Verse 3 & 4 – Kệ Ngôn 3 và 4 (Kinh Pháp Cú - Song Ngữ)
3. akkocchi maṃ, avadhi maṃ, ajini maṃ, ahāsi me,
ye taṃ upanayhanti veraṃ tesaṃ na sammati
Nó mắng tôi, đánh tôi Nó thắng tôi, cướp tôi Ai ôm niềm hận ấy Hận thù không thể nguôi. |
(He) abused me, struck me, conquered me, took away mine, who bind themselves to it their hatred is not appeased. |
4. akkocchi maṃ avadhi maṃ ajini maṃ ahāsi me,”
ye taṃ na upanayhanti veraṃ tesūpasammati
Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi Không ôm niềm hận ấy Hận thù được tự nguôi. |
(He) abused me, struck me, conquered me, took away mine, who do not bind themselves to it their hatred is appeased. |
( TK Thích Minh Châu)
Story Tích truyện
While residing at the Jetavana monastery in Sāvatthi, the Buddha uttered Verses 3 and 4 , with reference to Thera Tissa. Tissa, son the Buddha’s maternal aunt, was at one time staying with the Buddha. He had become a bhikkhu only in his old age, but he posed as a senior bhikkhu and was very pleased when visiting bhikkhu asked his permission to do some service for him. On the other hand, he failed to perform the duties expected of junior bhikkhus; besides, he often quarrelled with the younger bhikkhus. Should anyone rebuke him on account of his behavior he would go complaining to the Buddha, weeping, very much dissatisfied and very upset. The others also followed him to the presence of the Buddha and said that Thera Tissa was an obstinacy monk. After having heard the matter, The Buddha told them the previous existence of the Thera Tissa who used to be obstinacy like that. Then He said to them not to harbor thoughts of enmity, for enmity could only be appeased by not harboring enmity. Then the Buddha spoke in verses as mentioned above. At the end of the discourse, one hundred thousand bhikkhus attained Sotāpatti Fruition. |
Khi đang ngụ tại tịnh xá Jetavana ở thành Sāvatthi, Đức Phật đã nói lên câu Kệ Pháp Cú 3 và 4 , liên quan đến Trưởng lão Tissa. Tissa đã từng ở cùng với Đức Phật, là con trai của người dì Đức Phật. Ông xuất gia nhập đạo lúc tuổi đã cao, nhưng bộ tịch giảnhư một bhikkhu lớn hạ và rất vui thích khi khách Tăng từ phương xa đến xin phép hầu hạ ông. Mặt khác, ông không làm tròn nhiệm vụ một Tỳ khưu nhỏ hạ. Ngoài ra, ông lại thường tranh cãi với các Tỳ khưu nhỏ tuổi hơn. Nếu ai trách mắng hành vi của ông , ông sẽ phàn nàn than khóc với Đức Phật , nhiều uất ức sầu khổ. Mọi người cũng theo ông diện kiến Đức Phật và thưa rằng Trưởng Lão Tissa là một Tỳ khưu bướng bĩnh. Sau khi nghe vấn đề, Đức Phật kể họ nghe câu chuyện tiền nghiệp của Trưởng lão Tissa đã từng bướng bĩnh như thế. Ngài dạy họ không chấp giữ ý niệm thù hận và do không chấp giữ hận thù thì nỗi oán giận được nguôi ngoai. Đức Phật đã xướng lên bài kệ như đã đề cập ở trên. Thời pháp vừa dứt, một trăm ngàn vị Tỳ khưu đắc Thánh quả Tu Đà hườn (Nhập lưu) |
Vocabulary
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 |
Tissavatthu abuse (v/n) to strike –struck – stricken to conquer to bind –bound- bound (oneself) to appease maternal aunt a senior bhikkhu a junior bhikkhu the younger bhikkhu to rebuke on account of On the other hand to harbor to harbor thoughts of enmity
Sotāpatti Fruition |
[ə’bju:z [straik-strᴧk- ‘strikən] [‘kɔηkə] [baind baund]
[ə’kaunt] [‘enmiti]
|
Tích Trưởng lão Tissa mắng, lăng mạ đánh đập
chinh phục, xâm lược ràng buộc, cố chấp
làm cho nguôi dì vị tỳ khưu cao hạ vị tỳ khưu nhỏ hạ vị tỳ khưu trẻ tuổi (hơn)
khiển trách do, vì lý do Nói cách khác nuôi dưỡng nuôi dưỡng ý nghĩ thù hận/cố chấp ý niệm hận thù Quả Tu đà hườn Quả Nhập lưu/ Dự lưu |
(Lê Thị Kim Dung. Email: kimdungav1@gmail.com )