Đạo Phật Ngày Nay

Chú Đại Bi - Thi hóa Việt ngữ - Phạn ngữ

Thi hóa Việt ngữ của thầy Minh Đức qua phần diễn nghĩa của TS Huệ Dân.

Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần )

Namo Ratna Trayaya (3 lần)

 Quy y Phật Pháp Tăng già

Thành tâm phụng thỉnh Phật Đà Quán Âm

Vị Bồ Tát là ấm thân

Thành Bồ Tát lớn cõi nhân hữu tình

Bởi Ngài trọn đủ quá trình

Pháp thân biến hóa hằng nghìn báo thân

Tất cả thánh thể đạo nhân

Hội đồng tán tụng tri ân tịnh lòng

Quay về kính lễ tông phong

Quán âm khắp cả trong lòng chúng sanh

Hướng tâm quán rõ sắc xanh

Biến thành nội chiếu tịnh thanh hoàn toàn

Toàn thân toàn cảnh mở toan

Một mầu tươi mát khắp toàn thế gian

Tâm vô phân biệt bình an

Hữu tình hữu thể an ban lời nguyền

Muôn loài thành tựu chân truyền

Truyền đăng tục mạng pháp duyên bảo hành

Nói ra pháp ngữ chân thành

Quán thâm tự tại hạnh lành thực thi

Trí mầu huệ chiếu tức thì

Tấm lòng từ mẫn tâm bi cứu đời

Khắp nơi hóa độ sáng ngời

Viên thành đại đạo ở nơi chân truyền

Hoàn thành tất cả hóa duyên

Chuổi tay bảo vật linh thiên hành trì

Sống tâm bình đẳng toàn tri

Pháp hành quán tưởng nghiệp chi mà lường

Hãy mau nhập lý chân thường

Đại đạo tâm pháp cúng dường Như Lai

Tín tâm nguyện hạnh hoa khai

Hành thâm quán tưởng Phật Ngài Quán Âm

Quán Âm Tự Tại thậm thâm

Khai tâm hiển lộ quán âm cõi đời

Nhiễm ô thanh tịnh cao vời

Không hai giải thoát cứu đời trầm luân

Pháp duyên khéo léo hành tuân

Bồ Đề kiên cố pháp luân hành trì

Giới hành chùy pháp thực thi

Hoàn thành thánh đạo chánh tri hướng tầm

Hành thiền phản tỉnh chân tâm

Viên thành quả mãn pháp âm kỹ càng

Hãy mau đắc pháp đàn tràng

Kiên trì nhẫn nhục đăng đàn tiến ngay

Chuyên lòng tinh tấn từ nay

Cam lồ mưa pháp hiển bày độ sanh

Tự mình tỉnh thức tinh anh

Độ người giác ngộ thanh danh tâm từ

Tâm từ bảo vật thái hư

Bồ đề tâm hạnh nhất như tâm nguyền

Đấng Vô Thượng vẫn y nguyên

Pháp này thành tựu tinh chuyên cứu đời

Tự hành tự nguyện tức thời

Pháp kia bảo hộ muôn đời an vui

Tâm y tối thượng đẩy lui não phiền

Cứu đời viên mãn an nhiên

Hành thâm định pháp tham thiền phải thông

Tự mình quán tưởng tâm không

Tâm cùng thân cảnh sắc không một nhà

Lạc Thành thanh tịnh đâu xa

Tin sâu hạnh tiến nguyện Đà vãng sanh

Vô biên thệ nguyện thực hành

Đến khi sanh chúng đạo thành mới thôi

Khuôn vàng lục độ sẵn rồi

Bồ Đề quả mãn tự hồi Pháp thân

Tất cả Đại đạo Thánh nhân

Tùy duyên bất biến ứng thân cõi trần

Bánh xe pháp trượng phất trần

Tiêu ma ngã pháp hóa thân Ta bà

Tay cầm sen báu nở ra

Hiển bài Diệu tướng liên hoa pháp mầu

Sợ gì uế độ nơi đâu

Ta bà Tịnh cảnh nghĩ sâu không mà

Bồ Đề sẵn có trong nhà

Chúng sanh tỉnh thức mới là Phật gia

Kính lễ Phật Pháp Tăng Già

Quay về bậc thánh không xa nhân tình

Quán Âm Tự Tại thiên hình

Xét xem tất cả tâm tình chúng sanh

Não phiền sạch Bồ Đề sinh

Tam Thân thanh tịnh hàm linh Mẹ Hiền

Rõ ràng từng pháp thật thiên

Pháp này mật thiết quán duyên chân truyền

 Om Siđhyantu Mantra Padaya Svaha (3 lần)

Án Tất điện đô, Mạn đa ra, Bạt đà dạ, Ta ba ha (3 lần)

Thi hóa Chú Đại Bi

T. Minh Đức

Phạn ngữ 

नीलकण्ठ धारनी  Nīlakantha Dhāranī

namo ratnatrayāya namah ārya avalokiteśvarāya

नमो रत्नत्रयायनमह् अर्यअवलोकितेश्वराय

bodhisattvāya mahāsatvāya mahākārunikāya

बोधिसत्त्वायमहासत्वाय महाकारुनिकाय

oṃ sarvarabhaya sudhanadasye namaskrtvā imam

ॐसर्वरभय सुधनदस्ये नमस्क्र्त्वाइमम्

āryāvalokiteśvara raṃdhava namo narakindi.

आर्यावलोकितेश्वर रंधव नमोनरकिन्दि।

hrih mahāvadhasama sarva athadu śubhuṃ ajeyaṃ.

ह्रिह् महावधसमसर्व अथदु शुभुं अजेयं।

sarva satya nama, vastya namo vāka, mārga dātuh.

सर्व सत्य नम वस्त्य नमो वाक मार्गदातुह्। tadyathā

oṃ avaloki locate karate, e hrih

ॐ अवलोकि लोचते करते एह्रिह्

mahābodhisattva. sarva sarva, mala mala, mahima hṛdayam,

महाबोधिसत्त्व। सर्व सर्व मल मल महिमहृदयम्

kuru kuru karmuṃ, dhuru dhuru vijayate mahāvijayate,

कुरु कुरुकर्मुं धुरु धुरु विजयतेमहाविजयते

dhara dhara dhirīniśvarāya, cala cala, mama vimala muktele,

धरधर धिरीनिश्वराय चल चल मम विमल मुक्तेले

ehi ehi, śina śina, āraṣaṃ pracali viṣa viṣaṃ prāśaya.

एहि एहि शिन शिन आरषं प्रचलि विष विषंप्राशय |

huru huru mara hulu hulu hrih

हुरु हुरु मर हुलु हुलुह्रिह्

sara sara siri siri suru suru bodhiya bodhiya

सर सर सिरि सिरि सुरुसुरु बोधिय बोधिय

bodhaya bodhaya. maitriya nārakindi

बोधय बोधय । मैत्रियनारकिन्दि

dharṣinina bhayamāna svāhā siddhāya svāhā

धर्षिनिन भयमान स्वाहासिद्धाय स्वाहा

mahāsiddhāy svāhā siddhayogeśvarāya svāhā

महासिद्धाय्स्वाहा सिद्धयोगेश्वराय स्वाहा

narakindi svāhā māraṇara svāhā

नरकिन्दिस्वाहा मारणर स्वाहा

śira saṃha mukhāya svāhā sarva mahā asiddhāya svāhā

शिर संह मुखाय स्वाहा सर्व महा असिद्धायस्वाहा

cakra asiddhāya svāhā padma hastrāya svāhā

चक्र असिद्धाय स्वाहापद्म हस्त्राय स्वाहा

nārakindi vagalaya svāhā mavari śankharāya svāhā

नारकिन्दि वगलय स्वाहा मवरि शन्खरायस्वाहा

namaH ratnatrayāya namo āryavalokiteśvarāya svāhā

नमः रत्नत्रयायनमो आर्यवलोकितेश्वराय स्वाहा

oṃ sidhayantu mantra padāya svāhā

ॐ सिधयन्तुमन्त्र पदायस्वाहा

 Đại bi thập chú đã hoàn thành, Quý vị, các bậc học giả có thể kiểm chứng từng chữ phạn trong tự điễn Phạn ngữ, hầu giúp chúng tôi những điều chưa diễn đạt hết ý nghĩa trong Việt ngữ cũng như Phạn ngữ. Xin chân thành đa tạ.

Phật học là của chung, chúng ta nên cùng nhau đóng góp, để  kinh Phật được Việt hóa. Đây là ước mơ chung của người con Phật đất Việt và cũng là một điều sung sướng nhất, bởi vì chúng ta có thể đọc hiểu được những gì Phật dạy để mở mang thêm trí tuệ trong đời tu hành.

Qúy đọc giả có thể xem và nghe những bài chú thi hoá này tại mạng của TS Huệ Dân : www.chua-phuoc-binh.com

Kính bút

TS Huệ Dân

Bình luận

Bình luận

Phúc Trí (chưa được kiểm chứng)
12/01/2011 23:34:01
Nam Mô A Di Đà Phật! Con xin được tán thán công đức của thầy Minh Đức và TS. Huệ Dân đã thi hóa một bài chú rất quan trọng. Bài chú này hầu như mọi Phật tử Việt Nam đều biết tới và trì chú tuy đều đọc dựa vào âm Hán Việt là chính, phải cần có bản giải nghĩa mới hiểu được. Nay đã có bản tiếng Việt thì thật là hoan hỉ vô cùng, vì sẽ giúp quý Phật tử dễ học, dễ đọc dễ trì chú hơn rất nhiều. Nam Mô A Di Đà Phật!
TS Huệ Dân (chưa được kiểm chứng)
13/01/2011 16:48:08
Kính chào Phúc Trí Xin chân thành cảm tạ những lời bình phẫm gởi đến cho Thầy Minh Đức và qúy đọc giả trang đạo Phật ngày nay. Trước tiên TS Huệ Dân xin cám ơn ban biên tập đã làm việc rất nhanh trong việc cập nhập bài vở cũng như phần bình luận. Nội dung diễn nghĩa của bài chú này đã có rồi nhưng chưa có thời gian để trình bài cho có trình tự, vì trong thời gian nghiên cứu và phân chữ theo cụm từ, nó rất là phức tạp. Khi có thời gian, TS Huệ Dân sẽ làm giống như phần diễn nghĩa của Tâm kinh đã có trong site của chùa Phước Bình. Đọc một bản kinh Phật hoặc bài Trì Thần Chú bằng chữ Hán Phạn hay một ngoại ngữ đã có, là một điều hữu ích đáng làm, nhưng phải hiểu được nghĩa chính xác nội dung của bài đó, để có thể, biết được điều mà đức Phật muốn nói đến với chúng sanh, qua đó mà gây dựng nền tãng phát triển, con đường hoằng dương Chánh pháp cho chính bản thân và cho những người yêu mến Phật học. Kính chúc bạn một ngày vui vẽ trong tình học Phật TS Huệ Dân
Hoàng Long (chưa được kiểm chứng)
14/01/2011 22:06:00
Kính bạch thầy Minh Đúc và TS. Huệ Dân. Các thầy đã dịch Việt hoá chú từ bi, đem lại lợi ích quả là to lớn cho những phật tử muốn tìm hiểu ý nghĩa của bài chú này. Tuy nhiên, nếu có thể, ngoài bài dịch vần, rất mong các thày có thể có thêm bài dịch nghĩa để những ai quan tâm có thể hiểu được sát hơn nghĩa nguyên bản. Con xin cám ơn các thầy và vô cùng kính trọng công đức của các thầy.
TS Huệ Dân (chưa được kiểm chứng)
15/01/2011 09:13:29
Kính chào Ông Hoàng Long Xin chân thành cảm tạ những lời bình phẫm của Ông gởi đến chia sẽ cùng qúy đọc giả trang đạo Phật ngày nay. Bài diễn nghĩa này đã xong, nhưng chưa có thời gian, TS Huệ Dân sẽ cố gắng cập nhật, Xin cám ơn lòng nhiệt tâm của Ông. Kính chào Ông Hoàng Long Xin chân thành cảm tạ những lời bình phẫm của Ông gởi đến chia sẽ cùng qúy đọc giả trang đạo Phật ngày nay. Bài diễn nghĩa này đã xong, nhưng chưa có thời gian, TS Huệ Dân sẽ cố gắng cập nhật, Xin cám ơn lòng nhiệt tâm của Ông. Đây là một phần đầu trong phần diễn nghĩa Chú Đại bi नीलकण्ठ धारनी Nīlakantha Dhāranī Phạn ngữ mẫu chữ La tinh và Devaganari Namo ratnatrayāya namah ārya avalokiteśvarāya नमो रत्नत्रयायनमह् अर्यअवलोकितेश्वराय Âm Hán Phạn Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da ( Namo ratnatrayāya). Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da (Namah ārya avalokiteśvarāya). Ý Việt Con xin quy y Phật, Pháp, Tăng,( Namo ratnatrayāya). Con xin quy y Bậc Thánh giả Quán thế âm (Namah ārya avalokiteśvarāya). Diễn nghĩa : Trong Phật học chữ : Namah (नम), Namas (नमस्), hay Namo có nghĩa là đem thân tâm về qui ngưỡng Phật, Pháp, Tăng. Chữ Namas được chia làm hai nhóm có gốc từ động từ √nam (chữ devaganari √ नम् ), chữ namas nhóm một (chữ devaganari नमस्), dạng trung tính, có nghĩa : kính chào, tôn kính, ngưỡng mộ. Trên phương diện giới từ hay liên từ : chúc tụng, ca ngợi, tán tụng. Động từ căn √nam (√ नम् √nam) có nghĩa : uốn cong, nghiêng xuống, chào, vinh danh, được uốn cong, tự quy phục, nhượng bộ. Chữ namas nhóm hai (chữ devaganari नमस्), là thân động từ phản thân của namas nhóm một, có nghĩa : vinh danh, và khi làm trực bổ cách : làm danh dự, chào hỏi, kính trọng, ngưỡng mộ. Chữ Namaste (chữ devaganari नमस्ते) là chữ ghép của : namas (नमस्) và te (ते), có nghĩa : tôi chào bạn, chào bạn, hân hạnh chào bạn. Chữ namaskāra (chữ devaganari नमस्कार) là chữ ghép của namas nhóm một và thân từ -kāra (chữ devaganari कार : người ấy làm). Chữ namaskāra dùng để diễn đạt hành động của một người đang chào hay đang tôn kính ai đó, khi họ cuối đầu và nói chữ Namas. Chữ namaskāram là câu chào có nghĩa : hân hạnh chào bạn. Namaskar hoặc Namaskaram là một trong năm hình thức chào truyền thống chính thức được đề cập trong kinh Veda. Một lời chào tôn giáo, kèm theo cung cách ép hai lòng bàn tay ép với nhau và ngón tay trỏ trở lên, trước ngực. Namas, dấu chấm đỏ trên trán của các phụ nữ Hinđu khi kết hôn, đó là biểu tượng để tỏ bày sự cống hiến cuộc đời cho chồng tương lai của họ. Ratnatrayāya Ratna có gốc từ tiếng Phạn रत्न, ghép từ hai chữ : rā nhóm một và -na, thân từ thuộc, nữ tính, nam tính, trung tính, có nghĩa : viên ngọc. Gốc thân từ rā nhóm một, √ रा, rā_1 : cho, đồng ý, giao phó. Gốc thân từ rā nhóm hai, रा rā_2, xuất phát từ rā nhóm một : hành động cho, hay giao phó. Chữ –na, ॰न, dạng biến cách : hình thức làm bổ nghĩa cho cụm từ đi chung với nó. Trayāya trong phạn ngữ thuộc dạng nam tính, xuất phát từ chữ त्रय traya, có gốc từ chữ tri và -ya, thân từ thuộc, nữ tính, nam tính, trung tính, có nghĩa : thứ ba, bộ ba, số ba, thuộc về số ba. Chữ tri, त्रि : số ba, त्रयी : gấp ba lần. Chữ -ya, ॰य : thuộc về, liên quan, phát sinh từ, hình dạng của một chất lượng trừu tượng. Chữ Triratna : Tam bảo. Qua định nghĩa của chữ Ratna và Trayāya trong phạn ngữ, thì ý Việt được hiểu như là ba viên ngọc và Hán Việt gọi là Tam Bảo. Như vậy, trên phương diện Phật học thì Tam bảo được xem là ba ngôi qúy báu, mà trong đó bao gồm : Phật Bảo, Pháp Bảo,Tăng Bảo. Tam Bảo là sự hướng dẫn tinh thần toàn hảo bằng những lý tưởng cao cả và cũng là nương tựa cho những người đang đi tìm đạo để phát triễn sự học Phật của từng cá nhân, tùy theo trình độ và hoàn cảnh khác nhau trong đời sống hiện thực. Như đã hiểu và thấy qua phần định nghĩa của Phạn ngữ và trong phương diện Phật học, Tam Bảo không phải là nơi để cầu xin ân huệ, trưng bày chư Phật, Bồ tát hay tấn phong các vị Hoà thượng. Mà hãy lắng nghe và sống thực hành đúng theo những lời của Đức Phật, đã dạy cho tất cả những ai đang đi và muốn đi theo bước chân của Ngài, bằng con đường Chính Đạo. Buddha Chữ Phật, phạn ngữ viết theo mẫu tự la tinh là Buddha, chữ devaganari viết बुद्ध. Chữ Buddha là quá khứ phân từ của chữ budh nhóm một, thuộc tĩnh từ, thân từ có ba dạng : nam tính, trung tính, nữ tính, có nghĩa : tỉnh thức, sáng suốt, thông thái, khôn ngoan. Động từ căn √budh nhóm một (√बुध्), có nghĩa : tự đánh thức, tự tỉnh thức, xem, tìm hiểu, khám phá, nhận thức, cảm nhận, hiểu biết, hiểu, quan sát, suy nghĩ, tập trung, khơi dậy, phục hồi, làm cho hiểu, nhớ, tiết lộ, thông báo, thông tin, tư vấn, khuyên bảo, suy nghĩ đứng đắn, cố gắng tìm hiểu. Chữ budh nhóm hai, có gốc từ chữ budh nhóm một, thuộc tĩnh từ, thân từ có ba dạng : nam tính, trung tính, nữ tính, có nghĩa : người tự tỉnh thức, người hiểu biết, thông minh, sáng suốt, khôn ngoan. Chữ buddhi (बुद्धि) có gốc từ chữ budh nhóm một và thân từ -ti (ति hình thể hoạt động, thuộc nữ tính), có nghĩa : tinh thần, thông minh, khả năng nhận thức, hiểu biết, trí tuệ, nghĩ, ý tưởng, giải quyết. Chữ Dharma (Devanagari: धर्म), Pali : dhamma. धम्म Chữ Dharma có gốc từ chữ dharman có nghĩa : pháp luật, quy định, điều kiện, sự trong sạch tự nhiên, tốt, đạo đức, công bằng, nhiệm vụ, một mục đích của sự tồn tại, sự trật tự tự nhiên. Trong Phật học Dharma : Pháp Giới. Những điều căn bản của Đức Phật dạy để giữ gìn rèn luyện bản thân trong tu Phật. Chữ dharman, धर्मन्, là chữ ghép từ hai chữ : dhṛ và man : trợ giúp hay nâng đỡ, nền tảng, quy định, luật thiên nhiên . Động từ căn √dhṛ, có nghĩa là "nắm giữ", nắm giữ tính năng hoạt động của con người trong xã hội. Cách dùng chữ này rất đa dạng tùy theo chủ đề của bản văn. Chữ –man, ॰मन् : hình thức làm bổ nghĩa cho cụm từ đi chung với nó. Chữ Tăng, Phạn ngữ : Sangha hay Samgha. Chữ Saṃgha, संघ saṃgha, là biến cách từ chữ Saṅgha (viết từ chữ saṃhan = sam-han_1), có nghĩa : bộ sưu tập, số lượng nhiều, đám đông, hiệp hội, công ty, sự tập trung quần chúng lại. Trong Phật học Sangha hay Samgha : giáo đoàn , Tăng đoàn, tu viện của các Tăng, ni, cộng đồng Phật giáo. Còn tiếp Kính bút TS Huệ Dân Xin vui lòng xem cập nhật trang web : chua phuoc binh
Ứng Dụng (chưa được kiểm chứng)
19/01/2011 14:26:14
Bài CHú Đại Bi văn thơ này hay lắm. Bài này nên đem vào thời khóa tụng Kinh hằng ngày thì ý nghĩa và dễ hiểu. Ngày nay nên ứng dụng Kinh thuần Việt vào các thời Khóa Tụng buổi sáng và buổi tối. Ngay cả các chú tiếng Phạn - Âm Hán Việt, tiếng Hán Việt nên bỏ dần và bỏ hẳn. Mục đích chính là làm sao cho người Phật tử hay không phải tử dễ hiểu được lời Phật dạy, chứ tụng mà không hiểu thì thiệt là uổng công sức, thời gian...như con vẹt con két, lập đi lập lại mà chả hiểu gì. Mặc dù là niềm tin, nhưng phải có trí có hiểu đi kèm thì tin mới sâu và mới lâu được. Nhà Chùa Tu Viện, Học Viện...làm được việc này thì ý nghĩa vô cùng. Ngay cả cách hoằng Pháp cũng vậy, nên làm mới đạo Phật thì dễ tiếp thu giới trẻ.
huyminh (chưa được kiểm chứng)
24/01/2011 05:29:47
Chân ngôn mật ngữ không cần phiên dịch. Người trì Mật Chú do lòng tin mà đạt cảm ứng .Vì đã là bí mật nên chẳng thể hiểu theo văn tự thông thường mà phiên dịch . Tôi nghĩ nếu phiên dịch được thì các Đại Sư dịch kinh thủa trước đã dịch ra rồi !!! Nên tránh việc càng dịch càng hao nghĩa .Các ngài người cõi Ấn Độ mang kinh sang Trung Quốc phiên dịch Phạn Ngữ các ngài phải hiểu hơn ai hết Kinh thì dịch rồi còn Chú các ngài không dịch há lẽ hậu nhân muốn vượt xa các ngài sao ??? Xin trích Lời khai thị của Hòa Thượng Tuyên Hóa về vấn dề dịch thuật ::: Có năm loại từ ngữ mà khi phiên dịch kinh điển chúng ta không nên dịch ra đó là: 1. Đa hàm bất phiên (từ ngữ nào bao hàm nhiều nghĩa thì không nên dịch): 2. Tôn trọng bất phiên (từ ngữ nào được dùng vì sự tôn trọng thì không nên dịch); 3. Thử phương vô bất phiên (những từ ngữ chỉ các thứ mà nơi này không có thì không nên dịch); 4. Thuận cổ bất phiên (những từ ngữ được dùng là do tùy thuận theo lề lối xưa thì không nên dịch); 5. Bí mật bất phiên (từ ngữ nào chứa đựng các ý nghĩa bí mật thì không nên dịch).
Minh Huy (chưa được kiểm chứng)
25/01/2011 03:33:27
Minh Huy Hân hạnh chào bạn HuyMinh. Mình cũng là hành giả Mật tông, đọc bài bình luận của bạn rất đắc ý, tuy nhiên muốn học hỏi thêm: Bạn cho biết những từ ( Chân ngôn, mật ngữ, Mật chú, bí mật ) bạn dùng ở đây từ Phạn, Anh, Pháp, Hoa. . .Hay ngôn ngữ của Phạm Thiên, mình muốn tìm hiểu và học hỏi ngữ căn của các từ bạn xử dụng để bình phẩm đó nhe. Mình rất mong bạn hồi đáp. Và là đọc giả cũng thấy Ngài Tuyên Hóa dịch, diễn nghĩa, chú giải 5 đệ chú Lăng Nghiêm ra Hoa, các đệ tử của Ngài chuyển ngữ ra việt văn trên mạng và tập chí Bồ đề Hải. Vậy lời Ngài khai thị 5 loại từ ngữ như bạn nêu ra để dẫn chứng bình phẩm, sao thấy bất nhất quá mình rất ái ngái lo âu, sao một Đại sư như Ngài Tuyên Hoá mà còn nói một đường làm một ngã ( tri hành không họp nhất ), thật tình mà nói mình không biết tin vào đâu. Xin bạn giải nghi dùm. Chân thành cám ơn bạn trước. Chào Minh Huy.
chi
31/01/2011 07:35:52
chào ts Huệ Dân cùng các đồng đạo con cũng là một phật tử bình thương hay đọc chú Đại Bi con cũng muốn tìm hiểu ý nghỉa của mât chú.Nay ts Huệ Dân đã làm được điều này con vô cùng tán thán công đức ấy.Mình là người viêt nam con nghỉ mình cũng nên có một nét gì đó để các thế hệ trẻ học và hiểu về đạo phật sâu rộng hơn là chúng ta cứ cải lý ạ.còn các đạo hữu ai không thích theo kiểu mới này thì cứ theo lối cũ xưa nay.Bởi vì con nghĩ phật thuyết ra tất cả các pháp là để mang lại lợi ích cho tất cả chúng sanh mà.Nay thầy Minh Đức và ts Huệ Dân làm được điều này cong nghĩ là sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người nhất là giới trẻ hiện nay.Mong thầy sẽ làm nhiều hơn thế nữa.chúc thầy Minh Đức và tsHuệ Dân vô lượng an lạc vô lương kiết tường để phụng sự phật pháp ạ. A DI ĐÀ PHẬT
TS Huệ Dân (chưa được kiểm chứng)
31/01/2011 17:45:49
Kính chào Cô Diệu Mỹ Xin chân thành cảm tạ những lời bình phẫm của cô gởi đến chia sẽ cùng qúy đọc giả trang đạo Phật ngày nay và cũng là một sự trợ lực tinh thần giúp TS Huệ Dân và Thầy Minh Đức để làm việc trong những đêm dài. Đạo Phật là một hiện thực sống động, mặc dầu đã trải qua bao thăng trầm, trong dòng lịch sử. Lời Phật dạy là một nếp sống hồn nhiên, vô tâm, vô tư, cái gì đến thì biết là đến, cái gì đi thì biết rõ là đi, không nuối tiếc, không vọng tưởng. Nếu việc học Phật và di sản Phật học đã thấm nhuần sâu sắc trong tinh thần văn hóa Việt Nam, thì đây chính là cách sống có khả năng thích nghi với tất cả mọi chiều của cuộc sống hiện nay, từ gia đình cho đến xã hội. Là người con Phật Việt Nam phải Ý thức được bổn phận của mình, tức là tích cực : học, hành, phát huy, và bảo tồn đúng nghĩa của giáo lý của Đức Phật, theo tinh thần cha ông chúng ta đã từng thực hiện một cách mỹ mãn, trong đời sống tâm linh. Xin chúc cô và qúy đồng đạo của cô một ngày vui vẻ trong tình Phật học, Kính bút TS Huệ Dân
KE NGU (chưa được kiểm chứng)
02/02/2011 05:19:19
Dung tam binh dang lam co loi cho ,chung sanh ,chan loi cho minh DAI Chan chap ke phi ban, hay che bai TU Thuong sot ,ke tu cao , Minh chan kieu nghao BI Ho hon minh, Minh thay hanh phuc HY Viec minh lam chan phai minh lam XA Viec lam cua hai vi that la rat quy, toi hy vong nguoi nao tung chu dai bi nen xem qua de hieu , ma hanh. chu hai vi som hoan thanh moi viec minh muon, dem loi cho chung sanh DUC PHAT NOI DOI KHI CHI GIANG GIAI BON CAU KE CONG DUOC VO CUNG, HAI VI LAM VIEC NAY CONG DUOC KHONG THE NGHI BAN.HY VONG HAI VI CO THE GIANG GIAI THEM PHAN NGHIA. AN AN NHAT NHAT HA BINH BINH BAT BA THA NHI TU BAT KHA NGHI DE NHAT TUC TRAN SA
TS Huệ Dân (chưa được kiểm chứng)
02/02/2011 16:20:11
Kính chào Bạn Xin phép cho mình dùng chữ Bạn thấy nó hay hơn, vì trong việc học Phật, không có ai dám tự nói mình là người giỏi hay tinh thông Phật pháp cả. Bạn cũng như TS Huệ Dân thôi. Tôi và bạn đều là những người học Phật. Thật ra Thập chú Đại, bi chúng tôi đã chuyễn ngữ hết rồi, công việc này làm việc cũng mất thời gian khá lâu, chỉ còn sắp lại cụm từ trong phần diễn nghĩa theo thứ tự. Nhưng vì thời gian qúa eo hẹp, nên chúng tôi chưa có dự định làm lại lịch trình làm việc này. Chúng tôi sẽ cố gắng để hoàn tất, nhưng không dám hứa là thời gian thực hiện sẽ hoàn thành sớm. Vì chúng tôi đang làm đề án dịch Bát nhã thiên tụng, bộ kinh này cũng khá dài, có 32 phẩm. Mỗi ngày chúng tôi chỉ dịch và đối chiếu vài chữ thôi được vài chữ. Xin chân thành cám ơn những ý đẹp của bạn gởi đến chúng tôi, và cũng là lời nhắc nhở cho chúng tôi trong việc chưa hoàn tất. Kính chúc bạn một ngày vui vẻ trong tình Phật học, Kính bút TS Huệ Dân PS : Nếu bạn thích trao đổi ý kiến trong Phật học với chúng tôi; Xin vui lòng dùng hợp thư : tshuedan@yahoo.com
Hèn Nhất (chưa được kiểm chứng)
24/02/2011 17:35:17
Chào Thầy Minh Đức Sao con thấy Sư ông Làng Mai dùng chữ Bụt trong những bài giãng của ông, mà trong bài chú này không thấy thầy dùng chữ Bụt vậy. Nam mô A Di Đà Bụt Hèn Nhất
TS Huệ Dân (chưa được kiểm chứng)
25/02/2011 03:46:35
Kính chào bạn Hèn Nhất Chúng tôi chuyễn ngữ từ chữ Phạn ra, chỉ dùng chữ Phật dịch ra từ chữ Bouddha, cho nên không có dùng chữ Bụt, Tuy nhiên nếu sư ông Làng Mai, thích bài chú Việt hóa này thì cứ dùng chữ Bụt thay vào bài thi hóa để cho quý bạn trì hay tụng chú mỗi ngày thì cũng là một điều hay. Nhưng nếu xử dụng bài vở của chúng tôi, thì nên ghi rõ nguồn. Xin chân thành cám ơn. Kính bút TS Huệ Dân
Namo_Amitabha (chưa được kiểm chứng)
27/08/2011 09:55:20
Nam mô Đại từ Đại bi Quán thế âm Bồ tát Kính chào TS Huệ Dân Hiện con có 2 link đều là Đại Bi chú nhưng con không biết đó là tiếng Sankrit hay Pali cần nhờ TS xác minh ngôn ngữ cho: -Link1:http://mp3.zing.vn/bai-hat/o0o-Than-chu-Dai-Bi-Ban-dai-o0o-Dang-cap-nhat/IW7FB60O.html -Link2:http://mp3.zing.vn/bai-hat/Namo-Ahabada-Hop-Ca/IW7IWI66.html Monh TS hoan hỉ giải đáp giùm con ! Kính bút.
Khải
22/12/2011 09:44:23
Tôi có nghe phần giảng giải Chú Đại Bi của HT Tuyên Hóa trên youtube. Nhiều câu trong Bài Chú có nhiều nghĩa. Nếu thi hóa mà giữ được nhiều nghĩa thì tôi vui mừng kính nhận. Nếu đã thi hóa thì chắc chắn tác giả đã hiểu Bài Chú ít nhiều. Bởi vậy, tác giả nên đính kèm một bài phân tích, đối chiếu kèm theo (84 câu, mỗi câu được thi hóa như thế nào Cảm ơn tác giả vì bài thơ rất nhiều __()__ Amitabha
quangnhu (chưa được kiểm chứng)
13/12/2012 16:29:12
đã gọi cầu đạo há chẳng phải tìm va phát huy đó sao?gọi là nhật tụng thi không thể gọi là mật được, đọc không hiểu thi khac gi chú vẹt cơ chứ,"sau này người theo đạo phật thi nhiều mà người hiểu đạo thì ít...va không cần phải truyền Y BÁT nữa"câu này có lẽ TỔ SƯ BỒ ĐỀ ĐẠT MA đã nhắc nhỡ các đệ tử sau này hay cố gắn truyền lại những gì tinh hoa nhất để đời sau con cháu mõi ngày tiến bộ hơn chăng?