Phật giáng trần

Ngày Phật giáng trần là một mặt trời sáng rỡ trong buổi sớm mai, làm mất đi bóng tối của đêm dài, đang bao trùm lên tam giới. Ngài là vị cứu tinh không chỉ dành riêng cho xứ Ấn Ðộ thời ấy, mà còn là của cả nhân loại.
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết, và màu hồng của búp sen non vươn lên khỏi mặt nước như chứa đựng một sức sống mới của kiếp nhân sinh. Sự gắn bó hòa quyện của sen bao đời nay trong tâm trí của người con Phật nói riêng và người Việt nói chung. Sen là biểu tượng của đất nước và khi bàn về triết lý sen là một hình ảnh diễn tả ngôn ngữ giải thoát. Nên 2.555 năm về trước Bồ tát Hộ Minh giáng trần, đem ánh sáng trí tuệ đến cuộc sống này đã đi trên bảy đóa sen[1].
Sự kiện giáng trần đó được diễn tả: “Bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc, ba ngàn thế giới đón như Lai”. Ngài ra đời, bước đi trên bảy đóa sen, ngước nhìn sáu phương, bước cuối cùng dừng lại tuyên bố: “Trên trời dưới đất, duy chỉ có ta tôn quí, ta muốn độ chúng sanh thoát khỏi sanh già bịnh chết[2]”, xác quyết sự thành tựu Vô thượng giác. Vào đời với bảy bước chân trí tuệ, từ bi, hỷ xả, an lạc, vô tranh, bất nhiễm và tự tại. Đã thể hiện cư trần bất nhiễm trần mà ba đời chư Phật đã đi qua.
Phẩm Thụy Ứng[3] khẳng định: “Bồ Tát đản sanh, bước thứ nhất nhìn về phương Đông, vì chúng sanh mà làm Bậc dẫn đường tối thượng. Phương Đông, nơi phát xuất bình minh tuệ giác. Chúng sanh từ nơi tăm tối của dục vọng, vô minh muốn cất bước chân đầu tiên vào đạo lộ giải thoát phải nương theo tuệ giác, tiếp nhận ánh sáng Tam bảo để hoàn thiện nhân cách. Muốn vậy, phải kiện toàn đạo đức, tri thức thông qua học hỏi, suy nghiệm và thực hành Chánh pháp. Trước khi trở thành thánh nhân, phải nỗ lực để sống xứng đáng là một con người. Do vậy, tu tập Nhân thừa chính là bước chân đầu tiên. Bước chân nầy phải đặt trên hoa sen mới đúng nghĩa và trọn vẹn”.
Trên quan điểm đó cho chúng ta thấy, sự có mặt của Ngài là một sự kiện trọng đại cho số đông loài người và các cõi trời đã được Ngài đặt dấu chấm hết cho kiếp sống luân hồi sinh tử, thông qua câu nói đầy ấn tượng: “con người khổ đau không phải do thiếu cơm ăn áo mặc hay đối mặt với sống chết mà do thiếu trí tuệ”.
Điều này thấy rõ ràng nhất qua trận sống thần trên đất Nhật có rất nhiều hình ảnh cùng rất nhiều câu chuyện cảm động được chuyển về từ tâm chấn: “một phụ nữ đã gọi lại một thanh niên trên đường để tặng chiếc bánh mì, dù cửa hàng bánh của chị mỗi lúc một cạn kiệt hơn; một em nhỏ kiên quyết xếp hàng đợi đến lượt mình để lấy nước sạch, thay vì nhận ân huệ “nhường chỗ” của những người đứng trên. Và đáng phục nhất có lẽ chính là câu chuyện được một cảnh sát Nhật gốc Việt Nam thuật lại khi anh tặng một miếng lương khô của mình cho một em bé 9 tuổi đã mất cha, mất mẹ, giờ đang xếp hàng nhận đồ cứu trợ.
Em bé ấy, trong cơn đói khát cùng quẫn đã không ngấu nghiến ăn ngay miếng lương khô như tưởng tượng của anh, mà mang nó đến chỗ những người đang phát thực phẩm với một suy nghĩ khiến cả nhân loại phải ngả mũ rằng: “Có lẽ còn nhiều người đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô, các chú phát chung cho công bằng chú ạ”[4].
Để giải mã sức chịu đựng phi thường của người dân Nhật: Giáo sư Pflugfelder, người có mặt tại Nhật Bản vào thời điểm xảy ra thảm họa, kể với đài CNN về những dòng người xếp hàng trật tự tại các ga tàu điện đã đóng cửa trong nhiều giờ do thảm họa. Hiện tượng này có cội rễ từ nền văn hóa Nhật Bản. “Khi gặp sự việc tính cực thì người Nhật tìm đến các nghi thức của Thần đạo và Khổng giáo, nhưng khi gặp tai họa hay thảm kịch thì họ hướng về Phật giáo”, theo ông Nelson.
Truyền thống cư xử của dân tộc ta cũng tốt đẹp không thua kém của Nhật Bản. “Lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương thân”, “nhường cơm sẻ áo” v.v… đã trở thành một phần của hơi thở và huyết quản của người dân Việt. Còn đứng về mặt nhận thức, hình ảnh Thánh Gióng và Thần Kim Quy ở hồ gươm, cũng nói lên một dân tộc có 4.000 ngàn năm văn hiến, luôn lấy đức hiếu sinh làm gốc. Qua hình ảnh khi đánh đuổi hết giặc ngoại xâm thì Thánh bay về trời, và vua Lê Thái Tổ trả gươm lại cho Thần. Phải chăng tính nhân bản đó đã thấm nhuần về luân hồi, quả báo, từ bi, hỷ xả của đạo Phật!
Xét những dữ kiện trên cho chúng ta thấy sự xuất hiện của đức Phật là chỉ ra một lối thoát cho nhân sinh trong nhận thức và lối sống. Qua thảm trạng ở Nhật Bản đều làm cho những nhà hoạch định tương lai phải thay đổi hoặc dừng lại. Bởi mọi thành tựu của khoa học ngày nay đều nhỏ bé trước sức mạnh vô biên của thiên nhiên. Còn đối với nhận thức, thái dương hệ của chúng ta là một phần rất nhỏ của Vũ trụ. Suy cho tận cùng, sự sống này rất mong manh. Chỉ có con đường gieo trồng phước đức. Trong các ruộng phước thì Tam bảo là ruộng phước tốt nhất cho hạt giống trí tuệ, từ bi và giải thoát đâm chồi nẩy lộc. Đồng thời, thực hành chuyển hóa nghiệp ác của thân, miệng, ý thành nghiệp thiện và mười nghiệp ác thành mười nghiệp lành để thoát khỏi thái dương hệ.
Tuy nhiên, với Phật nhãn các cõi trời cũng chưa phải là nơi an toàn[5] Vì ngài đã từng cư trú bốn ngàn năm nơi cõi trời Đẩu Suất làm Bồ tát bổ xứ, lãnh đạo chư Thiên cõi này dùng pháp tướng[6] để giáo hóa thiên chúng.
Đến đây chúng ta thấy sự xuất hiện đức Phật là một niềm vui vô tận cho tất cả muôn loài chúng sanh. Ngài quán sát thấy chúng sinh chịu khổ đau triền-miên vô bờ bến trong lục đạo, chỉ có con đường chuyển hóa nghiệp hướng đến chấm dứt nghiệp. Tâm phải nương vào thiền định để thân chứng vô ngã tính và vạn pháp giai không, từ đó mới thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, đạt đến niết-bàn tịch tĩnh.
Tóm lại, ngày Phật giáng trần là một mặt trời sáng rỡ trong buổi sớm mai, làm mất đi bóng tối của đêm dài, đang bao trùm lên tam giới. Ngài là vị cứu tinh không chỉ dành riêng cho xứ Ấn Ðộ thời ấy, mà còn là của cả nhân loại. Ngài là người đầu tiên khởi xướng thuyết “nhân bản”, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết các vấn đề bế tắc của thời đại, cả về nhân giới, tâm giới và siêu giới. Đạo lý của Ngài là nguồn sống, là ánh sáng, và là niềm tin cho nhân loại, chân lý đó đã vượt không gian và thời gian... Cho nên trong kinh Pháp Hoa khẳng định, Ngài thị hiện ra đời là vì một nhân duyên lớn “khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến” nên ngày rằm tháng tư, ngày Phật Đản hay lễ Vesaka Bồ tát Hộ Minh từ cung trời Đâu Suất giáng trần là hết sức quan trọng, xem như đó là ngày khai sinh đạo Phật, đã đem đến cho nhân sinh một bước ngoặc trong cuộc sống không chỉ có giá trị đến bây giờ mà còn mãi đến ngàn sau!
Lệ Thọ
23/03/2011
[1] Kinh Đại Bản trong Trường Bộ trang 453, H.T Thích Minh Châu, VNCPHVN, 1989
[2] Kinh Trường A Hàm, Kinh Đại Bổn Duyên.
[3] Kinh Ưu Bà Di Pháp Môn Tịnh Hạnh.
[4] http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Thoi-su-suy-nghi/429766/Dong-dat-o-Nhat--chuyen-kho-coi-o-ta.html
[5] Kinh Bổn-sanh (Jataka) và Bổn-sự (Itivuttaka)
[6] Pháp-tướng có ba là Ðịnh tướng (Samatha), Huệ tướng (Vibhasa), Xả tướng (Upeksa).
- Phật Đản Trong Văn Hóa Và Hòa Bình Thích Trừng Sỹ
- Diễn Văn Khai Mạc Ở Chùa Pháp Nhãn Nhân Ngày Đón Mừng Đại Lễ Vesak PL 2566 DL 2022 Thích Trừng Sỹ
- Chùa Hương Sen Quận Riverside Tổ Chức Lễ Phật Đản Và Cổ Phật Khất Thực Thích Nữ Giới Hương
- Thông Điệp Purnima của Thủ Tướng Narendra Modi Ấn Độ và sự liên kết Phật Giáo với Thủ Tướng Nepal Sher Bahadur Deuba năm 2022 Thích Trừng Sỹ
- Thái Bình: Trang nghiêm, ấm áp Đại lễ Phật đản đầu tiên tại Chùa Thượng Ngạn Chu Lan Anh
- Nhân mùa Phật đản bàn về tích đản sanh Tâm Diệu
- Đức Phật Đản sinh qua thi phẩm của Edwin Arnold Trần Phương Lan dịch và chú giải
- Bước Sen Thứ Bảy * Quả Vị Phật Thích Nữ Chân Liễu
- Ngày Phật đản sanh TS Huệ Dân
- Đức Phật TS Huệ Dân
- Gia phả dòng họ đức Phật Thích Ca Mâu Ni TS Huệ Dân
- Ý nghĩa lễ Phật Đản Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
- Sài Gòn Phật Đản 2554-2010 Ngơ Ngác và Hụt Hẩng Dương Kinh Thành
- Đêm Cầu Nguyện Nhạc và lời: Sư Ông Làng Mai, Trình bày: Ca sĩ Hà Thanh
- Hoa Đạo Mùa Phật Đản Trần Kiêm Đoàn
Đánh giá bài viết này
Cùng tác giả
- Tập yoga và thiền trong tù
- Đường đến bình an thật sự
- Hình tượng phối ngẫu trong Kim Cang Thừa
- Quan niệm về Niết Bàn
- Tâm sinh muôn pháp
- Bí ẩn về sự sống bên trong người chết
- Vài nét về Quốc Chúa Minh Vương
- Quý hồ tinh bất quý hồ đa
- Kết nối mùa Xuân
- Kính gởi: báo điện tử Đạo Phật Ngày nay. “Nguyễn Trãi là cha của Nguyễn Phi Khanh”
Rất cảm ơn thiệt nhiều .
Nhớ khi xưa ,lúc tôi làm bài kiểm tra Phật Pháp (GDPT),tôi đã bị Thầy cố vấn giáo hạnh trừ mất 5 điểm vì dùng từ "Phật Giáng Sinh ". Còn bên nghành nữ khi ấy cũng cò một chị bị trừ điểm tương tự vì dùng cụm từ "Phật Giáng Trần " .
Chữ việt viết còn sai tùm lum, mà lại khuyên người khác nên học chữ Nôm và chữ Hán? 2 danh từ giáng trần hay đản sinh đều là Hán Việt, không có chữ nôm ở đây. Giáng là đi xuống, đản là sinh, có gì mà hay với dỡ? Tất cả chỉ là thói quen dùng từ và cái tứ cái mỹ của mỗi người mà thôi.
A Di Đà Phật
Chúng con thuộc thành phần Phậ Tử "Bất Quý Hồ Đa" ,có nghĩa nà chưa hiểu nhiều về giáo ný căn bản .
Vậy chúng con mong Thầy với tư cách là một hoằng pháp viên thuộc CLB Hoằng Pháp Trẻ ,Thầy hoan hỷ nói thêm về ý ngĩa Phật Giáng Trần để chúng con có cơ hội mở mang thêm kiến thức .
Nam Mô A Di Đà Phật .
O&3 đây có sự nhầm lẫn nào chăng ?
Phạm trù của lý trí là phạm trù cần tranh luận, bàn cãi cho ra lẽ. Nếu vấn đề đã thuộc về lý trí thì con người có thể hội, có thể hiểu và lý giải được. Phạm trù của lý trí không có ngằn mé, không cấm kỵ, không biên giới, không phân biệt tuổi tác, vị thế, màu da, chủng tộc.
Đào Văn Bình
(TRÍ TUỆ: SINH MỆNH CỦA ĐẠO PHẬT)
Chèn ơi tui cũng giống Anh lung à nghen .Ta nói ở miệt quê tụi mình bây giờ tìm hiểu Phật pháp cũng dễ hơn chút đỉnh , cho nên cũng biết mỗi thứ một ít chứ hỏng có tệ như hồi nẫm đâu Anh hả ?Thiệt tình mà nói , kêu Đức Phật Giáng Trần là bậy hết sức à nghen .
Tui nghĩ vầy nè ,hỏng biết có trúg hôn ,là chắc cái vị mầng ra bài viết này nhớ lộn hay sao đó mới kêu là Phật Giáng Trần .chứ ai mà kêu vậy đâu . Nghe kỳ cục ,giống Chúa giáng trần quá !
Mèn đéc ơi viết thì phải lách ,tui hay nghe người ta nói ằng vậy đó ,hỏng biết có phải hôn .Nếu phải thì Anh Hai với tui cũng nên bỏ quá cho người mầng bài viết này .Mình đi đường lâu lâu còn vấp té mà .
Cuộc sống luôn vận động. Suy nghĩ con người theo thời gian. Giáo pháp Phật đà là theo duyên sinh. Tại sao lại muốn kỳ cục vậy? Hãy dẹp bỏ cái tính thống nhất đó đi sẽ thấy được một đạo Phật vượt không gian và thời gian.
Bạn Nguyên.
Phật giáo vốn là hiện sinh, nên không có tính thống nhất ở đây. Chỉ có con người cần quy chế, cần sự đồng thuận, cần ngôn ngữ trịnh trọng...Tất cả chỉ là lăng kính của một cá nhân nào đó đã quy nạp nó từ trước. Cho nên không thể tuân thủ một nguyên tắc nào đó làm cho giáo lý Phật giáo trở thành khô cứng trong nhận thức.
Đản nghĩa của nó là sinh, nên ghép 2 chữ Đản sinh trở thành thừa. Phật đản là muốn nói Phật được sinh ra, gần gũi với nhân loại.
Song từ giáng trần nói lên tính hiện sinh, ngài ở cõi trời giáo hóa thiên chúng, nhận thấy chúng sinh ở trái đất cần đạo lý thoát khỏi sinh tử nên Bồ tát Hộ Minh đã xuống cõi dương gian. Một sự kiên hy hữu như thế nên không có bất cứ ngôn ngữ nào có thể diễn đạt được sự xúc cảm của mỗi người bày tỏ niềm kính quí đối với sự có mặt của Ngài.
Mỗi người có một cảm xúc riêng, cho nên một số từ tôn kính đã được sử dụng hơn 50 năm qua: Ðản-Sanh. Giáng-Sanh. Giáng-Trần. Giáng-Thế. Giáng-Phàm. Lâm-Phàm. Xuất-Trần. Giáng-thần. Khánh Ðản.
Như vậy, cái mà Bạn Nguyễn tìm sự thống nhất ngôn ngữ để diễn đạt sẽ chọn từ nào? cho 90 triệu dân trong nước và khoảng 30 triệu dân Việt đang sinh sống ở khắp thế giới?
CP
Đó là cách nghĩ của bạn.
Còn tôi thì cho rằng họ lười làm bài tập-không học hỏi đạo lý một cách thấu đáo. Vào đến rừng mà chỉ đứng bên ngoài nhặc lá không phải là thấy thương họ lắm sao?
Không thấy đức Phật trước khi ngồi dưới cội Bồ đề đã thệ nguyện: Dù thịt nát xương tan nếu không thành đạo quyết không đứng dậy khỏi chổ này!
Nếu chẳng một phen sương thấm lạnh....
Cũng như ý kiến của bạn nguyen hai ho ,cháu thấy mình vẫn đang vật lộn giữa Bụt vÀ Phật ,dù chỉ là danh từ chỉ định từ thôi ,nhưng hình như các vị hoằng phàp nhà mình cứ muốn thể hiện cái "khám phá " để gây nhiểu loạn .Buồn ghê lắm hai Bác nhỉ ?
Trong khi ,nói thật ,trình độ Phật học xứ mình chưa có gì gọi là khã quan cả ..Người ta vẫn còn nặng vào tu để chuyễn nghiệp-- tu để kiếm phước ,tu để giải thoát ..v...v...
Vì vậy các đạo tràng mọc lên như nấm ,có nơi mổi kỳ tu học lên đến hàng chục ngàn người ,nhưng chưa ai dám mạnh dạng đưa ra thồng kê chuẩn xác rằng sẽ có bao nhiêu phần trăm trong số đó sẽ trở nên nhân tố tích cực choi các hoạt động hoằng pháp mai sau.
Điều này rất dễ nhận thấy ,xin chư tôn đức ,quý thiện hữu tri thức dành chút thì giờ quý báu sẽ chiêm nghiệm ngay ra điều đò thôi .
Còn chuyện mục đích "tu để chuyển nghiệp - tu để kiếm phước, tu để giải thoát,,," thì tốt quá rồi. Có gì không phải đâu, chẳng lẽ nghiệp xấu cứ để y cho nó xấu mãi, hay tu để kiếm họa chăng? Hay tu để bị ràng buộc hoài?
Thôi thì ai muốn gọi Bụt thì cứ gọi, ai muốn gọi Phật thì cứ gọi. Đó là ý muốn của họ, đúng sai thì "nghiệp" nhân quả sẽ tính tùy theo ý muốn thâm sâu trong lòng mỗi người.
Đức Phật đã dạy là có tới tám vạn bốn ngàn pháp môn, tức là có tới 84.000 cửa vào ĐẠO, thì thống nhất thế nào được. Còn phải tùy vào căn cơ của mỗi người nữa chứ!
Còn việc mạnh dạn đưa ra thống kê chuẩn xác đó e rằng không có ai làm nỗi. Chính tự mỗi người còn chưa biết mình nữa là, nói chi đến chuyện nói dùm cho người khác. Bao nhiêu phần trăm ư? Giống như chỉ tiêu thi tốt nghiệp, chỉ tiêu lên lớp... vậy sao? Thú vị thật đấy!!!
1- Phật giáng trần: có nghĩa đức Phật ở một nơi nào đó trong vũ trụ hay ngoài vũ trụ đến với trần gian như vậy chẳng khác gì đạo CHÚA cũng là một trong những vị giáng trần để hóa độ chúng sinh.
2- Bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc: là thánh thần không thì cũng ma quỉ chứ con người bình thường từ trước đến nay chưa có ai sinh mà đi được ngay.
Nói tóm lại vì cường điệu hóa đức Phật để rồi biến đức Phật thành một vị thần linh , thánh chúa chứ không phải là một con người tự giác ngộ để rồi sau đó đem cái giác ngộ của mình mà hóa độ chúng sinh.
Phật dạy:” tin ta mà không hiểu ta tức là phỉ báng ta”
Gửi bình luận của bạn
BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)