vậy, một lần nữa, thật vô ích khi sân hận với họ.
Nếu ai đó sử dụng vũ khí để làm tổn thương chúng ta, thì thứ thực sự làm tổn thương chúng ta chính là vũ khí đó. Điều làm tổn thương chúng ta một cách gián tiếp là sự tức giận của người đó. Vì vậy, nếu chúng ta phải tức giận, chúng ta nên tức giận với vũ khí hoặc với sự tức giận là lý do khiến vũ khí được sử dụng. Lấy đi vũ khí của người ấy và sự tức giận, và không có còn gì lại để mà tức giận.
Một điều kiện khác của quá trình gây tổn hại là thân thể của chính mình, là cơ sở vật chất cho sự đau khổ.
43.
Vũ khí của họ và thân thể của tôi -
Cả hai đều là nguyên nhân khiến tôi dằn vặt!
Họ vũ khí của họ, tôi thân thể của tôi; đều khua vang
Rồi thì ai là xứng đáng hơn với cơn thịnh nộ của tôi?
Vì mọi thứ đều do nhiều nguyên nhân, nên chỉ tức giận với một trong những nguyên nhân đó thì không có nghĩa lý gì.
47.
Những kẻ hãm hại tôi nổi dậy chống lại tôi -
Chính nghiệp chướng của tôi đã triệu tập họ.
Và nếu vì điều này mà những chúng sanh này phải xuống địa ngục,
Chẳng phải tôi là người mang đến sự hủy hoại cho họ sao?
Những điều sai trái mà người khác gây ra cho chúng ta là kết quả trực tiếp của những hành động trong quá khứ của chúng ta. Những hành động này trên thực tế đã sanh ra những kẻ thù của chúng ta để làm hại chúng ta. Từ quan điểm này, chính chúng ta đang làm hại đối thủ của mình, vì trong tương lai họ sẽ đau khổ vì hành động gây hại mà chính chúng ta đã xúi giục.
Khi người khác làm hại chúng ta, đó là cơ hội để chúng ta thực hành nhẫn nhục và do đó tịnh hóa vô số ác nghiệp và tích tập nhiều công đức. Vì chính kẻ thù của chúng ta đã cho chúng ta cơ hội tuyệt vời này, nên trên thực tế, họ đang giúp đỡ chúng ta. Nhưng bởi vì họ đang thực hiện những hành động tiêu cực và chúng ta là nguyên nhân của những điều này, nên chúng ta thật sự đang làm hại họ. Vì vậy, nếu có bất cứ ai để sân hận, thì đó nên là chính chúng ta. Chúng ta không bao giờ nên tức giận với kẻ thù của mình, bất kể thái độ của họ như thế nào, vì họ thật sự hữu ích cho chúng ta.
Do đó, người ta có thể tự hỏi liệu bằng cách khiến kẻ thù của chúng ta tích lũy những hành động tiêu cực như vậy, chính chúng ta cũng tích lũy những hành vi tiêu cực và liệu kẻ thù của chúng ta, trong việc giúp chúng ta thực hành nhẫn nhục, có tích lũy những hành động tích cực hay không. Đây không phải là trường hợp. Mặc dù chúng ta đã là nguyên nhân cho hành động tiêu cực của họ, nhưng bằng cách thực hành nhẫn nhục, thì chúng ta thật sự tích lũy công đức và sẽ không tái sanh vào các cõi thấp. Chính chúng ta đã kiên nhẫn, và điều đó không giúp ích gì cho kẻ thù của chúng ta. Mặt khác, nếu chúng ta không thể kiên nhẫn khi chúng ta bị tổn hại, thì sự tổn hại do kẻ thù của chúng ta gây ra sẽ không giúp ích gì cho bất kỳ ai. Hơn nữa, do mất kiên nhẫn và nổi giận, chúng ta đã phạm giới nguyện tuân theo giới luật của một vị Bồ Tát.
52.
Vì tâm vô hình tướng
Nó không thể bị phá hủy bởi bất cứ ai.
Vì tâm dính mắc vào thân,
Thân này bị khổ đau dày vò.
Vì tâm không phải là vật chất nên không ai có thể làm hại nó. Khi những người khác nói những điều khó chịu với chúng ta, họ không làm tổn thương chúng ta về thể chất. Nếu chúng ta thật sự nghĩ về điều này, thì không có gì là khó chịu đựng. Chúng ta có thể nghĩ rằng nếu chúng ta tỏ ra khoan dung khi người ta nói những điều khó chịu với mình, thì người ta sẽ cho rằng những gì họ nói là đúng và hậu quả là danh tiếng của chúng ta bị tổn hại sẽ cản trở thành công của chúng ta trong cuộc sống. Nhưng không có gì sai với điều đó. Dù chúng ta có được bao nhiêu danh tiếng và lời khen ngợi, chúng ta chỉ có thể tận hưởng nó trong đời này. Mặt khác, nếu chúng ta tức giận với người khác, nghĩ rằng họ đang làm tổn hại danh tiếng và thành công của chúng ta trong đời này, thì những hành động tiêu cực do chúng ta tích lũy sẽ theo chúng ta trong những kiếp tương lai.
62.
Và nếu, khi người ta nói xấu chúng ta,
Chúng ta cho rằng sự tức giận của chúng ta là vì họ làm tổn thương người khác,
Làm sao chúng ta không bực bội
Khi sự phỉ bang của họ nhằm vào người khác?
Khi người ta nói những điều khó chịu về chúng ta, nếu chính những điều khó chịu đó khiến chúng ta tức giận, thì chúng ta cũng nên tức giận khi người ta nói những điều khó chịu về người khác. Đối với trường hợp là giống nhau khi có liên quan đến những điều khó chịu này. Nhưng khi những điều không hài lòng được nói về người khác, điều thường xảy ra là chúng ta cho rằng những lời chỉ trích đó là do những nguyên nhân không liên quan đến chúng ta và chúng ta giữ thái độ thờ ơ. Tại sao chúng ta không áp dụng cùng một lập luận khi chính chúng ta là đối tượng của sự chỉ trích? Khi ai đó bị ảnh hưởng bởi những cảm xúc tiêu cực nói những điều không hay về chúng ta, tại sao chúng ta lại cho phép mình nổi giận? Rốt cuộc, chính những cảm xúc tiêu cực chứ không phải con người chịu trách nhiệm cho cuộc tấn công. Và lại nữa, nếu chúng ta không tức giận khi người khác bị chỉ trích, thì theo đó chúng ta cũng nên dung thứ cho những người xúc phạm Đức Phật, đập phá tượng, đốt phá tu viện, phỉ báng các bậc thầy lớn, v.v.
64.
Ngay cả những người phỉ báng và phá hoại
Giáo lý thiêng liêng, hình ảnh và bảo tháp
Không phải là đối tượng thích hợp cho sự tức giận của chúng ta.
Bởi vì, chư Phật không bị tác động gì.
74.
Để đạt được tất cả những gì tôi mong muốn,
Hàng nghìn lần tôi đã trải qua
Những sự tra tấn của cõi địa ngục -
Không đạt được gì cho bản thân và những người khác.
75.
Nỗi đau hiện tại không gì sánh bằng những thứ ấy (nổi khổ quá khứ)
Và những lợi ích tuyệt vời sẽ đến từ chúng.
Những rắc rối này xua tan nỗi đau của những kẻ lang thang (luân hồi)-
Chỉ đúng là tôi nên tuỳ hỉ trong chúng.
Ví dụ, nếu một người bị kết án tử hình được tha mạng để đổi lấy việc chặt hai tay, anh ta sẽ cảm thấy rất nhẹ nhõm. Tương tự như vậy, khi chúng ta có cơ hội tịnh hóa một nỗi khổ lớn bằng cách chịu đựng một vết thương nhẹ, chúng ta nên chấp nhận nó. Nếu không chịu nổi lời xúc phạm mà nổi giận, thì chỉ tạo thêm khổ đau tệ hại hơn cho tương lai. Dù khó khăn đến đâu, thay vào đó, chúng ta nên cố gắng mở rộng quan điểm của mình và không trả đũa.
Chúng ta đã và vẫn đang trải qua vô vàn đau khổ mà không thu được lợi ích gì từ đó. Bây giờ chúng ta đã hứa sẽ có tấm lòng nhân hậu, chúng ta nên cố gắng đừng nổi giận khi người khác xúc phạm chúng ta. Kiên nhẫn có thể không dễ dàng. Nó đòi hỏi sự tập trung đáng kể. Nhưng kết quả chúng ta đạt được bằng cách chịu đựng những khó khăn này sẽ rất tuyệt vời. Đó là điều đáng mừng!
79.
Khi những phẩm chất của bạn được khen ngợi,
Do đó bạn mong muốn rằng những người khác sẽ hài lòng.
Nhưng khi người khác được khen ngợi,
Bạn lại cảm thấy không muốn vui mừng như thế.
Khi những người chúng ta không thích được khen ngợi, chúng ta sẽ ghen tị. Đây là một sai lầm. Khi những điều tốt đẹp được nói về người khác, chúng ta nên cố gắng tham gia. Rồi thì, chúng ta cũng có thể nhận được một chút hạnh phúc. Vậy tại sao không tuỳ hỉ? Nếu chúng ta có thể vui mừng và cảm thấy hài lòng khi những người chúng ta không thích được khen ngợi, thì hạnh phúc mà chúng ta có là thật sự tích cực và được chư Phật chấp thuận. Khi chúng ta thực hành như vậy, ngay cả kẻ thù của chúng ta cũng đánh giá cao chúng ta. Đây là một trong những cách tốt nhất để đạt được sự tôn trọng của người khác.
80.
Bạn là người muốn hạnh phúc cho chúng sanh
Đã nguyện ước được giác ngộ vì lợi ích của họ.
Vậy tại sao những người khác lại làm bạn khó chịu khi
Họ tìm thấy niềm vui nào đó cho chính họ?
Nếu chúng ta không thể đánh giá cao và vui mừng trong niềm hạnh phúc mà người khác có thể có được khi khen ngợi người khác, cuối cùng chúng ta sẽ không thể chịu đựng được niềm vui dù là nhỏ nhất ở bất kỳ ai khác. Nếu đúng như vậy, chúng ta cũng có thể từ bỏ bất cứ thứ gì giúp ích cho người khác và thậm chí không bao giờ tặng quà, từ chối nhận bất cứ thứ gì có thể làm họ hài lòng. Nếu chúng ta thích được khen ngợi, thì thật sai lầm khi chúng ta khó chịu khi người khác khen ngợi người khác và cảm thấy thích thú khi làm như vậy.
83.
Nếu ngay cả điều này mà bạn không muốn cho chúng sanh,
Làm sao bạn có thể muốn Phật quả cho họ?
Và làm sao một người có thể có bồ đề tâm
Lại tức giận khi người khác thành công?
Vì chúng ta đã phát nguyện đạt được toàn giác vì lợi ích của tất cả chúng sanh, nên khi chính những chúng sanh này có một chút hạnh phúc cho lợi ích của chính họ, thì điều đó là hợp lý để vui mừng hơn là khó chịu. Chúng ta tự đặt cho mình trách nhiệm diệt trừ mọi đau khổ và thành tựu mọi hạnh phúc, nên khi người khác hạnh phúc, trách nhiệm của chúng ta thật sự trở nên nhẹ nhàng hơn. Nhưng nếu chúng ta không thể chịu được sự vui mừng của người khác, thì làm sao chúng ta có thể giả vờ tìm cầu Phật quả được?
Khi mọi việc không suôn sẻ với người mà chúng ta không ưa, thì vui mừng để làm gì? Nó không làm cho nỗi đau khổ hiện tại của người ấy trở nên tồi tệ hơn chút nào, và thậm chí nếu có, thật đáng buồn biết bao nếu chúng ta mong ước một điều như vậy.
90.
Sự tôn kính, ca ngợi và danh tiếng
không góp phần làm tăng thêm công đức hay tuổi thọ của tôi,
Cúng không ban cho sức khỏe hay sức mạnh
Và không làm gì cho thân thể thanh thoát
Chỉ đơn thuần được khen ngợi thì hoàn toàn không giúp được gì nhiều: nó không làm tăng vận may của con người, cũng không làm cho họ sống lâu hơn. Nếu niềm vui tạm thời là tất cả những gì bạn muốn, bạn cũng có thể dùng ma túy. Tuy nhiên, nhiều người đầu tư rất nhiều tiền và thậm chí lừa dối bạn bè của họ để giành lấy địa vị. Điều này là thật ngu ngốc. Địa vị và danh vọng của họ thật sự không giúp được gì nhiều trong kiếp này và không giúp được gì cho những kiếp sau. Chẳng có ích gì hạnh phúc nếu chúng ta nổi tiếng hoặc không hạnh phúc vì người ta nói xấu chúng ta.
93.
Trẻ không thể ngừng khóc khi
Lâu đài cát của chúng sụp đổ.
Tâm thức của tôi rất giống chúng
Khi lời khen ngợi và danh tiếng bắt đầu sụp đổ.
94.
Âm thanh ngắn ngủi, không có trí tuệ,
Không bao giờ có thể tự nó có ý định ca ngợi tôi.
Tôi nói rằng đó là niềm vui mà người khác nhận từ tôi,
Chính điều này là nguyên nhân của niềm vui của tôi.
95.
Nhưng tôi có gì nếu người khác vui sướng
Ở người khác, hay ở chính mình?
Niềm vui của họ là của họ và của riêng họ.
Không có phần nào của nó được cảm nhận bởi tôi.
Những lời khen ngợi tốt đẹp là không có tâm: họ không muốn nói những điều tốt đẹp về chúng ta. Ý tốt của người khác khi ca ngợi chúng ta là ý tốt của họ, không phải của chúng ta! Nếu chúng ta vui vì người khác có những điều thú vị để nói về chúng ta, thế thì chúng ta cũng nên vui khi họ nói như vậy về kẻ thù của chúng ta. Chúng ta nên đối xử bình đẳng với mọi người.
98.
Lời tán dương và ca ngợi làm tôi phân tâm,
Đánh tan sự khiếp sợ của tôi với luân hồi.
Tôi bắt đầu ghen tị với người khác về những phẩm chất tốt đẹp của họ
Và do đó, mọi sự xuất sắc đều bị hủy hoại.
Khen ngợi, nếu bạn nghĩ về nó, thật sự là một sự phân tâm. Ví dụ, lúc đầu một người có thể là một tu sĩ giản dị, khiêm tốn, hài lòng ít ham muốn. Sau đó, mọi người có thể nói những điều tâng bốc như, "Ông ấy là một Lạt ma, [bậc thầy]" và người ấy bắt đầu cảm thấy tự hào hơn một chút và trở nên tự ý thức về ngoại hình và cách cư xử của mình. Sau đó, tám mối bận tâm thế gian (bát phong) trở nên mạnh mẽ hơn, phải không? Khen ngợi là một sự sao lãng và phá hủy sự viễn ly (từ bỏ).
Nói cho cùng, lúc đầu khi chúng ta có ít, chúng ta không có nhiều lý do để có cảm giác cạnh tranh với những người khác. Nhưng sau này, khi "tu sĩ khiêm tốn bắt đầu mọc tóc,” người ấy trở nên tự phụ, và khi người ấy trở nên có ảnh hưởng hơn, người ấy tranh giành những vị trí quan trọng với những người khác. Chúng ta cảm thấy ghen tị với bất kỳ ai có phẩm chất tốt, và điều này cuối cùng sẽ hủy hoại bất cứ phẩm chất tốt đẹp nào mà chúng ta có. Được khen ngợi không thật sự là một điều tốt, chúng ta và nó có thể là nguồn gốc của những hành động tiêu cực.
99.
Những người ở gần tôi, rồi thì,
Làm mất danh dự của tôi và làm vị trí của tôi xuống cấp
Điều ấy chắc chắn ở đó bảo vệ tôi
Khỏi rơi vào cõi sầu đau.
Vì mục tiêu thật sự của chúng ta là giác ngộ, chúng ta không nên tức giận với kẻ thù của mình, những kẻ thật sự đã xua tan mọi chướng ngại cho việc đạt giác ngộ của chúng ta.
101.
Họ, giống như sự ban phước rất lớn của Đức Phật,
Chặn đường tôi, quyết tâm như tôi (để)
Đắm mình trong đau khổ:
Làm sao tôi có thể tức giận với họ được?
102.
Tôi không nên bực tức nói:
“Họ là chướng ngại việc tốt lành của tôi”.
Vì chẳng phải nhẫn nhục là khổ hạnh tối thượng,
Và tôi không nên tuân theo điều này sao?
Chẳng ích gì khi bào chữa cho mình, nói rằng kẻ thù của chúng ta đang ngăn cản chúng ta tu tập và đó là tại sao chúng ta tức giận. Nếu chúng ta thật sự muốn tiến bộ, thì không có sự thực hành nào bằng nhẫn nhục. Chúng ta không thể giả vờ rằng chúng ta là những thực hành nếu chúng ta không nhẫn nhục.
Nếu chúng ta không thể chịu đựng những tổn hại mà kẻ thù gây cho ta và thay vì sân hận, thì chính chúng ta là chướng ngại để đạt được một hành vi tích cực vô biên. Không có gì hiện hữu mà không có một nhân, và không thể có thực hành nhẫn nhục mà không có ai làm gì xấu với chúng ta. Thế thì, làm sao chúng ta có thể gọi những người như vậy là chướng ngại cho sự thực hành nhẫn nhục của chúng ta, mà vốn nó là nền tảng của con đường Đại thừa? Chúng ta khó có thể gọi một người hành khất là một chướng ngại với một sự bố thí.
Có nhiều lý do để làm từ thiện; thế giới đầy những người có nhu cầu. Mặt khác, những người khiến chúng ta tức giận và thử thách lòng kiên nhẫn của chúng ta tương đối ít, đặc biệt nếu chúng ta tránh làm hại người khác. Vì vậy, khi gặp những kẻ thù hiếm hoi này, chúng ta nên đánh giá cao họ.
107.
Vì vậy, giống như một kho báu được tìm thấy ở nhà,
Mà tôi đã có được không mệt mỏi,
Kẻ thù của tôi là những người giúp đỡ trong công việc Bồ tát của tôi
Và do đó họ phải là niềm vui cho tôi.
Khi chúng ta đã kiên nhẫn đối với kẻ thù, chúng ta nên hồi hướng kết quả của sự thực hành này cho họ, bởi vì họ là nguyên nhân của nó. Họ đã rất tử tế với chúng ta. Chúng ta có thể hỏi, Tại sao họ phải xứng đáng với sự cống hiến này khi họ không có ý định làm cho chúng ta thực hành kiên nhẫn? Nhưng các đối tượng có cần phải có ý định trước khi chúng đáng được chúng ta tôn trọng không? Bản thân giáo Pháp, chỉ ra sự chấm dứt đau khổ và là nguyên nhân của hạnh phúc, không có ý định giúp đỡ chúng ta, nhưng nó chắc chắn đáng được tôn trọng.
Rồi thì, chúng ta có thể nghĩ rằng kẻ thù của mình không xứng đáng vì họ chủ động muốn làm hại chúng ta. Nhưng nếu tất cả mọi người đều tử tế và có thiện chí như một bác sĩ, làm sao chúng ta có thể thực hành kiên nhẫn? Và khi một bác sĩ, với ý định chữa bệnh cho chúng ta, làm tổn thương chúng ta bằng cách cắt cụt tay chân, mổ bụng chúng ta hoặc chích chúng ta bằng kim, chúng ta không coi ông ta là kẻ thù và nổi giận với ông ta. Như vậy, chúng ta không thể thực hành nhẫn nhục đối với ông. Nhưng kẻ thù là những người có ý định làm hại chúng ta, và chính vì lý do này mà chúng ta có thể thực hành kiên nhẫn đối với họ.
111.
Cảm ơn những người có tâm đầy ác ý
Mà tôi tự mình có được sự nhẫn nhục.
Do đó, họ là nguyên nhân cho sự nhẫn nhục của tôi,
Thích hợp để tôn kính, giống như giáo Pháp.
112.
Và như vậy bậc Đại Thánh đã nói về ruộng phước của chúng sanh
Cũng như ruộng phước của những đấng Chinh phục.
Nhiều người đã mang lại hạnh phúc cho chúng sanh,
Đã vượt đến bến bờ, đạt đến sự hoàn hảo.
Có hai ruộng phước mà qua đó chúng ta có thể tích lũy công đức: chúng sanh và chư Phật. Chính nhờ sự giúp đỡ của chúng sanh, dù họ khốn khổ như thế nào, mà chúng ta có thể tích tập những hành động tích cực, phát triển bồ đề tâm, thực hành sáu ba la mật, và đạt được những phẩm chất của niết bàn. Không có chúng sanh, chúng ta không thể có lòng từ bi, và không có lòng từ bi, chúng ta không thể đạt được sự giác ngộ vô thượng mà thay vì thế rơi vào cực đoan của niết bàn. Vì vậy, việc đạt được giác ngộ tối thượng và sự hiểu biết mà chúng ta đạt được trên con đường đều phụ thuộc vào chúng sanh cũng nhiều như vào chư Phật. Thật sai lầm khi tách riêng ra, nói rằng chư Phật cao hơn và chúng sanh thấp hơn. Vì cả hai đều cần thiết như nhau cho sự thành tựu giác ngộ của chúng ta, tại sao chúng ta không kính trọng chúng sanh cũng như kính trọng chư Phật?
114.
Không phải trong phẩm chất của tâm thức của họ
Nhưng trong các loại quả vị họ cống hiến là giống nhau.
Trong chúng sanh cũng vậy, sự tối thắng như vậy trú ngụ,
Và do đó chúng sanh và chư Phật đều như nhau.
Tất nhiên, cả hai không bình đẳng về phẩm chất. Nhưng theo nghĩa là chúng sanh có khả năng hỗ trợ chúng ta tích lũy công đức và đạt được giác ngộ, chúng ta có thể nói rằng họ bình đẳng.
119.
Chư Phật là những người bạn thật sự có thể tin cậy của tôi.
Vô biên những lợi ích mà họ mang lại cho tôi.
Làm thế nào khác tôi có thể trả ơn lòng tốt của họ
Nhưng bằng cách làm cho chúng sanh hạnh phúc?
122.
Chư Phật được hạnh phúc bởi niềm vui của chúng sanh.
Các ngài buồn rầu, than thở khi chúng sanh đau khổ.
Bằng cách mang lại niềm vui cho chúng sanh, rồi thì, tôi cũng làm hài lòng
chư Phật;
Khi làm tổn thương họ, tôi cũng làm tổn thương chư Phật.
Nếu chúng ta thật sự quy y Phật, thì chúng ta nên tôn trọng hạnh nguyện của các ngài. Rốt cuộc, trong cuộc sống bình thường, việc thích nghi theo một cách nào đó với bạn bè và tôn trọng mong muốn của họ là điều bình thường. Khả năng làm như vậy được coi là một phẩm chất tốt. Thật đáng buồn nếu một mặt chúng ta nói rằng chúng ta quy y với tấm lòng thành kính nơi Phật, Pháp và Tăng, nhưng mặt khác, trong hành động của chúng ta, chúng ta xem thường quên lãng những gì làm phật lòng tam bảo. Chúng ta sẵn sàng tuân theo tiêu chuẩn của người bình thường chứ không phải theo tiêu chuẩn của chư Phật và Bồ Tát. Thật khốn khổ! Chẳng hạn, nếu một tín đồ Đấng Ki Tô thật sự yêu mến Đức Chúa Trời, thì người ấy nên thực hành tình yêu thương đối với tất cả những người đồng loại của mình. Nếu không, ta không tuân theo tôn giáo của mình: lời nói và việc làm của ta trái ngược nhau.
127.
Chính điều này làm hài lòng chư Phật
Và hoàn toàn bảo đảm an lạc cho chính tôi.
Điều này sẽ xua tan nỗi buồn khổ của thế giới,
Và do đó nó sẽ là công việc thường xuyên của tôi.
Ví dụ, các đại sứ của một vị vua hay tổng thống phải được tôn trọng, cho dù trông họ có vẻ không ấn tượng đến đâu, bởi vì họ đại diện cho cả một quốc gia. Tương tự như vậy, tất cả chúng sanh, dù khốn khổ đến đâu, đều ở dưới sự bảo vệ của chư Phật và Bồ tát. Như vậy trực tiếp hại chúng sanh, là gián tiếp làm đau chư Phật, Bồ tát. Đây là điều chúng ta nên hết sức cẩn thận.
Nếu chúng ta có thể làm hài lòng chúng sanh, thì không cần phải nói rằng điều này sẽ góp phần giúp chúng ta đạt được sự toàn tri. Ngay trong đời này, chúng ta sẽ hạnh phúc và thoải mái, được nghĩ đến tốt và có nhiều bạn bè. Trong những kiếp tương lai, chúng ta sẽ xinh đẹp, mạnh mẽ và khỏe mạnh, và chúng ta sẽ tái sanh trong những cõi cao hơn, với tám phẩm chất là kết quả của những hành động tích cực. Dưới những điều kiện thuận lợi như vậy, cuối cùng chúng ta sẽ đạt được giác ngộ. Vì vậy, giúp đỡ người khác là nền tảng trên con đường dẫn đến Phật quả.
Chương rất quan trọng này về sự kiên nhẫn là nền tảng cho chương thứ tám, trong đó cho thấy làm thế nào chúng ta có thể mang lại lợi ích cho người khác thông qua việc hiểu được những phẩm chất của lòng vị tha và những bất lợi của chủ nghĩa vị kỷ.
Nói chung, chính ý niệm về kẻ thù là chướng ngại chính cho tâm bồ đề. Nếu chúng ta có thể biến đổi một kẻ thù thành người mà mình tôn trọng và biết ơn, thì sự tu tập của chúng ta sẽ tự nhiên tiến triển như nước chảy theo kênh rạch đào trong lòng đất.
Nhẫn nhục có nghĩa là không tức giận với những người làm hại chúng ta mà thay vào đó là có lòng từ bi đối với họ. Điều đó không có nghĩa là chúng ta nên để họ làm những gì họ thích. Ví dụ, những người Tây Tạng chúng tôi đã trải qua những khó khăn lớn dưới bàn tay của những người khác. Nhưng nếu chúng tôi tức giận với họ, chúng tôi chỉ có thể là người thua cuộc. Đây là lý do tại sao chúng tôi đang thực hành kiên nhẫn. Nhưng chúng ta sẽ không bỏ qua sự bất công và áp bức.
Ẩn Tâm Lộ, 2023
Chương 8: Tinh Tấn Nổ Lực
***
Sau khi phát bồ đề tâm và thực hiện các bước để ngăn không cho nó suy thoái, bây giờ chúng ta phải học cách phát triển nó một cách liên tục. Đây là chủ đề của ba chương tiếp theo của Tịch Thiên, chương đầu tiên dành cho tinh tấn.
Tại sao nỗ lực là cần thiết? Nếu chúng ta xem xét tiến bộ vật chất, chúng ta thấy rằng nghiên cứu do một người bắt đầu luôn có thể được tiếp tục bởi một người khác. Nhưng điều này là không thể với sự tiến bộ tâm linh. Sự chứng ngộ mà chúng ta nói đến trong Phật pháp là điều gì đó phải được hoàn thành bởi cá nhân. Không ai khác có thể làm điều đó cho chúng ta. Tất nhiên, sẽ thật tuyệt vời nếu trong tương lai chúng ta có thể đạt được chứng ngộ thông qua một loại tiêm chích mới nào đó hoặc bằng phương tiện của một thế hệ máy tính mới mà không phải trải qua bất kỳ khó khăn nào. Nếu chúng ta có thể hoàn toàn chắc chắn rằng một thời điểm như vậy sẽ đến, chúng ta chỉ cần nằm xuống và chờ đợi để được giác ngộ. Nhưng tôi nghi ngờ rằng điều này sẽ không bao giờ xảy ra. Tốt hơn là thực hiện một nỗ lực. Chúng ta phải phát triển tinh tấn nổ lực.
1.
Vì vậy, với sự kiên nhẫn, tôi sẽ phấn đấu với sự tinh tấn.
Vì trong sự siêng năng như vậy, sự giác ngộ được tìm thấy.
Nếu không có gió thổi, thì không có gì khuấy động,
Và cũng không có công đức nếu không siêng năng.
Chúng ta có thể kiên nhẫn theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như không nghĩ xấu về những người làm hại chúng ta hoặc chấp nhận đau khổ như một con đường. Trong hai điều này, điều sau quan trọng hơn để phát sinh tinh tấn, và chính tinh tấn giúp chúng ta đạt được giác ngộ. Như Tịch Thiên nói, "Trong sự siêng năng như vậy, giác ngộ được tìm thấy." Cũng giống như cách bảo vệ ngọn đèn khỏi gió giúp ngọn lửa cháy không chập chờn, tinh tấn giúp cho tâm đức hạnh phát triển không bị xáo trộn.
Tinh tấn nỗ lực là gì? Đó là tìm thấy niềm vui khi làm điều tốt. Để làm được điều đó, cần phải loại bỏ bất cứ thứ gì chống lại nó, đặc biệt là sự lười biếng. Sự lười biếng có ba khía cạnh: không muốn làm điều tốt, bị phân tâm bởi những hoạt động tiêu cực, và tự đánh giá thấp bản thân bằng việc nghi ngờ khả năng của mình. Liên quan đến những điều này là niềm vui thích quá mức trong sự nhàn rỗi và giấc ngủ và thờ ơ với luân hồi như một trạng thái đau khổ,
4.
Bị mắc bẫy bởi bẫy rập của cảm xúc ô nhiễm,
Bị vướng mắc và bị cuốn vào những khó nhọc sanh tử,
Một lần nữa, bạn đã đi lạc vào miệng của Thần chết.
Nó là gì? Bạn vẫn chưa hiểu?
Tất cả chúng ta đều muốn được hạnh phúc và tránh đau khổ. Nhưng vì những cảm xúc tiêu cực, tâm trí của chúng ta không bao giờ bình yên. Khi chúng nảy sinh, những suy nghĩ tiêu cực sẽ quấy rầy tâm trí chúng ta và tạo ra một bầu không khí tiêu cực xung quanh chúng ta. Hơn nữa, những cảm xúc này khiến chúng ta có thể đau khổ trong tương lai bất cứ khi nào chúng ta gặp phải những hoàn cảnh khó khăn. Trong khi chúng vẫn tồn tại, làm sao chúng ta có thể chịu đựng được chúng? Chúng ta biết rằng mình sẽ chết, nhưng làm sao biết được khi nào? Kể từ giây phút này trở đi, chúng ta phải nỗ lực.
7.
Cái chết sẽ đột kích vào bạn rất nhanh.
Hãy tích lũy công đức cho đến khi thời điểm đó tới!
Vì ngay cả khi sau đó bạn vứt bỏ sự lười biếng của mình,
Bạn sẽ làm gì khi không còn thời gian?
Nếu đợi đến lúc lâm chung mới quyết định nỗ lực thì đã quá muộn. Vào thời điểm đó, chúng ta có thể vô cùng đau đớn, cả về thể xác lẫn tinh thần, bị tra tấn bởi nỗi sợ hãi về những điều chưa biết, bởi ký ức về những hành động tiêu cực của mình, và bởi sự dính mắc với những người thân thiết với chúng ta.
8.
"Điều này tôi chưa làm, và điều nọ tôi mới bắt đầu.
Và điều kia tôi mới chỉ làm được nửa chừng..."
Rồi thì là sự xuất hiện đột ngột của Thần chết,
Và ồ, ý nghĩ "Than ôi, tôi đã kết thúc!"
9.
Bạn sẽ nhìn vào khuôn mặt của những người bạn vô vọng của mình,
Đôi má đẫm lệ, đôi mắt sưng đỏ của họ
(Vì đó sẽ là vực sâu của nỗi đau khổ của họ),
Và sau đó bạn sẽ thấy những sứ giả của Thần chết.
14.
Vì vậy, hãy tận dụng chiếc thuyền nhân loại này.
Giải thoát bản thân khỏi dòng chảy mạnh mẽ của đau khổ!
Con tàu này sau này sẽ khó tìm thấy.
Thời gian mà bạn có bây giờ, đồ ngốc, không phải dành cho ngủ!
15.
Bạn quay lưng lại với Giáo lý thiêng liêng,
Niềm vui tối cao và nguồn hạnh phúc vô biên.
Tại sao lại thích thú trong sự phấn khích đơn thuần,
Trong những điều xao lãng sẽ khiến bạn đau khổ?
Hầu hết mọi người không muốn nghe về cái chết, chứ đừng nói đến việc suy ngẫm về nó. Nhưng nếu chúng ta đã rèn luyện tâm thức của mình và có thể đối mặt với cái chết với sự tự tin và thái độ hoàn toàn tích cực, thì chúng ta sẽ không có gì phải sợ hãi. Đồng thời, trong suốt cuộc đời của chúng ta, những phẩm chất này sẽ giúp chúng ta rất nhiều. Vì vậy, trong khi chúng ta có cuộc sống con người quý giá này, mà nhờ đó chúng ta có thể đạt được rất nhiều điều, chúng ta đừng để mình bị choáng ngợp bởi cảm giác lười biếng, không hướng đến những hành động tích cực.
Trong mối liên hệ này, chúng ta nên xem xét chủ đề tái sanh, mà Phật giáo định nghĩa là sự liên tục của tâm từ kiếp này sang kiếp khác. Một tâm thức trong tương lai phụ thuộc vào một tâm thức trước đó, mà nó là sự tiếp nối. Nó không thể được tạo ra bởi cái gì khác ngoài ý thức. Ý thức, chứ không phải cái gì khác, phải là nguyên nhân của ý thức tương lai.
Ở đây chúng ta phải hiểu sự khác biệt giữa ý thức thô và ý thức vi tế. Nói chung, ý thức gắn liền với bộ não và các quá trình hóa học của nó. Nhưng theo tôi, chỉ có ý thức thô được quyết định bởi những yếu tố như vậy. Đúng là các ý thức thô liên quan đến các hoạt động nhìn, nghe, v.v. phụ thuộc vào cơ thể con người và các giác quan của nó. Cái mà chúng ta gọi là ý thức con người là ý thức thô của con người sử dụng cơ thể làm chỗ dựa. Ý thức mà các dạng sống khác, chẳng hạn như động vật, sở hữu là khác bởi vì bộ não của chúng khác.
Tuy nhiên, sẽ rất khó để chứng minh sự tái sanh chỉ đơn giản dựa trên cơ sở của các ý thức thô của các giác quan khác nhau sử dụng bộ não làm chỗ dựa. Những thức thô này xuất hiện khi các giác quan phát triển trong bụng mẹ. Nhưng tâm thức tiếp tục từ đời này sang đời khác là một tâm thức vi tế - khả năng trải nghiệm và nhận thức, sự sáng suốt tự nhiên của tâm. Nếu không có nguyên nhân nào cho tâm vi tế này (chẳng hạn như tâm vi tế của kiếp trước), ý tưởng về sự tái sanh trên thực tế sẽ khó giải thích.
Bỏ qua một bên ký ức - thứ cho phép chúng ta nhớ lại, chẳng hạn, những trải nghiệm của chúng ta, tất cả chúng ta đều có những trải nghiệm của tuổi thơ – tất cả chúng ta có những khuynh hướng tiềm ẩn và vô thức phát sinh trong những hoàn cảnh nhất định và ảnh hưởng đến cách phản ứng của tâm trí chúng ta. Những xu hướng như vậy là sản phẩm của những trải nghiệm mạnh mẽ trong quá khứ gần đây hoặc lâu xa khiến chúng ta phản ứng một cách vô thức mà không nhất thiết phải nhớ những trải nghiệm đó. Thật khó để giải thích những khuynh hướng này và cách chúng biểu hiện thế nào ngoài việc nói rằng chúng là dấu ấn của những kinh nghiệm trong quá khứ đối với ý thức vi tế quá khứ.
Khi chúng ta nói đến thuyết vụ nổ lớn “big bang” để giải thích nguồn gốc của vũ trụ, là Phật tử, chúng ta phải nói rằng bản thân vụ nổ lớn có nguyên nhân. Mọi thứ đều là sản phẩm của một chuỗi nhân quả vô tận, nhưng trên thực tế chúng ta không thể tìm ra nguyên nhân gốc rễ của tất cả những điều này. Không có khởi đầu cho ý thức, cho chuỗi tái sanh của chúng ta, hay cho các hạt tạo nên vũ trụ. Nó đơn giản là tính bản nhiên của sự vật.
Trong bối cảnh này, các hiện tượng được phân tích theo các tác động mà chúng tạo ra hoặc theo sự phụ thuộc lẫn nhau của chúng. Khi phân tích về sự phụ thuộc lẫn nhau, chúng ta nói rằng nếu quả tồn tại thì nguyên nhân tồn tại. Điều này đúng với tâm thức cũng như đối với những hạt. Khi chúng ta trộn hai chất hóa học, một phản ứng hóa học xảy ra và một chất mới được tạo ra. Tương tự như vậy, nếu một người rất nóng tính thực hành lòng từ ái trong một thời gian dài, tính cách của người đó sẽ dần dần thay đổi. Tất nhiên, anh ta có thể không hoàn toàn loại bỏ được xu hướng tức giận của mình, nhưng anh ta sẽ ít có khả năng làm như vậy hơn. Sự biến đổi tính cách này của anh ta diễn ra do sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai loại tâm, tức giận và yêu thương. Liên quan đến phân tích về hiệu ứng được tạo ra, chúng ta có thể nói về một phản ứng hóa học như một sự thay đổi của nội chuyển lực. Đối với tâm cũng vậy. Nếu một người quán chiếu về những tác hại của sân hận và những tác dụng có lợi của tình thương, người đó sẽ có được một niềm tin mới vào sức mạnh của tình thương, và xu hướng yêu thương của người đó ngày càng mạnh mẽ hơn. Đây là bản chất của sự vật, và điều quan trọng là phải đánh giá cao nó. Tôi không biết ý tưởng về bản chất của Phật giáo này có làm hài lòng mọi người hay không, nhưng nó trả lời rất nhiều câu hỏi.
Trở lại chủ đề tinh tấn nỗ lực – nếu chúng ta muốn thoát khỏi sự lười biếng không thích những hành động tích cực, chúng ta nên nghĩ rằng kiếp người của chúng ta ngắn ngủi biết bao. Từ tiếng Phạn của sự lười biếng, alassya, có nghĩa là "không tận dụng." Bất kỳ hành động tích cực nào chúng ta thực hiện sẽ mang lại lợi ích cho chúng ta bây giờ và trong tương lai. Mặt khác, để mình bị ảnh hưởng bởi những cảm xúc tiêu cực sẽ hủy hoại chúng ta trong đời này và những đời sau, vì vậy chúng ta cũng nên tránh lãng phí cuộc đời mình qua những oại lười biếng thứ hai: bị phân tâm bởi những hành động tiêu cực.
16.
Đừng thất vọng, nhưng hãy sắp xếp mọi năng lực của bạn;
Thực hiện sự nỗ lực; hãy làm chủ chính mình!
Thực hành bình đẳng giữa mình và người;
Thực hành trao đổi giữa bản thân và người khác.
Loại lười biếng thứ ba phát sinh từ việc đánh giá thấp bản thân và nghĩ rằng bạn sẽ không bao giờ có thể đạt được giác ngộ. Nhưng không cần phải nản lòng theo cách này. Tất cả chúng ta đều có tiềm năng thành Phật. Bản chất tối hậu của tâm, mặc dù không phải là điều gì hữu hình, nhưng vẫn hiện diện trong mỗi người ngay cả khi nó bị che khuất. Vì điều này, ngay cả con côn trùng nhỏ nhất cũng có thể đạt được giác ngộ nếu nó nỗ lực.
17.
“Ồ, nhưng làm sao tôi có thể giác ngộ được?”
Đừng bào chữa cho mình với sự chán nản như vậy!
Đức Phật, người đã tuyên bố sự thật,
Đã thật sự lên tiếng và tuyên bố
18.
Rằng nếu họ phát huy sức mạnh của sự kiên trì,
Ngay cả ong và ruồi
Và muỗi và sâu bọ cũng sẽ đạt được
Giác ngộ vô thượng rất khó tìm.
19.
Và nếu, do sanh ra và dòng dõi loài người,
Tôi có thể phân biệt thiện ác
Và không bỏ qua các việc làm của Bồ tát,
Tại sao tôi không thể đạt được quả vị Phật?
Chúng ta cũng không nên lo lắng rằng mình sẽ không bao giờ có thể hoàn thành những hoạt động Bồ tát khó khăn như bố thí thân thể, tài sản và tất cả công đức của mình. Là những người mới bắt đầu, chúng ta có thể chưa sẵn sàng cho việc này, vì vậy chúng ta nên bắt đầu bằng cách đơn giản phát khởi ước muốn bố thí những thứ này và bố thí chúng trong tâm, sử dụng con đường phương tiện và trí tuệ. Khi sự thực hành của chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn, chúng ta sẽ đạt đến một điểm mà chúng ta biết rằng việc cho đi thân xác của mình là điều thích hợp, và chúng ta sẽ thật sự có thể làm như vậy mà không phải chịu bất kỳ đau khổ nào về thể xác hay tinh thần.
28.
Công đức là nguyên nhân thật sự của sự thoải mái của cơ thể,
Trong khi hạnh phúc của tâm trí có được thông qua sự hiểu biết.
Điều gì có thể làm buồn lòng những người có lòng từ bi,
Những người vẫn còn trong luân hồi vì lợi ích của chúng sanh?
30.
Cưỡi trên ngựa bồ đề tâm,
Điều gì đánh bay mọi mệt mỏi buồn bã,
Người sáng suốt nào có thể tuyệt vọng
Tiến hành theo cách này từ niềm vui này đến niềm vui khác?
Trong Tràng Hoa Quý Báu có nói rằng cần phải tích tập vô lượng công đức trong vô lượng kiếp để thành tựu Phật quả. Chúng ta đừng nản lòng vì điều này, nghĩ rằng, Làm sao tôi có thể tích lũy được nhiều công đức như vậy? Thay vào đó, chúng ta hãy ước nguyện dẫn dắt vô số chúng sanh đến những phẩm chất vô hạn của Phật quả bằng cách thực hiện vô số hoạt động của chư Bồ-tát trong một khoảng thời gian vô tận. Với một khoảnh khắc có ý định như vậy, với bốn đặc tính vô hạn này, chúng ta có thể tích lũy công đức rất dễ dàng. Vì vậy, chúng ta đừng để bị ảnh hưởng bởi sự lười biếng đến nản lòng.
31.
Những sức mạnh bảo đảm lợi ích của chúng sanh,
Là nguyện vọng, kiên định, từ bỏ và niềm vui.
Nguyện vọng lớn lên qua nỗi sợ đau khổ
Và sự quán chiếu về những lợi ích sẽ đạt được.
Để tạo ra nỗ lực, chúng ta cần bốn sự hỗ trợ: nguyện vọng, kiên định, từ bỏ và niềm vui. Nguyện vọng được phát triển bằng cách quán chiếu về nghiệp, về nhân và quả. Như bạn đã biết, một kết quả tốt đến từ một hành động tích cực và một kết quả xấu đến từ một hành động tiêu cực. Vì vậy, để đạt được trạng thái của Đức Phật, người không có mọi khiếm khuyết và được phú bẩm mọi phẩm chất tốt đẹp, sẽ cần phải tích lũy vô lượng công đức và tịnh hóa vô số chướng ngại trong một khoảng thời gian nhiều kiếp. Hãy nghĩ xem bạn có khuynh hướng nhỏ bé như thế nào, trong cuộc đời ngắn ngủi này, để làm những hành động tích cực và tịnh hóa những chướng ngại của bạn. Bạn nên thúc đẩy bản thân nỗ lực.
42.
Nhưng nếu hành động của tôi là tốt, có ý định chân thành,
Rồi dù quay bước về đâu
Công đức đạt được sẽ tôn vinh tôi
Với lợi ích kết quả của nó.
43.
Nhưng nếu, thông qua việc tìm kiếm hạnh phúc, những việc làm của tôi là sai trái
Bất kể tôi rẽ bước đi đâu,
Những nhát dao đau khổ sẽ chém tôi,
Là quả báo của một đời tội lỗi.
44.
Nhờ đức hạnh, tôi sẽ an nghỉ trong tâm mát lành của đóa sen tỏa ngát hương,
Với sự huy hoàng được trưởng dưỡng bởi những lời ngọt ngào của Đấng Chiến Thắng.
Rồi từ hoa sen nở ra trong ánh sáng của Hiền nhân, trong hình tướng tối cao, tôi sẽ trỗi dậy
An trú, người thừa kế của Đức Phật hạnh phúc, trong sự hiện diện của
những Đấng Chiến Thắng.
Kinh Lá cờ Kim cang[30] nói về sự vững chắc, hay sự tự tin, theo những thuật ngữ này: "Khi mặt trời mọc, nó chiếu sáng khắp thế giới, bất kể người mù hay bóng núi. Tương tự như vậy, khi một vị Bồ-tát thị hiện vì lợi ích của những người khác, ngài đưa chúng sanh đến giải thoát, bất chấp những chướng ngại của họ.”
Tịch Thiên tiếp tục với lời khuyên này:
47.
Trước tiên hãy để tôi xem xét dự bị của mình
Bắt đầu hay không bắt đầu cho phù hợp.
Không bắt đầu thì tốt hơn,
Nhưng một khi đã bắt đầu thì không nên rút lui.
Trước khi làm bất cứ điều gì, chúng ta nên luôn tự hỏi liệu mình có thể làm đúng và hoàn thành nó hay không. Nếu câu trả lời là không, chúng ta không nên bắt đầu. Để lại những nhiệm vụ chưa hoàn thành sẽ tạo ra một thói quen cho tương lai. Vì vậy, một khi chúng ta đã bắt đầu một việc gì đó, chúng ta nên chắc chắn không đảo ngược quyết định của mình.
Sự tự tin không được nhầm lẫn với niềm kiêu ngạo. Kiêu ngạo là tự đánh giá cao mình mà không có lý do chính đáng. Tự tin là biết rằng mình có khả năng làm đúng một việc gì đó và quyết tâm không bỏ cuộc.
Chúng sanh bình thường sẵn sàng nỗ lực rất nhiều cho những mục đích tương đối tầm thường. Chúng ta đã hứa sẽ làm việc vì mục tiêu vô cùng quan trọng hơn là giải thoát tất cả chúng sanh, vì vậy chúng ta nên trau dồi lòng tự tin lớn lao, nghĩ rằng, Ngay cả khi tôi là người duy nhất làm như vậy, tôi cũng sẽ làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.
50.
Bị chế ngự bởi những phiền não của tâm,
Người thế gian bất lực trong việc bảo đảm hạnh phúc của họ.
So với những người lang thang, tôi có thể!
Do đó, đây sẽ là nhiệm vụ của tôi.
52.
Khi họ tìm thấy một con rắn đang hấp hối,
Ngay cả những con quạ cũng cư xử như những con đại bàng đang bay vút lên.
Vì vậy, nếu tôi yếu đuối và nhu nhược,
Ngay cả những lỗi lầm nhỏ cũng sẽ tấn công và làm tổn thương tôi.
53.
Nhưng nếu, chán nản, tôi từ bỏ cố gắng,
Làm thế nào tôi có thể đạt được tự do từ tình trạng khốn khổ?
Nhưng nếu tôi giữ vững lập trường của mình với quyết tâm kiêu hãnh,
Thì ngay cả những lỗi lầm lớn nhất cũng khó có thể tấn công tôi.
Tuy nhiên, giải pháp của chúng ta không nên liên quan đến niềm tự hào thông thường, đó là một cảm xúc tiêu cực. Ngược lại, chúng ta nên tự tin đối với những cảm xúc tiêu cực, quyết tâm không để chúng khuất phục.
55.
"Tôi sẽ là người chiến thắng trên tất cả,
Và không gì thắng nổi và hạ gục tôi!”
Con cháu của Sư Tử, Đấng Chinh Phục,
Nên thường xuyên an trú trong sự tự tin này.
Đây là loại tự hào mà chúng ta cần - sự tự tin không chấp nhận sự thống trị của những cảm xúc tiêu cực và làm mọi thứ để tiêu diệt chúng. Chủ nghĩa anh hùng của Bồ-tát nằm trong việc sử dụng lòng tự tin này để đối đầu với những cảm xúc tiêu cực và chinh phục lòng kiêu hãnh. Những người không có sự tự tin như vậy để bản thân bị xâm chiếm bởi lòng kiêu hãnh và những cảm xúc khác chỉ với một sự khiêu khích nhỏ nhất. Không có gì anh hùng về điều đó. Dù phải trả giá bằng mạng sống của mình, chúng ta cũng đừng bao giờ để mình bị những cảm xúc này chi phối.
61.
Dù mối nguy hiểm của họ lớn đến đâu,
Mọi người sẽ theo phản xạ bảo vệ đôi mắt của họ.
Và tôi cũng vậy, dù nguy hiểm đến đâu,
Không được gục ngã dưới quyền lực của nhiễm ô.
Về niềm vui, một khi chúng ta đã phát bồ đề tâm, chúng ta nên thực hiện các hoạt động của một vị Bồ tát với niềm hân hoan vui vẻ. Chúng ta càng thực hành nhiều, chúng ta càng mong muốn tiến bộ hơn nữa.
65.
Và vì họ không bao giờ có đủ niềm vui,
Mật ong trên lưỡi dao cạo,
Làm sao họ có đủ công đức,
Kết quả của hạnh phúc và bình an?
66.
Con voi, bị dày vò bởi ánh nắng trưa,
Sẽ lặn xuống nước hồ,
Và tương tự như vậy, tôi phải lao vào công việc của mình
Để tôi có thể hoàn thành nó.
Từ đời này sang đời khác chúng ta luôn tìm kiếm hạnh phúc, tuy nhiên, vì chúng ta luôn bị những cảm xúc tiêu cực chi phối, nên chúng ta chỉ gặp khó khăn. Tái sanh làm người, chim, nai, côn trùng, v.v., chúng ta chưa bao giờ có được hạnh phúc lâu dài. Không có gì để chứng minh cho tất cả những nỗ lực chúng ta đã thực hiện để được hạnh phúc và tránh đau khổ. Bây giờ chúng ta đã bắt đầu trên con đường Bồ tát, chúng ta nên thực hành với niềm vui và không nản lòng bởi một vài khó khăn chắc chắn sẽ xảy ra lúc đầu. Những nỗ lực của chúng ta chắc chắn sẽ đơm hoa kết trái.
Điều độ sẽ được áp dụng, như đôi khi xảy ra với tất cả chúng ta, chúng ta trở nên kiệt quệ về thể chất và tinh thần và không thể tiếp tục, cho dù chúng ta có cố gắng đến đâu. Những lúc như vậy chúng ta không nên gượng ép mà nên dừng lại nghỉ ngơi để sau này làm việc gì cũng được chu đáo và trọn vẹn.
Khi chúng ta đã loại bỏ được sự lười biếng và có được cảm giác nhiệt tình nhờ ước nguyện, kiên định, xả ly và hoan hỷ, chúng ta nên thực hành cố gắng bằng cách áp dụng chánh niệm và lưu tâm Dù trong hay giữa các thời thiền, chúng ta phải luôn giữ tâm tập trung vào hành động tích cực. Chúng ta có thể thiền định về bồ đề tâm khá tốt trong một thời gian ngắn, nhưng nếu chúng ta không cẩn thận duy trì chánh niệm và lưu tâm mọi lúc, chúng ta có nguy cơ phạm lỗi và vi phạm giới nguyện của mình.
Mặc dù chúng ta có thể tập trung vào một khía cạnh cụ thể của con đường tại một thời điểm, nhưng điều quan trọng là phải có sự cân bằng tổng thể giữa các khía cạnh khác nhau. Thiền định nên tiến triển song hành với việc học hỏi, không được sao nhãng bất cứ phương diện nào. Sau khi giải tỏa những nghi ngờ một cách trí tuệ, chúng ta nên hợp nhất sự hiểu biết của mình với kinh nghiệm thiền định. Bằng cách này, sự thực hành của chúng ta sẽ cân bằng và trọn vẹn.
Vì vậy, chúng ta hãy với chánh niệm và sự lưu tâm, cẩn thận đẩy lùi sự tấn công của những cảm xúc tiêu cực, chấm dứt những kẻ thù này của chúng ta để không sa vào những hoạt động sai trái.
69
Nếu trong lúc hỗn chiến, người lính đánh rơi gươm,
Sợ hãi, anh ta nhanh chóng cầm nó lên một lần nữa.
Cũng vậy, nếu mất cánh tay chánh niệm,
Sợ đọa địa ngục, Tôi mau lấy lại!
Đó là những mối nguy hiểm của việc trở nên quá giải đải và đánh mất chánh niệm.
70.
Giống như chất độc tràn đầy cơ thể,
Sinh ra trên dòng chảy của máu,
Điều ác cũng thế, khi có cơ hội,
Sẽ lan tràn và tràn ngập tâm trí.
Về cách thật sự thực hành chánh niệm và lưu tâm, Tịch Thiên tiếp tục:
71.
Tôi sẽ như kẻ sợ hãi, tay cầm bình dầu đầy ắp,
Và bị đe dọa bởi một kiếm sĩ nói,
"Làm đổ một giọt và ngươi sẽ chết!"
Đây là cách các hành giả nên giữ mình.
73.
Rồi thì mỗi lần tôi thất bại,
Tôi sẽ khiển trách và la rầy chính mình,
Suy nghĩ lâu rằng bằng mọi cách
Những lỗi như vậy trong tương lai sẽ không xảy ra nữa.
74.
Bất cứ lúc nào và trong bất kỳ tình huống nào,
Làm sao tôi có thể làm cho chánh niệm thành thói quen thường xuyên của tôi?
Nghĩ như vậy tôi sẽ ham muốn
Được gặp đạo sư và hoàn thành đúng nhiệm vụ.
Một khi chúng ta có thể thực hành chánh niệm và lưu tâm vào những gì chúng ta làm, thì chúng ta sẽ không bao giờ cảm thấy mệt mỏi hay chán nản. Chúng ta sẽ luôn sẵn sàng để tiếp tục.
76.
Giống như sợi lanh đung đưa qua lại,
Được thúc đẩy bởi từng hơi thở của gió,
Vì vậy, tất cả những gì tôi làm sẽ đạt được,
Được điều khiển bởi những chuyển động của một trái tim vui vẻ.
Thực hành tâm linh lúc đầu khó khăn. Bạn tự hỏi trời ơi làm sao bạn có thể làm được. Nhưng khi bạn đã quen với nó, việc thực hành dần trở nên dễ dàng hơn. Đừng quá bướng bỉnh hoặc cố gắng quá sức. Nếu bạn thực hành phù hợp với khả năng cá nhân của mình, dần dần bạn sẽ thấy thích thú và hào hứng hơn trong đó. Khi bạn có được sức mạnh bên trong, những hành động tích cực của bạn sẽ đạt được chiều sâu và tầm xa.
Ẩn tâm lộ, 2023
Chương 9: Thiền Tập Trung
***
1.Sự siêng năng trau dồi như vừa mô tả,
Trong sự tập trung, tôi sẽ làm sáng tỏ tâm thức mình.
Đối với những ai có tâm thức giải đải và lang thang
Đang bị kẹt giữa nanh vuốt của những phiền não.
Để tăng cường sự thực hành của chúng ta, cần phải phát triển sự tập trung nhất tâm của tâm thức. Để làm được điều này, trước tiên chúng ta cần hiểu những bất lợi của việc bị phân tâm. Thiếu sự tập trung ngăn cản chúng ta giữ tâm trí tập trung vào đối tượng thiền tập. Tâm thức đi theo bất kỳ suy nghĩ nào nảy sinh, và sau đó, rất dễ để những cảm xúc tiêu cực phát triển. Bất kỳ hành động tích cực nào chúng ta làm sẽ không nhận ra được hiệu quả đầy đủ của chúng. Do đó, phân tâm là một khiếm khuyết lớn, và điều rất quan trọng là phải chống lại nó bằng cách phát triển sự tĩnh lặng của tâm thức (shamatha- thiền chỉ)
Việc thực hành sự tĩnh lặng tinh thần (thiền chỉ) không chỉ có ở Phật giáo. Các truyền thống phi Phật giáo bao gồm các phương pháp để phát triển sự tĩnh lặng của tâm thức, qua đó có thể đạt được trạng thái tập trung của các chư thiên vô sắc (devas) trong cõi hư vô[31]. Trong trạng thái này, những cảm xúc tiêu cực lắng xuống nhưng không hoàn toàn bị tiêu trừ, chúng vẫn tiềm ẩn. Do đó, sự tĩnh lặng của tâm trí tự nó không phải là điều đặc biệt duy nhất. Nhưng sự tập trung nhất tâm này rất quan trọng trong việc phát triển đầy đủ sức mạnh của các hoạt động tích cực và rất thiết yếu đối với việc thực hành tuệ giác trong sáng (vipashyana- thiền quán) của chúng ta. Quan điểm Trung Quán tông (Madhya-mika), phổ biến trong cả Kinh thừa Hiển Giáo và Mật thừa, được thiết lập thông qua lý luận phân tích cho đến khi chúng ta có được sự chắc chắn trong đó.[32] Đây là một điều rất vi tế và trừ khi sức mạnh tập trung của chúng ta ổn định, nếu không sẽ có nguy cơ mất đi quan điểm về táng không này. Sự tập trung (định lực) của chúng ta càng ổn định, thì sự thấu hiểu của chúng ta về tánh không sẽ càng rõ ràng hơn.
Chúng ta muốn nói gì khi nói đến thiền tập? Đầu tiên, có hành thiền thông qua phân tích, theo đó chúng ta liên tục xem xét một đối tượng cho đến khi chúng ta đạt được một mức độ chắc chắn về bản chất của nó. Khi chúng ta không thể tiến xa hơn với phân tích, chúng ta để bản thân nghỉ ngơi trong trạng thái sáng suốt và tự tin mà chúng ta đã đạt được. Đây là thiền định bố trí. Chính là loại thiền sau được sử dụng trong các thực hành như quán tưởng các vị bổn tôn và rèn luyện sự tĩnh lặng của tâm thức, nơi ta đang phát triển sức mạnh của sự tập trung.
Người ta cũng có thể thiền định về lòng sùng kính, để thấu hiểu và tăng cường nó; hoặc về sự vô thường, nơi người ta chiêm nghiệm một vật thể và cách thức nó liên tục thay đổi; hoặc về tánh không, nhận ra rằng vật thể không có sự tồn tại thật sự.
Có nhiều cách để mô tả nhận thức về sự vật. Trong thiền định, điều quan trọng là có thể phân biệt giữa đối tượng được nhận thức, đối tượng trong chính nó, đối tượng như nó được coi là, và đối tượng của ý định[33]. Chúng ta cũng nên nghiên cứu năm khuyết điểm cần tránh trong thiền định tĩnh tâm, được đề cập trong Luận về Trung tâm và Cực đoan[34].
Tóm lại, thiền tập là một cách rèn luyện và chuyển hóa tâm thức và nó chắc chắn làm được điều này. Đối với mục đích của chúng ta, điều chính là phát triển sự tập trung nhất tâm của sự tĩnh lặng trong tâm thức và thiền định về bồ đề tâm. Để sự tập trung trở nên rõ ràng, chúng ta cần những điều kiện phù hợp, cụ thể là, thoát khỏi những phiền nhiễu bên ngoài. Lý tưởng nhất là thiền định ở một nơi vắng vẻ có lợi cho sự thanh thản về thể chất và tinh thần.
3.
Vì người thân và lòng tham muốn lợi lộc,
Chúng ta không thể tránh xa những thứ thế gian.
Vậy thì, đây là những thứ đầu tiên phải từ bỏ.
Người khôn ngoan nên hành xử như thế này.
4.
Sự thấu suốt kết hợp với sự an trụ hoàn toàn
diệt trừ các trạng thái đau khổ.
Biết điều này, trước tiên hãy tìm kiếm sự an trụ,
Được tìm thấy bởi những người vui thích được thoát khỏi những ràng buộc trần gian
7.
Nếu tôi khao khát những chúng sanh khác,
Một tấm màn che phủ chân lý hoàn hảo.
Sự vỡ mộng lành mạnh tan biến,
Và cuối cùng là nỗi đau nhói lên.
8.
Tôi chỉ nghĩ đến họ,
Và cuộc sống của tôi bị hủy hoại như vậy.
Gia đình và bạn bè tôi đều thay đổi và qua đời, vì họ
Pháp bất biến bị loại bỏ.
Vì chúng ta vô thường, liệu có đáng để quá gắn bó với những người khác, những người cũng vô thường? Có thật sự đáng để tức giận với họ không? Hãy suy ngẫm về điều này và ngăn chặn dòng bám víu và ác cảm.
9.
Vì nếu tôi hành động như những chúng sanh trẻ con,
Chắc chắn là tôi sẽ sa vào số phận xấu xa.
Vậy tại sao tôi lại giao du với những đứa trẻ,
Những đứa dẫn tôi đến một trạng thái xa rời đức hạnh như vậy?
Những chúng sanh bình thường bị chi phối bởi sự gắn bó và hận thù thô thiển giống như trẻ con. Nếu chúng ta hành động như chúng, chúng ta sẽ không đạt được bất cứ điều gì cho bản thân và chúng ta sẽ không thể mang lại lợi ích cho chúng. Một phút họ là bè bạn ta lần sau họ quay lưng lại với chúng ta. Dù chúng ta cố gắng thế nào, cũng khó mà làm hài lòng họ. Và khi chúng ta không lắng nghe họ, họ sẽ tức giận.
13.Giữ mối quan hệ với họ và điều gì sẽ xảy ra?
Tự đề cao và khinh thường người khác,
Nói về "những điều tốt đẹp" của luân hồi
Mọi loại tệ nạn chắc chắn sẽ đến.
14.
Chỉ có sự hủy hoại mới có thể xảy ra
Từ mối liên hệ như vậy giữa tôi và người khác.
Vì họ sẽ không mang lại lợi ích gì cho tôi,
Và ngược lại tôi cũng không thể làm gì tốt cho họ.
Do đó, tốt hơn hết là chúng ta nên tránh xa những chúng sanh như vậy. Tuy nhiên, khi làm như vậy, chúng ta nên tránh xúc phạm họ, và khi thật sự gặp họ, chúng ta nên lịch sự và làm những gì có thể để làm họ vui, mà không trở nên quá thân thiết.
16.
Giống như những con ong lấy mật từ hoa,
Chỉ lấy những gì phục vụ cho việc thực hành Pháp.
Đối xử với mọi người như những người mới quen
Và tránh xa sự thân mật quá mức.
Chúng ta đừng bám víu vào những thú vui phù du. Chỉ những người thiếu hiểu biết và rối rắm mới dành thời gian tích lũy của cải. Họ kết thúc với nỗi đau khổ lớn gấp ngàn lần hạnh phúc mà họ tìm kiếm.
19.
Vì vậy, người khôn ngoan không có sự ràng buộc;
Từ những ham muốn như vậy, nỗi sợ hãi và đau khổ xuất hiện.
Và hãy ghi nhớ điều này một cách chắc chắn trong sự hiểu biết của bạn:
Tất cả những gì có thể được mong muốn sẽ tự nhiên tan biến thành hư không.
20.
Vì mọi người có thể đã đạt được sự giàu có lớn lao,
Tận hưởng danh tiếng, tiếng tăm ngọt ngào.
Nhưng ai có thể nói họ đã đi đâu bây giờ,
Với tất cả hành lý vàng bạc và danh vọng của họ?
Có ích gì khi hy vọng được mọi người chấp thuận và sợ bị chỉ trích? Nếu một số ít người ca ngợi chúng ta, thì không có nhiều điều để vui mừng, bởi vì có thể có nhiều người khác đang âm thầm chỉ trích chúng ta. Chúng ta không cần phải lo lắng khi một số ít người chỉ trích chúng ta, vì có những người khác chỉ khen ngợi chúng ta. Những mong muốn và nhu cầu của người khác rất đa dạng đến nỗi chúng ta, những chúng sinh bình thường, không thể thỏa mãn tất cả. Ngay cả chính Đức Phật cũng không thể làm được như vậy. Vậy nên tốt hơn là chúng ta nên tránh xa những điều trẻ con và thay vào đó hãy xem xét những lợi ích của việc sống trong sự cô độc.
25.
Trong rừng, nơi trú ngụ của hươu và chim,
Giữa những cây cối không có sự bất hòa,
Ở đó tôi sẽ giữ những người bạn dễ chịu!
Khi nào tôi có thể thôi làm nơi ở của mình ở đó ?
26.
Khi nào tôi sẽ rời đi để làm nhà
Trong hang động hay đền thờ trống rỗng hay dưới gốc cây rộng lớn,
Với, trong lồng ngực tôi, một trái tim tự do, không bị ràng buộc,
Không bao giờ ngoảnh lại nhìn?
Ở những nơi biệt lập như vậy, chúng ta có thể từ bỏ sự ràng buộc với đồ đạc và cơ thể của mình và dành toàn bộ thời gian cho thiền tập.
28.
Khi nào tôi có thể thoát khỏi nỗi sợ hãi,
Không cần phải trốn tránh bất kỳ ai,
Chỉ với một chiếc bát khất thực và ít đồ đạc,
Mặc những bộ quần áo không ai thèm muốn?
33.
Giống như những người đi trên đường,
Dừng lại và nghỉ ngơi dọc đường,
Những tạo vật trên con đường tồn tại
Nắm bắt nơi trú ngụ của kiếp người.
34.
Cho đến khi thời điểm đến
Khi bốn người đàn ông mang tôi đi,
Giữa nỗi đau của những người bạn thế gian -
Cho đến lúc đó, tôi sẽ đi và vào rừng.
35.
Ở đó, không có sự kết bạn hay miễn cưỡng,
Tôi sẽ ở một mình trong sự cô độc,
Được coi là đã chết ngay từ đầu,
Vì vậy, khi tôi chết, không còn nguồn đau đớn nào nữa.
Tóm lại, ở những nơi vắng vẻ, người ta có thể thiền định với sự tập trung nhất tâm, thoát khỏi những mối quan tâm và ràng buộc cá nhân. Những suy nghĩ về Đức Phật và lời dạy của Ngài tự nhiên hiện lên trong tâm trí.
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) tiếp tục chỉ ra sai lầm khi bị ràng buộc vào những thú vui xác thịt. Vì Hướng Dẫn Lối Sống Của Bồ Tát (Nhập Bồ Tát Hạnh-Bodhisattvacaryāvatāra) ban đầu được gửi đến một cộng đồng các nhà sư, phần này đặc biệt đề cập đến những khiếm khuyết của cơ thể phụ nữ, nhưng cần hiểu rằng một nữ hành giả có thể áp dụng cùng một phương pháp phản ánh đối với cơ thể đàn ông.
40.
Bạn gửi những người môi giới của mình, cả trai và gái,
Với nhiều lời mời đến giải thưởng,
Tránh, trong cuộc tìm kiếm, không có tội lỗi,
Không có hành động nào mang lại tiếng xấu,
41.
Không có hành động rủi ro đáng sợ,
Không mất mát và hủy hoại tài sản -
Tất cả vì niềm vui và hạnh phúc hoàn hảo,
Nụ hôn xuyên thấu tối đa đó
42.
Những gì thật sự không gì khác ngoài một đống xương
Không có bản ngã, không có quyền tự chủ!
Đây có phải là đối tượng duy nhất của ham muốn và dục vọng không?
Sớm vượt qua mọi đau khổ và đau buồn!
Hãy nghĩ về điều đó: người mà chúng ta bị thu hút đến vậy, và người mà chúng ta đã trải qua những giao dịch, chỉ là một đống hoặc - một khối thịt và nội tạng và những chất khá khó chịu. Vậy thì chúng ta gắn bó với cơ thể hoặc tâm thức của người đó là gì? Nếu chúng ta kiểm tra cẩn thận, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta không thể chỉ ra bất kỳ thứ gì thật sự là nguồn gốc của sự gắn bó của chúng ta.
54.
"Nhưng đó là làn da và thịt mà tôi thích
Chạm vào và nhìn vào."
Vậy thì tại sao bạn không chỉ mong muốn có thịt,
Vô tri và ở trạng thái tự nhiên của nó?
55.
Tâm trí mà có lẽ bạn mong muốn,
Bạn không thể nắm giữ hoặc nhìn vào.
Bất cứ thứ gì bạn có thể nắm giữ hoặc nhìn thấy đều không phải là tâm thức -
Tại sao lại giao cấu với thứ mà nó không phải?
Chúng ta hãy xem xét cơ thể. Trước hết, nó bắt nguồn từ chất dịch sinh sản của cha mẹ. Khi trưởng thành, nó được tạo thành từ máu, thịt, nội tạng và xương. Nếu chúng ta tìm thấy bất kỳ thứ nào trong số những thứ này còn sót lại trên mặt đất, chúng ta sẽ vô cùng kinh tởm. Vậy thì tại sao chúng ta không ghê tởm cơ thể, vốn hoàn toàn được tạo thành từ những thành phần ghê tởm?
63.
Nếu bạn vẫn còn nghi ngờ sự ô uế như vậy,
Mặc dù rất rõ ràng để mọi người nhìn thấy,
Hãy đi vào nghĩa địa;
Quan sát những xác chết thối rữa bị bỏ lại ở đó.
Một phần lớn những gì chúng ta ăn và uống để duy trì cơ thể này cuối cùng trở thành một dòng nước tiểu và phân không ngừng, lấp đầy cống rãnh mà chúng ta thấy rất kinh tởm. Nhưng lý do thật sự có cống rãnh là vì cơ thể chúng ta chứa đầy phân. Cơ thể không khác gì một cống rãnh! Như chúng ta đã thấy, nó bắt nguồn từ sự ô uế, bao gồm sự ô uế và tạo ra sự ô uế. Chỉ khi chúng ta nghĩ về cơ thể theo quan điểm này, Vòng hoa châu báu (Bảo Hành Vương Chính Luận) nói, thì sự gắn bó của chúng ta với cơ thể mới bắt đầu giảm bớt, nếu không muốn nói là hoàn toàn biến mất.
Một lần nữa, hãy lấy một người có cơ thể rất đẹp. Giả sử da được loại bỏ và cơ thể được mở ra. Ngay cả ở một người còn sống, các cơ quan nội tạng cũng là một cảnh tượng ghê rợn. Mong muốn của chúng ta sẽ sớm nhường chỗ cho sự ghê tởm. Sự bám víu vào thân xác là ảo tưởng chồng lên ảo tưởng, và chúng ta nên cố gắng hết sức để phá bỏ nó.
70.
Khi bạn nhìn thấy những đống xương người,
Bạn cảm thấy ghê tởm trong nghĩa địa.
Và bạn sẽ thích thú với những thành phố của người chết
Thường xuyên lui tới những bộ xương sống và di chuyển như vậy?
Chúng ta trải qua vô vàn khó khăn khi cố gắng tìm kiếm người bạn đời lý tưởng, và một khi đã tìm được rồi, chúng ta không phải lúc nào cũng hòa hợp với nhau. Chúng ta không thể có con, hoặc chúng ta có quá nhiều con, và việc nuôi dạy chúng làm tăng thêm vấn đề của chúng ta. Tất nhiên, lúc đầu, sự mới lạ rất thú vị, nhưng nếu chúng ta xem xét kỹ lưỡng, chúng ta thấy rằng đau khổ chỉ nối tiếp đau khổ. Đây là lý do tại sao các kinh điển đề cập đến "căn bệnh của cuộc sống gia đình".
Đối với sự giàu có, chúng ta phải nỗ lực rất nhiều để có được nó, và thậm chí sẵn sàng mất mạng vì nó. Một khi chúng ta có được nó, chúng ta mãi mãi sợ mất nó. Vì sự giàu có, anh chị em bất hòa, các cặp đôi tan vỡ. Khi chúng ta không có nó, chúng ta đau khổ; khi chúng ta có nó, chúng ta cũng đau khổ!
79.
Nỗi đau của việc có được, giữ lại và mất tất cả!
Hãy xem những khó khăn vô tận mà tài sản mang lại cho chúng ta!
Đối với những người bị phân tâm bởi tình yêu của cải
Không có cơ hội thoát khỏi những nỗi buồn của cuộc sống.
80.
Họ thật sự, sở hữu nhiều nhu cầu,
Sẽ chịu nhiều rắc rối, tất cả chỉ vì rất ít:
Họ giống như con bò kéo xe
Và bắt những mẩu cỏ dọc đường.
Đối với những thú vui nhỏ nhặt nhất, con người lãng phí cuộc sống con người của họ mà họ đã phải mất một nỗ lực lớn hơn nhiều để có được.
82.
Tất cả những gì chúng ta mong muốn chắc chắn sẽ diệt vong,
Vì lý do đó, chúng ta rơi vào đau khổ địa ngục.
Đối với những gì rất nhỏ bé
Chúng ta phải chịu đựng sự mệt mỏi liên tục và kiệt sức.
83.
Chỉ với một phần triệu của sự phiền muộn như vậy,
Tự chính sự Giác ngộ có thể đạt được!
Những người khao khát bị giày vò nhiều hơn những người dấn thân vào con đường,
Nhưng Phật quả không phải là thứ họ đạt được!
Vì vậy, chúng ta nên xem xét những điều kích thích những suy nghĩ mất tập trung của chúng ta. Dần dần những suy nghĩ này sẽ trở nên ít mạnh mẽ hơn và tâm trí chúng ta sẽ trở nên bình tĩnh hơn. Khi đó, chúng ta sẽ có thể thiền định nhất tâm về bồ đề tâm.
Thiền định chính về bồ đề tâm bao gồm việc xem bản thân và người khác là bình đẳng và sau đó hoán đổi bản thân với người khác. Như Tịch Thiên (Shāntideva) đã nói:
Trong nhiều kiếp suy ngẫm sâu sắc,
Các bậc hiền triết vĩ đại đã thấy được lợi ích của nó,
Nhờ đó vô số người
Được đưa đến niềm vui tối cao một cách dễ dàng. [chương. 1, v. 7]
Các bậc thầy của truyền thống Kadampa đã để lại những lời dạy chi tiết về những cách thực hành Bồ đề tâm khác nhau. Bằng cách phát khởi Bồ đề tâm thông qua những thực hành như vậy, chúng ta có thể thanh lọc mọi che chướng của mình và tích lũy những hành động tích cực. Người ta nói rằng chúng ta phải tích lũy công đức trong ba kiếp vô số, nhưng những thuật ngữ này chỉ mang tính tương đối. Với thái độ của Bồ đề tâm, những công đức to lớn như vậy có thể đạt được một cách nhanh chóng và dễ dàng. Tất cả các bậc thầy uyên bác và thành tựu, từ Đức Phật qua Long Thọ (Nagarjuna) và các đệ tử của ngài cho đến những người thầy hiện tại của chúng ta, đều lấy việc thực hành coi người khác quan trọng hơn bản thân mình làm nền tảng cho việc thực hành của riêng họ. Nhờ đó, họ có thể mang lại lợi ích cho bản thân và người khác trên phạm vi rộng lớn.
Bất kỳ ai có suy nghĩ tốt, làm nhiều việc để giúp đỡ người khác và để lại những kỷ niệm tốt đẹp đều được mọi người trên khắp thế giới kính trọng, bất kể họ có theo đạo hay không. Mặt khác, sự ngu dốt, kiêu ngạo và cố chấp của một số cá nhân, bất kể ý định của họ là tốt hay xấu, đã là gốc rễ của mọi bi kịch trong lịch sử. Chỉ riêng tên của những kẻ bạo chúa tàn nhẫn này đã khơi dậy nỗi sợ hãi và căm ghét. Vì vậy, mức độ mọi người sẽ thích chúng ta một cách tự nhiên phụ thuộc vào việc chúng ta nghĩ nhiều hay ít về điều tốt của người khác.
Nói về kinh nghiệm của riêng mình, đôi khi tôi tự hỏi tại sao nhiều người lại thích tôi. Khi nghĩ về điều đó, tôi không thể tìm thấy ở bản thân mình bất kỳ phẩm chất tốt đặc biệt nào, ngoại trừ một điều nhỏ nhặt. Đó là tâm tích cực, mà tôi cố gắng giải thích cho người khác và tôi cố gắng hết sức để phát triển bản thân. Tất nhiên, có những lúc tôi tức giận, nhưng sâu thẳm trong trái tim, tôi không oán giận bất kỳ ai. Tôi không thể giả vờ rằng mình thật sự có thể thực hành Bồ đề tâm, nhưng nó mang lại nguồn cảm hứng to lớn. Sâu thẳm bên trong, tôi nhận ra nó có giá trị và lợi ích như thế nào, thế thôi. Và tôi cố gắng hết sức để coi người khác quan trọng hơn bản thân mình. Tôi nghĩ đó là lý do tại sao mọi người chú ý đến tôi và thích tôi, vì tấm lòng tốt của tôi.
Khi mọi người nói rằng tôi đã làm rất nhiều cho hòa bình, tôi cảm thấy xấu hổ. Tôi cảm thấy muốn bật cười. Tôi không nghĩ mình đã làm được nhiều cho hòa bình thế giới. Chỉ là việc thực hành của tôi là con đường hòa bình của lòng tốt, tình yêu, lòng từ bi và không làm hại người khác. Điều này đã trở thành một phần của tôi. Đó không phải là điều mà tôi đặc biệt tự nguyện. Tôi chỉ là một người theo Đức Phật, và Đức Phật đã dạy rằng kiên nhẫn là phương tiện tối thượng để vượt qua đau khổ. Ngài nói, "Nếu một nhà sư làm hại người khác, thì anh ta không phải là nhà sư." Tôi là một nhà sư Phật giáo, vì vậy tôi cố gắng thực hành theo. Khi mọi người nghĩ rằng thực hành này là điều gì đó độc đáo và đặc biệt và gọi tôi là nhà lãnh đạo của hòa bình thế giới, tôi cảm thấy gần như xấu hổ!|
Một trái tim tốt là nguồn gốc của mọi hạnh phúc và niềm vui, và tất cả chúng ta đều có thể tốt bụng nếu chúng ta nỗ lực. Nhưng tốt hơn nữa là có bồ đề tâm, đó là một trái tim tốt thấm nhuần trí tuệ. Đó là mong muốn mạnh mẽ để đạt được giác ngộ để giải thoát tất cả chúng sinh khỏi đau khổ và đưa họ đến với Phật quả. Ý nghĩ giúp đỡ người khác này bắt nguồn từ lòng từ bi, phát triển từ cảm giác biết ơn và yêu thương đối với chúng sinh, những người đang phải chịu đau khổ.
Theo truyền thống, có hai phương pháp để phát triển loại quan tâm và lòng biết ơn này. Một là suy ngẫm về thực tế rằng tất cả chúng sinh đều từng là cha mẹ hoặc ít nhất là bạn thân của chúng ta vào một thời điểm nào đó trong một kiếp sống nào đó, để chúng ta tự nhiên cảm thấy biết ơn họ và muốn gánh chịu nỗi đau của họ để đổi lấy hạnh phúc của mình. Phương pháp còn lại là hiểu rằng người khác cũng đau khổ giống như chúng ta, thấy rằng tất cả chúng ta đều bình đẳng và suy ngẫm về điều gì là sai trái với chủ nghĩa vị kỷ và những lợi ích của lòng vị tha. Chúng ta có thể sử dụng bất kỳ phương pháp nào trong hai phương pháp này phù hợp nhất với mình hoặc thực hành cả hai cùng nhau.
Trong cả hai trường hợp, trước tiên cần phải hiểu những gì chúng ta gọi là đau khổ. Chúng ta dễ dàng cảm thấy thương cảm cho những người đang đói khát, đau đớn hoặc đau khổ tột cùng và đối với những con vật bị ngược đãi. Nhưng khi chúng ta nghĩ đến những chúng sinh là người và trời rất hạnh phúc, chúng ta có xu hướng cảm thấy ghen tị. Điều này là do chúng ta chưa thật sự hiểu được đau khổ là gì và rằng tất cả chúng sinh đều phải chịu đau khổ. Ngoài những đau khổ rõ ràng hơn của đau khổ cộng với đau khổ (khổ khổ) và đau khổ của sự thay đổi (hoại khổ)còn có đau khổ bao trùm khắp nơi (hành khổ).[35] (37)Vì cái sau, chừng nào chúng ta còn trong luân hồi, chúng ta không bao giờ có thể có hạnh phúc lâu dài. Một khi chúng ta đã suy ngẫm và không kéo dài điều này cho chính mình, chúng ta có thể áp dụng sự hiểu biết này cho người khác. Sau đó, chúng ta bắt đầu cảm thấy từ bi và nghĩ rằng, tôi phải giải thoát tất cả chúng sinh khỏi đau khổ.
"Tuy nhiên, để thật sự làm được như vậy, chúng ta phải thay đổi cách tiếp cận của mình đối với cuộc sống này và các kiếp sống tương lai. Trước tiên, chúng ta phải suy ngẫm về sự vô thường, cái chết chắc chắn của chính mình và về thực tế là chúng ta không bao giờ biết mình có thể chết sớm muộn như thế nào. Sau khi chết, chúng ta sẽ không chỉ biến mất: những hành động tích cực và tiêu cực mà chúng ta đã làm sẽ quyết định cách chúng ta được tái sinh. Những hành động tiêu cực của chúng ta có thể khiến chúng ta tái sinh ở các cõi thấp hơn, ví dụ như làm động vật bị con người bóc lột, ngược đãi và giết thịt hoặc bị các loài động vật khác ăn thịt.
Vì vậy, để giải thoát bản thân khỏi biển khổ, chúng ta nên bắt đầu nghiên cứu và thực hành con đường giải thoát. Chúng ta có thể hy vọng thấy được một số kết quả sau một vài năm, nhưng nói một cách thực tế, chúng ta nên lên kế hoạch có thể phải tiếp tục thực hành trong nhiều kiếp tới. Trong mỗi kiếp sống này, chúng ta sẽ cần một sự hỗ trợ thích hợp để thực hành, cụ thể là một cơ thể con người, nếu không có nó, chúng ta sẽ không thể tiến bộ. Do đó, giai đoạn đầu tiên trên con đường là đảm bảo một sự tái sinh tốt đẹp của con người. Vì vậy, mặc dù mục đích cuối cùng của chúng ta là đạt được sự giác ngộ cho tất cả chúng sinh, chúng ta phải bắt đầu con đường bằng cách tuân theo kỷ luật tránh 10 hành động bất thiện và thực hành 10 hành động thiện.
Tóm lại, chúng ta bắt đầu bằng cách loại bỏ sự bám chấp vào các mục tiêu phi tâm linh, đầu tiên là trong kiếp này và sau đó là trong các kiếp tương lai. Khi đã thấy được nỗi đau khổ vốn có trong luân hồi, chúng ta quyết tâm giải thoát bản thân, và khi chúng ta mở rộng thái độ này đến những chúng sinh khác, chúng ta phát triển lòng từ bi và phát khởi bồ đề tâm. Chúng ta phải trải qua các giai đoạn rèn luyện tâm theo đúng thứ tự, giống như leo cầu thang hoặc xây dựng nền móng trước khi xây tường. Nếu chúng ta đi theo con đường dần dần theo cách này, kết quả chúng ta có được sẽ ổn định. Nhưng nếu chúng ta chỉ nói, "Vì lợi ích của tất cả chúng sinh..." thì dù mong muốn giúp đỡ chúng sinh của chúng ta có mạnh mẽ đến đâu vào thời điểm đó, nó sẽ không ổn định trừ khi nó được xây dựng vững chắc trên nền tảng thực hành đúng đắn của các giai đoạn trước đó.
Lúc đầu, chúng ta nên có cái nhìn tổng thể, rõ ràng về con đường, để chúng ta biết mình đang hướng đến điều gì trong quá trình thực hành và có thể nhận ra trình độ mình đã đạt được. Sau đó, khi chúng ta thực hành thường xuyên, chúng ta có thể trải nghiệm những thay đổi sâu sắc trong tâm thức, nhưng những trải nghiệm này chỉ xảy ra khi chúng ta tập trung trong các buổi hành thiền. Sau đó, sau khi hành thiền trong một thời gian dài, chúng ta thấy rằng những trải nghiệm này xảy ra một cách tự phát khi chúng ta gặp phải những hoàn cảnh cụ thể, mà không cần chúng ta phải tập trung trong thiền định.
Hãy lấy ví dụ về bồ đề tâm. Sau khi chúng ta thiền định về bồ đề tâm một thời gian, thì có một sự thay đổi xảy ra trong tâm thức chúng ta, nhưng chỉ khi chúng ta thật sự nghĩ về bồ đề tâm. Đây là những gì được gọi là trải nghiệm được tạo ra. Đó không phải là bồ đề tâm của một vị Bồ tát thật sự. Tuy nhiên, khi chúng ta duy trì sự tiến bộ, chúng ta sẽ đạt đến một điểm mà chỉ cần nhìn thấy một con vật hoặc một con chim cũng đủ khiến suy nghĩ trào dâng từ sâu thẳm trái tim chúng ta, Khi nào thì tôi mới đạt được giác ngộ cho chúng sinh này? Đây là những gì chúng ta gọi là trải nghiệm tự nhiên, và tại thời điểm này, bồ đề tâm thật sự đã bén rễ trong chúng ta. Chúng ta có thể thật sự gọi mình là những người thực hành Đại thừa và sau đó đi trên con đường tích lũy nhỏ hơn.
Tiến lên con đường tích lũy trung gian, sau đó chúng ta bắt đầu con đường tích lũy công đức lớn hơn, kéo dài ba vô số kiếp. Tiếp theo là con đường kết nối với bốn giai đoạn của nó là ấm áp, cực điểm, bền bỉ và chứng ngộ tối thượng (noãn, đảnh, nhẫn, thế đệ nhất). Sau đó, khi chúng ta bắt đầu trên con đường nhìn thấy, chúng ta đạt được trí tuệ của cấp độ Bồ tát đầu tiên. Theo cách này, chúng ta dần dần đi qua năm con đường và mười cấp độ và cuối cùng đạt được Phật quả.[36] (38) Do đó, những con đường và cấp độ này liên quan đến sự chuyển hóa bên trong của chính chúng ta thông qua việc thực hành Bồ đề tâm.
90.
Trước tiên, hãy cố gắng thiền định
Về sự đồng nhất của bản thân và người khác.
Trong niềm vui và nỗi buồn tất cả đều bình đẳng;
Vì vậy, hãy bảo vệ tất cả, như bảo vệ chính mình.
Người khác bình đẳng với chúng ta theo cách nào? Cũng giống như chúng ta, họ tự nhiên cũng muốn được hạnh phúc và tránh đau khổ, Mặc dù khi phân tích, chúng ta không thể tìm thấy một "cái tôi" thực sự tồn tại, chúng ta vẫn tin rằng nó tồn tại, và do đó chúng ta cho rằng mình có quyền được hạnh phúc và quyền thoát khỏi bất hạnh. Nhưng điều này cũng đúng với tất cả các chúng sinh khác, vậy không có lý do cụ thể nào khiến chúng ta phải quan trọng hơn họ. Tại sao chúng ta chỉ nên đạt được hạnh phúc của riêng mình và không chịu trách nhiệm cho hạnh phúc của người khác? Tại sao chúng ta nên nỗ lực tránh đau khổ cho bản thân và không chịu trách nhiệm làm điều tương tự cho người khác?
Khi chúng ta cố gắng bảo vệ cơ thể của mình, chúng ta cũng bảo vệ các bộ phận của cơ thể, chẳng hạn như bàn tay và bàn chân của mình. Tương tự như vậy, vì hạnh phúc và đau khổ của người khác đều là một phần của hạnh phúc và đau khổ của chúng ta, chúng ta phải bảo vệ người khác khỏi đau khổ cũng giống như chúng ta bảo vệ chính mình và phấn đấu vì hạnh phúc của người khác cũng như chúng ta phấn đấu vì hạnh phúc của chính mình.
Những đau khổ của riêng chúng ta, mặc dù không được người khác cảm nhận, chắc chắn là rất khó để chúng ta chịu đựng. Vì vậy, thật tự nhiên khi chúng ta cố gắng bảo vệ bản thân khỏi đau khổ. Tương tự như vậy, nỗi đau của người khác, ngay cả khi chúng ta không cảm thấy, cũng không kém không thể chịu đựng được đối với họ. Nhưng vì chúng ta có liên quan đến tất cả chúng sinh khác, vì chúng ta nợ họ lòng biết ơn và họ giúp chúng ta trong quá trình thực hành, chúng ta hãy cố gắng xua tan nỗi đau của họ cũng như của chúng ta. Tất cả chúng sinh đều muốn được hạnh phúc như nhau, Vậy tại sao chúng ta lại là những người duy nhất có được hạnh phúc? Tại sao chúng ta phải được bảo vệ khỏi đau khổ còn những người khác thì không?
94.
Và do đó, tôi sẽ xua tan nỗi đau của những người khác,
Vì đó chỉ là nỗi đau, giống như nỗi đau của chính tôi.
Và tôi sẽ giúp đỡ và mang lại lợi ích cho những người khác,
Vì họ là những chúng sinh, giống như cơ thể tôi.
97.
Vì nỗi đau của những người khác không gây hại cho tôi,
Nên tôi không che chở bản thân khỏi nó.
Vậy tại sao phải bảo vệ bản thân khỏi nỗi đau tương lai của "tôi",
Mà không gây hại cho "tôi" hiện tại của tôi?
Người ta có thể nghĩ rằng người ta phải bảo vệ bản thân khỏi nỗi đau trong tương lai bởi vì "cái tôi" đang đau khổ hiện tại và "cái tôi" sẽ đau khổ trong tương lai là như nhau. Điều này là sai, vì những gì chúng ta nghĩ là "Tôi" là một chuỗi các khoảnh khắc trong một chuỗi liên tục của ý thức, và "Tôi" của khoảnh khắc sẽ đau khổ trong tương lai thì khác với "Tôi" của khoảnh khắc hiện tại.
99.
"Nó dành cho chính những người đau khổ", bạn sẽ nói,
“Để bảo vệ họ khỏi những tổn thương sẽ đến!"
Cơn đau ở chân tôi không phải của tay tôi,
Vậy tại sao, trên thực tế, người ta lại phải bảo vệ người kia?
Nếu một người nghĩ rằng mọi người đều nên tự chăm sóc nỗi đau của mình, người ta có thể lập luận rằng bàn tay chỉ nên bảo vệ chính nó và không có bộ phận nào khác trên cơ thể: không có lý do gì mà bàn tay lại phải bảo vệ bàn chân. Mặc dù chúng ta có thể thấy lập luận này tiện lợi, nhưng nó hoàn toàn không hợp lý. Chúng ta hãy ngừng cố chấp và chỉ nghĩ đến bản thân mình.
101.
Những sự liên tục và các cuộc tụ họp, cái gọi là,
Giống như vòng hoa và giống như những đoàn quân, là không có thật.
Vì vậy, không có ai trải qua nỗi đau
Vì ai là "chủ sở hữu" của nó?
102.
Đau khổ không có "người sở hữu",
Do đó, không thể phân biệt được trong đó.
Vì đau đớn là đau đớn, nó phải bị xua tan.
Có ích gì khi vạch ra ranh giới?
Khi chúng ta nói về "tôi" và "chúng sinh", đây không phải là những thực thể độc lập. Chúng là những nhãn hiệu sai lầm được áp dụng cho một chuỗi các yếu tố vô thường, giống như "vòng đeo cổ" được áp dụng cho một chuỗi hạt hoặc "quân đội" cho một nhóm lính. Tuy nhiên, nếu chúng sinh không có sự tồn tại thật sự, thì ai đang đau khổ? Tại sao lại cố gắng xua tan đau khổ? Mặc dù "cái tôi" không thật sự tồn tại, nhưng trong chân lý tương đối mọi người đều muốn tránh đau khổ. Đây là lý do đủ để xua tan nỗi đau của người khác cũng như của chính mình. Phân biệt có ích gì?
103.
”Nhưng tại sao lại xua tan nỗi đau của tất cả?"
Bạn không thể tranh luận theo cách này!
Nếu nỗi đau của "tôi" được xóa bỏ, thì nỗi đau của "người khác" cũng vậy.
Nếu nỗi đau của họ không được xóa bỏ, thì nỗi đau của tôi cũng không được xóa bỏ.
Chúng ta có thể nghĩ, Nếu tôi thiền quán về lòng từ bi và nghĩ đến nỗi đau của người khác, thì điều đó chỉ làm tăng thêm nỗi đau dữ dội mà tôi đã có. Chúng ta chỉ nghĩ như vậy vì chúng ta hẹp hòi. Nếu chúng ta không muốn giúp đỡ chúng sinh, thì nỗi đau của họ sẽ vô tận. Nhưng nếu chúng ta có thể phát triển một chút lòng từ bi và nỗ lực xua tan nỗi đau của người khác, thì nỗi đau đó sẽ chấm dứt. Nếu chúng ta không chịu trách nhiệm giúp đỡ người khác, thì nỗi đau sẽ không có giới hạn. Khi chúng ta phát triển một tâm trí rộng mở và cảm thấy lòng từ bi với người khác, điều này sẽ mang lại lợi ích to lớn. Bất kỳ khó khăn nhỏ nào mà chúng ta có thể trải qua đều đáng giá.
105.
Và nếu qua một nỗi đau đơn lẻ như vậy,
Vô số nỗi khổ có thể được chữa lành,
Nỗi đau như vậy, tất cả những người yêu thương
Hãy cố gắng nuôi dưỡng trong chính họ và những người khác.
Các vị Bồ tát lớn sẵn sàng làm bất cứ điều gì, thậm chí mất mạng, nếu điều đó sẽ xóa bỏ đau khổ của vô số chúng sinh khác.
107.
Những ai có tâm trí được thực hành theo cách này,
Niềm vui của họ là xoa dịu nỗi đau của người khác,
Sẽ mạo hiểm vào địa ngục của Nỗi đau không ngừng
Như những con thiên nga lướt xuống hồ sen.
108.
Niềm vui bao la như đại dương
Phát sinh khi tất cả chúng sinh sẽ được giải thoát,
Điều này sẽ không đủ sao? Điều này sẽ không thỏa mãn sao?
Mong muốn tự do của riêng tôi, điều đó có nghĩa lý gì với tôi?
Đối với một vị Bồ tát mặc áo giáp của sự quyết tâm, niềm vui mà ngài có được khi làm dịu nỗi đau của vô số chúng sinh là đủ, ngay cả khi bản thân ngài phải chịu đau khổ một chút. Làm sao đạt được sự giải thoát cho riêng mình, trong khi từ bỏ lời hứa giải thoát cho người khác, có thể tốt hơn thế?
109.
Công việc mang lại lợi ích cho chúng sinh
Vậy thì sẽ không khiến tôi tự hào và ngưỡng mộ bản thân.
Hạnh phúc của người khác chính là sự thỏa mãn của tôi;
Tôi không mong đợi một sự đền đáp nào khác.
Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng, Nếu tôi giúp đỡ người khác, tôi sẽ tích lũy được những hành động tích cực. Tôi sẽ là một người có đức hạnh và trong tương lai tôi sẽ hạnh phúc. Đây không phải là vấn đề. Chúng ta hãy thực hiện những hành động tích cực với lòng từ bi sâu sắc để xoa dịu nỗi bất hạnh của người khác, và chúng ta hãy dành những hành động này cho hạnh phúc của họ, từ sâu thẳm trái tim mình, mà không có chút ý niệm nào về phần thưởng cá nhân trong tương lai.
Bây giờ chúng ta sẽ thảo luận về sự trao đổi giữa bản thân và người khác. Thực hành này bao gồm việc đặt mình vào vị trí của người khác và đặt người khác vào vị trí của mình. Nếu chúng ta rèn luyện theo cách này, chúng ta sẽ coi người khác quan trọng hơn bản thân mình, để hạnh phúc và đau khổ của họ trở nên quan trọng hơn của chúng ta, và khi họ bị tổn hại, chúng ta cảm thấy điều đó một cách sâu sắc như khi chính chúng ta bị tổn hại. Điều này không khó thực hiện khi chúng ta nhận ra những bất lợi của việc chỉ nghĩ đến bản thân mình và những lợi ích của việc trân trọng người khác. Sự trao đổi giữa bản thân và người khác của chúng ta trở nên sống động và mạnh mẽ đến mức chúng ta dễ dàng cống hiến cuộc sống của mình cho người khác. Và khi nói đến người khác, chúng ta có nghĩa là tất cả chúng sinh ở khắp mọi nơi.
114.
Cũng như bàn tay và các chi khác
Được coi là các bộ phận của một cơ thể,
Chúng ta cũng không thể coi những người khác
Là các chi và các bộ phận của một tổng thể sống động sao?
Chúng ta không nên nản lòng vì sự khó khăn của một thực hành như vậy. Vấn đề là phải làm quen với nó thông qua quá trình rèn luyện. Ví dụ, có thể trở nên quen với một người mà chỉ cần một cái tên đã từng khiến ta sợ hãi. Ta thậm chí có thể đạt đến điểm mà ta không thể chịu đựng được khi phải xa người đó.
120.
Những ai mong muốn nhanh chóng trở thành
Nơi nương tựa cho chính mình và những người khác
Nên thực hiện sự trao đổi giữa "Tôi" và "người khác",
Và do đó nắm lấy một bí ẩn thiêng liêng.
Phương pháp chắc chắn này để bảo vệ những người khác, bao gồm cả bản thân mình, tuy nhiên lại khó đối với những người có hiểu biết hạn chế về bồ đề tâm. Đây là lý do tại sao Tịch Thiên (Shantideva) gọi nó là "bí ẩn thiêng liêng". Như ngài chỉ ra, chướng ngại chính là việc trân trọng bản thân:
121.
Vì chúng ta bám víu vào cơ thể mình,
Ngay cả những điều nhỏ nhặt cũng khiến chúng ta lo lắng.
Vậy thì cơ thể này, nguồn gốc của rất nhiều nỗi kinh hoàng này-
Ai lại không ghét nó như kẻ thù tồi tệ nhất?
122.
Muốn làm giảm bớt những căn bệnh của cơ thể mình,
Miệng đói, cổ họng khô khốc,
Chúng ta đánh cắp mạng sống của cá, chim và hươu
Và nằm rình rập dọc đường.
123.
Và vì lợi nhuận và địa vị
Có những người thậm chí giết cha mẹ mình,
Hoặc ăn cắp những gì đã được dâng lên Tam Bảo,
Vì thế, họ sẽ bị thiêu đốt trong địa ngục của Nỗi đau không ngừng.
Để duy trì cơ thể này của chúng ta, mà chúng ta rất gắn bó, chúng ta giết những chúng sinh khác. Để làm cho nó thoải mái, chúng ta ăn cắp. Để thỏa mãn những ham muốn phù du của nó, chúng ta đắm chìm trong hoạt động tình dục bừa bãi. Tóm lại, vì tầm quan trọng mà chúng ta dành cho cơ thể mình, chúng ta tích lũy rất nhiều hành động tiêu cực. Nếu chúng ta để cơ thể mình làm bất cứ điều gì chúng muốn, điều đó chỉ có thể gây bất lợi cho chúng ta.
124.
Vậy thì những người khôn ngoan và thận trọng ở đâu
Những người trân trọng, bảo vệ và phục vụ cơ thể?
Ai sẽ không coi nó là kẻ thù của họ,
Và là kẻ thù của họ, coi nó một cách khinh thường?
125.
“Nếu tôi cho đi điều này, thì tôi còn lại gì?"
Nghĩ về bản thân mình theo cách của ma quỷ.
“Nếu tôi giữ điều này, thì tôi còn lại gì để cho đi?"
Quan tâm đến người khác là con đường của thiên đường.
Nếu chúng ta làm hại và làm nghèo người khác để thúc đẩy lợi ích của riêng mình, chúng ta sẽ tái sinh vào các cõi thấp hơn, chẳng hạn như địa ngục. Mặt khác, nếu chúng ta quên mình để mang lại lợi ích cho người khác, nếu chúng ta sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để cứu mạng sống của người khác, thì hãy cho họ bất cứ điều gì cần thiết cho phúc lợi của họ, thì chúng ta sẽ đạt được hạnh phúc và mọi sự hoàn hảo.
Kết quả của mong muốn vượt trội hơn người khác, để nổi tiếng, sẽ là sự tái sinh thấp hơn hoặc tái sinh thành một kẻ ngốc, trong cảnh khốn khổ cùng cực, với một cơ thể xấu xí. Mặt khác, sự khiêm nhường thật sự, đối xử với người khác quan trọng hơn bản thân mình, sẽ dẫn đến việc chúng ta được tái sinh ở cõi cao hơn, nơi chúng ta sẽ được tôn trọng và có ảnh hưởng. Nếu chúng ta buộc người khác làm việc cho chúng ta và phục vụ chúng ta, lạm dụng họ một cách thiếu cân nhắc, trong những lần tái sinh trong tương lai, chúng ta sẽ kết thúc là người hầu của họ hoặc thậm chí là người hầu của người hầu của họ. Trong khi đó, nếu chúng ta dành cả cuộc đời để phục vụ người khác, chúng ta sẽ được tái sinh thành vua và nhà lãnh đạo.
Vậy thì, đây là những lợi ích có thể đạt được khi coi người khác quan trọng hơn bản thân mình và những bất lợi khi tự cho mình quyền ưu tiên.
129.
Tất cả niềm vui mà thế giới chứa đựng
Đều đến từ việc mong muốn hạnh phúc cho người khác.
Tất cả nỗi đau khổ mà thế giới chứa đựng
Đều đến từ việc muốn hưởng lạc cho bản thân mình.
130.
Có cần phải giải thích dài dòng không?
Những sinh vật trẻ con chỉ lo cho bản thân mình;
Đức Phật làm việc vì lợi ích của người khác:
Hãy xem sự khác biệt chia rẽ họ!
131.
Nếu tôi không đổi hạnh phúc của mình
Lấy nỗi đau của người khác,
Thì Giác ngộ sẽ không bao giờ đạt được,
Và ngay cả trong luân hồi, niềm vui sẽ rời xa tôi.
Kẻ thù lớn nhất của chúng ta là coi mình quan trọng hơn người khác, điều này dẫn chúng ta và người khác đến sự hủy diệt chắc chắn. Từ sự gắn bó với "Tôi" này phát sinh mọi tổn hại, sợ hãi và đau khổ trên thế giới này. Tịch Thiên (Shantideva) hỏi, tôi phải làm gì với con quỷ lớn này?
135.
Nếu "Tôi" này không được từ bỏ hoàn toàn,
Thì Nỗi buồn cũng không thể tránh khỏi.
Nếu họ không tránh xa lửa, thì
Con người không thể thoát khỏi bị thiêu đốt.
136.
Để giải thoát bản thân khỏi tổn hại
Và giải thoát người khác khỏi nỗi đau khổ của họ,
Hãy để tôi trao tặng bản thân mình cho người khác,
Yêu họ như tôi yêu chính mình.
137.
“Vì giờ đây tôi nằm dưới sự cai trị của người khác",
Bạn phải chắc chắn về điều này, hỡi tâm trí của tôi.
Và giờ đây bạn sẽ không còn một suy nghĩ nào
Không mong muốn lợi ích cho chúng sinh.
138.
Thị giác và các giác quan khác của tôi, giờ đây là tài sản của người khác -Sử dụng chúng cho bản thân mình là không đúng.
Và cũng không được phép
Sử dụng các giác quan của mình để chống lại chủ nhân của chúng!
Vì chúng ta đã phát nguyện cống hiến hết mình để giúp đỡ chúng sinh khác và từ sâu thẳm trái tim đã trao tặng mọi thứ cho họ, chúng ta nên xem xét rằng cơ thể của chúng ta không còn là của chúng ta nữa mà giờ đây thuộc về họ. Vì vậy, chúng ta không bao giờ được sử dụng bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể mình để làm bất cứ điều gì không giúp ích cho người khác. Bất cứ khi nào chúng ta có thể thấy điều gì đó tốt đẹp trong chính mình, hãy tước bỏ nó khỏi bản thân mình và sử dụng nó để phục vụ người khác.
Bây giờ chúng ta đến với thực hành đặc biệt dành cho Hướng Dẫn Bồ Tát Đạo (Bodhicharyāvatāra):
140.
Hãy xem người khác - thấp hơn, cao hơn, ngang bằng-như chính mình,
Xác định mình là "người khác".
Sau đó, không nghĩ ngợi gì thêm,
Hãy đắm chìm trong sự đố kỵ, kiêu ngạo và ganh đua.
Ở đây, chúng ta bắt đầu bằng cách đánh giá những phẩm chất tốt và xấu của chính mình và trên cơ sở này, so sánh bản thân với người khác, phân biệt giữa những người ngang bằng với chúng ta, những người vượt trội và những người thấp kém. Để làm được điều này, chúng ta phân biệt giữa mặt tốt mới của mình, mặt đã thấy được điều sai trái khi coi mình quan trọng hơn người khác và lợi ích của việc coi người khác quan trọng hơn bản thân chúng ta và mặt xấu cũ của chúng ta, cái "tôi" ích kỷ. Cái "tôi" mới giờ đây đồng nhất với những người khác và đứng về phía họ. Cái "tôi" cũ có ba khía cạnh: cao hơn, ngang bằng và thấp kém. Và cái "tôi" mới, giờ đây được đồng nhất với những người khác, cũng có ba khía cạnh này. Chúng ta sẽ sử dụng hai cái "tôi" riêng biệt này để phát triển liên tiếp cảm giác ghen tị, cạnh tranh và kiêu hãnh.
Đầu tiên, chúng ta xem xét những phẩm chất tốt mà chúng ta vượt trội hơn người khác. Đồng nhất bản thân (cái "tôi" mới của chúng ta) với những người thấp kém này, chúng ta khiến mình ghen tị với những phẩm chất cao hơn của cái "tôi" cũ ích kỷ. Thật không công bằng, chúng ta kêu lên, khi anh ta được tôn trọng trong khi chúng ta thì không!
141.
Anh ta là trung tâm của sự chú ý.
Tôi chẳng là gì cả. Và, không giống anh ta, tôi nghèo không có tài sản.
Mọi người đều ngưỡng mộ anh ta, khinh thường tôi,
Mọi việc đều tốt đẹp với anh ta; còn tôi chỉ có cay đắng!
142.
Tất cả những gì tôi có là mồ hôi và sự lao động cực nhọc,
Trong khi anh ta ở đó, ngồi thoải mái.
Anh ta vĩ đại, được kính trọng trên thế gian,
Trong khi tôi là kẻ yếu thế, một kẻ vô danh.
Nếu chúng ta thấy sự so sánh này quá khiêm nhường, chúng ta không nên nản lòng vì mình thiếu những phẩm chất tốt. Hãy nhớ rằng tất cả chúng sinh đều có tiềm năng giác ngộ và chúng ta có thể đạt được Phật quả nếu chúng ta nỗ lực. Do đó, không có lý do gì để nản lòng.
143.
Cái gì là một người không có sự phân biệt?
Không đúng! Tôi thật sự có một số phẩm chất tốt.
So với một số người, anh ta thấp kém hơn.
So với một số người, tôi thật sự xuất sắc!
Chúng ta đã sai lầm khi cho rằng chúng ta kém cỏi nhưng lỗi là do cảm xúc tiêu cực. Những quan niệm về sự vượt trội này hoàn toàn là tương đối. Chúng ta nói với "tôi " cũ, Bạn chỉ vượt trội vì tôi kém cỏi, vì vậy nếu bạn muốn duy trì sự vượt trội, bạn sẽ phải bao dung tôi trong khi tôi phấn đấu để giác ngộ. Những phẩm chất tốt của bạn có ích gì nếu chúng không có lợi cho tôi? Theo cách này, khi chúng ta nhìn thấy những phẩm chất trong bản thân khiến chúng ta tốt hơn người khác, chúng ta nên đổi vai và phá bỏ lớp vỏ vượt trội của mình.
Tiếp theo, chúng ta lấy những người ngang hàng với mình, và một lần nữa im lặng với họ, chúng ta phát triển ý thức cạnh tranh với "cái tôi" cũ của mình, chỉ nghĩ đến việc đánh bại anh ta và khiến anh ta đau khổ.
148.
Bằng mọi cách, tôi sẽ quảng cáo
Những món quà của tôi cho toàn thế giới,
Đảm bảo rằng những phẩm chất của Người ấy
Vẫn không được biết đến, bị mọi người phớt lờ.
149.
Những lỗi lầm của tôi. Tôi sẽ che giấu, ngụy tạo.
Vì tôi, không phải anh ta, sẽ là đối tượng của sự sùng bái;
Tôi, không phải anh ta, sẽ đạt được tài sản và danh tiếng,
Tôi sẽ là trung tâm của sự chú ý.
150.
Tôi sẽ lấy sự thỏa mãn như vậy
Trong những hành vi xấu xa và sự suy đồi của anh ta.
Tôi sẽ khiến anh ta trở nên đáng khinh,
Là trò cười và trò cười của mọi người.
Cuối cùng, chúng ta nghĩ về những khía cạnh mà chúng ta kém hơn người khác, và sau đó nhìn vào "cái tôi" cũ của chúng ta qua con mắt của người khác, chúng ta phát triển một cảm giác tự hào.
151.
Mọi người nói rằng kẻ vô danh đáng thương này
Đang cố gắng cạnh tranh với tôi!
Nhưng làm sao anh ta có thể ngang hàng với tôi,
Về học vấn, sắc đẹp, sự giàu có hay dòng giỏi?
152.
Chỉ cần nghe họ nói về sự xuất sắc của tôi,
Danh tiếng của tôi trên môi của tất cả mọi người,
Sự hồi hộp của nó khiến tôi rùng mình,
Một niềm vui mà tôi đắm mình và tận hưởng!
153.
Ngay cả khi anh ta có thứ gì đó,
Tôi vẫn là người anh ta đang giúp việc!
Anh ta có thể giữ đủ để sống sót,
Nhưng với sức mạnh của mình, tôi sẽ đánh cắp phần còn lại.
154.
Tôi sẽ làm mòn hạnh phúc của anh ta;
Tôi sẽ luôn làm tổn thương và làm anh ta bị thương.
Anh ta là người trong luân hồi
Đã làm hại tôi hàng trăm lần!
Đặt mình vào vị trí của người khác rất hữu ích để nhìn thấy lỗi lầm của cái "tôi" ích kỷ, và chúng ta sẽ trở nên vô cùng ghê tởm nó. Khi chúng ta thực hành như vậy, sử dụng sự ghen tị như một công cụ, hãy tưởng tượng rằng cái "tôi" cũ của chúng ta rất đẹp trai, ăn mặc đẹp, giàu có, quyền lực và có mọi thứ anh ta cần. Sau đó, chúng ta tưởng tượng mình là một khán giả vô tư giữa đám đông những người nghèo khổ, ăn mặc rách rưới, những kẻ thấp kém nhất trong những kẻ thấp kém. Bây giờ hãy quan sát cái "tôi" cũ, từ vô thủy chỉ nghĩ đến bản thân mình và chưa bao giờ nghĩ đến người khác. Để thúc đẩy lợi ích của riêng mình, anh ta đã bắt người khác làm nô lệ và không ngần ngại giết chóc, trộm cắp, nói dối, vu khống và ích kỷ đắm chìm trong tình dục. Anh ta chẳng là gì ngoài gánh nặng cho cuộc sống của người khác. Khi chúng ta nhìn vào cái "tôi" ích kỷ theo cách này, sự ghê tởm thật sự sẽ trào dâng trong trái tim chúng ta. Và khi chúng ta đồng nhất mình với những chúng sinh khác, trong tất cả nỗi đau khổ của họ, chúng ta sẽ cảm thấy gần gũi hơn với họ, và mong muốn giúp đỡ họ sẽ lớn lên.
Chúng ta nên thực hành về tính cạnh tranh và lòng kiêu hãnh một cách sống động và thực tế. Hãy nhắc nhở bản thân về mọi hành động tiêu cực mà "cái tôi" đã khiến chúng ta làm, mọi tác hại mà nó đã gây ra cho chúng ta, khiến chúng ta đau khổ và gây ra đau khổ vô tận cho người khác nữa. Đây chính là kẻ thù thật sự của chúng ta. Sẽ tuyệt vời biết bao nếu khiến nó đau khổ hơn chúng ta, hoặc thậm chí khiến nó biến mất hoàn toàn? Chúng ta không nên thật sự kiêu hãnh nếu có thể phá vỡ nó và khiến nó trở nên bất lực sao?
156.
Và do đó, bây giờ chắc chắn
Hãy dành toàn bộ tâm trí cho lợi ích của người khác.
Đức Phật đã không nói dối khi nói rằng -
Bạn sẽ thấy những lợi ích đến từ nó.
Sau khi xem xét tất cả những điều sai trái khi coi mình quan trọng hơn người khác và thấy được mọi tác hại mà thái độ như vậy mang lại, chúng ta nên phản kháng lại sự thống trị của nó và không bao giờ để suy nghĩ về tầm quan trọng của bản thân ảnh hưởng đến chúng ta.
170.
Hãy để mọi suy nghĩ làm việc cho chính mình
Bị từ chối hoàn toàn, gạt sang một bên!
Bây giờ bạn đã bị bán cho người khác,
Hãy ngừng than vãn, hãy phục vụ!
171.
Vì nếu, vì vô ý,
tôi không đưa bạn đến với người khác,
Chắc chắn là anh sẽ giao nộp tôi.
Cho những người bảo vệ và người gác cổng địa ngục.
173.
Và vì vậy, nếu tôi muốn được mãn nguyện,
tôi không bao giờ nên tìm cách làm hài lòng bản thân.
Và tương tự như vậy, nếu tôi muốn bảo vệ bản thân,
Tôi luôn phải là người canh gác của người khác.
Shantideva đặc biệt nhấn mạnh đến những nguy hiểm khi bị ràng buộc vào cơ thể của một người.
174.
Trong phạm vi mà hình hài con người này
Được nâng niu và cứu khỏi bị tổn thương,
Chỉ cần như vậy, chỉ cần như vậy, đến mức độ đó,
Nó sẽ suy yếu thành một trạng thái yếu đuối và cáu kỉnh.
175.
Đối với những người chìm xuống một bước ngoặt như vậy,
Trái đất và tất cả những gì nó chứa đựng
Không có khả năng thỏa mãn.
Vì ai có thể cho họ tất cả những gì họ khao khát?
Sự ràng buộc vào cơ thể chỉ có thể mang lại cho chúng ta đau khổ. Nếu chúng ta trân trọng nó vì nó có ích cho chúng ta, thì chúng ta nên coi trọng cơ thể của mọi người khác theo cùng một cách, vì cơ thể của họ có ích cho họ.
184.
Do đó, thoát khỏi mọi sự ràng buộc,
Tôi sẽ trao tặng cơ thể này vì lợi ích của chúng sinh.
Và mặc dù nó bị ảnh hưởng bởi rất nhiều lỗi lầm ,
Tôi sẽ chấp nhận nó như là công cụ cần thiết của tôi
Cho đến bây giờ, chúng ta đã để bản thân mình giảm bớt sự bám víu vào "cái tôi". Đã đến lúc chúng ta đẩy lùi hành vi trẻ con bằng cách noi theo các vị Bồ tát đáng kính, nhớ lại các chỉ dẫn, và tránh xa sự buồn chán và buồn ngủ. Giống như những Người thừa kế từ bi của các Đấng Chiến thắng, chúng ta phải thực hành kiên nhẫn ngày và đêm. Nếu chúng ta có thể làm được điều đó, chắc chắn một ngày nào đó nỗi đau khổ của chúng ta sẽ đến kết thúc.
187.
Vì vậy, để xua tan mọi sự che khuất,
tôi sẽ hướng tâm trí mình khỏi con đường sai lầm:
Và liên tục hướng đến đối tượng hoàn hảo,
tôi sẽ nghỉ ngơi tâm trí mình trong sự thiền định./.
***
Chương 10: Tuệ trí
***
1.
Tất cả các nhánh của Giáo lý này mà
Bậc Thánh Giác Ngộ đã thuyết giảng vì mục đích trí tuệ.
Do đó, họ phải trau dồi trí tuệ này
Những ai muốn chấm dứt đau khổ.
Có nhiều loại trí tuệ. Ví dụ, có loại trí tuệ tương đối đạt được thông qua việc nghiên cứu năm khoa học truyền thống chính.[37] 39 Ngoài ra còn có trí tuệ làm việc vì lợi ích của người khác. Khi Tịch Thiên (Shantideva) nói ở đây rằng "tất cả các nhánh của Giáo lý này đã được thuyết giảng vì mục đích trí tuệ", ngài đang ám chỉ đến trí tuệ là sự chứng ngộ tính không, bản chất thật sự của mọi thứ. Đây là trí tuệ tuyệt đối.
Để chứng ngộ tính không, thật ra chúng ta không cần năm ba la mật đầu tiên, và chúng thậm chí không phải là yếu tố thiết yếu để phát triển tuệ giác rõ ràng cho thiền quán (vipashyană). Nhưng như chúng ta sẽ thấy, chúng là cần thiết nếu chúng ta muốn mang lại lợi ích cho những chúng sinh khác.
Long Thọ (Nagarjuna) nói trong Bảy mươi bài kệ về tính không:
Đức Phật đã nói như vậy:
Mọi thứ đều phát sinh từ nguyên nhân và điều kiện;
Xem chúng là có thật là vô minh
Từ đó phát sinh mười hai mối liên kết phụ thuộc lẫn nhau,[38] 40
Hơn nữa, trong Bốn trăm bài kệ có nói:
Hạt giống của sự tồn tại là ý thức;
Hiện tượng là lĩnh vực của ý thức.
Nếu chúng ta thấy sự không thật của mọi thứ,
Chúng ta sẽ phá hủy hạt giống của sự tồn tại.
Những đoạn văn này có thể được diễn giải theo nhiều cách khác nhau, nhưng theo truyền thống của Nguyệt Xứng (Chandrakīrti,) là truyền thống mà Shantideva tuân thủ, giáo lý của Nagarjuna và dòng dõi của ông nói rằng bám víu vào bản ngã như một thực thể thật sự là vô minh, và sự vô minh khi tin rằng các hiện tượng thật sự tồn tại tạo nên một trong mười hai mối liên kết phụ thuộc lẫn nhau. Điều này dẫn đến sự tồn tại luân hồi, đến lượt nó lại là một trong mười hai mối liên kết phụ thuộc lẫn nhau.
Đoạn văn thứ hai nói rằng hạt giống của sự tồn tại luân hồi này là loại ý thức có các đối tượng, hoặc hiện tượng, như là lĩnh vực trải nghiệm của nó. Nếu những đối tượng này được hiểu là không có thực tại tối hậu, thì hạt giống tồn tại này bị phá hoại, và nó bị phá hủy hoàn toàn khi trí tuệ nhận ra rằng các hiện tượng không có sự tồn tại thật sự được phát triển hoàn hảo.
Tất cả các trường phái Phật giáo, ngoại trừ một trường phái nhỏ, đều đồng ý rằng khái niệm về một bản ngã cá nhân, "cái tôi", phụ thuộc vào năm uẩn. Họ bác bỏ niềm tin vào một bản ngã tồn tại độc lập với các uẩn này. Tuy nhiên, lý thuyết về sự vô ngã đi xa hơn nhiều so với việc phủ nhận "cái tôi" cá nhân. Vì người ta phải hướng đến mục tiêu nhận ra rằng tất cả các hiện tượng đều trống rỗng, hoặc không có sự tồn tại thật sự, và trên thực tế có một phương thức tồn tại cực kỳ vi tế.
Như chúng ta đã nói, khi chúng ta thấy rằng các hiện tượng hoặc đối tượng của ý thức không có bất kỳ thực thể thật sự nào, thì hạt giống tồn tại bị phá hủy. Mặt trái của sự hiểu biết này là bám vào niềm tin rằng mọi thứ có một thực tại vững chắc, và đây là định nghĩa của sự vô minh.
Thật là sai lầm khi tin rằng những người thực hành các thừa thấp không thể giải thoát bản thân khỏi những cảm xúc tiêu cực và do đó đạt được sự giải thoát khỏi luân hồi. Thật vậy, suy nghĩ như vậy là vi phạm nghiêm trọng các giới luật của Bồ tát. Khi những người theo con đường của Thanh văn và Duyên giác trở thành A la hán[39]41, họ hoàn toàn thoát khỏi những che chướng do những cảm xúc tiêu cực tạo ra. Họ cũng phải có sự chứng ngộ về tính không, nếu không họ sẽ không được giải thoát khỏi luân hồi. Trí tuệ hiểu tính không thật sự tạo ra ba loại giác ngộ: giác ngộ của Thanh văn, giác ngộ của Duyên giác và giác ngộ của Bồ tát.
Khi Shantideva nói, "Tất cả các nhánh của Giáo lý / Bậc Thánh giác ngộ được giải thích vì mục đích trí tuệ", ngài đang ám chỉ đến trí tuệ của Bồ tát chứ không phải chỉ là sự hiểu biết đơn thuần về tính không mà Thanh văn và Duyên giác đã vun đắp khi họ tiến triển trên con đường tương ứng của mình. Vậy thì trí tuệ của Bồ tát có gì đặc biệt? Tại sao họ hành thiền về tính không? Bồ tát không chỉ muốn giải thoát bản thân khỏi những che chướng do cảm xúc tiêu cực (phiền não chướng) tạo ra mà còn giải thoát bản thân khỏi những che chướng là chướng ngại đối với kiến thức (sở tri chướng). Họ phải giải thoát bản thân khỏi che chướng phiền não trước khi có thể giải quyết được che chướng tri thức sau.
Tuy nhiên, có thể nói rằng trong một số trường hợp, những cảm xúc tiêu cực tạo cơ hội cho một kết quả tốt, như khi sự trân trọng người khác nảy sinh thông qua ham muốn. Như câu tục ngữ đã nói, "Nước thải hôi thối từ thành phố Serkya làm màu mỡ cho những cánh đồng mía." Tuy nhiên, trên thực tế, kẻ thù thật sự của Bồ tát và những trở ngại lớn nhất trong công việc của họ vì người khác là những chướng ngại che giấu sự toàn tri. Nhưng vì những điều này bao gồm các dấu vết còn sót lại do những cảm xúc tiêu cực để lại, nên sau đó cũng phải từ bỏ những phiền não chướng trước khi có thể loại bỏ những trở ngại đối với kiến thức.
Do đó, khi các Bồ tát thiền về tính không, mục đích chính của họ là xua tan những chướng ngại này để đạt đến bờ vực của sự hiểu biết. Để làm được điều này, chỉ có sự hiểu biết về mặt trí tuệ về bản chất vi tế của sự vật là chưa đủ. Trí tuệ xua tan những chướng ngại này phải được hỗ trợ bởi các thực hành như bố thí và các ba-la-mật[40]42 khác. "Đức Phật đã dạy những thực hành khác nhau này để các Bồ tát có thể đạt được sự sáng suốt, qua đó họ có thể xua tan chướng ngại đối với kiến thức và sau đó làm việc vì lợi ích của người khác.
Khi nói về việc tạo ra trí tuệ để chấm dứt đau khổ, Tịch Thiên (Shantideva) đang ám chỉ đến đau khổ của tất cả chúng sinh. Rốt cuộc, văn bản này nói về các hoạt động của Bồ tát, và chúng ta không chỉ mới thảo luận gần đây về điều gì là sai khi trân trọng bản thân và tại sao việc nghĩ đến người khác lại quan trọng?
Khi sự bố thí và những điều tương tự được thực hành như các ba-la-mật, được thực hành với sự hiểu biết rằng chủ thể, đối tượng và bản thân hành động đều không có sự tồn tại thật sự, những hành động này trở nên rất sâu sắc và hoàn toàn vượt qua sự bố thí thông thường, v.v.
Chúng ta nên lưu ý rằng Shantideva nói về sự bố thí trước và chỉ đặt chủ đề về trí tuệ ở phần cuối. Ngài có lý do cho điều này. Trong Luận Về Tất Cả Những Sự Thực Hành (Compendium of All Practices), ngay trước khi bắt đầu trình bày về tính không, ngài chỉ ra bằng nhiều trích dẫn từ các kinh điển rằng bản thân Đức Phật, trước khi đề cập đến cùng một chủ đề, sẽ nói về sự không hấp dẫn và vô thường của các hiện tượng và về bản chất của đau khổ. Người ta gần như có thể nghĩ rằng thế giới của các hiện tượng là chủ đề chính trong giáo lý của ngài, vì chỉ trong phần kết luận, ngài mới nói rằng mọi thứ không có sự tồn tại khách quan, chân thực. Tuy nhiên, có một lý do cực kỳ quan trọng khiến ngài tiến hành theo cách này. Để bắt đầu, ngài sẽ thảo luận về các khía cạnh tích cực và tiêu cực của mọi thứ, đặt nền tảng cho sự hiểu biết rõ ràng về hoạt động không thể sai sót của chân lý tương đối, theo đó mọi thứ thật sự tồn tại. Chính trên cơ sở tồn tại tương đối của chúng mà Đức Phật đã giải thích rằng các hiện tượng là trống rỗng theo bản chất của chúng. Chỉ khi có cơ sở thì mới có thể khẳng định được tính không. Như người ta nói: "Sắc tức là không; không tức là sắc". Bởi vì có sắc, chúng ta mới có thể nói về sự không tồn tại của nó. Nếu không có sắc, thì không thể có tính không của sắc. Vì có những hiện tượng mà chúng ta có thể nói là trống rỗng, chúng ta nói rằng có một cơ sở cho tính không. Nếu không có cơ sở đó, tính không sẽ không thể hình dung được.
Một lời giải thích về các thực hành của năm ba la mật đầu tiên, bắt đầu với sự rộng lượng (bố thí) cho chúng ta một cái nhìn rõ ràng về cơ sở của tính không.
Ví dụ, khi chúng ta thực hành sự rộng lượng để giải thoát cho bản thân và người khác khỏi mọi đau khổ do nghèo đói, chúng ta nhận thức được chân lý tương đối của nhân và quả. Khi sau đó được giải thích rằng, trong chân lý tuyệt đối, tất cả những điều này thật sự không có sự tồn tại thật sự, thì chúng ta đã được đặt nền tảng vững chắc trong chân lý tương đối và do đó được bảo vệ khỏi sai lầm vào các thái cực triết học của chủ nghĩa hư vô hoặc chủ nghĩa vĩnh cửu.
2.
Tương đối và tối hậu,
Hai chân lý này được tuyên bố là như vậy.
Tối hậu không nằm trong tầm với của trí tuệ,
Vì trí tuệ được cho là tương đối.
Có sự phân biệt, liên quan đến những điều có thể biết được, giữa chân lý tương đối (thông thường-thế đế) và chân lý tuyệt đối (tối hậu-chân đế). Theo văn bản gốc, chân lý tuyệt đối không thể nhận thức được bằng trí thông minh.
Như chúng ta thấy trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajñāpāramitā):
Trí tuệ ba la mật là không thể quan niệm, không thể diễn tả và không thể mô tả.
Nó không sinh; nó không diệt; nó giống như không gian.
Chỉ có tâm giác ngộ mới có thể hiểu được nó.
Trước Mẹ của tất cả các vị Phật, tôi kính lạy!
Một lần nữa, Kinh Kim Cang Năng Đoạn nói rằng:
Bản chất tuyệt đối của chư Phật,
Thân thể tuyệt đối của những bậc hướng dẫn tâm linh,
Không thể hiểu được bằng trí thông minh.
Lý do cho điều này, như Shantideva nói, là trí tuệ là thứ tồn tại ở cấp độ chân lý tương đối. Tuy nhiên, cách diễn giải điểm này khá tế nhị, vì sau này trong văn bản, chúng ta sẽ đọc về một loại trí tuệ và trí thông minh khác. Shantideva tiếp tục:
3.
Theo quan điểm này, trong thế giới, có hai loại người được quan sát:
Những người có sự hiểu biết sâu sắc về yoga và những người bình thường.
Về vấn đề này, quan điểm của những người bình thường
Bị hủy hoại bởi những hành giả yogi, những người tự mình ở trong thế giới
4.
(Trong hàng ngũ của họ,
những người có mức độ hiểu biết thấp hơn, bị những người có mức độ hiểu biết cao hơn bác bỏ)
Thông qua các ví dụ mà cả hành giả yogi và người thế gian đều chấp nhận.
Và vì lợi ích của kết quả, việc phân tích bị gạt sang một bên.
Khi văn bản nói về sự hiểu biết sâu sắc hoặc trí thông minh, nó ám chỉ đến sự hiểu biết về sự thiếu sự tồn tại thật sự. Trong việc sử dụng trí tuệ phân biệt để phân tích các hiện tượng, các trường phái khác nhau đạt được các cấp độ hiểu biết khác nhau và những trường phái có quan điểm triết học tiên tiến hơn bác bỏ những trường phái có quan điểm kém tiên tiến hơn.
Một lần nữa, có hai loại trí tuệ phân biệt. Một loại phân biệt những thứ liên quan đến chân lý tương đối, và cái kia phân biệt mọi thứ liên quan đến chân lý tuyệt đối. Ở đây trong văn bản, sự sáng suốt, hay trí thông minh, ám chỉ đến trí tuệ phân biệt phân tích bản chất tuyệt đối của mọi thứ chứ không phải trí thông minh theo nghĩa thông thường hơn liên quan đến các hiện tượng tương đối. Và nếu câu kệ được xem xét theo con đường sâu sắc và con đường rộng lớn, thì con đường sâu sắc được nhắc đến.
Trong Nhập Trung đạo có nói: "Người ở cấp độ xa hơn nữa có trí thông minh vượt trội." Khi một Bồ tát đạt đến cấp độ thứ bảy, được gọi là xa hơn nữa (Viễn Hành Địa), thì trí thông minh của ngài vượt trội hơn một Thanh văn hay Duyên giác. Cho đến lúc đó, thì các Bồ tát ở cấp độ đầu tiên (Hoan Hỉ Địa) trở lên vượt trội hơn Thanh văn và Duyên giác vì gia đình (bồ tát) của họ, chứ không phải vì sức mạnh trí thông minh của họ, hay sự hiểu biết của họ về tính không[41]. 43 Chỉ khi họ đạt đến cấp độ thứ bảy thì trí thông minh của họ mới vượt trội. Người ta cũng nói rằng tại thời điểm này, họ vượt qua Thanh văn hay Duyên giác (Shravakas và Pratyekabuddhas) về khả năng, trong một khoảnh khắc, để nhập vào và phát sinh từ sự tập trung của sự chấm dứt hoàn hảo.
Khi Shantideva nói rằng chân lý tuyệt đối không thể được nhận thức bằng trí tuệ, ngài không ám chỉ đến trí thông minh phân biệt chân lý tuyệt đối mà là trí thông minh bị che khuất hình thành sự phân đôi giữa chủ thể và đối tượng. Chân lý tuyệt đối là thứ mà chúng ta phải trải nghiệm với một tâm trí không có khái niệm và trong không có khái niệm nhị nguyên nào như vậy. Chân lý tương đối là những gì được nhận thức bởi trí thông minh nhị nguyên, khái niệm.
Các truyền thống phi Phật giáo của Ấn Độ cổ đại cũng nói về chân lý tuyệt đối và tương đối. Ví dụ, Số Luận (Sämkhyas) coi bản chất nguyên thủy là chân lý tuyệt đối, và phần còn lại của hai mươi lăm đối tượng của kiến thức (như Bản ngã) là chân lý tương đối. Ngay cả giữa các trường phái Phật giáo khác nhau - Tỳ Bà Sa, Kinh Lượng Bộ, Duy Thức, và Trung Quán (Vaibhāshika, Sauträntika, Chittamātrin và Madhyamika), hai chân lý được giải thích theo những cách hơi khác nhau.
Thuật ngữ tương đối đôi khi được gọi là chân lý che khuất và đôi khi là chân lý thông thường, tùy thuộc vào ngữ cảnh. Và chân lý tuyệt đối cũng có thể có nhiều ý nghĩa khác nhau. Luận về Trung tâm và Cực đoan nói về chân lý tuyệt đối, thực hành chân lý tuyệt đối và đạt được chân lý tuyệt đối. Một lần nữa, trong Mật Thừa (Mantrayāna) tối cao, người ta nói về sự trong sáng tuyệt đối. Hơn nữa, để giải thích các thực hành cụ thể của Mantrayana, hai chân lý được giải thích theo những cách khác nhau. Ví dụ, khía cạnh ảo tưởng và tạm thời của hiện tượng liên quan đến chân lý tương đối, trong khi khía cạnh liên tục nguyên sơ của chúng liên quan đến chân lý tuyệt đối.
Vì vậy, khi chúng ta nói về chân lý tuyệt đối, chúng ta nên luôn luôn làm như vậy với sự tham chiếu đến bối cảnh, cho dù là Kinh Thừa hay Mật Thừa (Sütrayāna hay Mantrayāna), và nếu là Mantrayāna, thì đối với tantra cụ thể. Sau đó, chúng ta nên có được sự hiểu biết chính xác về chân lý tuyệt đối trong bối cảnh đó. Điều này rất quan trọng. Nếu chúng ta cố gắng chỉ áp dụng sự hiểu biết chung về chân lý tuyệt đối cho một số văn bản cụ thể, chúng ta có thể rất bối rối.
Trong các Câu kệ gốc của Trung đạo (Căn Bản Trung Quán Luận Tụng)có nói rằng giáo lý của Đức Phật dựa trên hai chân lý: chân lý của thế giới tương đối và chân lý tối thượng, tuyệt đối. Điều này được giải thích chi tiết trong Nhập Trung đạo, trong đó nói rằng, vì tất cả các hiện tượng đều được nhận thức đúng và sai, nên chúng ta nắm bắt bản chất của chúng theo hai cách. Những gì được nhận thức đúng là chân lý tuyệt đối, và những gì được nhận thức không đúng là chân lý tương đối. Điều này đề cập đến những phát hiện của trải nghiệm phi khái niệm, liên quan đến chân lý tuyệt đối, và những phát hiện của phân tích khái niệm, liên quan đến chân lý tương đối. Trên cơ sở những điều này, chúng ta thiết lập sự hiểu biết của mình về tính không. Nhưng ở đây chúng ta chỉ nói về trải nghiệm phi khái niệm về chân lý tuyệt đối. Ngoại trừ trường hợp này, các cách phân biệt các chân lý giống như trong Nhập Trung đạo.
Tại sao chúng ta cần nhận ra tính không? Chúng ta không muốn đau khổ, và chúng ta biết rằng gốc rễ của đau khổ là tâm không thuần hóa. Bởi vì tâm trí nhận thức và hiểu mọi thứ một cách sai lầm, những cảm xúc tiêu cực phát sinh và tâm trí không bao giờ bình yên. Đây là lý do tại sao chúng ta đau khổ. Để tránh điều này, chúng ta phải phát triển sự tâm thức không sai lầm, trí thông minh nhận thức bản chất thật sự của hiện tượng. Nhận thức sai lầm phát sinh vì chúng ta không nhìn nhận mọi thứ như chúng vốn có.
Phần lớn những gì chúng ta nhận thức, chúng ta nhận thức theo cách hiểu sai, nhìn nhận mọi thứ không đúng như bản chất thật sự của chúng. Đây là cách chúng ta trở nên ảo tưởng. Để tránh điều này, chúng ta không nên chấp nhận nhận thức của mình ngay khi chúng ta trải nghiệm chúng. Điều rất quan trọng là phải phân tích và điều tra xem chúng ta có đang nhìn nhận mọi thứ như chúng vốn có hay không. Chúng ta nên tự hỏi những nhận thức của mình đang che giấu điều gì. Nếu chúng ta làm như vậy, sự hiểu biết về hai chân lý sẽ nảy sinh trong tâm trí chúng ta.
Tất cả những gì chúng ta nhận thức - núi non, nhà cửa, v.v. - đều ảnh hưởng đến chúng ta theo cách này hay cách khác. Chúng ta cần điều tra bản chất thật sự của chúng. Nhận thức của chúng ta và những khía cạnh tích cực và tiêu cực mà chúng ta gán cho chúng, cấu thành chân lý tương đối. Chân lý tương đối là những gì chúng ta tìm thấy khi chúng ta trải nghiệm tính đa dạng của các hiện tượng theo cách tương đối, mà không tiến xa hơn trong việc phân tích bản chất của chúng. Những phát hiện của quá trình phân tích do tâm trí thông thường tạo thành chân lý tương đối.
Nếu, theo chân lý tuyệt đối, mọi vật không có sự tồn tại thật sự, tại sao chúng ta lại nói về chân lý tương đối như chân lý? Bởi vì nó đúng với người nhận thức. Nó đúng với tâm trí bị che mờ bởi sự vô minh, tin vào thực tại của nhận thức của mình. Như Lối vào Trung đạo đã nói, những gì bị thay đổi và che khuất bởi sự vô minh và được nhận thức là có thật được gọi là chân lý tương đối.
Đối với tâm trí nào thì tính đa dạng của hiện tượng là đúng? Chỉ có thể là tâm trí vô minh mê muội tin rằng mọi thứ tồn tại một cách khách quan. Bản chất thật sự của mọi thứ bị che khuất bởi sự bám víu vô minh của tâm trí vào mọi thứ và cách chúng hoạt động. Do đó, chân lý tương đối dựa trên những phát hiện của tâm trí kiểm tra mọi thứ theo cách thông thường. Nếu chúng ta phân tích sâu hơn và cố gắng nhìn thấy bản chất thật sự của các hiện tượng, chúng ta có thể tìm thấy bản chất cuối cùng của thực tại. Ở đây, chúng ta phân biệt giữa cách mọi thứ xuất hiện (chân lý tương đối) và cách chúng tồn tại (chân lý tuyệt đối), đó là những gì được nhận thức bởi tâm trí không bị mê hoặc.
Có hai cách tiếp cận chân lý tuyệt đối: một ý tưởng tích cực về nó có thể đạt được thông qua lắng nghe, phản ánh và thiền định, và một sự hiểu biết về nó theo nghĩa phủ định có thể đạt được thông qua phân tích. Có lý khi cho rằng nếu một người có thể tìm thấy thông qua phân tích bất cứ điều gì thực sự tồn tại, thì người đó cũng có thể tìm thấy nó thông qua lắng nghe, phản ánh và thiền định. Nhưng thực tế là, những gì người ta có thể tìm thấy thông qua lắng nghe, phản ánh và thiền định không thể tìm thấy bằng phân tích. Ví dụ, bản chất tuyệt đối là thứ có thể được trải nghiệm thông qua lắng nghe, phản ánh và thiền định. Khi người ta nghiên cứu bản chất của cá nhân và của tất cả các hiện tượng, người ta thấy rằng bản chất của chúng là sự trống rỗng. Sự trống rỗng này là một chân lý tuyệt đối hiển hiện với tâm trí. Người ta có thể nhìn thấy nó bằng nhận thức của mình. Một khi đã trải nghiệm nó, nên không cần thiết phải chứng minh lại. Bằng cách tham khảo kinh nghiệm của một người về bản chất này, người ta có thể nhớ lại nó. Sự tồn tại của nó là có thật, và người ta không cần phải dựa vào lập luận để chứng minh rằng nó tồn tại. Vì vậy, khi một người có một số niềm tin rằng không có hiện tượng nào thật sự tồn tại, người ta cần phải giải thích lại điều này hoặc lặp lại cuộc điều tra. Bản chất tuyệt đối này được thiết lập thông qua việc lắng nghe, phản ánh và thiền định là điều chúng ta có thể trải nghiệm.
Tuy nhiên, khi một người tìm kiếm bản chất tuyệt đối hay tính không này và cố gắng tìm ra nó ở đâu, người ta không thể tìm thấy nó. Bản chất của nó là không tồn tại. Khi một người lấy bản chất tuyệt đối (mà người ta trải nghiệm thông qua việc lắng nghe, phản ánh và thiền định) làm đối tượng phân tích, không ai có thể tìm thấy nó. Đây là lý do tại sao nó được gọi là không tồn tại theo bản chất. Lấy một ví dụ, chúng ta có thể nói rằng một chiếc bình có bản chất là tính không, nhưng khi chúng ta tìm kiếm tính không đó, nó không tồn tại. Tất cả những gì chúng ta có thể tìm thấy là tính không của tính không, nhưng chúng ta không thể tìm thấy tính không. Những gì được tìm thấy bằng cách trải nghiệm nó thông qua lắng nghe, phản chiếu và thiền định không thể tìm thấy thông qua phân tích như vậy
Đây là một điểm quan trọng. Sự hiểu biết về chân lý tuyệt đối đến từ việc lắng nghe, phản chiếu, cho đến khi thiền định là một cái gì đó tồn tại và có thể được trải nghiệm. Nhưng trong chân lý tuyệt đối xuất hiện thông qua phân tích ngay cả bản thân tính không, không có gì tồn tại./-
Chương 11: Hồi Hướng
***
Chương cuối cùng của Hướng Dẫn Bồ Tát Đạo (Bodhicharyāvatāra) là hồi hướng công đức vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
1.
Nhờ tất cả công đức mà tôi đã tích lũy được
Khi biên soạn cuốn sách này, nói về
Sự thể nhập vào con đường Bồ tát,
Nguyện mọi chúng sinh bước trên con đường đến Phật quả.
2.
Nguyện chúng sinh ở khắp mọi nơi
Đang chịu Khổ đau trong tâm trí và cơ thể họ
Nhờ công đức của tôi, được
Niềm vui và hạnh phúc vô biên.
3.
Khi họ vẫn còn ở trong luân hồi,
Nguyện niềm vui của họ không hề suy giảm;
Nguyện họ nếm được hạnh phúc vô song
Trong sự liên tục không ngừng nghỉ và không gián đoạn.
Vào ngày cuối cùng này, tôi muốn cảm ơn tất cả các bạn đã đến tham dự buổi giảng này. Tôi muốn đưa ra một bình luận chi tiết hơn về chương thứ chín, chương trí tuệ, nhưng không đủ thời gian. Tuy nhiên, đây là lý do chính đáng để quay lại nước Pháp, và tôi quyết tâm quay lại để chúng ta có thể dành một tuần chỉ để nghiên cứu chương thứ chín.[42] 44
Tất cả các bạn ở đây, những người bạn tâm linh thật sự quan tâm đến lời dạy của Đức Phật, hãy nghiên cứu và thực hành nhiều nhất có thể.
Kiến thức và sự hiểu biết cơ bản mà các bạn đã đạt được về chủ đề tính không sẽ giúp việc thực hành của các bạn dễ dàng hơn nhiều. Sự hiểu biết về tính không này sẽ mạnh mẽ hơn nhiều nếu nó được xây dựng trên nền tảng thực hành lòng vị tha. Vì Shantideva đã viết Bodhicharyāvatāra chủ yếu như một cẩm nang cho những người thực hành, chứ không phải là một chuyên luận lý thuyết, chúng ta nên cố gắng hết sức để áp dụng những lời dạy này vào sự vị tha. Sống vì người khác có tầm quan trọng vô cùng lớn đối với tất cả chúng ta, bất kể đức tin của chúng ta là gì.
Tất cả chúng ta đều ở đây trên hành tinh này, như thể chúng ta là những du khách. Không ai trong chúng ta có thể sống mãi ở đây. Tuổi thọ dài nhất mà chúng ta có thể sống là một trăm năm. Vì vậy, trong khi chúng ta ở đây, chúng ta nên cố gắng có một trái tim tốt và làm điều gì đó tích cực và hữu ích cho cuộc sống của mình. Cho dù chúng ta chỉ sống vài năm hay cả một thế kỷ, sẽ thật đáng tiếc và buồn nếu chúng ta dành thời gian đó để làm trầm trọng những vấn đề gây đau khổ cho người khác, động vật và môi trường. Điều quan trọng nhất là trở thành một con người tốt.
Tôi đã nhận thấy một số người bạn cũ ở đây trong số các bạn, các nhà sư và nữ tu Phật giáo phương Tây đã thực hành và giữ lời thề xuất gia trong hơn mười lăm năm, một số người đã lên đến hai mươi năm. Các bạn gần như là những người lớn tuổi của Tăng đoàn! Tôi nhận thấy từ tư thế và ánh mắt của các bạn rằng khi lắng nghe những lời dạy, các bạn hoàn toàn tập trung vào chủ đề. Điều này rất đáng mừng, và tôi hy vọng các bạn sẽ tiếp tục để đạt được Bồ đề tâm chân chính và chứng ngộ tính không. Điều này có thể thực hiện được thông qua sự chuyển hóa bên trong. Một ngày nào đó các bạn sẽ trở thành Bồ tát trong thực tế. Vì vậy, bất kể có chướng ngại nào, dù mất bao lâu, cũng đừng nản lòng. Và trong thời gian chờ đợi, tôi muốn cảm ơn các bạn rất nhiều.
Ở Dordogne có các trung tâm Phật giáo Nyingma và Kagyu, và ở những nơi khác tại Pháp, có các trung tâm Gelug và Sakya. Tôi rất vui khi thấy những truyền thống khác nhau này duy trì tinh thần hòa hợp mạnh mẽ giữa họ, không có thành kiến giáo phái. Xin hãy tiếp tục vun đắp tinh thần này.
Tôi muốn nói đôi lời về sự nghiệp của người Tây Tạng.
Là một nhà sư Phật giáo, tôi không thấy khó khăn gì khi tham gia vào cuộc đấu tranh của dân tộc này, vì nó liên quan đến Phật pháp và không chỉ là vấn đề chính trị. Nếu không có tự do, giáo lý của Đức Phật không thể được thực hành và bảo tồn. Ba mươi năm qua đã chứng minh điều này. Do đó, một Tây Tạng tự do rất quan trọng đối với việc bảo tồn những giáo lý này, đặc biệt là khi Phật giáo đã được thực hành ở Tây Tạng dưới một hình thức rất hoàn chỉnh. Việc giúp đỡ cho mục đích này sẽ gián tiếp phục vụ cho Phật pháp. Một số người trong số các bạn ở đây đang tích cực bảo vệ quyền của người Tây Tạng. Tôi rất trân trọng điều này và yêu cầu các bạn tiếp tục ủng hộ. Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn thay mặt cho tất cả những người đang sống trong nỗi sợ hãi và đe dọa liên tục và thay mặt cho hơn một triệu người Tây Tạng đã mất tích do thảm kịch này.
55.
Và bây giờ, chừng nào không gian còn tồn tại,
Chừng nào còn có chúng sinh,
Mong rằng tôi vẫn tiếp tục ở lại
Để xua tan nỗi khổ của thế gian.
56.
Những nỗi đau và nỗi buồn của tất cả chúng sinh lang thang -
Mong rằng chúng sẽ chín muồi hoàn toàn trên chính tôi.
Và mong rằng đoàn thể đức hạnh của các vị Bồ tát
Luôn mang lại hạnh phúc cho chúng sinh.
57.
Cầu mong Giáo lý, phương thuốc duy nhất chữa lành nỗi khổ,
Nguồn gốc của mọi hạnh phúc và an lạc,
Được gia hộ với sự giàu có, được duy trì với sự tôn kính,
Và trong suốt thời gian dài vô tận, tồn tại!
Nguyện cho Bồ đề tâm, quý báu và cao cả,
Xuất hiện nơi nó chưa xuất hiện;
Và nơi nó đã xuất hiện, nguyện cho nó không bao giờ suy yếu
Mà phát triển và nở rộ ngày càng nhiều hơn../-
HƯỚNG DẪN BỒ TÁT ĐẠO do Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng luận
[1] Bánh xe Pháp là biểu tượng của giáo lý nhà Phật. Chuyển bánh xe Pháp đồng nghĩa với việc trình bày giáo lý.
[2] kalpa - kiếp: Một kalpa là một khoảng thời gian dài (aeon) trong vũ trụ học của Ấn Độ giáo và Phật giáo,
nói chung là giữa sự sáng tạo và tái tạo của một thế giới hoặc vũ trụ.
[3] Kinh này có tên gọi đầy đủ là Đại Phương Đẳng Như Lai Tạng Kinh, một quyển, do ngài Phật Đà Bạt Đa La dịch vào thời Đông Tấn.
[4] Luật Tạng – Vinaya: là phần giáo lý của Phật nói về hạnh kiểm đạo đức, đặc biệt trong những giới điều và thệ nguyện tăng ni và cư sĩ.
[5] Một dòng truyền thừa là một sự tiếp nối của các vị thầy Phật Giáo, trao truyền cho những vị thừa kế tâm linh của họ mà chính họ đã tiếp nhận và thừa hưởng từ những vị thầy của họ. Một dòng truyền thừa có thể được liên hệ đến một kinh luận nào đó hay một tập hợp giáo lý nào đó. Hầu hết những dòng truyền thừa có thể lần lại cuối cùng đến chính Đức Phật. Dòng truyền thừa Bồ tát đạo của Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu từ Tịch Thiên liên tục qua những vị thầy Phật Giáo đến Patrul Rinpoche, đến Khenpo Shenga (1871-1927), Kunu Rinpoche và chính Đức Đạt Lai Lạt Ma.
[6] Minyak Kunzang Sonam là một đại học giả Gelug đã học hỏi với Patrul Rinpoche gần hai mươi năm.Luận giải của ngài về Bồ tát đạo là chi tiết nhất.
[7] Jamyang Khyentse Wangpo (1820-1892) là người phục hưng Phật Giáo ở Tây Tạng trong thế kỷ mười chín. Vị đại lạt ma này là một trong những người sáng lập phong trào Rime, hay không phân phái.
[8] Treatise On Logic
[9] Trong Đại thừa Phật Giáo, cụm từ ‘vắng bóng tự ngã’ (nairatmya) vô ngã, ego less, lack of self, áp dụng không chỉ tự ngã của cá nhân, nhân ngã, mà cho tất cả mọi hiện tượng, pháp ngã, tự ngã hay self trong phạm vi này là thực thể thật sự hay cụ thể. Một vị Bồ tát phải thực chứng vô ngã trong trong chính tự thân như một cá nhân và trong tất cả mọi hiện tượng.
[10] Chỗ này không phải nói đến thập địa Bồ tát.
[11] 1.Bố thí, 2.trì giới, 3.nhẫn nhục, 4.tinh tấn, 5.thiền định, 6.trí tuệ, cùng với 7.phương tiện, 8.nguyện lực, 9.năng lực, 10.trí lực.
[12] Long Thọ (thế kỷ thứ nhất hay thứ hai) là một đạo sư Ấn Độ có trách nhiệm cho việc hoằng truyền giáo huấn Bát Nhã Ba La Mật Đa. Giáo huấn của ngài về tánh không hình thành căn bản cho giáo lý Madhyamika hay Trung Đạo.
[15] Gendun Drubpa (1391-1474) là vị thứ nhất trong những vị tái sanh, người sau đó (trong kiếp sống thứ ba) được nhận danh hiệu Đức Đạt Lai Lạt Ma. Vì vậy ngài Đức Đạt Lai Lạt Ma “thứ nhất”.
[16] Thánh Thiên (thế kỷ thứ hai) là một luận sư Phật giáo nổi tiếng của Ấn Độ, đệ tử trực tiếp của luận sư Long Thọ, tác giả của bộ luận Bách luận. Thánh Thiên am hiểu sâu sắc Phật Pháp, tiếp tục công việc của Long Thọ, giải thích sâu xa hơn giáo lý Trung Đạo.
[17] A tỳ đạt ma - Vi Diệu Pháp, là những giáo lý cao siêu, vi diệu, vì nó vượt trên các Pháp, giải thích Trí tuệ. Chữ đầu Abhi dùng để diễn đạt sự tinh tế, sâu xa, Danh từ Dharma dịch là Pháp, một Phạn ngữ có nhiều nghĩa, ở đây nó có nghĩa là lời dạy của Ðức Phật. Abhidharmagiải thích giáo lý siêu hình của Phật Giáo và có nhiều trình độ khác nhau trên con đường đến Phật Quả.
[19] Demon dịch ác ma, hay ma trong Phật Giáo chỉ cho những chướng ngại đến tiến trình tâm linh chứ không phải ma quỷ bên ngoài.
[20] Bốn loại ma đó là: Phiền não ma, ngũ ấm ma, thiên ma và tử ma.
[22] Humans and celestial, brama, Shravakas, Pratyeka Buddhas, and Bodhisattvas.
[23] Một thí dụ cho điều này như nói dối để cứu một mạng sống của ai đó.
[24] Ba thứ độc là tham, sân, si.
[25] Rupakaya là sắc thân của một Đức Phật, ngài xuất hiện giữa chúng sanh. Nó bao gồm báo thân và hoá thân.
[26] Sutra of the Three Sections (Heaps)
[27] Thí dụ, công đức đạt được qua hành thiền về chư thiên cõi vô sắc giới không thể không thể bị phá huỷ bởi sân hận phát sanh từ cõi người.
[28] Cõi Tịnh độ là một thế giới được biểu hiện bởi một Đức Phật hay Bồ tát phù hợp với công đức của chúng sanh. Được tái sanh về Cõi Tịnh độ có thể phát triển nhanh chóng con đường đến Phật Quả.
[29] Thoát khỏi một cõi luân hồi giả sử là thường hằng thì mâu thuẩn, xét thế.
[30] The Sutra Of The Vajra Banner/ /https://jespada.bandcamp.com/track/from-the-noble-vajra-banner-of-victory-sutra
[31] Cõi hư vô là một trong bốn thế giới vô hình, hay cõi giới, ở đỉnh cao của luân hồi, được trải nghiệm thông qua bốn trạng thái vô hình được cho là đạt được bởi những người thực hành Brahma Vehicle. Chúng sinh trong những thế giới này đã tạm thời kìm nén những cảm xúc tiêu cực thô thiển, nhưng tâm trí của họ vẫn bị vô minh bao trùm và họ không nhận ra được sự vô ngã. Vì lý do này, họ không thể thoát khỏi luân hồi và tiếp tục tái sinh ở các cõi thấp hơn. Xem Thuật ngữ, Ba thế giới.
[32] Quan điểm Madhyamika là quan điểm về Con đường Trung đạo do Nāgārjuna giới thiệu. Quan điểm này được thảo luận đầy đủ hơn trong chương 9 của Bodhicharyāvatāra.
[33] Đây là bốn cách nhận thức một đối tượng. Xem Anne C. Klein, Knowledge and Liberation (Ithaca, N.Y.: Snow Lion, 1986), trang 108-110.
[34] 36. Năm khuyết điểm làm gián đoạn sự tĩnh lặng của tâm trí là lười biếng, quên hướng dẫn về thiền định, buồn tẻ và bị phân tâm bởi những suy nghĩ về sự dính mắc, thiếu nỗ lực và quá sức. Xem Mahamudra, dịch Lobsang P. Lhalungpa (Boston: Shambhala Publications, 1986), trang 21
[35] 37. Ba nỗi khổ như sau: (1) Khổ đau thêm vào khổ đau là những gì tất cả chúng sinh có thể nhận thức là không mong muốn và đau đớn; trong sam sāra, những nỗi khổ nối tiếp nhau vô tận. Ví dụ, khi một người đã mắc bệnh, người đó lại mắc một căn bệnh khác, hoặc mất hết tài sản thì ngôi nhà của người đó bị thiêu rụi. (2) Khổ thay đổi ám chỉ thực tế là bất kỳ hạnh phúc và khoái lạc nào trong luân hồi đều sớm muộn gì cũng phải thay đổi thành trạng thái đau khổ. Ví dụ, khoái cảm vị giác khi thưởng thức một bữa ăn ngon có thể nhường chỗ cho sự khó chịu của chứng khó tiêu. (3) Khổ đau bao trùm khắp nơi được định nghĩa là khổ đau phát sinh từ chính sự kiện có năm uẩn, hay năm cổng uẩn. Chừng nào một người còn có sự tồn tại có điều kiện trong luân hồi, thì vẫn còn khổ đau. Hầu hết những chúng sinh bình thường không thể nhận thức rõ điều này, cũng giống như một người có thể không cảm thấy một sợi tóc trên lòng bàn tay của mình. Nhưng 1 cũng giống như một sợi tóc trong mắt gây ra sự kích thích và đau đớn dữ dội, những chúng sinh giác ngộ trải nghiệm nỗi khổ đau bao trùm khắp nơi này một cách sâu sắc. Có thể tìm thấy lời giải thích thêm trong The Jewel Or- nament of Liberation của Gampopa, bản dịch H. V. Guenther (Boston: Shambhala Publications, 1986) và trong The Words of My Perfect Teacher của Patrul Rinpoche. (Xem chú thích 2.)
[36] 38. Năm con đường và mười cấp độ: xem Thuật ngữ.
[37] 39. Năm khoa học chính là thủ công, y học và triết học. ngôn ngữ, logic,
[38] 40. Xem Thuật ngữ, Mười hai mắt xích phụ thuộc lẫn nhau.
[39] 41. La Hán có nghĩa là "người đã tiêu diệt kẻ thù kẻ thù". Kẻ thù được nhắc đến là những cảm xúc tiêu cực, bị đánh bại thông qua việc thực hành các giáo lý của thừa cơ bản, hay Shrāvakayāna. Các vị La Hán đạt được sự giải thoát khỏi những đau khổ của luân hồi, nhưng vì sự chứng ngộ về tính không của họ chưa hoàn hảo, nên họ không thể gỡ bỏ những bức màn tinh vi của sự bám víu vào thực tại hiện tượng, vốn là những chướng ngại đối với sự toàn tri. Họ vẫn chưa bước vào Đại thừa để tiến tới mục tiêu tối thượng là Phật quả.
[40] 42. Điều này là do tâm trí phải được hỗ trợ và củng cố bởi một kho công đức khổng lồ để có thể chứng ngộ tính không.
[42] 44. Đức Thánh đã thực sự giảng chương thứ chín của Bodhicharyāvatāra cho một lượng lớn khán giả vào tháng 11 năm 1993 tại Viện Vajrayogini, Lavaur. Bình luận của ngài, được dịch và biên tập bởi Geshe Thubten Jinpa, đã được xuất bản với tựa đề Thực hành Trí tuệ: Sự hoàn hảo của Con đường Bồ tát của Shantideva (Somerville, MA: Wisdom Publications, 2005). Ông dựa trên lời dạy của mình trên hai bình luận chi tiết của Khenpo Kunzang Palden và Minyak Kunzang Sonam (xem chú thích 8). Hai bình luận này đã được dịch, theo mong muốn rõ ràng của ông, dưới tựa đề Trí tuệ: Hai bình luận Phật giáo, do Nhóm dịch thuật Padmakara dịch (Peyzac-le-Moustier, Pháp: Padmakara, 1993). Một bản dịch đã được sửa đổi của bình luận của Khenpo Kunzang Palden cũng có thể được tìm thấy trong bản dịch của Nhóm dịch thuật Padmakara về bình luận của ông về toàn bộ Con đường của Bồ tát, Mật hoa của Lời nói của Văn thù (Bos-ton: Shambhala Xuất bản, 2007).