Đạo Phật - Đạo Chúa đối chiếu - Một khảo luận qua các tài liệu

Đã đọc: 67267           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

Đạo Phật là tôn giáo duy nhất trên thế gian gọi các tín đồ của mình là những thiện trí thức, nghĩa là những con người đúng nghĩa là con người, và chủ trương con người có thể tự mình tu tập, giác ngộ như Phật. Đạo Chúa là tôn giáo duy nhất trên thế gian gọi các tín đồ của mình là một “đàn chiên” [a flock], cần phải được chăn dắt để sợ và thờ phụng cha con một ông Thượng đế “vô hình, không thể mô tả được, không thể hiểu được” ở trên trời (Theo sách National Catholic Almanac, 1968, trang 360, của Công Giáo: invisible, ineffable, and incomprehensible)

Vài Lời Nói Đầu:

    Gần đây chúng ta thấy xuất hiện một số bài của Ki Tô Giáo nhằm ba mục đích: 

  -   Thứ nhất là so sánh Đức Phật với Chúa Giê-su, lẽ dĩ nhiên là phê bình tiêu cực Đức Phật và đề cao Giê-su.  Tuyệt đại những phê bình so sánh này là dựa theo những quan điểm và thiên kiến cá nhân về sự hiểu biết rất nông cạn về Đức Phật, và sự đề cao Giê-su thuần túy dựa trên sự cuồng tín, tin tất cả vào những điều thuộc loại mê tín hoang đường của Ki Tô Giáo. 

   Chúng ta hãy đọc một luận điệu xuyên tạc Đức Phật của Tin Lành: Phật Thích Ca giác ngộ để giải cứu những người ở trong thời ấy. Thái tử Sĩ Đạt Ta là một vị Thái tử, còn Phật Thích ca giác ngộ trở thành một nhà cách mạng trứ danh của Ấn Độ.” [Chẳng có Phật tử nào, dù thấp kém đến đâu, hiểu Đức Phật một cách quá hạn hẹp như vậy.  Sự kiện Phật Giáo đã phát triển trên khắp thế giới trong suốt hơn 2500 năm và đang phát triển mạnh mẽ ở phương trời văn minh Âu Mỹ đã bác bỏ nhận định rất ấu trĩ trên của Tin Lành]

   Và vẫn u mê ca tụng Chúa của họ:

   “Còn Chúa Jêsus Christ là ai? Ngài từ đâu đến ? Và đến để làm gì ? Câu trả lời là: Chúa Jêsus Christ là Đức Chúa Trời cao cả, từ trời cao đến thế gian, đến để lên thập tự giá chuộc tội cho loài người.” [Tất cả những điều này đã bị các học giả bác bỏ từ vài trăm năm nay, và gần đây bởi chính Giáo hoàng John Paul II khi Ngài chính thức công nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc con người, bởi Giám mục Tin Lành John Shelby Spong trong bài “Giê-su như là đấng cứu chuộc: một hình ảnh cần phải xóa bỏ” [Jesus as a rescuer: An image that has to go], bởi Linh mục Công giáo James Kavanaugh trong bài “Huyền Thoại cứu rỗi” [The Salvation Myth]; và nhà Nữ thần học nổi tiếng của Công giáo, Uta Ranke-Heinemann, đã coi những lời ca tụng trên của Tin Lành là những chuyện trẻ con, cần phải dẹp bỏ trong cuốn “Hãy dẹp đi những chuyện trẻ con” (Putting Away Childish Things)].

    Chúng ta cũng có thể đặt một câu hỏi: Thế  loài người đã có trên mặt đất từ bao giờ, và Chúa Giê-su leo lên thập giá để chuộc tội cho loài người khi nào, chuộc tội cho loài người sinh ra trước Giê-su hay là sinh ra sau Giê-su, và tội gì?”  Chúng ta sẽ thấy, loài người còn tin vào sự chuộc tội của Giê-su thực sự chỉ là loài chiên mang hình người. Chúng ta hãy đọc thêm một câu thuộc loại mù quáng tin nhảm tin nhí của Tin Lành, những người có lẽ trong nhà chỉ có một cuốn sách duy nhất là cuốn Thánh Kinh nhưng chưa bao giờ mở ra đọc.

    “Cho đến nay dù loài người văn minh, khôn ngoan tột đỉnh, cũng không ai tìm được một điểm nào mâu thuẫn hay ngụy  tạo trong Kinh thánh. Trong khi đó, lần lần cục diện thế giới cứ tiếp tục ứng nghiệm theo lời Kinh thánh.

   Ta thấy rõ ràng Kinh thánh tuyệt đối đáng tin, mà đã tin Kinh thánh thì tất cả những gì viết về Chúa Jêsus Christ là chân lý vĩnh cửu với thời gian và không gian.” 

    Hiển nhiên là người viết những điều vô nghĩa trên chỉ là viết bừa trong cơn mê sảng, vì không hề biết đến những cuốn nghiên cứu về Thánh Kinh như:

 -  “Cuốn Thánh Kinh Thuộc Loại Dâm Ô: Một Nghiên Cứu Bất Kính Về Tình Dục Trong Thánh Kinh” [The X-Rated Bible: An Irreverent Survey of Sex in the Scripture, AA Press, Austin, Texas, 1989] của Ben Edward Akerley: cuốn sách dày hơn 400 trang, liệt kê những chuyện tình dục dâm ô, loạn luân trong Thánh Kinh.

- “Tất Cả Những Chuyện Tục Tĩu Trong Thánh Kinh” [All The Obscenities in the Bible, Kas-mark Pub., MN, 1995] của Kasmar Gene: cuốn sách dày hơn 500 trang, liệt kê tất cả những chuyện tục tĩu, tàn bạo, giết người, loạn luân v..v.. (Human sacrifice, murder and violence, hatred, sex, incest, child cruelty etc..) trong Thánh Kinh.

- “Sách Chỉ Nam Về Thánh Kinh” [The Bible Handbook, AA Press, Ausrin, Texas, 1986]  của W. P. Ball, G.W.Foote, John Bowden, Richard M. Smith ...: Liệt kê những mâu thuẫn (contradictions), vô nghĩa (absurdities), bạo tàn (atrocities) v..v.. trong Thánh Kinh.

- “Sách Hướng Dẫn Đọc Thánh Kinh Của Người Sống Lại [trong Chúa] Nhưng Hoài Nghi” [The Born Again Skeptic’s Guide To The Bible, Freedom From Religion Foundation, Wisconsin, 1979]  của Bà Ruth Hurmence Green: Bình luận những chuyện tàn bạo, dâm ô, kỳ thị phái nữ trong Thánh Kinh.

- “Một Trăm Điều Mâu Thuẫn Trong Thánh Kinh[One Hundred Contradictions in the Bible, The Truth Seeker Company, New York, 1922]  của Marshall J. Gauvin: Liệt kê 100 điều mâu thuẫn trong Thánh Kinh.

- “Lột mặt nạ Thánh Kinh” [The Bible Unmasked, The Frethought Press Association, New York, 1941] của Joseph Lewis:  đưa ra những sai lầm trong Thánh Kinh.

- “Thẩm Vấn Ki Tô Giáo” [Christianity Cross-Examined, Arbitrator Press, New York, 1941] của William Floyd:  Phân tích từng quyển một trong Thánh Kinh.

- “Ki Tô Giáo Và Loạn Luân” [Christianity and Incest, Fortress Press, MN, 1992] của Annie Imbens & Ineke Jonker:  Viết về Ki Tô Giáo và vấn đề loạn luân, những sự kiện về loạn luân và kỳ thị phái nữ bắt nguồn từ Thánh Kinh.

    Xin nhớ rằng, những cuốn sách khảo cứu về Thánh Kinh như trên đã được phổ biến rộng rãi trên đất Mỹ, và Công Giáo cũng như Tin Lành, dù có nhiều quyền thế và tiền bạc, cũng không có cách nào dẹp bỏ những cuốn sách trên, hay đối thoại để phản bác, vì tất cả đều là sự thật.  Nhưng Tin Lành luôn luôn cứ nhắm mắt ca tụng cuốn Thánh Kinh như con vẹt, vì thực ra họ chưa bao giờ đọc Kinh Thánh, cuốn sách mà bà Ruth Hermence Green, một tín đồ Ki Tô Giáo, sau khi đọc nó đã đề nghị phải cấm bán công khai, chỉ được bán dấu diếm dưới dưới quầy hàng như những cuốn sách khiêu dâm, và không được bán cho cho những thiếu niên dưới 18 tuổi.

 -   Thứ nhì là cố gắng diễn giải lắt léo Kinh Thánh với mục đích hòa hợp những gì viết trong Kinh Thánh với những khám phá của khoa học trong mấy trăm năm gần đây.  Trong cả hai mục đích trên, tất cả chỉ là những ngụy biện mê tín tôn giáo phi khoa học cho nên không đáng để chúng ta phê bình, thảo luận.

 -    Và thứ ba là đi lấy những cái hay cái đẹp trong dân gian và Phật Giáo vơ vào cho Ki Tô Giáo một cách vô lêm sỉ, bất lương trí thức.  Thí dụ như về quan niệm “sắc sắc không không” của Phật Giáo hay quan niệm về ông Trời trong dân gian.

     Đây là những hình thức xâm lăng tôn giáo và xâm lăng văn hóa điên cuồng của Ki Tô Giáo ở Á Châu, khi Ki Tô Giáo đang phải đối diện với một sự suy thoái cao tốc hay “rơi tự do” (free fall) ở những phương trời văn minh Âu Mỹ, và trước sự phát triển mạnh mẽ của Phật Giáo trên toàn thế giới, nên hi vọng vớt vát lại ở Á Châu, một lục địa chiếm một phần ba dân số trên thế giới, nhưng nơi đây người dân còn biết rất ít về bản chất và thực chất của Ki Tô Giáo, cho nên rất dễ rơi vào vòng ngục tù tâm linh của họ.  Nhưng hi vọng của họ cuối cùng cũng chỉ là vô vọng, vì không ai có thể ngăn chận được sự tiến bộ trí thức của nhân loại, đặc biệt là ở Á Châu.  Chân lý Phật giáo hiển nhiên như trái đất quay chung quanh mặt trời.  Cuối cùng thì, dựa theo lời của Galileo Galiei nói với giáo hoàng Urban VIII: Rồi cuối cùng mọi người sẽ biết sự thật, và không ai có thể chống được sự thật. 

    Trước những thủ đoạn bất lương trên của một số người trong Ki Tô Giáo, Công giáo cũng như Tin Lành, tôi nghĩ đã đến lúc tôi cần phải viết một bài đối chiếu giữa đạo Phật và đạo Chúa, điều mà tôi vẫn tránh từ trước tới nay, vì những độc giả không quen thuộc với những tiêu chuẩn trong lãnh vực học thuật có thể hiểu lầm là tôi cố ý phê bình tiêu cực Ki Tô Giáo và đề cao Phật Giáo.   Để tránh sự hiểu lầm và những vu khống  vô căn cứ như “chống đạo”, “phá đạo”, “gây chia rẽ tôn giáo”, hay ngu đần và thiếu học vấn hơn nữa là “làm tay sai cho Cộng sản” v…v…, tuyệt đại đa số những tài liệu tôi dùng trong bài viết này là của các bậc thức giả Tây phương, ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô, tuyệt đối không có tài liệu nào của Phật Giáo nhận định về đạo Chúa, và cũng không có tài liệu nào của Cộng sản.

 

ĐẠO PHẬT  -  ĐẠO CHÚA ĐỐI CHIẾU

     Không ai có thể đưa ra sự đối chiếu về mọi mặt của hai đạo đã từng xuất hiện trên thế gian từ 2500 năm hoặc 2000 năm trước.  Do đó, bài viết này chỉ đối chiếu những nét chính trong bốn chủ đề như sau về cốt tủy của mỗi Đạo: 

 1.   Căn Bản đức tin tôn giáo trong Đạo Phật và Đạo Chúa.

2.  Về Đức Phật và Chúa Giê-su với tư cách là Giáo chủ của đạo Phật và đạo Chúa;

3.  Giáo lý của Chúa và của Phật.

4.  Đạo Phật và Đạo Chúa đã mang lại những phúc lợi gì cho nhân loại. 

    Sự so sánh đối chiếu này thuần túy nằm trong lãnh vực học thuật, nghĩa là dựa theo những công cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh về mỗi đạo của các bậc lãnh đạo, các học giả trí thức ở trong cũng như ở ngoài đạo, chứ không dựa theo niềm tin của các tín đồ ở dưới trong đạo Phật cũng như đạo Chúa, phần lớn không biết rõ về chính đạo mình theo.  Và như vậy, tôi xin hoan hỉ đón nhận mọi phê bình hay phản bác đứng đắn, trí thức, dựa trên những tài liệu nghiên cứu, trên lịch sử, chú không dựa trên cảm tính hay những niềm tin cá nhân.

 

  1. I.                   Sự Khác Biệt Về Căn Bản Đức Tin Trong Đạo Phật Và Đạo Chúa:

 a)   Căn bản đức tin trong Phật Giáo nằm trong Kinh Nền Tảng Đức Tin, thường được biết là Kinh Phật thuyết cho người dân Kalama.

      Sau đây là "Kinh Nền Tảng Đức Tin" của Phật Giáo, (Tỳ Kheo Thích Nhật Từ, Kinh Tụng Hằng Ngày, Đạo Phật Ngày Nay, Phật Lịch 2546, trang 98-99):

    ...Này các thiện nam tín nữ Ka-la-ma, nhân đây Như Lai sẽ giảng giải về 10 nền tảng của đức tin chân chánh:

 -          Một là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.

-          Hai là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.

-          Ba là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.

-          Bốn là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở.

-          Năm là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình.

-          Sáu là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình.

-          Bảy là, chớ vội tin một điều gì, khi mà điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.

-          Tám là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình.

-          Chín là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.

-          Mười là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.

      Này các thiện nam tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quán sát, suy tư và thể nghiệm, chỉ khi nào, sau khi kiểm nghiệm, quý vị thực sự nhận thấy: "Lời dạy này tốt lành, đạo đức, hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán, nếu sống và thực hiện lời dạy này sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc ngay hiện tại và về lâu, về dài" thì lúc ấy quý vị hãy đặt niềm tin bất động và thực hành theo.

       Với Kinh Nền Tảng Đức Tin này, người đời bảo rằng Phật Giáo là đạo của trí tuệ quả nhiên không sai. Vì đây mới chính là nền tảng đức tin mà theo tôi, tuyệt vời nhất trong mọi nền tảng đức tin khác, vì nền tảng này đã tôn trọng phẩm giá và trí tuệ của con người đúng nghĩa là một con ngườiKinh Nền Tảng Đức Tin, rất hợp với tinh thần khoa học và trình độ hiểu biết của nhân loại ngày nay, cho nên đã gây một cú “sốc” nặng trong giới trí thức Tây phương.  Và Tây phương đã tỉnh thức qua sự phát triển mạnh mẽ của Phật Giáo trong thế giới Tây phương, một sự phát triển tự nhiên, không cần đến bất cứ thủ đoạn nào để thu nhặt tín đồ.

 b)  Căn bản những niềm tin chính trong Ki-Tô Giáo, đặc biệt là Công Giáo, được gói ghém trong bản Kinh Tin Kính của các Tông Đồ (Apostle's Creed) thường gọi tắt là Kinh Tin Kính, đặt ra khoảng  năm 150.  Trong thời đại đế Constantine, qua công đồng Nicene năm 325, kinh này được thêm vào vài đoạn nâng Chúa con Giêsu lên cùng hàng với Chúa Cha với những lời có tính cách huênh hoang mơ hồ, trống rỗng vô nghĩa như "Thần của Thần, ánh sáng của ánh sáng" (God of God, light of light) v..v..  Kinh này đưa đến một sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa giáo hội miền Đông và giáo hội miền Tây.  Đến thế kỷ thứ 7, kinh này lại được thay đổi và thêm vào thuyết Chúa Ba Ngôi và nhiều điều hoang đường nữa, dài hơn kinh Tông đồ và kinh Nicene nhiều.  Kinh này có tên là Kinh Tin Kính Athanasius.  Vì kinh này dài và lủng củng nên chẳng có mấy ai đọc nó.  Anh Giáo thường dùng kinh Nicene làm căn bản và Công Giáo dùng kinh Tông đồ làm căn bản.  Trong sách Giáo Lý Công Giáo của Việt Nam chỉ có Kinh Tin Kính của Tông đồ chứ không có những kinh Nicene hay Athanasius.

     Nguyên văn bản kinh như sau, chúng ta nên để ý rằng bản kinh bằng tiếng Việt (Sách Giáo Lý Công Giáo, nxb Zieleks, Texas, 1991, trg. 14) có vài chỗ không đúng với bản kinh bằng tiếng Anh.

Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng

dựng nên trời đất.

Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu KiTô

là con một Đức Chúa Cha cũng là Chúa chúng tôi,

bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai,

sinh bởi bà Maria đồng trinh,

chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô,

chịu đóng đanh trên cây thánh giá, chết và táng xác,

xuống ngục tổ tông,

ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại,

lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng;

ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần.

Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này,

Các Thánh thông công.

Tôi tin phép tha tội.

Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.

Tôi tin hằng sống vậy.  Amen.

      Có vẻ như Kinh Tin Kính tiếng Việt ở trên pha trộn hai bản văn khác nhau, cũ và mới.  Để cho vấn đề được rõ ràng và dễ bề so sánh, tôi xin đăng nguyên 2 văn bản tiếng Anh như sau.  Những phần để trong dấu ngoặc cong (..), chữ màu xanh, là thuộc bản văn mới trong cuốn Catechism of the Catholic Church, xuất bản năm 1994, hoặc để thay một từ cũ (có gạch dưới), hoặc mới thêm vào.  Còn những phần trong dấu ngoặc thẳng [..], chữ màu đỏ, là trong bản văn cũ được bỏ đi:

I believe in God the Father Almighty,

maker (creator) of heaven and earth

And in Jesus Christ, his only Son, our Lord

who (He) was conceived by (the power of) the Holy Spirit,

(and) born of the Virgin Mary;

(Jesus Christ) suffered under Pontitus Pilate,

was crucified, dead (died), and (was) burried;

he descended into hell

(on) the third day he rose again [from the dead];

he ascended into heaven

and sitteth (is seated) on (at) the right hand of

[God] the Father [Almighty]

from thence he shall (will) come (again)

to judge the living and the dead.

I believe in the Holy Spirit,

(I believe in) the holy catholic church,

[the communion of saints]

(I believe in) the forgiveness of sins,

(I believe in) the resurrection of the body,

(I believe in) [and the] life everlasting, Amen.

 

          Với kiến thức của con người hiện nay,  Giám Mục Tin Lành John Shelby Spong đã viết một cuốn khảo luận nhan đề Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Hoặc Chết  trong đó ông đưa ra một nhận định tổng quát về Kinh Tin Kính:

      Những lời trong Kinh Tin Kính của các Tông đồ, và sau đó được khai triển thành Kinh Tin Kính Nicene, được nặn ra trong một thế giới quan mà ngày nay không còn hiện hữu.  Thật vậy, thế giới quan này thật là xa lạ đối với thế giới mà tôi đang sống trong đó.  Cách nhận thức thực tại  khi những Kinh Tin Kính của Ki Tô Giáo được đề ra thì nay đã bị xóa sạch bởi sự phát triển hiểu biết của con người. [1]

     Kinh Tin Kính trên rõ ràng là sản phẩm của một số người ở vài thế kỷ đầu, không hiểu gì về vũ  trụ học, sinh học, di truyền học, sinh hóa học, cổ sinh vật học, địa chất học, vật lý học hiện đại v...v..., những môn học mới phát triển trong những thế kỷ gần đây.  Ngoài ra, bản kinh này còn chứa nhiều điều mâu thuẫn, phi lý, hoang đường, chỉ hợp với những tín đồ đã bị điều kiện hóa, không có khả năng tự mình suy nghĩ.  Cho nên những người ngày nay còn tin vào những điều trong Kinh Tin Kính là những người, theo nhận định của Mục sư Tin Lành Ernie Bringas, trong đầu có một khuyết tật, những hiểu biết của họ thuộc thế kỷ 17, hay nói khác đi, chỉ là những người mù lòa tin bướng tin càn.

     Nhưng vấn đề chính ở đây không phải là Kinh Tin Kính chứa những niềm tin đã lỗi thời và không còn giá trị, mà Kinh đó đã chứng tỏ Ki Tô Giáo là tôn giáo của “đức tin”, một đức tin thuộc loại mê tín lỗi thời bất kể đến những tiến bộ trí thức của nhân loại.  Thảm thay, đa số tín đồ Ki Tô Giáo vẫn còn tin vào những điều không còn giá trị trong Kinh Tin Kính.  Then chốt của đạo Chúa là tin Giê-su thì sẽ được cứu rỗi, không tin thì sẽ bị đầy đọa hỏa ngục , như được viết trong  một câu thuộc loại lừa bịp ngu xuẩn đần độn nhất trong Tân Ước, John 3: 16: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.”, vì câu này chỉ có thể áp dụng cho những người sinh sau Giê-su, mới cách đây gần 2000 năm, trong khi loài người đã xuất hiện trên trái đất ít ra là vài trăm ngàn năm, nếu không muốn nói là cả triệu năm.

   Nói tóm lại, sự khác biệt giữa căn bản đức tin trong đạo Phật và đạo Chúa là ở hai cụm từ:  “chớ vội tin” trong đạo Phật, và “tôi tin” trong đạo Chúa.  Rõ ràng là: đạo Phật dựa vào trí tuệ, sự hiểu biết, sự kiểm chứng để đi đến đức tin,  còn đạo Chúa dựa tất cả vào một đức tin thuộc loại tin bừa, không cần biết, không cần hiểu, không cần đến kiểm chứng, dù rằng những điều trong Kinh Tin Kính, theo Giám mục John Shelby Spong nhận định ở trên, nay đã bị xóa sạch bởi sự phát triển hiểu biết của con người [về nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc con người.  TCN].  Vì vậy đạo Chúa có nhiều tín đồ hơn đạo Phật.  Trong dân gian, số người kém hiểu biết bao giờ cũng là số đông. 

 

  1. II.                Về Đức Phật và Chúa Giê-su với tư cách là Giáo chủ của đạo Phật và đạo Chúa.

 

   Trước hết chúng ta cần biết một sự kiện:  Đức Phật đúng thật là đấng đã sáng lập ra đạo Phật, còn Giê-su thì không phải là người sáng lập ra đạo Chúa.  Tân Ước viết rất rõ, Giê-su tin rằng ngày tận thế đã gần kề, nên không hề có ý định thiết lập một đạo mà chúng ta gọi là “đạo Chúa” [Xin đọc  Matthew 16: 27-28Matthew 24:34Mark 9: 1; Mark 13:30; Luke 21: 27, 32;  và John 14: 3 trong Tân Ước].  Cho nên chúng ta không thể gọi Giê-su là “Giáo chủ” của đạo Chúa.  Tuy nhiên, qua mánh mưu ngụy tạo thần học của các thượng phụ Ki Tô Giáo để mê hoặc người dân thấp kém trong thời bán khai, dù sao thì Ki Tô Giáo cũng đã thành hình, và tín đồ được dạy là phải tin vào huyền thoại “cứu thế” và “cứu rỗi” của Giê-su, những huyền thoại nay đã không còn mấy giá trị ngay cả trong  nội bộ Ki Tô Giáo. [Xin đọc bài “Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ”: http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN37.php , của  Giám mục John Shelby Spong, và bài “Huyền Thoại Cứu Rỗihttp://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN36.php, của Linh Mục James Kavanaugh.]  Dù sao thì Giê-su đã trở thành đối tượng thờ phụng của khoàng một phần ba dân số trên thế giới.  Cho nên, trong mục đích đối chiếu giữa đạo Phật và đạo Chúa, chúng ta cũng nên biết về con người của Đức Phật và của con người Giê-su.

   Trong thế giới Âu, Mỹ (Bắc và Nam), và Phi Châu, Chúa Giê-su được biết đến nhiều hơn, không phải vì những giáo lý cao cả trong Kinh Thánh của Ki-tô Giáo, Cựu Ước cũng như Tân Ước, mà vì chính sách truyền đạo của Ki-tô Giáo trong thế giới Tây phương cộng với chính sách thực dân của Tây phương ở Phi Châu, Nam Mỹ, Bắc Mỹ v…v…

    Trong thế giới Á Đông, Đức Phật được biết tới nhiều hơn, không phải vì chính sách truyền đạo của Phật Giáo, mà vì những giáo lý nhân bản, trí thức, khoa học của Phật Giáo.

 

  1. A.     Về Chúa Giê-su:

 

   Có thể nói, Giê-su là một nhân vật đã được tìm hiểu, nghiên cứu kỹ hơn bất cứ nhân vật nào trên thế giới.  Đây là một vấn đề tìm hiểu quan trọng về một khuôn mặt thần thánh của Ki Tô Giáo, nên phần khảo luận này hơi dài, xin các độc giả kiên nhẫn.

    Có lẽ tuyệt đại đa số tín đồ Ki Tô Giáo không hề đọc đến 3 tác phẩm nhan đề Giê-su là ai?, trong số hàng trăm tác phẩm khác, mà nội dung là kết quả nghiên cứu về nhân vật Giê-su trong lịch sử Ki Tô Giáo.  Tác giả 3 tác phẩm nghiên cứu về cùng một chủ đề này là hai học giả Ki-Tô: Colin Cross và Thomas Wright, và Linh mục Công giáo John Dominic Crossan, giáo sư thần học tại đại học De Paul ở Chicago trong 26 năm.  Ba tác phẩm này cùng với nhiều tác phẩm nghiên cứu khác ngày nay đã có thể cho chúng ta một cái nhìn khá chính xác về nhân vật Giê-su.  Ngay cả mặt mũi thực sự của Giê-su cũng được đài BBC dùng  máy điện toán tái tạo dựa trên những mẫu sọ người Do Thái cách đây 2000 năm, và những hình vẽ người Do Thái cho đến thế kỷ thứ 4.  Hình ảnh gần đúng với sự thực này đã được đăng trên báo chí, và chương trình “Dateline NBC” của đài truyền hình NBC ngày 11 tháng 4, 2001 cũng đưa lên cho cả thế giới coi.  Hình ảnh này cũng được đài TV Discover loan truyền cho thế giới coi tối ngày 15 tháng 4, 2001, trong cuốn phim khảo cứu “Jesus: The Complete Story”, cùng với những chi tiết đối ngược với những luận điệu thần học của giáo hội. 

    Theo các khoa học gia thì hình ảnh Giê-su mà chúng ta thường thấy trên các hình vẽ, tượng hình v..v.. ngày nay chỉ là những sản phẩm tưởng tượng của các nghệ sĩ (Artists’ fantasies) thuộc giống dân da trắng, vì sự thực là không có một tài liệu nào cho biết hình dáng Giê-su ra sao.  Nhưng với kỹ thuật tái tạo trong khoa học ngày nay, người ta đã có thể tái tạo khuôn mặt của Giê-su một cách sát với thực tế nhất.  Khuôn mặt này trông thô lỗ, râu tóc quăn, da ngăm ngăm, mũi to, môi dày v..v.., như chúng ta thấy sau đây, không có gì giống với những hình ảnh do người da trắng tạo ra theo sự tưởng tượng của họ. 

 

 image1

Hình Giê-su do đài BBC tái tạo năm 2001

 

   Vậy thì “Giê-su là ai?”.  Cho đến thế kỷ 16, hầu như toàn thể Á Châu chẳng có mấy người biết Giê-su là ai.  Còn ở Âu Châu thì không một ai dám đặt ra câu hỏi này và không một ai dám phê phán bình luận cuốn Thánh Kinh vì sợ bị tù đầy, tra tấn và mang đi thiêu sống.  Chi tiết về “Giê-su là ai?” đã được trình bày tạm gọi là đầy đủ trong Chương I của cuốn “Chúa Giê-su Là Ai?  Giảng Dạy Những Gì?”, của tác giả Trần Chung Ngọc, Giao Điểm xuất bản năm 2002.  Độc giả có thể đọc Chương này trên http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/Giesu/Giesulaai2.php

    Sự tiến bộ trí thức là một định luật thiên nhiên của nhân loại. Dù giáo hội Công giáo đã tìm hết cách và xử dụng tối đa mọi quyền lực thế gian trong suốt 1500 năm, từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 19, với những biện pháp dã man, tàn bạo nhất để ngăn chận sự tiến bộ này, cuối cùng giáo hội cũng  phải đầu hàng trước những bước tiến trí thức của loài người.  Thật vậy, ngay từ 1760, Hermann Samuel Reimarus, giáo sư ngôn ngữ Á Đông tại đại học Hamburg bên Đức, đã viết một cuốn sách đưa ra nghi vấn về sự thực lịch sử viết trong các Phúc âm.  Vì sợ bị giáo hội trả thù, ông ta đã xếp đặt để cho tác phẩm của ông được xuất bản sau khi ông ta chết.  Rồi cho đến năm 1835, Giáo sư Thần học David Friedrich Strauss cho ra đời cuốn Khảo Xát Kỹ Cuộc Đời Của Giê-su (Life of Jesus Critically Examined) trong đó tác giả dùng những phương pháp phân tích để đi tới kết luận: các Phúc âm không phải do các tông đồ của Giê-su viết mà là do những tín đồ Ki Tô về sau, những người đan lẫn những truyền thuyết, những điều tưởng tượng và sự kiện vào với nhau.”(..the gospels were written not by followers of Jesus but by later Christians who wove fact, legend, and fantasy together).   Sau đó Strauss bị cấm dạy môn Thần học cho đến khi chết.  Chúng ta có thể đọc tóm tắt những tác phẩm của Reimarus và Strauss trong cuốn sách được coi là làm “lung lay thế giới thần học” (..it rocked the theological world) vào đầu thế kỷ 20, Tìm Kiếm Nhân Vật Giê-su Lịch Sử (The Quest of The Historical Jesus), của một tác giả nổi tiếng trên toàn thế giới, Y Khoa Bác Sĩ Albert Schweitzer.  Ngoài bằng bác sĩ, Albert Schweitzer còn có hai bằng cấp khác: tiến sĩ Thần học, và tiến sĩ Triết Học.

    Bước sang thế kỷ 20, sự khám phá ra những cuộn kinh nơi Biển Chết (The Dead Sea Scrolls) song song với kỹ thuật định tuổi vật chất cùng nhiều khám phá khác trong ngành khảo cổ đã giúp cho những nhà nghiên cứu rất nhiều trong công cuộc đi tìm những sự thực trong Thánh Kinh.  Rồi đến thập niên 1960, những khoa dạy môn Thần học trong các trường đại học Ki Tô bắt đầu xuống dốc vì càng ngày càng ít người học, nhiều học giả đã bỏ các trường đại học Ki Tô để sang dạy tại các trường đại học công, nơi đây họ có nhiều tự do hơn trong việc khảo cứu. 

    Tất cả những sự kiện trên đã làm động cơ thúc đẩy cho công cuộc nghiên cứu Phúc âm và về nhân vật Giê-su phát triển mạnh mẽ.  Điển hình là Hội Nghiên Cứu Giê-su (The Jesus Seminar) gồm nhiều học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô, đã phối hợp các kỹ thuật nghiên cứu tân tiến nhất như khảo cổ, cổ sinh vật học, phương pháp định tuổi vật chất, với phương pháp phân tích ngữ học, cổ ngữ học, xã hội học, sử học v..v.. để phân tích từng câu, từng lời, từng sự kiện viết trong Phúc âm.  Một khuôn mặt đặc biệt trong ngành nghiên cứu Tân Ước lại chính là một linh mục Công giáo: John P. Meier, giáo sư Thần học. Trong tác phẩm Một Người Do Thái Ở Ngoài Lề, Không Đáng Kể: Nghĩ Lại Về Nhân Vật Giê-su Lịch Sử (A Marginal Jew: Rethinking The Historical Jesus), tập 1 và 2, nhà xuất bản Doubleday tại New York phát hành năm 1991 và 1994, với sự duyệt và phê chuẩn (imprimatur) của Vatican, tuy còn dè dặt trong những điểm tế nhị khác thuộc về đức tin Công giáo, linh mục Meier đã thẳng thắn luận về những bằng chứng chứng tỏ Giê-su là đứa con hoang, đã lấy vợ, và nhiều chủ đề khác có thể gây ngỡ ngàng trong một giáo xứ (He discusses evidence that the historical Jesus was illegitimate, that he was married, and various topics that might raise eyebrows in a parish house).  Hơn thế nữa, Meier đồng ý với các đồng nghiệp trong ngành, bác bỏ những chuyện có tính cách siêu nhiên trong Tân Ước như là sự thực lịch sử: Giê-su đi trên sóng, biến đổi nước thành rượu, và các phép lạ khác  v..v..  Linh mục Meier cũng bàn đến một vấn đề quan trọng khác liên hệ đến tín lý then chốt “Maria đồng trinh” của Công giáo, và đưa ra nhiều bằng chứng trong Thánh Kinh chứng tỏ là bà Maria đã sinh nở ít ra là 7 lần, với Giê-su là đứa con đầu lòng.  Lẽ dĩ nhiên, tuyệt đại đa số tín đồ Ki Tô không hề biết đến những kết quả nghiên cứu sâu rộng này.

    Vậy kết quả những công cuộc nghiên cứu về nhân vật Giê-su ra sao?  Cho đến nay, các chuyên gia về tôn giáo ở trong cũng như ngoài Ki Tô giáo đã có thể đưa ra một giải đáp khá chính xác cho câu hỏi "Giê-su là ai?".  Những kết quả nghiên cứu tổng hợp về nhân vật Giê-su đã cho chúng ta một con người lịch sử hoàn toàn khác với hình ảnh Giê-su mà các giáo hội Ki Tô đưa ra trước đám đông tín đồ thấp kém.  Tại sao vậy?  Chúng ta có thể đọc trong cuốn Sự Thật Về Phúc Âm của Russell Shorto, một học giả đã nghiên cứu và duyệt qua những công cuộc nghiên cứu về nhân vật Giê-su trong hai thế kỷ 19 và 20,  những đoạn như sau:

    Bữa ăn chiều cuối cùng, Sinh ra từ một trinh nữ, chết rồi sống lại:  những niềm tin chính của Ki Tô Giáo  đang bị thử thách từng điểm một.  Các học giả chuyên nghiên cứu Thánh Kinh – một thời đã là những người gìn giữ nền Thần học Ki Tô – ngày nay đang dùng khoa khảo cổ, cổ sinh vật học, ngữ học, khoa học điện toán, và ngay cả khoa vật lý các hạt nhỏ, để tìm hiểu vấn đề “Giê-su là ai?”  Kết quả là một sự duyệt lại tận gốc rễ Phúc âm và những chuyện trong Phúc âm nay đã trở nên thật là rõ ràng nhưng lại làm cho một số người choáng váng bàng hoàng.

   Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Công giáo bảo thủ cho phép nghiên cứu (như LM John Meier. TCN), cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ  là huyền thoại.

   ...Công cuộc nghiên cứu của Hội Nghiên Cứu Giê-su, và của tất cả những nhà nghiên cứu Thánh Kinh ngày nay, biểu thị cho một sự chuyển hướng của các học giả chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh về tiêu chuẩn lương thiện văn hóa, lánh xa sự độc đoán của giáo hội.  Theo Funk (chủ tịch Hội Nghiên Cứu Giê-su. TCN), các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng (ảo tưởng tin rằng mình chính là con của Thần Do Thái và là đấng cứu tinh của dân Do Thái. TCN)họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư.  Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường. [2]

    Có ba chi tiết quan trọng trong đoạn tóm tắt kết quả nghiên cứu về nhân vật Giê-su của Shorto ở trên: 1) Phần lớn những điều mà ngày nay chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại; 2) Giáo hội và các bậc lãnh đạo trong giáo hội đã biết rõ sự thực trên; 3)  Chỉ có những tín đồ Ki-Tô, và có thể những bậc lãnh đạo Ki Tô trong các nước kém phát triển, hoặc một số người ngoại đạo không hề nghiên cứu về nhân vật Giê-su,  là vẫn còn tin rằng những gì giáo hội dạy về Giê-su đều là sự thực, và do đó vẫn tiếp tục sống trong bóng tối. 

     Phải chăng Shorto đã đưa ra những nhận định vô căn cứ?  Tuyệt đối không phải.  Chúng ta hãy xét đến vài kết quả nghiên cứu điển hình về nhân vật Giê-su của một số  giám mục, linh mục, học giả chuyên về tôn giáo:

 1.  Trong cuốn Giê-su Là Ai ?, học giả Ki Tô Colin Cross viết như sau trong phần dẫn nhập:

    Nhìn từ xa và xét về toàn thể, Giê-su ở Nazareth  có vẻ như là một nhân vật lịch sử hiển nhiên.  Nhưng khảo xát kỹ về bất cứ chi tiết nào cũng làm cho hình ảnh này mờ nhòa.  Lý do về sự bất minh này thật là hết sức đơn giản.  Đó là chúng ta không có bất cứ một tài liệu nào, thuộc bất cứ lãnh vực nào, về phần lớn cuộc đời của ông.  Ông ta không viết một cuốn sách nào.  Ngay cả hình dáng của ông ra sao cũng không ai biết.  Không có ngay cả một bằng chứng nào tự nó có giá trị để chứng tỏ là ông đã hiện hữu.  Những tài liệu hiện hữu, những phúc âm, chỉ viết về một phần nhỏ nhoi của đời ông và được viết theo quan điểm sùng bái cá nhân và nghi thức tôn giáo chứ không phải theo quan điểm sử học thông thường.  Trong những chuyện kể trong phúc âm có những điều bất phù hợp nghiêm trọng cũng như những điều rõ ràng là không thể xảy ra. [3]

 

2.  Mục Sư Ernie Bringas cũng viết như sau, trong cuốn Thi Hành Đúng Như Trong Sách: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Do Quyền Lực Thánh Kinh Gây Nên:

     Điểm đồng thuận ngày nay là nhân vật lịch sử Giê-su -  những lời Giê su nói và những hành động Giê-su làm, và những biến cố xảy ra trong cuộc đời của ông - không thể xác định được chính xác.  Trong khi chúng ta biết tác giả của một phúc âm nhìn nhân vật Giêsu như thế nào như họ đã viết lại, và viết lại như thế nào, thường là chúng ta không thể đi quá những điều viết trong phúc âm để biết về chính con người thực của Giê-su.  Chúng ta không thể đoan quyết là những lời nào viết trong phúc âm về cuộc đời của Giê-su là đúng như sự thực. [4]

 

 3.  Uta Ranke-Heinemann, người phụ nữ đầu tiên chiếm được ngôi vị Giáo sư Thần học Ca-Tô (A Chair in Catholic Theology), viết trong phần dẫn nhập của cuốn Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con như sau:

    Chúng ta vấp phải sự thực sau đây về nhân vật Giê-su.  Chúng ta không biết khi nào ông ta sinh ra và ở đâu cũng như khi nào ông ta chết.  Ông ta là một người không có một tiểu sử.  Chúng ta không biết những hoạt động của ông như là một thầy giảng trước quần chúng thật sự đúng là ở đâu và kéo dài bao lâu.  Nói cho thật đúng, chúng ta chẳng biết gì nhiều hơn là ông ta đã sinh ra đời, có người theo ông ta làm môn đồ, và ông ta bị hành quyết trên giá hình chữ thập – loại hình phạt của La Mã – và như vậy có một kết cục xấu số...

   Ông Giê-su này không chỉ nằm sâu dưới đất ở Jerusalem (nghĩa là thực ra đã chết và chôn ở Jerusalem. TCN) mà còn ở dưới một núi những nghệ thuật tồi tệ, chuyện hoang đường, và cách diễn giải  của giáo hội.  [5]

 

 4.  Học giả Andrew Harvey viết trong cuốn Con Của Người:

      Không còn nghi ngờ gì nữa,  sự phân tích lịch sử đã chứng tỏ là các phúc âm không phải là những điều do Thiên Chúa  linh cảm hoặc là những điều trung thực do nhân chứng kể lại về cuộc đời của Giê-su, mà là những câu chuyện đã được gọt dũa cẩn thận, được xếp đặt để cho phù hợp với, hoặc cổ xúy những sở thích tôn giáo, nhân cách, nhóm người khác nhau trong những năm đầu đầy xúc động của Ki Tô Giáo.  Những phúc âm không phải là những tài liệu viết ra theo sự linh cảm trực tiếp của Thần thánh, hoặc những ghi chứng lịch sử rõ ràng; chúng không phải là những điều mạc khải trực tiếp của Thần Ki Tô hoặc là những chuyện do những nhân chứng, những người biết rõ Giê-su, muốn kể lại rõ ràng những kinh nghiệm của họ đối với Giê-su.  Được viết vào cuối thế kỷ đầu, chúng biểu thị và cô đọng những truyền thống trong những cộng đồng Ki Tô đầu tiên và từ từ  biến đổi trong khoảng 300 năm để thành những phúc âm ngày nay chúng ta có.  [6]

 

5.  Giám mục John Shelby Spong viết trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà:

    Giê-su được diễn giảng bởi những tín đồ Ki Tô lúc đầu theo những quan niệm về Thiên Chúa mà họ tin tuyệt đối, dựa theo hình ảnh của một ông vua trên trời.  Điểm chủ yếu là hình ảnh Giê-su ngồi bên phải cái ngai của Chúa Cha ngồi trên trời.  Hình ảnh này phản ánh niềm tin huyền thoại phổ thông thời đó về một vũ trụ được coi như là một vương quốc.

   Nhưng Giê-su đã được “sinh ra từ một người đàn bà”.  Sự sinh ra đời của Giê-su cũng gây nhiều tai tiếng như cách ông ta chết.   Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này.  Chẳng có ai biết cha ông ta là ai.  Rất có thể ông ta là một đứa con hoang.  Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi mìn chưa kiếm ra và chưa nổ [7]

 

6.  Trong  cuốn  Giê-su Nguyên Thủy,  hai  tác giả Elmar R. Gruber và Holger Kersten viết:

      Hầu như không có đề tài nào khác gây sôi nổi trong thế giới Tây phương như là nhân vật “Giê-su ở Nazareth”; hầu như không có đề tài nào khác đã đưa đến sự hiện hữu của nhiều cuốn sách như vậy, hoặc đến những sự tranh luận sôi nổi và nồng nhiệt như vậy.  Tuy vậy, nhân cách của con người Giê-su lịch sử được bao phủ bởi một bức màn đen tối dày đặcTrong 15 thế kỷ, chúng ta chỉ có những chuyện kể về Giê-su theo luận điệu thần học chính thức của giáo hội, viết ra với mục đích củng cố đức tin Ki-Tô cùng lôi cuốn người ngoại đạo vào Ki Tô giáo....

   Trong thế kỷ 19, lần đầu tiên Tân Ước được đưa ra làm chủ đề nghiên cứu trí thức.  Đây là sự bắt đầu của công cuộc khảo cứu có hệ thống về cuộc đời của Giê-su.

   Năm  1835  David  Friedrich  Strauss  đã  xuất  bản  một cuốn sách nhan đề “Cuộc Đời Của Giê-su”, gây nhiều ảnh hưởng.  Trang bị với những quan điểm phân tích thuần lý và với tinh thần không thỏa hiệp, Strauss đã thẳng thắn bác bỏ tích cách chính xác lịch sử của các phúc âm.  Đối với ông, những điều viết trong phúc âm chỉ là những  truyền thuyết và những chuyện sùng tín về hình ảnh con người Giê-su, lấy ý từ Cựu Ước.  Sự chống đối tính cách xác thực của phúc âm như trên còn đi xa hơn vào khoảng giữa thế kỷ 19.  Bruno Bauer loại hẳn hình ảnh của Giê-su trong công việc  nghiên cứu lịch sử, tuyên bố rằng nhân vật chính trong Tân Ước là một phát minh huyền thoại. Những gì về  Giê-su và Paul (Phao Lồ) chỉ là những giả tưởng văn chương; và Ki Tô Giáo được coi là tạo ra bởi một nhóm cuồng tín  pha chế đức tin xung quanh hai nhân vật phát minh từ những truyền thống tôn giáo Hi Lạp, Do Thái và La Mã.

   Ngày nay chúng ta có đến hơn 80000 tác phẩm chuyên khảo về Giê-su, nhưng tác dụng của chúng để soi sáng nhân vật Giê-su lịch sử thật quả là vô cùng khiêm nhường.  Ai là Giê-su?  Ông ta sinh ra bao giờ?  Hình dáng ông ta ra sao?  Khi nào ông ta bị đóng đinh trên thập giá?  Bao giờ, ở đâu và ông ta chết như thế nào?  Tìm kiếm giải đáp cho những câu hỏi trên đã trở thành một vấn đề không giải quyết nổi.  Trong những cuốn sách viết trong hai thế kỷ đầu hầu như không có cuốn nào nhắc đến Giê-su như là một con người thực sự hiện hữu.  Những nguồn tài liệu về sau toàn là những tác phẩm thần học, dựa trên niềm tin không thắc mắc: Giê-su là con đấng Cứu Tinh (của dân Do Thái. TCN) và là con của Thần Gia-vê (thần của dân Do Thái. TCN).  Do đó, hầu như không có những tác phẩm thực sự vô tư về Giê-su, và cho tới ngày nay, công cuộc nghiên cứu trí thức cũng không ở vị thế có thể khẳng định là Giê-su sinh ra năm nào.  Hầu như không có tài liệu nào nói về cuộc đời niên thiếu của Giê-su, một giai đoạn quan trọng làm nền tảng tạo ra những cá tính của con người.  Ngay cả những chuyện kể về khoảng thời gian ngắn ngủi ông ta tiếp xúc với quần chúng cũng không nói gì nhiều về tiểu sử của ông ta.  Có vẻ như là ông ta không được các sử gia đương thời biết tới, hay ít nhất là không đáng để nhắc tới.  Vậy làm sao mà các sử gia này không hề biết tới những phép lạ hoặc những hiện tượng kỳ lạ như được kể trong phúc âm?  [8]

 

7.  Michael Martin trong cuốn Bản Án Chống Ki Tô Giáo viết:

    Những phương pháp phân tích hiện đại về học thuật khảo cứu Thánh Kinh đã đặt vấn đề về tính cách xác thực của Thánh Kinh, nhất là Tân ước.  Trong ánh sáng của sự phân tích Tân Ước này, nhiều nhà thần học đã cho rằng người ta chẳng biết được bao nhiêu về Giê-su.  Thí dụ, W. Trilling cho rằng “không có một ngày tháng nào trong đời sống của Giê-su” có thể được khẳng định và J. Kahl đoan quyết rằng điều duy nhất ta biết về Giê-su là ông ta “đã hiện hữu trong một thời điểm mà chúng ta chỉ có thể biết một cách đại khái”.  Nhiều học giả khác cho rằng việc tìm kiếm một Giê-su lịch sử là điều vô vọng..

   Sự phân tích về con người Giê-su lịch sử được tôn trọng nhất ngày nay là của G. A. Wells.  Wells nhấn mạnh rằng những nghi vấn về giá trị lịch sử của Giê-su của ông phần lớn dựa trên những quan điểm của các nhà thần học Ki Tô và các học giả chuyên về Thánh Kinh.  Những vị này đồng thuận chấp nhận rằng các phúc âm được viết trong khoảng từ 40 đến 80 năm sau khi Giê-su mãn kiếp người và bởi những tác giả vô danh không đích thân biết đến Giê-suTheo Wells thì những vị trên cũng thừa nhận rằng trong những chuyện kể về Giê-su, phần lớn là truyền thuyết và những chuyện trong phúc âm được viết theo động cơ thần học của những tác giả.  Ngoài ra, những bằng chứng trong phúc âm thuần túy là của Ki Tô Giáo.  [9] 

    Trên đây chỉ là vài nhận định tổng quát về tiểu sử  không rõ ràng của Giêsu.  Sở dĩ những học giả nghiên cứu về nhân vật Giê-su đưa ra những nhận định như trên là vì họ đã dùng những phương pháp khảo cứu phân tích khoa học trên mọi khía cạnh liên quan đến con người Giê-su, thí dụ như đối chiếu cổ sử, phân tích cổ ngữ, phân tích từng câu từng lời trong Thánh Kinh v..v.. Đi vào chi tiết và dựa trên Thánh Kinh, chúng ta còn thấy rõ ràng là không có một căn bản nào có tính cách thuyết phục để cho những người có đầu óc có thể biết được Giê-su là ai để mà tin, vì trong Thánh Kinh có quá nhiều điều mâu thuẫn về con người lịch sử Giê su.  Những chi tiết về một phần nhỏ, trong khoảng 3 năm cuối cùng của cuộc đời ngắn ngủi 33 năm của Giê-su được mô tả trong bốn Phúc Âm Matthew (Mã Thi Ơ), Mark (Mác-cô), Luke (Lưu Ca) , và John (Gioan), và những thư viết cho tông đồ của Paul (Phao Lồ). Nhưng chính những chi tiết này: khi sinh ra đời, gia phả, thời gian gần 3 năm đi giảng đạo, khi chết, đều hoàn toàn mâu thuẫn nhau.  Vì chúng hoàn toàn mâu thuẫn nhau, chứ không phải là bổ túc cho nhau theo như luận điệu bào chữa của một số tín đồ được dạy như vậy mà không tự chính mình đọc Thánh Kinh với một đầu óc suy luận, cho nên, chúng ta không thể dựa vào đâu để tin chi tiết nào thật, chi tiết nào giả. 

    Kết luận về Chúa Giê-su

 

  1.  Giê-su là một nhân vật không có một tiểu sử rõ rệt.
  2. Tất cả những gì viết về Giê-su trong Tân ước chỉ là những truyền thuyết và huyền thoại.
  3. Các Giáo hội Ki-Tô và giới trí thức lãnh đạo trong các Giáo hội đều biết Giê-su chỉ là một người thường sống với ảo tưởng mình là con của Thiên Chúa của Do Thái, và là cứu tinh của dân tộc Do Thái mà thôi.
  4. Nhưng họ vẫn dấu kín những sự thực về Giê-su trước đám tín đồ thấp kém.
  5. Do đó, những tín đồ Ki Tô Giáo, nhất là những tin đồ không phải là người Do Thái, tin vào Chúa Giê-su chẳng qua chỉ là tin vào sự lừa dối của các Giáo hội Ki Tô mà mục đích là để tự tạo những quyền lực vật chất thế tục.  Thật tội nghiệp.

 

  1. Về Đức Phật:

 

 buddha-moi

Hình Đức Phật trên trang nhà Đạo Phật Ngày Nay

 

   Trái với Chúa Giê-su, Tiểu sử Đức Phật rất rõ ràng.  Tất cả những nhà nghiên cứu về Phật Giáo, Đông cũng như Tây, đều đồng thuận những nét chính sau đây về Đức Phật:

 

   Hơn 2500 năm trước, tại Vương Quốc mà ngày nay gọi là Nepal, dưới chân núi Hi Mã Lạp Sơn (Himalaya), một hoàng tử có tên là “Tất-Đạt-Ta Cồ Đàm” (Siddharta Gotama) đã sinh ra, con của Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và Hoàng Hậu Tịnh Diệu (Maha Maya).  Hoàng tử sống trong nhung lụa, và đức Vua không để cho Hoàng tử biết đến những cảnh khổ trong dân gian ở ngoài cung.  Đức Vua cưới vợ cho Hoàng từ, đó là Công nương Yasoddhara.  Sau những chuyến tuần du ra ba cửa thành, Hoàng tử nhìn thấy cảnh già yếu, ốm đau bệnh tật, xác chết trong dân gian.  Hoàng tử nhận thức được rằng, đời sống trên nhung lụa của Người ở trong cung chỉ là một ảo ảnh.  Sự khổ hiện hữu khắp chung quanh Người.  Chắc hẳn vì có một đầu óc rất nhạy cảm cho nên Hoàng tử cảm thấy lòng rung động trước những cảnh khổ của những người khác.  Từ đó những ý nghĩ như: nguyên nhân tự đâu mà có những sự khổ, làm sao có thể giúp nhân loại thoát được sự khổ v..v…, đã ám ảnh Người.  Rồi một ngày kia, Người nhìn thấy một Thầy Tu khổ hạnh phong thái bình thản, an nhiên tự tại, đưa đến ý nghĩ cho Người muốn xuất gia.  Hoàng tử đi đến quyết định từ bỏ sự giàu sang phú quý của mình, quyết chí đi tìm đường chấm dứt sự khổ.  Khi đó Người đã có một đứa con trai tên là Rahula.  Nhưng Người cương quyết rứt bỏ những tình cảm cá nhân về thê nhi, và bỏ hoàng cung, sống một cuộc sống khổ hạnh với hi vọng có thể tìm ra con đường thoát khổ.  Khi đó Người được 29 tuổi.

   Mới đầu, Người tu học với các đạo sĩ Bà La Môn.  Không có kết quả, Người đi tu khổ hạnh cùng với năm bạn tu khác.  Đến khi Người cảm thấy mình gầy yếu kiệt sức mà chẳng thấy kết quả  gì, Người bèn từ giã các năm bạn tu khổ hạnh và tự mình đi tìm chân lý. Tại một nơi, Người  được  một thôn nữ tên là Sujata cúng dường một tô sữa tuơi.  Uống xong Người cảm thấy đã lấy lại phần nào sức, tinh thần sảng khoái hơn, và nhận thức được rằng cần phải ăn uống để thân thể tráng kiện, tinh thần minh mẫn mới có thể tìm ra lẽ đạo. Người đến ngồi dưới cây Bồ Đề tu tập Thiền Định.  Sau một thời gian Thiền định, Người chứng ngộ được dần dần những huyền bí của vũ trụ như tính vô thường, vô ngã, duyên sinh và không của vạn pháp v…v…, và cuối cùng Người chứng được Túc mạng minh, thấy rõ ràng những đời quá khứ, hiện tại, vị lai; Thiên nhãn minh, thấy được cả vũ trụ bao la; và  Lậu tận minh, siêu việt được vô minh sinh tử.  Người đã  thành đạo,  nghĩa là thành Phật, một bậc tỉnh thức, giác ngộ.. Sau đó, trong suốt 45 năm trời,  người đã đi khắp nơi không mệt mỏi thuyết giảng  về một số điều quan trọng mà Người đã chứng ngộ được để giúp con người giải thoát được vòng sinh tử.  Từ nhận thức của Người sau khi giác ngộ, Giáo lý của Người nhằm mục đích “khai thị ngộ nhập Phật Tri Kiến”, nghĩa là giúp cho người đời có thể hội nhập vào những cái biết, cái thấy của Đức Phật: “Những gì Ta đã thành đạt được thì ai cũng có thể thành đạt được” [What I have achieved you too can accomplish] 

    Trên đây chỉ là vài chi tiết cốt yếu về tiểu sử Đức Phật, tôi đã bỏ qua rất nhiều chi tiết khác, những chi tiết này thích hợp hơn trong lãnh vực nghiên cứu về toàn bộ tiểu sử Đức Phật.  Tưởng chúng ta cũng nên biết là về sau, người đời đã dùng 10 danh hiệu để tôn vinh Người.  Đó là:  Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh túc, Thiện Thị Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên nhơn sư,  Phật, Thế Tôn.

   Trong 10 danh hiệu này thì có 4  nói về trí tuệ và đạo đức của Đức Phật. 

 a)      Chánh Biến Tri = Có trí tuệ đúng đắn và rộng khắp trong mọi lãnh vực.

b)      Minh Hạnh Túc = Có trí tuệ và đức hạnh viên mãn.

c)      Vô Thượng Sĩ = Con người siêu việt, phi phàm.

d)     Thiên Nhân Sư = Thầy của các đấng ở trên Trời, trong đó có Thiên Chúa, và con người. [Thiên Chúa là từ người Trung Hoa dùng để chỉ đấng ngự trị ở trên trời.  Năm 1583, giáo sĩ dòng Tên Matteo Ricci tới Trung Quốc và dùng từ Thiên Chúa của người Trung Hoa đánh đồng với Thần Gia-vê của Ki Tô Giáo.  Từ Thượng đế là từ của  Khổng Giáo dùng, đồng nghĩa với Thiên Chúa]

     Chúng ta nên hiểu trí tuệ ở đây là khả năng nhận thức bao quát về con người và vũ trụ và từ đó có thể dẫn dắt con người đến sự giác ngộ chứ không phải là một sự hiểu biết chuyên ngành của một chuyên gia khoa học ngày nay.

   Một câu hỏi được đặt ra: Những danh hiệu mà người đời tôn vinh Đức Phật đặt căn cứ vào đâu?  Câu trả lời là: Những danh hiệu đó bắt nguồn từ sự chứng nghiệm của con người qua tư cách, đạo đức, và trí tuệ của Đức Phật trong 45 năm thuyết Pháp không mệt mỏi của Người.  Từ những giải đáp rành rọt về rất nhiều vấn đề thế gian, từ tác phong hàng ngày của chính Đức Phật mà mọi người trong thời Phật tại thế đều có thể quan sát và đánh giá, cho nên những danh hiệu trên mới được đặt ra chứ không phải là ngẫu nhiên mà cũng không phải vì những đệ tử Phật cũng như đại chúng vì đã theo Phật nên muốn tôn vinh Đức Phật.  Tuy vậy mà Đức Phật luôn luôn cũng chỉ nhận mình là Phật, nghĩa là Bậc Tỉnh Thức hay Bậc Giác Ngộ.

     Người theo Đạo Chúa có thể cảm thấy xúc phạm trước danh hiệu “Thiên Nhân Sư” người đời đã tôn vinh Đức Phật.  Một người như Đức Phật ở trên mặt đất mà lại là bậc Thầy của Thiên Chúa của họ ở trên trời là điều họ khó có thể chấp nhận. Nhưng họ phải hiểu rằng trên trời có nhiều Thiên Chúa, Thiên Chúa của các nền văn hóa khác nhau.  Thật vậy, mỗi Thần giáo đều có quan niệm riêng về Thiên Chúa của tôn giáo mình.  Nữ học giả Judith Hayes đã viết một cuốn sách nhan đề "Chúng Ta Đặt Niềm Tin Vào Thiên Chúa! Nhưng Mà Là Thiên Chúa Nào?" (In God We Trust! But Which One?).  Giáo sư  Keith Hopkins thuộc Hàn Lâm Viện Anh Quốc cũng viết một cuốn mang tên "Một Thế Giới Đầy Những Thiên Chúa" (A World Full of Gods).  Và nữ tu Công giáo Karen Armstrong cũng đã xuất bản cuốn Một Lịch Sử Về Thiên Chúa (A History of God)  trình bày quan  niệm  về các Thiên  Chúa trên thế gian.  Những công cuộc nghiên cứu của các tác giả trên và lịch sử các nền văn minh khác nhau trên thế giới đã chứng tỏ Ki Tô Giáo chỉ là một tôn giáo thờ thần trong số nhiều tôn giáo hay truyền thống dân tộc thờ thần, trong thời đại mà con người chưa hiểu rõ nguyên nhân của những thiên tai hay hiện tượng thiên nhiên, cho nên tục thờ Thần ở đâu cũng có.  Do đó, lẽ dĩ nhiên là về bản chất, Thần của Ki Tô Giáo mà các tín đồ Công giáo, Tin Lành Việt Nam tôn lên làm Thiên Chúa cũng chẳng có gì hơn Thần của các tôn giáo khác, nếu không muốn nói là trong một số khía cạnh, thí dụ như về đạo đức và khoa học, còn kém hơn cả những người thường như chúng ta.  Điều này có thể chứng minh dễ dàng nếu chúng ta chịu khó đọc kỹ và phân tích Thánh Kinh gồm Cựu Ước và Tân Ước. 

    Riêng đối với Thiên Chúa của đạo Chúa thì những sự kiện lịch sử sau đây sẽ chứng minh là danh hiệu “Thiên Nhân Sư” không sai.  Chứng minh?

     Thiên Chúa, cha của Chúa Giê-su, mạc khải trong Thánh Kinh là trái đất là trung tâm của thế giới, mặt trời quay chung quanh trái đất, và thế giới mà chúng ta thấy trước mắt là thế giới duy nhất.  Chúng ta đã biết, Giáo hội Công giáo đã “nướng sống” linh mục khoa học gia Giordano Bruno chỉ vì ông này cho rằng ngoài thế giới của chúng ta còn có nhiều thế giới khác, điều này trái với những lời mạc khải của Thiên Chúa trong Thánh Kinh.  Nhưng hơn 500 năm trước khi Chúa sinh ra đời, Phật Giáo đã nhận thức về vũ trụ như sau:

    Thế giới chúng ta đang sống không phải là duy nhất và cũng không phải là trung tâm vũ trụ.  Ngoài thế giới chúng ta đang sống còn có rất nhiều thế giới khác, và Phật giáo phân loại các thế giới thành 3 loại: Tiểu Thiên Thế Giới, Trung Thiên Thế Giới, và Đại Thiên Thế Giới.  Danh từ thế giới trong Phật giáo chỉ một thiên thể (thí dụ như trái đất) hoặc một tập hợp các thiên thể được coi như thuộc một nhóm (thí dụ như thái-duơng-hệ mà trái đất là một hành tinh trong đó).  Vậy, một ngàn thế giới họp thành một Tiểu Thiên Thế Giới, một ngàn Tiểu Thiên Thế Giới họp thành một Trung Thiên Thế Giới, và một ngàn Trung Thiên Thế Giới họp thành một Đại Thiên Thế Giới.  Do đó, lấy đơn vị là một hệ thống tương tự như hệ thống Thái Dương Hệ và gọi là thế giới thì Tiểu Thiên Thế Giới gồm có khoảng  một ngàn thế giới, Trung Thiên Thế Giới gồm khoảng một triệu thế giới , Đại Thiên Thế Giới gồm khoảng một tỷ thế giới v..v.. Đó là quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo từ hơn 2500 năm về trước. 

    Chúng ta thấy rằng quan niệm này hầu như tương hợp hoàn toàn với những kiến thức ngày nay của những nhà thiên văn (astronomers) hay những nhà vật-lý-học về thiên thể (astrophysicists), và đã đi trước khoa-học nhiều thế kỷ.  Một Tiểu Thiên Thế Giới có thể so sánh với quan niệm hiện đại về một thiên hà (galaxy) gồm có cả triệu ngôi sao và những hành tinh có thể có sinh vật trên đó.  Thí dụ như giải ngân hà (Milky Way) hay M31, hay chòm sao (constellation) Andromeda.  Một Trung Thiên Thế Giới có thể so sánh với một chùm thiên hà (galactic cluster) thí dụ như chùm Coma Berenices, và một Đại Thiên Thế Giới có thể so sánh với cái mà Hannes Alfven gọi là siêu thiên hà (metagalaxy) ở  trong Đại Vũng   (Big Dipper) của Tiểu Ursa (Minor Ursa) trong đó có ít ra là cả triệu thiên hà.  Cho tới nay, vì những giới hạn tự tại của những dụng cụ quan sát cho nên các khoa học gia chưa thể đi xa hơn trong việc khảo sát vũ trụ.  Nhưng không phải vì những giới hạn kỹ thuật này mà vũ trụ cũng bị giới hạn theo, và nay chúng ta đã hiểu tại sao Đức Phật lại "bỏ ngỏ" quan niệm về vũ trụ hữu hạn hay vô hạn.  Điều này chứng tỏ Đức Phật đã thấy rõ khả năng vô tận của con người, và rằng Phật Pháp không phải là những giáo điều cứng ngắc không bao giờ thay đổi.  Và đây cũng chính là tinh thần khoa học hiện đại, không có gì có thể coi như là vĩnh cửu, bất biến.

    Nói đến quan niệm về vũ trụ của Phật Giáo thì chúng ta không thể bỏ qua Kinh Hoa-Nghiêm, phẩm Thế Giới Thành Tựu.  Trong phẩm này, Bồ Tát Phổ Hiền tuyên thuyết về 10 đặc tính của các thế giới: nhân duyên khởi, chỗ trụ nương, hình trạng, thể tánh, trang nghiêm tánh, thanh tịnh tánh, Phật xuất hiện, kiếp trụ, kiếp chuyển biến sai biệt, và môn vô sai biệt.  Để cho vấn đề tương hợp với khoa học được rõ ràng, sau đây tôi xin luận về điểm :  hình trạng các thế giới.  Chúng ta hãy xét đoạn kinh văn sau đây:

    “Lúc đó Phổ Hiền Bồ Tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Thế giới hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn....hoặc hình như nước xoáy....hoặc hình như hoa ... có vi trần số hình sai khác như vậy."

   Rồi trong phẩm tiếp theo, phẩm Hoa Tạng Thế Giới, Phổ Hiền Bồ Tát lại tuyên thuyết: "Chư Phật tử!  Tất cả thế giới chủng đó hình trạng đều khác nhau: hoặc hình núi Tu Di, hoặc hình sông, hoặc hình xoay chuyển, hoặc hình nước xoáy, hoặc hình trục xe...hoặc hình hoa sen...có vi trần số hình trạng như vậy."  ("Kinh Hoa-Nghiêm", Thích Trí Tịnh, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản)

    So sánh với những hình trạng của các chòm sao, giải thiên hà, ngân hà khám phá bởi khoa học ngày nay chúng ta thấy Phật giáo đã mô tả hình trạng của chúng một cách vô cùng chính xác.  Thí dụ như các hình như bánh xe, nước xoáy chúng ta có thể quan sát được trong các chòm sao như Cetus, Pegasus và Hercules, hình sông là giải ngân hà (Milky Way) và nhiều thiên hà khác, hình dạng như hoa là những khối tinh vân trong khoảng không gian liên-thiên-hà (intergalactic clouds of gas) có chứa hàng tỷ ngôi sao v...v... Thật tôi không thể tưởng tượng được ở một thời chưa hề có kính thiên văn, dù thô sơ nhất, mà Đức Phật và các Đại Bồ Tát đã có những hiểu biết chính xác về vũ trụ như trên.  Nếu không phải vì đã giác ngộ hoàn toàn, nắm vững cơ cấu huyền bí của vũ trụ, thì làm sao có thể biết được những điều như trên.  Và chúng ta cũng nên nhớ là những điều đức Phật và các Bồ Tát chọn để tuyên thuyết cho người đời chẳng qua cũng chỉ là một nắm lá trong tay so với số lá cây trong rừng.

    Vài hình ảnh sau đây trong khoa học thiên văn hiện đại cho chúng ta thấy kiến thức của Đức Phật và các Bồ Tát đã chính xác như thế nào.

 

 efa340bc

Hình xoay chuyển của Thiên Hà NGC 523 Sculptor

 

 

 

 5e6c3347

Hình bánh xe của Thiên Hà Andromeda

 

 

 6081c18d

Hình nước xoáy của Thiên Hà [The Spiral Galaxy NGC 2997]

 

 

 0ea8b30c

Hình hoa nở của Thiên Hà Trifid

 

 360177fd

Hình vòng nhẫn của khối tinh vân 250px-M57_The Ring Nebula

 

  41abb998

Hình núi Tu Di của Thiên Hà M104: The Sombrero Galaxy 

 

    Vậy, chúng ta hãy tự hỏi, Đức Phật và các Bồ Tát có đáng là bậc Thầy của Thiên Chúa ở trên trời không?  Danh hiệu “Thiên Nhân Sư” không phải là không có căn bản.  Nhưng không phải là chỉ có Đức Phật mới đáng là bậc Thầy của Thiên Chúa, mà trong lịch sử chúng ta cũng thấy không thiếu gì người đáng là bậc Thầy của hai cha con Thiên Chúa, thí dụ như vài người trong giáo hội Công giáo như Copernicus, Bruno, Galilei, Darwin v…v… nếu chúng ta đọc những kết quả nghiên cứu của họ về vũ trụ, về con người, so với những điều “mạc khải” của Thiên Chúa trong Thánh Kinh, khoan nói đến kết quả nghiên cứu hay tư tưởng của vô số các triết gia, tư tưởng gia, khoa học gia hiện đại.

   Sự khác biệt giữa Đức Phật và Chúa Giê-su là, Đức Phật là một nhân vật lịch sử có thật, có một tiểu sử rất rõ ràng được cả thế giới công nhận.  Còn Chúa Giê-su là do Chúa từ trên trời rơi vào trong bụng người con gái tên là  Maria, một chuyện mà ngày nay chẳng còn mấy người tin.  Chúa Giê-su chỉ là một người thường như mọi người, nhưng sống với một ảo tưởng.  Đức Phật cũng chỉ là một con người, nhưng là một con người tỉnh thức, giác ngộ, vì thế được gọi là Phật, nghĩa là do sự tu tập thiền định, quán chiếu v…v…, “Người” đã thấy rõ được những huyền bí trong vũ trụ.  Điều này chúng ta thấy rõ qua những lời giảng dạy của Người trong Kinh điển Phật Giáo, thí dụ như trong Kinh Hoa Nghiêm ở trên.  Mặt khác, Đức Phật đã để lại cho hậu thế một rừng giáo lý đặc thù để giúp con người đi theo vết chân Người, để có thể cũng thành đạt những kinh nghiệm Giác ngộ như Người.  Còn bản chất Chúa Giê-su, theo nền Thần học Ki Tô Giáo, là “ông cứu rỗi” của những người tin vào ông ta chứ không phải là một ông Thầy dạy Giáo lý để giúp cho các tín đồ thăng  tiến về mặt tu tập hay trí tuệ. Để thấy rõ vấn đề, chúng ta hãy đọc nhận định của Tiến Sĩ George Dennis O'Brien, Giáo sư Triết,  Viện Trưởng Viện Đại Học Rochester, trong cuốn "Thiên Chúa Và Đường Xe Lửa ở New Haven.  Và Tại Sao Cả Hai Đều Chẳng Mấy Thành Công" ("God and The New Haven Railway.  And Why Neither One Is Doing Very Well", Beacon Press, Boston, MA., 1986, trg. 108), phân biệt quan trọng giữa “giác ngộ” và “cứu rỗi”:

      “Một tôn giáo "giác ngộ" tăng tiến trí tuệ tâm linh hoặc đạo đức của chúng ta bằng một giáo pháp nào đó.  Một tôn giáo "cứu rỗi" cải đổi đời sống của chúng ta bằng cách dẫn chúng ta sống đời sống của chúng ta trong một người khác. [Tín đồ Ki Tô thường nói: Chúa ở trong tôi hay Chúa ở cùng tôi]

   ...Khi bậc Thầy xuất chúng qua đời, giáo pháp của ông ta có thể tiếp tục sống.. Ông ta có thể có một giáo pháp như Tám Thánh Đạo (Bát Chánh Đạo. TCN) khiến cho cái trí tuệ đặc biệt của ông ta tồn tại vĩnh viễn.  Ngay cả khi bậc Thầy không để lại một giáo pháp nào mà chỉ là mẫu mực của một trí tuệ tìm tòi và lý tưởng về tính Thiện, như Socrates, cái gương sáng của ông Thầy tồn tại và làm tiêu chỉ cố gắng cho những đệ tử sau này.   Tất cả những phương tiện trên để tiếp nối "đời sống của Sư Phụ"  đều có ý thức cao và được áp dụng rộng rãi...Nhưng cái khung truyện đó không phải là chủ trương của Tân Ước.  Không phải là giáo pháp của ông Thầy tồn tại, mà là chính "ông Thầy".  Mà dù như vậy đi chăng nữa thì cũng không có "ông Thầy" mà chỉ có "ông cứu thế"

   ...Trong một tôn giáo cứu rỗi, ta không thể đạt được một trình độ tâm linh cao bằng cách học hỏi về một chân lý nào đó, một sự kiện nào đó, một con người nào đó.  Tất cả những điều trên đều có tính cách giáo dục và cao quý, nhưng đó không thuộc một truyện phim thuộc loại cứu rỗi.  Trong câu chuyện về tội lỗi và cứu rỗi, con người tới một trạng thái mới bằng cách sống với một người khác.

   Giêsu có hội đủ những tiêu chuẩn của những bậc Thầy xuất chúng về tâm linh không?  Không đâu.  Cái tiêu chỉ của sự siêu quần về tâm linh là con người phải là một bậc Thầy xuất chúng về tỉnh thức, về trí tuệ tâm linh, hoặc một tâm bình lặngGiêsu không phải là một ông Thầy, mà là một ông cứu thế. 

   Chúng ta hãy coi một bậc Thầy xuất chúng.  Socrates là một thí dụ tốt.  Socrates là một đại sư về tỉnh thức tâm linh.  Ông ta cho rằng ông không biết gì cả, chỉ đặt cho học trò vài câu hỏi có tính cách mưu mẹo, thách đố.  Socrates muốn chắc rằng học trò bám vào chân lý chứ không bám vào Socrates.

   Đức Phật là một thí dụ về một bậc Thầy "tôn giáo" xuất chúng cũng có cùng giáo pháp tự chứng như Socrates.

   Đức Phật không phải là một đấng cứu rỗi, Người là Đấng Giác Ngộ.  Người đã chứng được những chân lý về nhân sinh, và Người đã đưa ra Tám Thánh Đạo để hướng dẫn con người đạt tới cùng sự giác ngộ như Người và do đó thoát khỏi khổ đau..

   Tương phản với những bậc Thầy xuất chúng kể trên, chúng ta phải nói rằng Giêsu hiển nhiên hiểu lầm về vai trò của một giáo pháp.  Giêsu không có học trò (hay đệ tử) mà chỉ có môn đồ (hay tông đồ).  Và điều này không phải là ngẫu nhiên.  Giêsu nói: "Kẻ nào "tin vào" Ta thì sẽ được sống đời đời."  Không phải là tin vào giáo pháp của ta mà tin vào chính TA. Cái mà Giêsu "biết" không phải là sự giác ngộ, Giêsu chỉ  biết Chúa Cha: "Chỉ có con mới biết Cha", "Kẻ nào biết TA sẽ biết Cha", "Chỉ có thể đến với Cha ta qua TA".

   Bất cứ Ki-Tô Giáo có thể là cái gì khác, có vẻ như là ở ngoài mặt rõ ràng đó là một tôn giáo thuyết giáo về sự cứu rỗi và một đấng cứu rỗi.  Trước khi chúng ta cảm thấy chán ngấy với ý tưởng này, điều quan trọng là chúng ta phải nhớ rằng hầu hết những chủ lực tinh thần lớn khác, không những là không thuyết giáo về sự cứu rỗi mà trong vài trường hợp, còn thực sự khinh ghét ý tưởng này.  Hồi Giáo là một trường hợp điển hình... Người theo Hồi Giáo thấy rằng cái khái niệm của Ki-Tô Giáo về một đấng cứu rỗi đã làm hạ phẩm giá của cả đấng cứu rỗi lẫn người được cứu rỗi.   

     Để  sống  đạo  hạnh  và tiến  tới  Giác Ngộ,  con  người  cần những bậc Thầy chứ không cần tới các đấng cứu rỗi.  Sự khác biệt thật là quan trọng.  Xét về toàn diện, những tôn giáo đạo đức hay giác ngộ thì hợp với xu hướng của người Mỹ ngày nay hơn.  Những tôn giáo này có hai lợi thế rõ rệt so với những tôn giáo dựa theo Thánh Kinh.  Trước hết là những tôn giáo này có vẻ như là những con đường tâm linh tự lực  Điều này hợp với tinh thần độc lập và tự tin của người Mỹ.  Tuy rằng các bậc Thầy xuất chúng rất là đáng quý trong các tôn giáo này, nhưng họ cũng có thể được để qua một bên, và con người có thể tự học lấy.  Người ta không thể tự cứu rỗi trong tôn giáo dựa vào Thánh Kinh.  Lợi thế thứ nhì của các tôn giáo giác ngộ và đạo đức là những tôn giáo này có thể dẹp bỏ phần lớn cái mưu toan thần học.  Nếu thực sự có các Thần - và trong Phật Giáo có vẻ như là không hề có - thì vai trò của các Thần là những bậc Thầy hữu ích (nhưng có thể bỏ qua), hoặc là những lý tưởng hay những nhân vật gương mẫu.  Chân lý nằm trong giáo pháp chứ không nằm trong ông "Thầy - Cứu rỗi."”   [10] 

 

  1.  Vài Nhận Định Về Chúa Giê-su Và Đức Phật Của Các Học Giả:

    Sau đây chúng ta sẽ điểm qua vài nhận định về Chúa Giê-su cũng như về Đức Phật qua những nghiên cứu của một số học giả Tây phương về hai khuôn mặt quan trọng nhất trong thế giới ngày nay.  Chúng ta đã thấy, những nhận định tổng quát về Chúa Giê-su nằm trong những tác phẩm nghiên cứu của các học giả về nhân vật Giê-su.  Ở đây tôi chỉ đưa ra vài nhận định điển hình về Chúa Giê-su của một số học giả Tây phương.

 a)      Về Chúa Giê-su:

 1)      Robet Funk (The Jesus Seminar): 

    Giê-su chỉ là một người thường như mọi người, nhưng sống với một ảo tưởng mình là con của Thiên Chúa của người Do Thái ở trên trời, và có nhiệm vụ giải cứu người Do Thái, và chỉ người Do Thái mà thôi. [Xin xem chú thích [2] ở trên]

 

  2) Bertrand Russell, một thiên tài toán học và triết lý, đã được giải thưởng Nobel năm 1950, nhận định về trí tuệ và đức hạnh của Chúa Giê-su như sau:

    "Xét về trí tuệ hay đức hạnh tôi không thể nào cho rằng Đức Ki-Tô (Giê-su) cũng cao cả như vài người khác được biết trong lịch sử.  Tôi nghĩ rằng, về trí tuệ hay đức hạnh, tôi phải đặt Đức Phật và Socrates lên trên Đức KiTô." [11]

 

3)   Giám mục John Shelby Spong viết trong cuốn Hãy Cứu Cuốn Thánh Kinh Ra Khỏi Phái Bảo Thủ  (Rescuing The Bible From Fundamentalism), trang 21:

    i)   “Có những đoạn trong 4 Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.”

   ii)   Sự sinh ra đời của Giê-su cũng gây nhiều tai tiếng như cách ông ta chết.   Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này.  Chẳng có ai biết cha ông ta là ai.  Rất có thể ông ta là một đứa con hoang.  Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi mìn chưa kiếm ra và chưa nổ.

   Chúng ta có thấy hấp dẫn đối với một Chúa (Giê-su) phải giết cả một bày heo (vào khoảng 2000 con. TCN) để đuổi một con quỷ ra khỏi thân người hay không?  Chúng ta có nên khâm phục và kính trọng người mà chúng ta gọi là Chúa đã nguyền rủa một cây sung khi nó không ra trái lúc trái mùa không?..

   Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị.  Nó đưa đến cho tôi một Chúa mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng.  [12]

     Tại sao một ông Giám mục Tin Lành lại có thể đưa ra những  nhận định tiêu cực về Chúa Giê-su như trên?  Vì ông ta đã đọc kỹ Tân Ước và có những nhận xét về một vài trong số nhiều hành động thiếu đạo đức và thiếu hiểu biết của Giê-su như được mô tả trong Tân Ước.

 Về Đức Phật:

 Sau đây là một số nhận định điển hình về Đức Phật của một số học giả Âu Mỹ:

 1)      H. G. Wells ( 1866-1946), Sử Gia và  Nhà Xã hội học Anh (British historian, socialist.)

     Ðức Phật, qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, năm trăm năm trước Chúa Ki Tô, đã dạy con người đức tính vị tha. Trong một số chiều hướng Ngài rất gần gũi với chúng ta hơn, và đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. Ðức Phật cũng tỏ ra sáng suốt hơn Chúa Christ trong sự quan tâm phục vụ con người và ít mơ hồ đối với vấn đề trường tồn bất tử của kiếp nhân sinh.

  Các bạn thấy rõ Ngài là một nhân vật đơn giản, chân thành, đơn độc, một mình tự lực phấn đấu cho ánh sáng, một nhân vật sống chứ không phải là một huyền thoại.  [13]  

 

2)      Giáo sư Saunders , Tổng Thư ký Văn hóa Y.M.C.A., India, Burma, Ceylon.

    Không khó khăn gì khi chọn lựa đức Phật là một người được tôn sùng trong số những người vĩ đại của nhân loại. [14]

 

3)      Albert Schweitzer (1875-1 965), Học giả người Pháp, Nhà Thần học và Triết Gia, [French Scholar, Theologian and Philosopher, Winner of The Nobel Prize.]

    Ngài đem ý nghĩa những chân lý giá trị trường cữu và thúc đẩy đạo đức tiến bộ không chỉ cho riêng Ấn độ mà cho cả nhân loại. Ðức Phật là một nhà đạo đức vĩ đại kỳ tài chưa từng thấy có trên hoàn vũ. [15]

 

6)  Beatrice Webb (1881-1943), Kinh tế gia và nhà xã hội người Anh [ British Economist, Socialist]

    Về phương diện lô-gíc và đạo đức thì Đức Phật  đứng trên Chúa Ki Tô và triết lý của Đức Phật thì cao hơn những lời giảng dạy trong Tân ước. Không giống như niềm vui sướng thô thiển  vĩnh viễn (trên thiên đường) và sự đầy đọa đời đời (dưới hỏa ngục) của giáo hội Ki-Tô, giáo lý về Nghiệp  thì hòa hợp với những sự thừa nhận của khoa học hiện đại về tính phổ quát của luật nhân quả và tính bền bỉ của nghiệp lực.  [16]

 

7) Giáo sư Max Muller, Học giả người Ðức [A German Scholar].

     Ðức Phật là hiện thân của tất cả các đức hạnh mà Ngài thuyết giảng. Trong thành quả của suốt 45 năm dài hoằng pháp, Ngài đã chuyển tất cả những lời nói của Ngài thành hành động; không nơi nào Ngài buông thả cái yếu đuối của con người hay dục vọng thấp hèn. Luân lý, đạo đức căn bản của đức Phật là toàn hảo nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến[17]

 

8) Abdul Atahiya, một thi nhân Hồi Giáo.

    Nếu bạn muốn thấy người cao quí nhất của loài người, bạn hãy nhìn vị Hoàng đế trong y phục một người ăn xin; chính là Ngài đó, siêu phàm thánh tính của Ngài thật vĩ đại giữa con người. [18] 

 

9) Moni Bagghee, trong cuốn "Ðức Phật Của Chúng Ta"  [Our Buddha]

    Ðiều đáng chú ý nhất nơi đức Phật là sự kết hợp gần như độc nhất của một đầu óc khoa học trầm tĩnh và thiện cảm sâu xa của lòng từ tâm. Thế giới ngày nay ngày càng hướng về đức Phật, vì Ngài là người duy nhất tiêu biểu cho lương tâm của nhân loại.

   Ðức Phật là nhà tiên phong thương yêu nhân loại, và là một triết gia siêu phàm trong nhân phẩm dũng cảm và sáng chói. Ngài có những điều mà chưa ai có thể quên được là Ngài thuyết pháp trong hăng say và nhiệt tình về nguồn kiến thức. Vĩ đại hơn, trí tuệ của Ngài chính là đài gương soi sáng. [19]

 

10) Giám mục Milman. - Bishop Milman:

    Tôi càng ngày càng cảm thấy đức Thích Ca Mâu Ni gần gủi nhất trong tính cách và ảnh hưởng của Ngài, Ngài là Con Ðường, là Chân lý và là Sự sống. [20]  [Đã được các học giả công nhận, không như lời tự tôn của Chúa Giê-su: John 14:6Ta là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống mà ngày nay thiên hạ đã bác bỏ. TCN]

 

III. Giáo Lý Của Chúa Và Của Đức Phật.

 

    Về phương diện giáo lý thì ai cũng biết giáo lý bắt nguồn từ kinh điển của mỗi tôn giáo.  Ki-Tô Giáo thì có cuốn Thánh Kinh gồm Cựu Ước và Tân Ước.  Phật Giáo thì có Thiên Kinh Vạn Quyển.  Kinh điển Phật Giáo thì nhiều và rộng vô chừng nhưng tất cả đều nhất quán, dẫn dắt con người bằng những con đường khác nhau nhưng cùng đi tới mục đích tối hậu là giác ngộ qua sự tu tập bản thân bằng bi, trí, dũng.  Đặc biệt là trong kinh điển Phật Giáo ta không hề thấy những chuyện tàn ác, giết chóc, dâm loạn v..v...  Trái lại trong cuốn được gọi là Thánh Kinh thì đầy rẫy những chuyện ác độc, vô luân, chiến tranh, chém giết, tàn sát tập thể và những giáo lý mâu thuẫn cùng cực v..v..  Đây là một sự kiện bất khả phủ bác.

    Chúng ta hãy tìm hiểu cốt tủy giáo lý của Phật Giáo cũng như của Ki Tô Giáo.  Đối với Ki Tô Giáo thì ngày nay, vì những chuyện ác độc, loạn luân, giết người tàn bạo, cũng như những chuyện hoang đường trong Cựu Ước nên Ki Tô Giáo đã không còn đặt nặng vấn đề dùng Cựu Ước nữa, mà tập trung vào Tân Ước, đặc biệt là vai trò "cứu rỗi" của Giê-su.  Vì thế ngày nay người ta đã cho rằng Ki Tô Giáo đã trở thành "đạo Giê-su" (Jesusism).  Nhưng thực ra, cái mà chúng ta gọi là giáo lý tôn giáo, nghĩa là những điều giảng dạy trong tôn giáo, của Giê-su là giáo lý như thế nào?  Chúng ta hãy đọc nhận định của một học giả Công giáo, Joseph L. Daleiden, trong cuốn The Final Superstition, trg. 174, như sau:

    Có rất ít, nếu có, điều sáng tác độc đáo trong giáo pháp mà người ta cho là của Giêsu.  Giống như chính huyền thoại về Giêsu, những quan điểm mà Giêsu diễn đạt chỉ là một mớ hổ lốn những ngụ ngôn và luân lý mà chúng ta có thể thấy trong những đạo cổ xưa của Ai Cập, Babylon, Ba Tư, Hi Lạp, Phật, Khổng, Ấn Độ...  Một điều rõ ràng:  Ki Tô Giáo, một tôn giáo sinh sau đẻ muộn trong lịch sử các tôn giáo, chỉ cóp nhặt (đạo văn) những quan điểm, ý kiến của Do Thái Giáo và các tôn giáo gọi là dân gian.  Trong cuốn "Nguồn Gốc Luân Lý Trong các Phúc Âm", Joseph McCabe (Một Linh Mục Công giáo. TCN) đã trích dẫn những quan điểm luân lý trong Phúc Âm mà người ta cho là của Giêsu song song với những quan điểm luân lý tương đương và y  hệt của các tác giả Do Thái và dân gian. [21]

    Nếu cho rằng những lời rao giảng cóp nhặt của Giê-su về luân lý và đạo đức là "giáo lý của đạo Giê-su" thì đó là giáo lý của dân gian, của các tôn giáo khác có trước đạo Giê-su, trong đó có Phật Giáo, chứ đâu có phải của Giê-su?   Đọc Tân Ước, có giáo lý nào của Giê-su mà chúng ta không thấy trong các tôn giáo khác hoặc trong dân gian?  Tuyệt đối không có.

    Còn cốt tủy giáo lý của Đức Phật là gì?  Giáo lý đặc thù của Đức Phật bao trùm mọi mặt trong thế gian và nằm trong ba tạng Kinh, Luật, và Luận, thích hợp với mọi căn trí khác nhau của người đời, từ bình dân đến thượng trí thức.  Cho nên khó có thể nói cốt tủy giáo lý của Đức Phật là gì trong một hay vài câu.  Tuy nhiên, chúng ta có thể miễn cưỡng thâu tóm giáo lý của Đức Phật trong hai phần: Phần Tin và Phần Thực Hành.

    Phần Tin nằm trong "Kinh Nền Tảng Đức Tin" thường được biết là Kinh Phật thuyết cho người dân Kalama (Tỳ Kheo Thích Nhật Từ, Kinh Tụng Hằng Ngày, Đạo Phật Ngày Nay, Phật Lịch 2546, trang 98-99), mà tôi đã trích dẫn trong phần đầu.

    Phần Thực Hành giáo lý Phật Giáo có thể tóm gọn vào 4 câu trong Kinh Pháp Cú:

 -          Chư ác mạc tác (Việc ác đừng làm: tinh thần của Tạng Luật)

-          Chúng thiện phụng hành (Việc thiện phải làm: tinh thần của Tạng Kinh)

-          Tự tịnh kỳ ý (Hãy giữ cho tâm ý thanh tịnh: tinh thần của Tạng Luận)

-          Thị chư Phật giáo (Đó là lời chư Phật dạy)

    Chúng ta thấy rõ, Kinh Kalama đã giữ cho người Phật tử khỏi rơi vào vòng cả tin, mê tín, dị đoan.  Còn 4 câu trong Kinh Pháp Cú là những chỉ đạo tổng quát cho con người trên đường tu tập, tiến đến giác ngộ.  Chúng ta nên để ý là, tuy giáo lý của Đức Phật rất rộng, thích hợp cho đủ mọi căn trí của con người, nhưng tất cả đều nhất quán,  phù hợp với nhau, và không hề có sự mâu thuẫn. 

    Trái lại, trong Kinh Thánh có đầy những mâu thuẫn và có những đoạn không thể đọc được. Những nhà truyền giáo đạo Chúa hầu hết thuộc loại bất lương trí thức.  Họ thường chọn những câu trong Thánh Kinh thích hợp trong việc truyền đạo, nghĩa là mê hoặc lòng người, và rồi các tín đồ cũng chỉ biết vậy nên chỉ nhắc lại như con vẹt những gì mình được nhồi vào đầu mà không bao giờ biết đến những câu có ngay trong Thánh Kinh nhưng cực kỳ mâu thuẫn với những lời giảng của các bậc chăn chiên.  Điều này chúng ta có thể chứng minh dễ dàng nếu chúng ta chịu khó đọc Tân ước.  Vậy thật ra cốt tủy “giáo lý” của Giê-su là gì?  Các học giả đã phân tích kỹ Tân Ước và đưa ra vài nhận định sau đây:

 William Hirsch:  "Tất cả những điều Giê-su nói, giáo lý, bài giảng đều đưa tới một đơn từ: "Ta"" [22]

 Hermann Samuel Reimarus:  “Tất cả những điều rao giảng của Giê-su có thể nhận ra rõ ràng.  Chúng nằm trong hai câu có ý nghĩa y hệt nhau: “Hãy thống hối, và tin vào Kinh Thánh” hoặc, ở một nơi khác “Hãy thống hối, vì Nước Thiên Đàng sắp tới” [23]

    Vì "cái Ta" của Giê-su bắt nguồn từ một tâm bệnh hoang tưởng như chúng ta đã biết ở trên, cho nên trong Tân Ước có rất nhiều "cái Ta" tự tôn của Giê-su.  Sau đây chỉ là vài trích dẫn những lời của Giê-su trong Thánh Kinh với vài lời phân tích của tôi dựa trên lô-gic.

 John 6:35: Ta là thức ăn của đời sống.

John 8:12, 9:5: Ta là ánh sáng của thế gian

John 10: 11, 14: Ta là người chăn chiên chí thiện 

John 11:25: Ta là Sự Sống Lại và là Sự Sống

John 14:6:  Ta là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống

John 10:30: Ta với Cha Ta là một.

John 10:36: Ta là Con Thiên Chúa

John 12:49:  Ta không nói theo ý Ta; Chính người Cha sai Ta xuống đây đã cho lệnh Ta phải nói những gì và nói như thế nào.

     Chúng ta có thấy giáo lý nào ở đây không?  Đây không phải là những lời dạy có tính cách giáo dục đạo lý, mà chỉ là những lời tự nhận bắt nguồn từ một ảo tưởng.  Những "cái Ta" của Giê-su đã đặt trước chúng ta khá nhiều vấn đề, và bắt buộc chúng ta phải có một sự chọn lựa dứt khoát, không thể nhập nhằng.

   Thật vậy, Ta là Con Thiên Chúa khẳng định vai vế của Giê-su đối với Thiên Chúa, và lẽ dĩ nhiên hoàn toàn mâu thuẫn với Ta với Cha Ta là mộtDù chúng ta có nhắm mắt tin bừa thuyết điên rồ toán học (mathematical insanity)  Chúa Ba Ngôi của giáo hội Công giáo đưa ra nhiều thế kỷ  sau khi Giê-su đã chết đi chăng nữa thì các câu trên cũng còn đưa tới vài vấn đề khác.  Thí dụ:

   Chúng ta hãy xét đến câu John 12: 49 ở trên: Ta không nói theo ý Ta; Chính người Cha sai Ta xuống đây đã cho lệnh Ta phải nói những gì và nói như thế nào.

   Thứ nhất, câu trên chứng tỏ Giê-su chỉ tự nhận, vì không có bất cứ bằng chứng nào chứng tỏ đó là sự thật, là một sứ giả của Thiên Chúa, được sai xuống trần để nói cho dân Do Thái, tuyệt đối không phải cho dân Việt,  những gì mà Thiên Chúa muốn nói.  Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với lời tự nhận khác của Giê-su: John 10:30: Ta với Cha Ta là một.

   Thứ nhì, nếu chúng ta chấp nhận câu John 12: 49 ở trên như là sự thực, thì những lời Giê-su nói đều là những lời của Thiên Chúa.  Mà Thiên Chúa thì không thể sai lầm, vì Thiên Chúa, theo niềm tin của các tín đồ Ki-Tô, là bậc toàn năng, nghĩa là làm gì cũng được, và toàn trí, nghĩa là cái gì cũng biết, kể cả quá khứ vị lai, hai thuộc tính của Thiên Chúa có tính cách loại trừ hỗ tương (mutual exclusive), nghĩa là có cái này thì không thể có cái kia, mà giáo hội đã thành công cấy vào đầu óc tín đồ từ khi còn nhỏ, khi họ chưa phát triển về trí tuệ cũng như về thân xác.  Điều  này khiến chúng  ta bắt buộc phải chọn một trong hai điều sau đây chứ không thể chọn cùng lúc cả hai. 

 

  1. Nếu những lời Giê-su nói không hề sai lầm, đúng trong mọi thời đại, thì vai trò Thiên Chúa của Giê-su có thể tạm chấp nhận được. 
  2. Nếu trong những lời nói và hành động của Giê-su có những sai lầm thì Giê-su không thể nào là Thiên Chúa. 

    Nhưng Thánh Kinh lại chứng tỏ rằng Giê-su có rất nhiều sai lầm.  Vậy thực ra những lời nói của Giê-su cũng chỉ là những lời nói của một người thường, với sự hiểu biết giới hạn của một người thường, ở trình độ của một người dân thường trong vùng dân Do Thái cách đây 2000 năm, và sống với một ảo tưởng.  Và như vậy, Giê-su đã phạm tội nói láo và lừa dối, vì ông ta khẳng định rằng những lời nói của ông là của Thiên Chúa không thể sai lầm.  Kết luận: Giê-su chỉ có thể đóng một trong hai vai trò: Thiên Chúa hay một người thường phạm tội nói láo và lừa dối chứ không thể cùng lúc cả hai.  Vậy vai trò nào là vai trò đích thực của Giê-su? 

   Điều này không khó, chúng ta chỉ cần mở Thánh Kinh ra đọc thì sẽ thấy ngay.  Bác sĩ  Nguyễn Văn Thọ cũng như Mục sư Rubem Alves, dựa trên Thánh Kinh, đều viết rằng Giê-su tin và khẳng định rằng Moses (Môise) là tác giả của Ngũ Kinh trong khi thực sự thì Moses không viết.  Huyền thoại về Moses được viết ra khoảng 3, 4 trăm năm sau khi Moses đã chết, trong 2 phẩm Xuất Ê-Díp-Tô (Exodus) và Dân Số (Numbers). Đây là kết quả nghiên cứu của những chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh mà chính giáo hội Công giáo cũng phải chấp nhận. Bằng chứng?  Tên các vị Vua xứ Edom viết trong Sáng Thế 36 là những vị Vua sống trong những thời kỳ sau khi Moses đã chết từ lâuTrong Phục Truyền 34 có kể cả chuyện Moses chết ra làm sao, chẳng lẽ Moses lại tả chuyện chính mình chết?  Cho nên Moses không thể là tác giả của Ngũ Kinh.  Vậy, nếu Giê-su đã sai lầm về một sự kiện lịch sử nhỏ nhặt như trên, không biết đến cả tác giả Ngũ Kinh là ai mà lại cho đó là Moses,  thì làm sao chúng ta có thể tin được những lời nói về những chuyện trên trời, và nhất là những lời tự tôn của Giê-su, cho mình chính là  Thiên Chúa toàn năng, toàn trí, và những lời đó chính là của Thiên Chúa?  Kết luận, những câu khẳng định về cái "Ta" của Giê-su chẳng qua cũng chỉ là những điều hoang tưởng bệnh hoạn, không khác gì những hoang tưởng của David Koresh, James Jones và vô số người khác trong thời đại này.

   Mặt khác, nếu Giê-su tự cho mình chính là Thiên Chúa, Thiên Chúa ở đây phải hiểu là Thiên Chúa trong Cựu Ước, thì Giê-su lại bị kẹt trong vấn đề đạo đức.  Vì trong Cựu Ước, Thiên Chúa được mô tả như một vị Thần chiến tranh, ác độc, ghen tuông, ưa ủng hộ dân này chém giết dân kia.  Thật vậy, Thiên Chúa trong Cựu Ước dạy dân Israel của Ngài,  Exodus 3, 22: "Vậy các ngươi sẽ ăn cướp của người Ai cập" và dân ngài đã tuân theo lệnh của Ngài như được kể trong Exodus 12, 35-36; Ngài dạy Moses, Numbers 31, 2: "Hãy báo thù dân Midian  cho dân Israel"  Moses tuân lệnh dạy dân mình, Numbers 31, 3: "Các ngươi hãy mang binh khí đi đánh dân Midian để  trả thù cho Thiên Chúa"  và Numbers 31, 7:  “chúng giao chiến cùng dân Midian, đúng như lời Chúa ra lệnh cho Moses, giết sạch mọi người Nam";  Và Numbers 31,  9-11: dân Israel bắt tất cả đàn bà Midian, và con nhỏ của họ, và cướp hết thảy súc vật, bày chiên, và của cải của họ.  Chúng cũng đốt sạch những thành phố, thành trì mà dân Midian ở.  Và đem theo tất cả đồ cướp được, người và súc vật" .  Đọc tiếp những phần sau trong chương Numbers này chúng ta thấy Moses còn ra lệnh cho thuộc hạ giết hết đàn bà và con trai chỉ để lại trinh nữ.  Sau đó là mục chia chác những "chiến lợi phẩm", Thiên Chúa cũng có phần như sau: 675 con chiên, 72 con bò, 61 con lừa, và 32 trinh nữ. Một Thiên Chúa như vậy có đáng để cho chúng ta kính trọng hay không, khoan nói đến việc thờ phụng.  Thờ phụng Thiên Chúa hay thờ phụng Giê-su thì cũng chẳng khác gì nhau vì Giê-su đã khẳng định ông chính là Thiên Chúa.  Phải chăng vì vậy mà Giám Mục John Shelby Spong đã thú nhận: Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị.  Nó đưa đến cho tôi một Thiên Chúa mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng.

      Như chúng ta sẽ thấy, nhiều bằng chứng ngay trong Thánh Kinh chứng tỏ Giê-su có đầy dẫy những sai lầm và có một kiến thức rất giới hạn, tính tình dễ nổi nóng một cách bất thường v..v.. Vậy chúng ta có thể chấp nhận những lời tự tôn của Giê-su như  "Ta với Cha Ta là một" hay "Ta là  Con Thiên Chúa", "Ta là con đường, là sự thật, là sự sống"  v..v.. được hay không?    Vậy mà Giê-su dám tự nhận:

    John 8, 12: Ta là ánh sáng của thế gian.

    Ánh sáng gì của thế gian?  Ánh sáng soi sáng trí tuệ và đạo đức con người?  Tuyệt đối không phải.  Đó là ánh sáng, thật ra là sự u tối, của một đức tin mù quáng, không cần biết, không cần hiểu.  Lịch sử thế gian cho thấy, vì tin vào "ánh sáng thế gian" của Giê-su, Công giáo đã chìm đắm trong bóng tối dày đặc của 2000 năm đầy tội ác và vẫn còn đang tiếp tục mưu toan lùa nhân loại vào cảnh tối tăm nô lệ cho một định chế thế tục độc tài tham lam vô độ mang danh nghĩa tôn giáo.

    Như trên đã nói, giới chăn chiên trong các giáo hội Ki-Tô, Công giáo cũng như Tin lành, thường trích dẫn những điều vụn vặt trong Tân Ước mà họ cho đó là những lời hay ý đẹp của Giê-su để giảng dạy cho tín đồ, phần lớn những lời này thuộc loại khẳng định tự tôn, với mục đích đề cao, thần thánh hóa Giê-su trước đám tín đồ vốn không bao giờ đọc Thánh Kinh và cũng không đủ trình độ để phân biệt chân giả.  Họ không bao giờ đưa ra những câu chứng tỏ "lời nói không đi đôi với việc làm" và rất mâu thuẫn của Giê-su.  Thực chất của Giê-su là chỉ nói ngon nói ngọt ngoài miệng, còn những hành động của Giê-su thì không bao giờ làm theo lời nói, trái lại còn trái ngược hẳn với những lời nói của mình.  Do đó Giám Mục Spong đã phải đưa ra một nhận định: "Có nhiều bằng chứng trong Thánh Kinh chứng tỏ Giê-su ở Nazareth là con người thiển cận, đầy thù hận, và ngay cả đạo đức giả" .  Chứng minh?

 

1.   Các nhà truyền giáo thường lấy câu: " Hãy lấy cây sà trong mắt ngươi ra trước rồi hãy lấy cây kim trong mắt người khác ra sau. Đừng phê phán ai để ngươi cũng không bị phê phán." để ngăn chận sự phê phán của con chiên, và các con chiên ngày nay cũng thường mang câu  Đừng phê phán ai để ngươi cũng không bị phê phán để bảo vệ tôn giáo của mình.  Nhưng họ không biết rằng, chính Chúa của họ thường phê phán người khác: Matthew 23: 13: Khốn cho giới dạy luật và Biệt Lập, hạng đạo đức giả;  Matthew 23:15: Khốn cho các ông, hạng giả nhân giả nghĩa;  Matthew 23: 16: Khốn cho các ông, hạng lãnh đạo mù quáng và còn nhiều lời phê phán tương tự khác đầy dãy trong Tân Ước.

   Vậy trước khi phê phán họ, Chúa Giê-su đã lấy cây sà trong mắt mình ra chưa?

 

2.   Các bậc chăn chiên và con chiên thường trích dẫn câu của Chúa:  Matthew 5: 44: "phải  yêu  kẻ thù  và  cầu nguyện cho người khủng bố hành hạ các con",  coi đó như là giáo lý tuyệt luân của Chúa mà các tín đồ đạo Chúa chẳng bao giờ tuân theo.   Nhưng họ không bao giờ nhắc đến những câu phản ánh sự vô cùng đạo đức giả của Chúa:  Matthew 12:30: Kẻ nào không theo ta, ở  với ta, là chống đối ta.,  và coi những người không tin và tuân phục Giê-su là kẻ thù và dạy môn đồ:  Luke 19:27Hãy  mang  những  kẻ  thù  của  Ta  ra  đây, những người không muốn Ta  ngự  trị trên họ, và giết chúng ngay trước mặt Ta.

   Giê-su cũng còn ra lệnh cho các tông đồ:

   Matthew 18:6: Nếu ai làm cho một trong những đứa trẻ đã tin Ta phạm tội, thì  tốt hơn cho hắn là buộc một cối đá vào cổ hắn  và ném hắn xuống đáy biển cho chết đuối.

   Phạm tội gì?  Thánh Kinh tiếng Việt dịch "to sin" là "mất đức tin".  Không tin Giê-su hay mất đức tin về Giê-su có phải là một tội hay không?  Ngày nay, có biết bao nhiêu người mất đức tin, bỏ đạo, vì biết đến thực chất của huyền thoại về Giê-su cũng như về nền thần học ngụy tạo của Ki Tô Giáo qua những tác phẩm nghiên cứu của các bậc học giả trong giáo hội cũng như ngoài giáo hội nên đã tỉnh ngộ.  Đây là một quan niệm vô cùng ác độc và man rợ  cách đây 2000 năm của một người Do Thái mà các tín đồ được dạy phải coi như Chúa và  Chúa đó là "Chúa lòng lành vô cùng",  hay “Chúa yêu thương các bạn”.  Trong Tân Ước có nhiều đoạn mô tả Giê-su rất hận thù những người không tin ông ta và đưa ra những lời nguyền rủa rất cay nghiệt tương tự như trên. 

    Học giả Công giáo Joseph L. Daleiden đã đưa ra nhận định sau đây: 

    Con người hành động dã man phần lớn là bị ảnh hưởng đạo đức trong nền văn hóa của mình.  Đạo đức của Tân Ước là trả thù bất cứ người nào bác bỏ Ki Tô Giáo.  Tuy những người viết Tân Ước một mặt viết Giê-su dạy phải tha thứ, Ông ta thực ra có một thái độ cực kỳ bất khoan nhượng đối với những người không chấp nhận ông ta là đấng cứu rỗi của họ. [24]

    Chúng ta hãy kể thêm vài điều Giê-su nói một đàng làm một nẻo hay hoàn toàn mâu thuẫn với nhau:

 

 3.  Chúa Giê-su dạy: Matthew  5: 22: "Người nào nguyền rủa anh em sẽ bị xuống hỏa  ngục"     nhưng  chính  Giê- su lại đi nguyền rủa những người không chịu theo Giê-su:

   Luke 8: 24: Nếu ngươi không tin ta là con Thượng Đế, ngươi sẽ chết trong tội lỗi của ngươi.

   Matthew 12: 34Ôi  thế  hệ của  những loài  rắn  độc, ác như các ngươi làm sao có thể nói những lời tốt lành?

   Matthew 23: 33: Ngươi là loài rắn, ngươi là thế hệ của những rắn độc, làm sao các ngươi thoát khỏi hỏa ngục?

   Vậy bây giờ Chúa Giê-su đang ở đâu?  Dưới hỏa ngục hay trên thiên đường?

 

4.   Chúa Giê-su dạy, Matthew 23: 11-12: “Các con càng khiêm tốn phục vụ người thì càng được tôn trọng... Ai tự đề cao sẽ bị hạ thấp, ai khiêm tốn hạ mình sẽ được nâng cao”, nhưng những “cái Ta” của Chúa ở trên không chỉ là tự đề cao mà là tự tôn một cách quá cống cao ngã mạn.   Cái tính khiêm tốn mà Giê-su dạy các môn đồ, Giê-su để vào đâu mà lại đưa ra những lời tự nhận quá huênh hoang như trên?

 

5.   Matthew 6: 1:  Đừng  làm  những việc  thiện  trước mặt  mọi người, để cho họ thấy.  Nếu không các ngươi không thể được phần thưởng của Cha các ngươi trên trời. 

   Matthew 5: 16: Hãy để cho ánh sáng của các ngươi tỏa sáng trước mọi người, để cho họ thấy những việc lành thiện của các ngươi và vinh danh Cha các ngươi ở trên trời.

 

6.   John 5: 31:  Nếu ta làm chứng cho chính ta, thì sự làm chứng của ta không đúng sự thật.

      John 8 : 14:  Tuy ta tự làm chứng cho chính ta, nhưng sự làm chứng của ta đúng là sự thật.

 

7.   John 12: 47:  Và người nào nghe những lời ta nói mà không tin, ta sẽ không phán xét họ; vì ta xuống đây không phải để phán xét thế giới mà để cứu thế giới.

   John 9: 39: Để phán xét ta đã xuống trần, và những người nào không nhìn thấy sẽ nhìn thấy, và những người nào nhìn thấy có thể bị làm cho mù. 

 

8.  John 10: 30:  Ta với Cha ta là một.

     John 14: 28: Cha ta vĩ đại hơn ta

    Nói tóm lại, khi tìm hiểu về thực chất con người của Giê-su, chúng ta cần giữ thái độ: "Đừng vội tin những gì các bậc chăn chiên nói về Giê-su trong các nhà thờ, mà hãy nhìn kỹ những gì Giê-su nói và làm trong Thánh Kinh".  Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể có những nhận định trung thực và chính xác về Giê-su, do đó tránh được những sự mê hoặc của những luận điệu thần học về những thuộc tính thần thánh của Giê-su, một nền thần học của giới giáo sĩ đưa ra, chỉ cốt để tự tạo quyền lực thế gian trên đám tín đồ thấp kém, khai thác sự yếu kém tinh thần và lòng mê tín cả tin của họ.  

    Đi sâu vào vấn đề, xét về mặt trí tuệ cũng như đạo đức thì nhiều chuyện trong Tân Ước chứng tỏ tư cách của Giê-su còn kém cả nhiều người thường nữa.  Thí dụ như trường hợp Giê-su gọi người đàn bà phi Do Thái là chó, hay đuổi hai con quỷ ra khỏi người mà Giê-su cho là bị quỷ ám trong khi họ chỉ bị bệnh động kinh vì trong người thiếu chất “glutamic acid”, rồi cho chúng nhập vào một đàn cừu 2000 con rồi bắt cả đàn cừu nhào xuống sông chết đuối hết, hay nguyền rủa một cây sung để nó không bao giờ ra trái nữa chỉ vì trái mùa nó không có trái để cho Giê-su ăn khi đang đói, trong khi Giê-su có thể biến nước thành rượu, hay biến một ổ bánh mì thành trăm ổ bánh mì v…v…

    Tất cả những điều mà người ta cho là “giáo pháp” của Giêsu, nghĩa là những lời dạy về luân lý đạo đức con người,  được gói ghém trong Bài Giảng Trên Núi (Sermon on the Mount).  Trong bài giảng này có một phần mà các Linh Mục thường mang ra giảng trong nhà thờ, và do đó các tín đồ thường biết dưới tên "Phúc Thật Tám Mối" và ca tụng với người ngoại đạo là “tuyệt vời”, tuy nội dung chẳng có gì đặc biệt vì tất cả đều là những điều thông thường trên thế giới

   Về bài giảng trên núi này, Kenneth C. Davis viết như sau trong cuốn Don't Know Much About The Bible: Everything You Need to Know About the Good Book But Never Learned:

    "Một trong những bài giảng chính của Giêsu là một bài dài mà Augustine gọi là "Bài Giảng Trên Núi."  "Bài Giảng Trên Núi" được trình bày toàn phần trong Phúc Âm Matthew (hơn 100 câu) và dưới dạng một bản rút ngắn trong Phúc Âm Luke.  Trong Luke bài giảng này tương tự như trong Matthew, tuy ngắn hơn (khoảng 30 câu), và được nói ở  đồng bằng khi Giêsu cầu nguyện xong và xuống núi.

   Những sự khác nhau trong hai bài giảng này đã đưa đến sự đồng thuận của các học giả là bài giảng trong Matthew là kết quả góp nhặt từ nhiều bài giảng của Giêsu thành một bài dài có thể nhớ được.  Nói khác đi, đó là những lời giảng của Giêsu được ghi lại một cách trung thực và là "Những Lời Hay Ý Đẹp Nhất của Giêsu" được gom lại thành một bài." [25]

     Chúng ta hãy đi  vào vài chi tiết trong Tân Ước để phân tích xem bài giảng đó hay như thế nào?  “Bài giảng trên núi” chiếm 3 đoạn trong Phúc Âm Matthew: 5,6, và 7, và dạng rút ngắn trong Phúc Âm Luke 6:17-45.  Những trích dẫn sau đây là từ Phúc Âm Luke.

   Một trong những điều giảng dạy của Giêsu mà các tín đồ cho là hay nhất là câu mà các nhà truyền giáo gọi là "Luật Vàng" (Golden Rule), Luke 6: 31: "Hãy làm cho người khác điều các con muốn người ta làm cho mình".  Nhưng đây không phải là một luật do Giêsu sáng tác, vì chúng ta  biết rằng, hơn 500 năm trước khi Giêsu sinh ra đời thì Đức Khổng Tử cũng đã nói luật trên nhưng dưới một dạng khác: "Những điều mà mình không muốn người ta làm cho mình thì đừng có làm cho người khác" (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân).  Và trong kinh Talmud của Do Thái cũng có câu (Sabbath 31: 1):  "Cái gì mà mình không thích thì đừng có làm cho người khác" (What thou does not like, do thou not to thy neighbor). 

   Do đó, Luật Vàng mà các tín đồ  Ki Tô thường cho là của Giêsu, thật ra chỉ là cóp nhặt tư tưởng đã có từ trước trong dân gian và thay đổi câu văn từ tiêu cực (negative) sang tích cực (positive).  Nhưng cũng vì thế mà Luật Vàng của Giê-su không được hoàn hảo, vì điều mà mình muốn người khác làm cho mình chưa chắc đã là những điều đúng, lành thiện v..v.. mà có thể bắt nguồn từ tham dục, hay si ngốc.  Và cũng chưa chắc đó là những điều mà người khác cần đến, hoặc muốn mình làm cho họ.  Trái lại, luật của Đức Khổng Tử  có tính cách luân lý rộng lớn, khuyên ngăn chúng ta không nên làm cho người khác những điều họ có thể không muốn, vì chính mình cũng không muốn những điều này.  Đây là một cách xử thế khôn ngoan, tránh gây bất hòa, vì "đừng làm" ngụ ý thận trọng, trong khi "hãy làm" thường có tính cách áp đặt hay cưỡng bách.  Chính sách cưỡng bách người ngoại đạo vào đạo là theo cái “Luật vàng” (sic) này của Giê-su.

   Charles Bradlaugh, một tư tưởng gia tự do (freethinker) nổi tiếng của Anh Quốc, đã phân tích những điều giảng dạy của Giêsu trong một bài viết đặc sắc: Giêsu Giảng Dạy Những Gì?.  Độc giả có thể lấy bài này trong Internet (www.infidels.org).  Ở đây, tôi không có ý định phê bình toàn thể "Bài Giảng Trên Núi" cho nên sau đây tôi chỉ phân tích tiếp vài lời dạy của Giê-su mà một số trí thức Công giáo cho đó là phản ánh "đỉnh cao trí tuệ của Chúa":

 Mathhew 5:3: Phúc cho kẻ có tinh thần yếu kém, vì nước thiên đàng thuộc về họ.

    Bình luận về câu trên, Charles Bradlaugh viết:

    Tinh thần yếu kém có phải là đức tính chính mà Giê-su đặt lên cao nhất trong những điều giảng dạy của ông ta hay không?  Thực ra đó có phải là một đức tính không?  Chắc chắn là không.  Tinh thần dũng cảm, tinh thần lương thiện, tinh thần đầy đủ những mục đích công chính, đó là những đức tính; tinh thần yếu kém là một tội ác... [26]

    Tại sao Charles Bradlaugh lại viết như vậy?  Chẳng có gì là khó hiểu.  Giả thử bạn là một người có tinh thần yếu kém và bị người ta tát cho một cái vào má.  Trong trường hợp này, Giê-su dạy bạn phải hành động như thế nào? Luke 6:29 đã vạch rõ: "Nếu các con bị ai tát má này, cứ đưa luôn má bên kia.".  Đây có phải là điều thực tế hay không.  Tôi không khuyên bất cứ bạn đạo nào làm cuộc thí nghiệm sau đây: đến trước mặt "Hồng Y thiết giáp" Ratzinger, nay là Giáo hoàng Benedict XVI,  và tát cho ông ta một cái xem các ông ấy phản ứng như thế nào, có đưa má kia cho bạn tát thêm hay không.  Dù chúng ta có lòng nhân từ đến đâu thì, nếu chúng ta không tát trả lại thì ít ra cũng phải có biện pháp ngăn chận để cho khỏi bị tát thêm.  Dung dưỡng sự bạo hành là đồng lõa với bạo hành.  Cho nên Charles Bradlaugh đã viết "tinh thần yếu kém là một tội ác", tội ác đối với xã hội, tội ác đối với nhân loại, vì đã khuyến khích sự bất công và bạo hành.

 Luke 6: 20: "Phúc cho các con đang nghèo khổ, vì Nước Trời thuộc về các con"; Luke 6: 24: "Nhưng khốn cho các con đang giàu có, vì các con đã được an ủi rối"

     Đây có phải là giáo lý về luân lý đạo đức hay không, hay  chỉ là những lời hứa hẹn vô trách nhiệm.  Có ai biết "nước Trời" ở đâu?  Người nghèo khổ, chỉ vì lý do duy nhất là đang nghèo khổ, được hứa hẹn một nước Trời chỉ có trong đầu óc bất bình thường của Giê-su.  Người giàu có, chỉ vì lý do duy nhất là đang giàu có, bị Chúa nguyền rủa.  Công bằng và bác ái ở chỗ nào?

   Thực tế là ở trên đời này có ai muốn mình nghèo khổ đâu.  Vì hoàn cảnh nên nghèo khổ và nếu có lòng dũng cảm, có ý chí, chăm chỉ học hành, làm lụng thì con người có thể vượt qua sự nghèo khó.  Nhưng cái “Nước Trời” của Giê-su đã được những nhà truyền giáo xảo quyệt tận dụng để mê hoặc những người nghèo khổ đầu óc thấp kém.  Và họ đã thành công.

   Mặt khác, nếu lời của Giê-su như trên là đúng thì trong Công giáo, từ Giáo Hoàng trở xuống cho tới các Linh Mục, không ai có thể lên thiên đường được, vì đối với lớp dân nghèo khổ, thì các giới chức trong giáo hội toàn là những người giàu có, dư ăn dư mặc.  Tài sản của Giáo hội Công giáo Hoàn Vũ (Vatican) lên tới hàng ngàn tỷ đô la, và các giáo hội địa phương cũng chỉ vơ vét của cải thế gian, làm giàu trên sự đói khổ của đám cùng đinh.

  Người Việt Nam chúng ta có những câu: "Bần cùng sinh đạo tặc" hay "Đói ăn vụng, túng làm càn".  Giê-su chắc không biết đến những câu này nên mới phát ngôn như trên.

   Phê bình hai câu trên, Charles Bradlaugh viết:

     Giêsu đưa ra hình ảnh của một người xuống địa ngục, cái tội duy nhất của người này là giàu có; và một người khác lên thiên đường, đức tính duy nhất của người này là nghèo khổ.  Sau đó Giêsu còn khẳng định là: "Người giàu vào Nước Trời thật khó.  Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Trời." (Luke 18: 25)  Ý định duy nhất của một giáo lý như vậy có thể là làm cho người nghèo khổ an phận nghèo khổ trong đời sống này trong hi vọng sẽ được đền bù tốt hơn trong đời sau.  Có thật là tốt đẹp  khi ta an phận với sự nghèo khó hay không?  Có phải là tốt hơn nhiều nếu chúng ta tìm hiểu nguyên do của sự nghèo khổ để tìm cách giải quyết vấn đề hay ngăn chận đừng để cho sự nghèo khổ xảy ra hay không? [27]

    Tất cả các quốc gia trên thế gian này đều cố gắng làm sao để cho dân giàu nước mạnh.  Vậy có ai tin theo lời Chúa đâu?  Điều hiển nhiên là những người nghèo khổ nhiều khi đến độ không có cơm ăn áo mặc.  Cảnh tượng này xảy ra khắp nơi trên thế giới.  Không có cơm ăn thì đói.  Đối với những người này thì Giê-su dạy ra sao?

 Luke 6: 21: "Phúc cho các con đang đói, rồi các con sẽ no";  Luke 6:25: "Khốn cho những kẻ đang no, Vì các ngươi sẽ bị đói"

    Trên thế gian này, thật sự có ai muốn mình đói để được Giê-su ban phúc cho không?  Chúng ta thấy trước mắt những cảnh đói khổ ở khắp nơi trên thế giới, nhất là ở những nơi như Ethiopia, Rwanda, Congo v..v..  Hàng triệu người đói này có ai cần đến cái "phúc" của Giê-su ban cho hay cần đến cơm gạo, bánh mì để sống còn?  Giê-su chỉ hứa hão.  Bao giờ no?  Ông ta không hề khẳng định.  Bình luận câu trên, Charles Bradlaugh viết:

      Giêsu dạy những gì?. "Phúc cho các con đang đói, rồi các con sẽ no". Ông ta không nói bao giờ thì sẽ được no.  Hiển nhiên là thời điểm sẽ no đã được hoãn lại cho đến khi con người không còn dạ dày đâu để mà đầy bụng.  Không phải là trong đời sống này mà người đói sẽ no. [28]

    Giê-su cũng còn dạy:

 4.  Luke 6: 21: "Phúc cho các con đang than khóc, rồi các con sẽ vui cười"; Luke 6:25: "Khốn cho những kẻ đang cười, vì các ngươi  sẽ than khóc."

    Thật  vậy sao?  Bao giờ thì cười? và bao giờ thì than khóc?  Con người ai chẳng có những lúc vui, lúc buồn.  Khi gặp chuyện mừng thì vui thì cười, khi gặp chuyên bất hạnh thì than thì khóc.  Có ai cười mãi hay khóc mãi đâu?  Những nạn nhân của Giáo hội Công giáo trong ngục tối, bị tra tấn dã man trong thời Trung Cổ vì không tin Chúa, tất nhiên phải than khóc rồi, họ có được "phúc" của Chúa hay không? 

   Thật tôi không hiểu trong những lời dạy trên của Giê-su hay ho ở chỗ nào mà các tín đồ Công giáo khen nức khen nở là bài giảng  trên  núi thật là tuyệt  vời , nhất  là  đoạn  nói về "Phúc thật tám mối". 

   Chẳng thế mà Charles Bradlaugh đã đưa ra nhận định:

    Giêsu dạy: Những người nghèo, đói, khốn khổ, sẽ được ân sủng của Thiên Chúa, nhưng ân sủng này chỉ tới khi họ đã hết nghèo, hết đói, hết khốn khổ (nghĩa là đã chết. TCN).  [29]

    Trên đây chỉ là vài trích dẫn từ Thánh Kinh những "lời hay ý đẹp" điển hình của Giê-su.  Dựa vào những tư tưởng có tính cách mạ lị đầu óc con người này, các nhà truyền giáo đi xâm lăng các nước chậm tiến cũng đưa ra luận điệu hứa hẹn lừa dối: "nghèo khổ là do ý Chúa", và khuyến khích các tín đồ hãy chịu khó an phận như dân Do Thái ngày xưa, cứ giữ niềm tin ở Chúa rồi sẽ có ngày Chúa sẽ đoái thương và sẽ được ân sủng của Chúa.  Chẳng biết cái ân sủng này mặt mũi nó ra làm sao. vì từ xưa tới nay chưa có ai, kể cả Giê-su,  từ cõi chết trở về để mà cho bàn dân thiên hạ biết cái ân sủng đó nó như thế nào.

       Trong  cuốn  Tiếng  Kêu  Than  Của  Người Dân  Penny Lernoux viết:

    Những nhà truyền giáo ngoại quốc góp phần nhồi vào đầu óc dân bản xứ ý tưởng là họ nghèo và ngu dốt là do ý muốn của Thiên Chúa.  Như Tổng Giám Mục ờ Lima bảo các thổ dân rằng: "Nghèo khổ là con đường chắc chắn nhất đi tới hạnh phúc." người thổ dân nào hay dân Phi Châu nào mà liều lĩnh nghi ngờ điều dạy khôn ngoan đó bằng cách chống lại hệ thống đều bị giết ngay... Giáo Hội Công giáo phải gánh rất nhiều trách nhiệm về tình trạng này. [30]

    Chúng ta hãy tiếp tục xét đến lời dạy của Giê-su trong “Phúc thật tám mối” :

 5.   Luke 6: 22-23: Phúc cho các con khi bị người ta ghét, xua đuổi, nhục mạ, bêu xấu tên tuổi vì Ta.  Ngày đó, các con hãy lấy đó làm điều mừng và vui mừng nhảy múa, vì sẽ được phần thưởng lớn dành sẵn trên trời.  Ngày xưa các nhà tiên tri cũng từng bị đối xử như thế.

    Theo đúng lời Chúa không thể sai lầm như trên thì các tín đồ Ki Tô, Công giáo cũng như Tin Lành, nên mừng khi bị người ta ghét mới phải, vì đó chính là phúc của Chúa ban cho họ.  Bị người ta ghét là con đường chắc chắn nhất để lên thiên đàng, lẽ dĩ nhiên, sau khi chết.  Muốn được người ta ghét thì cũng dễ thôi, cứ tiếp tục đi theo con đường phi dân tộc, phản dân tộc như trong quá khứ, chỉ cần biết đến nước Chúa, không cần biết đến quốc gia dân tộc là gì.  Tại sao mỗi khi có người nói hay viết những điều gì không hợp với những lời "giáo hội dạy rằng" thì các tín đồ Ki-Tô lại chụp lên đầu họ cái mũ thù ghét và chống Ki Tô Giáo?  Các tín đồ Ki-Tô không biết rằng người ta thù ghét hay chống Ki Tô Giáo chính là để giúp cho họ được hưởng phúc của Chúa, giúp họ được phần thưởng lớn ở trên thiên đàng hay sao, nếu họ tin những lời của Chúa phải là đúng.  

    Để cho sự trình bày “giáo lý” tạm gọi là đầy đủ, chúng ta hãy xét đến vài lời giảng khác của Giê-su:

    Chúng ta cũng phải hiểu rằng, khi Giê-su nói đến những đứa trẻ (little ones), không phải là ông ta nói đến những đứa trẻ ít tuổi thật, mà là để chỉ những người tin theo ông và phải trở thành như trẻ con như trong đoạn sau đây:

 Matthew 18: 3Đúng vậy, ta nói cho các ngươi biết, trừ phi các ngươi biến cải và trở thành như trẻ con, không có cách nào các ngươi có thể vào trong nước thiên đường.

Mark 10: 15: Đúng vậy, ta nói cho các ngươi biết, người nào mà không tiếp nhận nước Chúa như là một đứa trẻ thì sẽ không có cách nào vào đó được.  

    Trong Tân Ước chúng ta cũng còn thấy đoạn mô tả Giê-su cầu nguyện:

    Matthew 11: 25: Hỡi Cha là Chúa của trời đất, tôi khen ngợi Cha, vì Cha đã che dấu những điều này đối với kẻ khôn ngoan, người sáng dạ; mà tỏ ra cho những con trẻ hay. 

    Như vậy, chúng ta thấy rằng, đạo Giê-su là đạo dành cho những người có đầu óc của trẻ con.  Con trẻ, về thể chất cũng như tinh thần , đều chưa phát triển và trưởng thành, chưa có đủ khả năng suy nghĩ để phân biệt thật hay giả, đúng hay sai, cho nên ai nói gì cũng tin và hay làm theo, bắt chước.  Nó giống như một con chiên (cừu), người chăn chiên dắt đi đâu thì đi đó.  Vì vậy các tín đồ Công giáo Việt Nam còn được gọi là con chiên. Hiển nhiên là Chúa  rất thành công với những người đầu óc như của con trẻ, còn đối với những người thông thái sáng dạ hay ít ra là có đôi chút  đầu óc suy nghĩ thì Ngài lại hoàn toàn thất bại.  Chúa cũng còn thành công với những người đầu óc bấn loạn, khủng khoảng tinh thần, cần bám vào một cặp nạng thần quyền để lê lết trong cuộc đời.

    Cuối cùng chúng ta không thể bỏ qua những điều Giê-su hứa hão cho những người đầu óc không đội trời chung với lý trí:

 Mark 11: 24Vậy ta nói cho ngươi biết, khi các ngươi cầu nguyện, bất cứ cái gì mà các ngươi đòi hỏi, tin rằng các ngươi sẽ nhận được, và các ngươi sẽ có những cái đó.

Matthew 21:22: “Nếu các người tin, các người sẽ nhận được bất cứ điều gì các người yêu cầu trong cầu nguyện”

John 14:13-14: “Và Ta sẽ làm bất cứ điều gì các người yêu cầu nhân danh Ta…  Các ngươi có thể yêu cầu bất cứ điều gì nhân danh ta, ta sẽ làm theo lời yêu cầu đó

Matthew 17: 20:  Đúng vậy, ta nói cho ngươi biết, nếu ngươi có đức tin chỉ nhỏ bằng hạt cải, ngươi sẽ bảo trái núi này "Di chuyển từ chỗ này sang chỗ kia", nó sẽ di chuyển như vậy; và đối với ngươi không có gì mà làm không được.

    Những màn “hiệp thông cầu nguyện” của giáo dân Việt Nam, nghe lời xúi dại của ông Tổng Kiệt nhục nhã, ở Tòa Khâm Sứ, Thái Hà hay Tam Tòa v…v… đều không thấy Chúa ở đâu để thực hiện những lời hứa trên, chứng tỏ Chúa chỉ hứa hão.

    Trên đây là đại khái tất cả những gì chúng ta biết về cái gọi là “giáo lý” của Chúa Giê-su.  Nhưng thực ra, đó chỉ là những hoa lá cành trang điểm cho thông điệp chính của Chúa.  Thông điệp này như sau:  “Hãy thống hối, vì nước Thiên đàng sắp tới” và nhất là: “Đứa nào tin Ta thì Ta cho lên Thiên đường,   còn đứa nào không tin thì Ta cho nó xuống hỏa ngục để cho ngọn lửa vĩnh hằng thiêu đốt nó”.  Chấm hết.  Và tất cả các tín đồ Ki Tô Giáo theo đạo Chúa cũng chỉ vì tin ở cái câu cuối này.  Họ vẫn tin dù rằng Giáo hoàng John Paul II đã tuyên bố trước thế giới là “Chẳng làm gì có thiên đường trên các tầng mây, và cũng chẳng làm gì có hỏa ngục ở dưới lòng đất”.

    Đối chiếu với những lời của Giê-su trong Tân Ước như trên, chúng ta có thể kể ra một số lời dạy của Đức Phật.  Tuy nhiên. thật khó mà có thể đưa ra hết giáo lý của Đức Phật nằm trong ba Tạng Luật, Kinh và Luận của Phật Giáo.  Chúng ta chỉ có thể nói một cách tổng quát rằng, từ Tam Học (Giới, Định, Tuệ) cho tới Tứ Diệu Đế, Tứ Niệm Xứ, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo v…v… và v… v… trong các Kinh điển Phật Giáo, tất cả những lời giảng dạy của Đức Phật đều nhất quán, chỉ có mục đích hướng dẫn con người tu tập, thăng tiến trí tuệ và từ đó có thể tự mình tỉnh thức, giác ngộ. 

    Sau đây chúng hãy sang đề mục cuối của bài này:

 

IV.    Đạo Phật và Đạo Chúa đã mang lại những phúc lợi gì cho nhân loại.

    Về phương diện hành trì giáo lý thì chúng ta đã biết lịch sử của Công giáo đã mang tới bao nhiêu bất hạnh cho nhân loại qua 1000 năm của thời kỳ đen tối (Dark Ages) ở Âu Châu với 9 cuộc Thánh Chiến, 400 năm của các tòa án xử dị giáo, bách hại dân Do Thái, làm tiền phong hay đồng hành với những đế quốc thực dân Tây phương xâm chiếm các nước kém mở mang ở Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh, Nam Mỹ, Á Châu .. để truyền đạo với những sách lược như dựa vào quyền thế vua chúa, dựa vào những thế lực thực dân hay dùng bả vật chất để cưỡng ép những người ngoại đạo phải vào đạo, cùng phá hủy chùa chiền, miếu mạo của những người dân bản xứ.  Cái lịch sử ô nhục đầy máu và nước mắt này đã được giáo hoàng chính thức cáo thú cùng thế giới một cách đại cương vào ngày 12 tháng 3 năm 2000 tại tòa thánh Vatican.  Cả thế giới đều biết trừ những tín đồ sống trong bóng tối nên vẫn tin rằng giáo hội Công giáo là một hội thánh "thánh thiện". 

    Những danh nhân trí thức đã nhận định như thế nào về đạo Phật và đạo Chúa.   Trước đây tôi đã sưu tầm 100 nhận định về đạo Chúa và 100 nhận định về đạo Phật của các bậc thức giả trong thế giới Tây phương, trong đó có cả một số bậc lãnh đạo trong đạo Chúa.  Độc giả có thể đọc những nhận định này trên http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN56a.php.

    Ở đây tôi chỉ đối chiếu hai tài liệu điển hình về bản chất của đạo Phật và đạo Chúa, từ đó chúng ta có thể hiểu tại sao đạo Chúa lại gây quá nhiều tác hại cho nhân loại trong khi đạo Phật được cả thế giới công nhận là đạo từ bi, hòa bình.   

 1.   Mục sư Ernie Bringas trong cuốn Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Bởi (Tin Vào) Quyền Năng Của Cuốn Thánh Kinh  [Going By The Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority, p.17]: 

    "Trải qua nhiều thế kỷ, sự sùng tín Thánh Kinh đã dẫn tín đồ Ki Tô trong một niềm tin mù quáng, trong sự khủng bố, ngược đãi  người  Do  Thái  và những  người  phi-Ki-Tô,  giết  hại  và khủng bố, áp bức phái nữ, đè nén dục tính, kiểm duyệt,  tạo tâm  lý  sùng tín,  và nhiều lầm lạc khác.  Những mô thức hành xử có tính cách hủy diệt này, người ta có thể thấy dễ dàng là chúng bắt nguồn từ sự tin  vào quyền  năng tuyệt đối của những điều viết trong Thánh Kinh." [31]

 

2.  Robert G. Ingersoll trong cuốn Ingersoll, Con Người Phi Thường [Ingersoll, The Magnificient,  p. 117.]

      " Nhân danh Chúa Ki Tô hàng triệu nam nữ đã bị tù đầy, tra tấn và giết hại, hàng triệu người đã bị làm nô lệ.   Nhân danh hắn những tư tưởng gia, khảo cứu gia, bị coi như là những kẻ tội phạm, và những tín đồ theo hắn đã làm đổ máu của những người thông thái nhất, giỏi nhất. 

   Nhân danh hắn sự tiến bộ của nhiều quốc gia bị chặn đứng  cả  ngàn  năm… Phúc âm của hắn chất đầy thế giới với thù hận và trả thù, coi sự lương thiện trí thức như một tội ác, hạnh phúc trên cõi đời là con đường dẫn xuống địa ngục, tố cáo tình thương yêu như là thấp hèn và như súc vật, thánh hóa sự nhẹ dạ cả tin, tôn vinh sự mù quáng và tiêu diệt tự do của con người.  Nhân loại sẽ tốt hơn nhiều nếu cuốn Tân Ước chưa từng được viết ra - Chúa Ki Tô theo quan niệm thần học cũng chưa từng được sinh ra.[32]

     Để đối chiếu, chúng ta biết rằng, lịch sử Phật Giáo đã chứng tỏ trong sự bành trướng  của Phật Giáo  trên thế giới  từ 25 thế  kỷ  trước, qua phương pháp truyền đạo hòa bình và chuyển hóa,  Phật Giáo không hề làm đổ một giọt máu của một người nào vì lý do họ theo một đạo khác, và cũng chưa từng cưỡng ép bất cứ ai phải theo Phật Giáo..  Chúng ta hãy kể hai nhận định điển hình về Phật Giáo:

 1. Joseph L. Daleiden, một học giả Công giáo, trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final Superstition), xuất bản năm 1994, sau khi phân tích và đánh giá cái gia tài Do Thái - Ki Tô (A Critical and Evaluation of the Judeo-Christian Legacy), đã đề nghị những Tín Ngưỡng Khác Thay Cho Thần Giáo (Alternatives to Theism).  Về Phật Giáo tác giả viết, trang 424:

    Lời giới thiệu hay nhất về Phật Giáo là, giống như Khổng giáo, hệ thống tín ngưỡng này đã hiện hữu trong 25 thế kỷ mà không hề có một cuộc Thánh Chiến, một Tòa Án Xử Dị Giáo, hay một toan tính đế quốc nào nhằm xâm chiếm và phá hủy nền văn hóa của một dân tộc khác. (Những núi tội ác của Giáo hội Công giáo mà Giáo Hoàng John Paul II đã xưng thú cùng thế giới Giáo. TCN)  [33] 

 

2.  Giáo sư P. V. Bapat trong cuốn “2500 Phật Giáo” (2500 years of Buddhism):

     Không có một trang lịch sử nào của Phật giáo khủng khiếp bởi ánh sáng của ngọn lửa của tòa án dị giáo, hay bị làm đen bởi làn khói đốt cháy dị giáo hay các thị tứ dân gian, hay bị nhuộm đỏ với máu của các nạn nhân vô tội vì hận thù tôn giáo. Phật giáo chỉ dùng một thanh gươm, đó là gươm Trí tuệ và chỉ biết một kẻ thù, đó là Vô minh. Ðó là chứng tích của lịch sử không thể chối cãi được. [34]

 

V.   Kết Luận:

 Đây là bản “đối chiếu” giữa thực chất của Phật Giáo và Ki Tô Giáo chứ không phải để “so sánh” vì về căn bản tín ngưỡng tôn giáo, về tư cách của Đức Phật và của Chúa Giê-su, chúng ta không có cách nào có thể so sánh Phật Giáo với Ki Tô Giáo được.  Lý do rất đơn giản, vì Phật Giáo là tôn giáo của trí tuệ , mà trí tuệ thì không thể tách rời “Lý Trí” [Reason].  Đại Học Vạn Hạnh trước đây có “motto”: Duy Tuệ Thị Nghiệp’.  Còn Ki Tô Giáo thì ai cũng biết đó là tôn giáo của Đức Tin [Faith].  Vậy thì trước hết chúng ta cần phải biết định nghĩa của Đức Tin và của Lý Trí.

    Theo H. L. Mencken thì “Đức tin có thể định nghĩa ngắn gọn như là một niềm tin phi lý vào những gì không chắc chắn xảy ra (Faith may be defined briefly as an illogical belief in the occurrence of the improbable.) Còn theo Tự Điển thì “Đức Tin là sự tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực” [Faith is the firm belief in something for which there is no proof]

   Trong tự điển có 2 định nghĩa của Lý Trí: “khả năng có những tư tưởng hợp lý, suy lý hoặc phân biệt” (The capacity of rational thought, inderence, or discrimination), và “suy xét đúng, phán đoán hợp lý” (Good judgment, sound sense).

    Vì vậy, trong cuốn “The Final Superstition”, Joseph L. Dalaiden, một học giả Công Giáo, đã để nguyên một chương để thảo luận về “Lý Trí đối với Đức Tin” và đưa ra kết luận: “Lý Trí đối với Đức Tin: con đường đi tới hiểu biết, con đường đi tới mê tín” [Reason versus Faith: A Path to  Knowledge, a Path to Superstition.]  

    Nếu chúng ta không thể so sánh về căn bản tín ngưỡng của Phật Giáo và Ki Tô Giáo thì chúng ta có thể đối chiếu được một số phương diện nào của hai tôn giáo trên không?  Từ trước tới nay, tôi không có ý định làm việc này, nhưng nay vì những hành động hung hăng truyền đạo láo xược của đạo Chúa ở Việt Nam để đầu độc người dân bằng những chuyện hoang đường mà Tây phương đang dần dần phế thải, tôi nghĩ ngày nay người dân Việt Nam cũng nên biết rõ về bản chất của hai tôn giáo chính ở Việt Nam như trên. 

       Việt Nam có hai tôn giáo có nhiều tín đồ nhất là Phật Giáo và Công Giáo.  Công Giáo chiếm tối đa vào khoảng 7% dân số. Còn Phật Giáo thì chúng ta thực sự không biết rõ tỷ lệ là bao nhiêu, vì không phải chỉ có những người quy y Tam Bảo mới kể là theo Phật Giáo.  Tôi có rất nhiều bà con thân thuộc và bạn bè rất ít khi hay chẳng bao giờ đi Chùa, và cũng chẳng quy y Tam Bảo, nhưng nhà nào cũng có tượng Phật, hay ảnh Phật, và kinh sách Phật v..v.. Ngay trong gia đình tôi, chỉ có mình tôi là đã quy y Tam Bảo, còn tiện nội cũng không quy y, nhưng cũng thường đi Chùa lễ Phật và đọc kinh sách Phật Giáo.  Cho nên, tôi nghĩ người theo đạo Phật, dưới hình thức này hay hình thức khác, tất nhiên phải là tuyệt đại đa số.  Lịch sử đã viết rằng: “Thiên hạ Lý Trần bán vi Tăng” [Trong những triều đại Lý, Trần một nửa bàn dân thiên hạ sống như các vị Tăng Phật Giáo].  Còn tuyệt đại đa số người dân khi đó sống không ít thì nhiều đều có ảnh hưởng của Phật Giáo.  Đây cũng là những triều đại mà xã hội hiền hòa nhất trong lịch sử Việt Nam.

     Muốn đối chiếu hai tôn giáo, chúng ta không thể lấy vài câu lạc lõng giống nhau trong kinh điển của mỗi tôn giáo để so sánh và cho là có sự tương đồng, mà phải nghiên cứu về mọi khía cạnh của mỗi tôn giáo, ít ra là về Bản chất, Tư Cách Giáo Chủ, Giáo Lý, Lịch sử truyền đạo của mỗi tôn giáo.  Đây là một công việc vừa có tính hàn lâm vừa rất trí thức, tốn rất nhiều thì giờ và phải sử dụng rất nhiều tài liệu, khoan nói là phải biết ít nhiều về nội dung Kinh điển cũng như lịch sử của mỗi tôn giáo.  Do đó tôi chỉ có thể thu hẹp sự đối chiếu trong bốn đề mục ở trên. Tuy nhiên rất có thể khi đưa ra những sự thực về tôn giáo, chúng ta có thể bị ngộ nhận, thậm chí có khi bị lên án sai lầm, là chống tôn giáo hay phê bình chỉ trích tôn giáo.

    Thật vậy, có nhiều người đưa ra luận cứ là tôn giáo nào cũng dạy cho con người có đạo đức, làm lành tránh ác, bản chất đều giống nhau, do đó không nên phê bình chỉ trích tôn giáo.  Điều này thường là luận điệu chống đỡ của những tôn giáo bị nhân loại phê bình, chỉ trích những khía cạnh tiêu cực của tôn giáo đó mà vô phương biện cãi bằng lý luận.  Bertrand Russell cũng đã đưa ra nhận định: “Người ta thường nói tấn công tôn giáo là điều rất sai lầm vì tôn giáo làm cho con người có đạo đức.  Người ta nói với tôi như vậy; (nhưng) tôi không nhận thấy như vậy..” [One is often told that it is a very wrong thing to attack religion, because religion makes men virtuous.  So I am told; I have not noticed it..].  Thật vậy, luận cứ trên không đứng vững vì “dạy con người làm lành tránh ác” là sự phát triển của tri thức con người và chung cho dân gian chứ không chỉ nằm trong tôn giáo.  Chẳng có cha mẹ nào, dù họ là người vô thần hay vô tôn giáo lại dạy con cái “làm ác tránh lành”.  Đạo Khổng thực sự không phải là một tôn giáo, nhưng Đức Khổng Tử đã dạy con người một số những tiêu chuẩn đạo đức trong xã hội mà cả thế giới ngày nay đều tán thán. Mặt khác, Bertrand Russell nói như trên vì ông ta đã biết rõ lịch sử Công giáo dạy “làm lành tránh ác” như thế nào, hiển nhiên không phải là “Ki Tô Giáo làm cho con người đạo đức..” mà trái lại.  Thật vậy, chúng ta không thể cứ nhắm mắt tin bừa vào những lời khoa trương trống rỗng  như “Thiên Chúa lòng lành” hay “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian”, hay “Chúa Giê-su yêu bạn”  mà phải tìm hiểu xem trong cuốn Kinh Thánh, Thiên Chúa đã “lòng lành” như thế nào, và Chúa Giê-su đã yêu những người không tin ông ta như thế nào?  Cũng vậy, chúng ta không thể nào tin vào những lời tự khoa trương của giáo dân như “sống đạo, tốt đời” mà phải tìm hiểu xem trong giòng lịch sử, giáo dân đã “sống đạo, tốt đời” như thế nào. 

    Cựu Linh mục dòng Tên Peter Doeswyck đã nhận định, và lịch sử cũng đã chứng tỏ như vậy, là:

    “Toàn thể cấu trúc của Giáo hội Công giáo La-mã được xây dựng trên những ngụy tạo, những lá thư tông đồ giả mạo, những bài giảng giả mạo, những phép lạ giả mạo, những di tích (của các Thánh) giả mạo, những công đồng giả mạo, và những sắc lệnh giả mạo của các giáo hoàng.” [35]

      Như vậy thật ra người theo đạo Chúa tin ở cái gì?  Câu trả lời nằm trong câu hỏi.  Tuy nhiên, các tín đồ đạo Chúa vẫn có thể tin rằng những điều Linh mục Peter Doeswyck nói trên đã, hay sẽ mang lại cho họ niềm hi vọng lớn lao nhất trong đời họ, đó là có cuộc sống đời đời sau khi chết.  Thực tình tôi cảm thấy rất thương hại và tội nghiệp cho họ.

    Tất cả những gì trình bày trong bài này đều nằm trong lãnh vực học thuật để mở mang đầu óc của người dân bình thường không có cơ hội và/hoặc khả năng tìm hiểu.  Giúp cho họ hiểu biết đúng là một món quà vô giá mà chúng ta có thể tặng cho họ.

   Đây là điều rất cần thiết trong thời đại ngày nay.  Trong 14 Điều Phật Dạy thì điều thứ 13 nói rằng: “Khiếm khuyết nhất của đời người là kém hiểu biết.”  Vì kém hiểu biết nên chúng ta thường đi lạc đường, tin vào những điều không thể tin được, đắm mình trong ma đạo, và từ đó đã có những hành động phi dân tộc, phản tổ quốc.. 

     Với sự phân tích và đối chiếu bốn đề mục trên, nay chúng ta đã có thể nhận ra chân giá trị của đạo Phật và đạo Chúa nằm ở đâu.  Với tất cả sự lương thiện trí thức, chúng ta hãy tự hỏi, đạo nào đã mang phúc lợi đến cho nhân loại và đạo nào đã gây tổn hại cho nhân loại.  Chúng ta có thể không tin theo những giáo lý của Đức Phật vì căn trí giới hạn của chúng ta, nhưng chúng ta không thể phủ nhận là, trong rừng Kinh điển Phật Giáo, chúng ta không thể tìm thấy một lời nói hay một hành động nào của Đức Phật mà chúng ta có thể chê trách, theo tiêu chuẩn luân lý đạo đức của mọi xã hội, xưa cũng như nay.  Nói đến Đức Phật là chúng ta nói đến từ bi, từ bi không chỉ đối với con người mà còn đối với tất cả chúng sinh.

    Trong thế giới Tây Phương, Giê-su là một khuôn mặt tôn giáo được dân chúng biết đến nhiều nhất, và đạo Chúa thường vẫn cho rằng Giê-su là một ngôi Thiên Chúa, cao vượt hẳn những khuôn mặt tôn giáo khác.  Điều này không còn đúng nữa, và trước chân giá trị của Phật Giáo cũng như vị thế cao cả của Đức Phật về đủ mọi phương diện, một số học giả Ki-tô, và ngay cả một số lãnh đạo Ki-tô Giáo, đã thay đổi quan niệm.  Ngày nay nhiều người Tây phương, nhất là giới trí thức, đã thấy rõ bản chất của đạo truyền thống Tây phương và đi tìm giá trị tâm linh trong các tôn giáo Á đông, đặc biệt là Phật Giáo.  Họ đến Phật Giáo để tìm những giá trị tâm linh khác với những giá trị tâm linh truyền thống của họ mà họ thấy rằng không còn phù hợp với thời đại ngày nay, với sự tiến bộ trí thức của nhân loại.  Nhưng thật đáng buồn,  ở một vài nơi, họ lại được dạy để quay về với những điều mê tín hoang đường đã không còn giá trị, thí dụ như:

 -          Đức Ki Tô Hằng Sống là Con của Thượng Đế, đã phục sinh, và nay vẫn còn tiếp tục sống.

-          Chúng ta phải quán chiếu mọi hành động và mọi lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu mực để chúng ta tu tập. Giêsu sống đúng như lời dạy của Ngài, cho nên suy gẫm cuộc đời Chúa Giêsu là điều tối cần thiết để hiểu giáo lý của Ngài.

-          Tội tổ tông cũng có thể được chuyển hóa khi một người tiếp xúc với Thánh Linh. Giêsu là con của Thượng Đế…

-          Nơi duy nhất chúng ta có thể tiếp xúc với Giêsu và Nước Chúa là ở trong nội tâm mình.

-          Khi chúng ta theo dõi và tiếp xúc một cách sâu sắc với cuộc đời và giáo lý của Chúa Giêsu,

chúng ta có thể thâm nhập vào sự thật của Thượng Đế. Tình yêu, sự hiểu biết, lòng can đảm, sự bao dung, là những biểu hiện của cuộc đời Chúa Giêsu.  Thượng Đế xuất hiện với chúng ta qua Giêsu Ki Tô. Với Thánh Linh và Nước Chúa ở trong Ngài.

    Những tài liệu nghiên cứu của các học giả Tây phương về Thượng đế, về Chúa Giê-su trình bày trong bài đối chiếu giữa đạo Phật và đạo Chúa ở trên đã bác bỏ hoàn toàn những điều thuộc về “đức tin” trên.  Những huyền thoại về Thượng đế và về Chúa Giê-su nay đã không còn chỗ đứng trong giới hiểu biết.  Trong cuốn Những Phê Bình về Thiên Chúa (Critiques of God), biên tập bởi Peter A. Angeles, trong đó có 16 tác giả phê bình về mọi lý luận thần học của Ki Tô Giáo Critiques of God, trang xiii, chúng ta có thể đọc đoạn sau đây:

     Những niềm tin vào những đấng siêu nhiên đã biến khỏi nền văn hóa của chúng ta.  Bất cứ sự tin chắc toàn bộ nào về Thiên Chúa cũng đang trở thành mờ nhạt trong nền văn hóa của chúng ta.  Thiên Chúa đã mất đi trụ xứ trong không gian như là một nước trên Thiên đàng.  Ông ta cũng mất đi chỗ đứng trong vũ trụ như là đấng đã sáng tạo ra nó từ hư vô.  Không phải là Thiên Chúa bị đẩy ra một vùng xa lắc xa lơ.  Không phải vì ông ta trở thành một trừu tượng vô thân thể (không nam không nữ), mà vì chúng ta nhận thức ra rằng chẳng làm gì có Thiên Chúa để mà nói tới. [36]

    Và Giám Mục Tin Lành John Shelby Spong cũng đã đưa ra những nhận định:

    “Có những đoạn trong 4 Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.”

   Sự sinh ra đời của Giê-su cũng gây nhiều tai tiếng như cách ông ta chết.   Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này.  Chẳng có ai biết cha ông ta là ai.  Rất có thể ông ta là một đứa con hoang.  Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi mìn chưa kiếm ra và chưa nổ.

    Giáo hội Công giáo vẫn duy trì chính sách che dấu tín đồ về những sự thực không lấy gì làm đẹp cho bộ mặt “thánh thiện”, “duy nhất”, “tông truyền” của Giáo hội mà Giáo hội đã thành công cấy vào đầu các tín đồ thấp kém ở dưới.  Nhưng ngay cả những bí mật trong cung đình Vatican cũng đã lộ ra dần dần.  Tôi chợt nhớ đến hai câu trong trang cuối của cuốn “The Lost Symbol” của Dan Brown, tác giả cuốn “The Da Vinci Code” nổi tiếng trước đây:

    Không có gì che dấu mà rồi người ta không biết; không có gì bí mật mà rồi không bị phanh phui ra  ánh sáng

   [Nothing is hidden that will not be made known; noting is secret that will not come to light]

 

Chú Thích 

 

[1]  John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, p. 4: The words of the Apostles' Creed, and its later expansion known as the Nicene Creed, were fashioned inside a worldview that no longer exists.  Indeed, it is quite alien to the world in which I  live.  The way reality was perceived when the Christian creeds were formulated has been obliterated by the expansion of knowledge..

[2]  Shorto, Russell, Gospel Truth, Riverhead Books, New York, 1997, Front Cover. The Last Supper, the Virgin Birth, the Resurrection: one by one the great beams of Christianity are being tested.  Biblical scholars – once the guardians of Christian theology – are now using the tools of archaeology, anthropology, linguistics, computer science, and even particle physics to probe the question “Who was Jesus?”  The result is a radical revision of the Gospel story that is both surprisingly vivid and to some people, deeply shocking... Most important, the author tells of the impact the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth.

..The work of the Jesus Seminar, and of all contemporary Jesus researchers, in Funk’s view, represents a shift on the part of biblical scholars away from the tyranny of the church and toward cultural honesty.  As far as Funk is concerned, scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger.  So the only ones left in the dark are ordinary Christians.

[3]  Cross, Colin, Who Was Jesus?, Barnes & Nobles Books, New York, 1993, Introduction: Viewed from a distance and considered as a whole, Jesus of Nazareth is a reasonably tangible historical figure.  But too close an examination of any individual detail of him causes him to blur...The reason for uncertainty about Jesus is the simplest possible.  It is just that there is no record at all, of any kind, about the greater part of his life.  He wrote no book.  Even what he looked like is unknown.  There is not a word of independent proof that he ever even existed.  The records that do exist, the gospels, cover only a fraction of Jesus' life and are written from a cultic and ritualistic point of view and not as ordinary history.  There are the gravest inconsistencies in the gospel accounts and also many blatant improbabilities.

[4]  Ernie Bringas, Going By The Book: Past And Present Tragedies of Biblical Authority, Hampton Roads Pub., Co. VA., 1996, p. 191: The consensus today is that the historical Jesus - the words and actions of Jesus and the real events surrounding his life - cannot be determined with precision.  While we know how the author of a Gospel regarded Jesus by what he reported (and how he reported it), it is not always possible to penetrate beyond the Gospel portrayals of Jesus to Jesus himself.  We cannot determine with certainty what Gospel statements about his life and career are genuine.

[5]  Ranke-Heinemann, Uta, Putting Away Childish Things, Harper-Collins., San Francisco, 1995, p. 2: We encounter this truth in the person of Jesus.  We know neither when and where he was born, nor when he died:  He is a man without a biography.  We don’t know how long his public activity as a peacher lasted or where exactly it took place.  Strictly speaking, we don’t know a whole lot more than that he was born, that there were people who followed him as his disciples, and that he was executed on the cross – the Roman version of the gallows – and thus came the wretched end...   This Jesus lies burried not only in Jerusalem, but also beneath a mountain of kitsch, tall tales, and church phraseology.

[6]  Harvey, Andrew, Son of Man: The Mystical Path to Christ,  Jeremy P. Tarcher / Putnam,New York, 1998, p. 4.: Historical criticism has proved, conclusively, that the Gospels are to be read not as Spirit-inspired, faithful eye-witness accounts of Jesus’ life but as carefully sculpted versions of that life, arranged to suit or promote different spiritual interests, personalities, and factions within the dramatic years of early Christianity.  The Gospels are neither directly inspired divine documents nor straight-forward historical records; neither divine revelations directly inspired by God nor eye-witness accounts written by people who had known Jesus and wanted to report clearly what they had experienced with him.  Written in the last third of the first century, they express and condense the traditions of different early Cristian communities and were put into their current form slowly over a period of three hundred years.

[7]  Spong, John Shelby, Born of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus, Harper, San Francisco, 1992, p. 35. Jesus was interpreted by the early Christians in terms of their assumed and unquestioned concepts of God, modeled after the image of a heavenly king.  The focus was on the exalted Jesus seated at the right hand of the heavenly throne.  The image reflected the popular mythic understanding of the universe as a kingdom.. But he was “born of a woman”.. His origins were equally as scandalous as his means of death.  He was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good was thought to come.  No one seemed to know his father.  He might well have been illegitimate.  Hints of that are scattered like undetected and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian tradition.

 [8]  Gruber, Elmar R. & Kersten, Holger, The Original Jesus: The Buddhist Sources of Christianity, Element Books, Inc., Rockport, MA, 1995, pp. 3-4.: Hardly any other theme has caused such a stir in the Western world as the person of “Jesus of Nazareth”; hardly any other theme has led to the writing of so many books, or such animated and passionate discussions.  And yet the personality of the historical Jesus is veiled in profound darkness.  For a millennium and a half there were only accounts depicting Jesus in accordance with official Church theology, written with the objective of strengthening Christians’ faith or inducing other to turn to Christianity... During the nineteenth century the New Testament was subjected to scholarly investigation for the first time.  It was the beginning of systematic research into the life of Jesus..   In 1835 David Friedrich Strauss published his influential book The Life of Jesus (Das Leben Jesus).  Armed with uncompromisingly critical rational views, he bluntly rejected the historical factuality of the Gospels.  For Strauss they were nothing but legends and pious stories about the figure of Jesus, inspired by the Old Testament.  Such opposition went further at the mid-nineteenth century.  Bruno Bauer completely banned the figure of Jesus from historical research, simply declaring that the central figure in the New Testament was a mythical invention.  Jesus and Paul were said to be nothing but literary fictions; and Christianity was seen as having been created by a fanatical group which concocted the faith around those two invented figures out of Jewish, Greek, and Roman religious traditions... Today there are well over 80000 monographs on Jesus, but their impact in terms of illuminating the historical figure is modest in the extreme.  Who was Jesus?  When he was born?  What did he look like?  When he was crucified?  When how, and where did he died?  Finding answers to those questions soon turned out to be an insoluble problem.  In the books written during the first two centuries AD there is hardly any mention of Jesus as a real human being.  The later sources are almost exclusively theological writings, which take for granted a belief in Jesus Christ as the Messiah and Son of God.  So truly impartial written testimony is practically non-existent, and scholarship in thus not in a position, even today, to say in which year Jesus was born... Hardly any attention is paid in the canonical Gospels of Jesus’ childhood and youth, a phase of life of such importance for the formation of a person’s character.  Even in the accounts of the brief period of his public impact there is only very sparse biographical information about him.  It seems as if he was almost completely unknown to the historians of his time, or at least not worth mentioning.  How is it possible that they paid no attention to the amazing miracles and extraordinary events recorded in the Gospels.

[9]  Martin, Michael, The Case Against Christianity, Temple University Press, Philadelphia, 1991, p. 37: Modern critical methods of biblical scholarship have called into question the historical accuracy of the Bible and, in particular, the New Testament.  In the light of this critical approach to the New Testament many theologians have argued that not much is known about Jesus.  For example, W. Trilling argues that “not a single date of his life” can be established with certainty and J. Kahl maintains that the only thing that is known about him is that he “existed at a date and place which can be established approximately”.  Other scholars argue that the quest for the historical Jesus is hopeless...The most respected contemporary critic of the historicity of Jesus is G. A. Wells...  Wells stresses that his skepticism concerning the historicity of Jesus is based in large part on the views of Christian theologians and biblical scholars who admit that the canonical Gospels were written by unknown authors not personally acquainted with Jesus, between 40 and 80 years after Jesus’ supposed lifetime.  According to Wells they also admit that there is much in these accounts that is legend and that the Gospel stories are shaped by the writers’ theological motives.  Furthermore, the evidence provided by the Gospels is exclusively Christian..

[10]  A religion of enlightenment improves our spiritual wisdom or our moral behavior by some teaching.  A salvational religion converts our life by leading us to live our lives in another.

...When the great teacher dies, his teaching may well live on...He may have a teaching like the Noble Eightfold Path, which perpetuates his special wisdom.  Even if the teacher leaves no teaching but only the example of an inquisitive mind and the ideal of the Good, like Socrates, the example of the teacher remains to be emulated by later students.  All of those means of continuing "the life of the teacher" are eminently sensible and as broadly practiced as the planet is covered with talkers.  But that scenario is not the New Testament line. It isn't the teacher's teaching that lives on, it is the "teacher".  But if that how it is, it is no "teacher" but "savior".

     ...Salvational religion depends, then, on "conversion", "resurrection", "radical change" on the basis of a life lived with another.

     ...In a salvational religion, one does not attain spiritual 10 by learning about some truth, fact, or person.  All that is teacherly and noble, but it is not part of a salvational scenario.  In a sin and salvation story, one comes to a new state by living with another.

...Does Jesus conform to the pattern of the great spiritual masters?  He does not.  The norm for spiritual masterhood is that one be a great teacher of enlightenment, spiritual wisdom, or the tranquil mind.  Jesus is not a teacher, he is a savior.

     Consider a great teacher.  Socrates is a good example.  Socrates is a master of spiritual enlightenment...He claims to know nothing; he only asks a few tricky questions...Socrates wants to make sure that the pupil is attached to the truth, not to Socrates.

     Buddha is an examplar of a great "religious" teacher under the same Socratic self discipline.

     Buddha is not a savior, He is the Enlightened One.  He has seen the truths of human life, and he offers the Noble Eightfold Path as a guide to similar enlightenment and release from suffering..

     In contrast to these great teachers, one would have to say that Jesus evidently misunderstands how teaching is played out.  Jesus doesn't have students, he has disciples.  And not accidentally.  Jesus says, "he who believes in ME shall never die."  Not who believes in my teaching, but who believes in ME.  What Jesus "knows" is not enlightenment; he knows the Father.  "Only the Son knows the Father.  He who knows ME knows the Father.  Only through ME can one come to the Father.

      Whatever else Christianity may be, it seems on its face clearly to be a religion which preaches salvation and a savior.  Before one becomes instantly bored with that idea, it is important to note that most other significanr spiritual contenders not only don't preach salvation, in some cases they positively dislike it.  Islam is a case in point.   Muslims find the Christian notion of a savior demeaning both to the saver and the saved.

      ...For enlightenment and morality one needs teachers, not saviors.  The distinction is crucial.  On the whole, religions of morality or enlightenment are much more palatable to contemporary American taste.  They have two distinct advantages over the Biblical tradition.  In the first place they appear to be do-it-yourself spiritualities.  This conforms to an American taste for independence and self-reliance.  Although great teachers are valuable in these traditions, they are also dispensable, and one can be self-taught.  One cannot be self-saved in the Biblical story.  The second advantage of religions of enlightenment and morality is that they can dispense of most theological machinery.  If there are Gods at all - and in Buddhism there appear to be none - then their role is either as helpful (but dispensable) teachers or as ideals and examplars.  The truth is in the teaching, not in the teacher-savior.

[11]   I cannot myself feel that either in the matter of wisdom or in the matter of virtue Christ stands as high as some other people known to history - I think I should put Buddha and Socrates above him in those respects.

[12]  There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrowed-minded, vindictive, and even hypocritical.

Spong, John Shelby, Born of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus, Harper, San Francisco, 1992, p. 35. Jesus was interpreted by the early Christians in terms of their assumed and unquestioned concepts of God, modeled after the image of a heavenly king.  The focus was on the exalted Jesus seated at the right hand of the heavenly throne.  The image reflected the popular mythic understanding of the universe as a kingdom.. But he was “born of a woman”.. His origins were equally as scandalous as his means of death.  He was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good was thought to come.  No one seemed to know his father.  He might well have been illegitimate.  Hints of that are scattered like undetected and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian tradition

Ibid., pp. 21,24:  Are we drawn to a Lord who would destroy a herd of pigs in order to exorcise a demon?  Are we impressed when the one we call Lord curses a fig tree because it did not bear fruit out of season?... A literal Bible presents me with far more problems than assets.  It offers me a God I cannot respect, much less worship.

[13]  Buddha in a different language called men to self-forgetfulness five hundred years before Christ. In some ways he was nearer to us and our needs. Buddha was more lucid upon our individual importance in service than Christ, and less ambiguous upon the queation of personal immortality.  You see clearly a man, simple, devout, lonely, battling for light, a vivid human personality, not a myth.

[14] Lord Buddha could be very easily singled out as the one person known to man who received homage from the greatest number of mankind.

[15] He gave expression to truths of everlasting value and advanced the ethics not of India alone but of humanity. Buddha was one of the greatest ethical men of genius ever bestowed upon the world.

[16]  The Buddha and his philosophy seemed logically and ethically superior to the Christ and the teachings of the New Testament. Unlike the crude eternal bliss and eternal damnation of the Christian Church, the doctrine of Karma seemed in harmony with such assumptions of modern science as the universality of causation and the persistence of force.

[17]  Buddha was the embodiment of all virtues he preached. During his successful and eventful ministry of 45 years he translated all his words into action; and in no place did he give vent to any human frailty, or any base passion. The Buddhas moral code is the most perfect which the world has ever known.

[18]  If you desire to see the most noble of mankind, look at the king in beggar’s clothing; it is he whose sanctity is great among men. 

[19]  The most striking thing about the Buddha is almost a unique combination of a cool scientific head and profound sympathy of a warm and loving heart. The world today turns more and more towards the Buddha, for he alone represents the consience of humanity.

   The Buddha was a pioneer as a lover of men, and a philosophic genius rolled into a single vigorous and radiant personality. He had things to say that no man or woman, after 2500 years of bustling and hustling and chattering round the fountain of knowledge, can afford to ignore. Greater perhaps than his wisdom was the example he set.

[20]  I feel more and more that Sakyamuni is the nearest in character and effect to Him who is the Way, the Truth, and The Life.

[21]  There is very little, if anything, that is original in the teaching attributed to Jesus.  Like the myth of Jesus itself, the sentiments he expresses are a hodgepodge of aphorisms and moral convictions that can be found in the ancient Egyptian, Babylonian, Persian, Greek, Buddhist, Confucian, and Hindu religions...  But one thing is certain:  Christianity, a late-comer in the history of religion, merely plagiarized sentiments from Judaism and the so called pagan religions.  In his book Sources of Morality in the Gospels, Joseph McCabe quoted the moral views attributed to Jesus in the gospels and in parallel columns gave exact moral equivalents from Jewish and pagan writers.

[22] All his sayings, his teachings, his sermons culminated in a single word: "I"

[23]  What belongs to the preaching of Jesus is clearly recognized.  It is contained in two phrases of identical meaning, “Repent, and believe the Gospel,” or, as it is put elsewhere, “Repent, for the Kingdom of Heaven is at hand”.

[24] Joseph L. Daleiden, The Final Superstition, p.179: That human act savagely is in large part a function of their cultural ethic.  The ethic of the New Testament was vengeance on any who rejected Christianity.  Although on one hand the New Testament writers have Jesus preaching forgiveness, He espouses an extremely intolerant attitude toward those who do not accept Him as their Savior.

[25]  Davis, Kenneth C., Don't Know Much About The Bible: Everything You Need to Know About the Good Book But Never Learned, p. 374: One of the centerpieces of Jesus' teaching is an extensive talk that Augustin labeled the "Sermon on the Mount."  The "Sermon on the Mount" appears its entirely in Matthew (more than one hundred verses long) and in a somewhat abbreviated version in Luke.  In Luke this teaching session is similar, though shorter (about thirty verses), and is delivered "on a level place" after Jesus comes downs from the mountain where he had been praying.

   The differences between the two versions have led scholars to contend that the version in Matthew represents a compilation of many of Jesus' teachings compressed into one long and memorable discourse.  In other words, while it faithfully captures the words and teachings of Jesus, the sermon was a "Best of Jesus", edited into a single speech.

[26]  Charles Bradlaugh, The Freethought Web,   (Is poverty of spirit the chief amongst virtues, that Jesus gives it prime place in his teachings?  Is it even a virtue at all?  Surely not.  Manliness of spirit, honesty of spirit, fullness of rightful purpose, these are virtues; poverty of spirit is a crime...

[27]  Charles Bradlaugh, Ibid., Jesus pictures one in hell, whose only related vice is that in life he is rich; and another in heaven, whose only related virtue is that in life he is poor.  He affirms it is more difficult for a rich man to get into heaven, than for a camel to go through the eye of a needle (Luke 18: 25).  The only intent of such teaching could be to induce the poor to remain content in this life with the want and misery of their wretched state in the hope of higher recompense in some future life.  Is it good to be content with poverty?  Is it not far better to investigate   the   causes   of   poverty,  with   a  view   to   its  cure  and prevention?

[28] Charles Bradlaugh, Ibid., What does Jesus teach?  "Blessed are you who hunger now, for you shall be filled" (Luke 6: 21).  He does not say when the filling shall take place.  The date is evidently posponed until men will have no stomachs to replenish.  It is not in this life that the hunger is to be sated..

[29] Charles Bradlaugh, Ibid., Jesus teaches that the poor, the hungry, and the wretched shall be blessed.  But blessing only comes when they cease to be poor, hungry, and wretched...

[30] Penny Lernoux, Cry of The People, p. 16:  Foreign missionaries helped drum these ideas into the native's heads by claiming that it was God's will that they should be poor and ignorant.  As the Archbishop of Lima told his Indians: "Poverty is the most certain road to felicity." Any Indian or African who had the temerity to doubt such wisdom by rebelling against the system was promptly put to death...The Catholic Church must accept a lot of the blame for this situation.

[31]  Over the past centuries, bibliolatry has led Christians in  bigotry,  the  persecution   of   Jews  and   other  non-Christians, murder and terrorism, the oppression of women, the suppression of sexuality, censorship, cult mentality, and other aberrations.  The  destructive  behavior  patterns can be easily traced to the unchallenged authority accorded biblical writing.

[32]   (In Christ name millions and millions of men and women have been imprisoned, tortured and killed.  In his name millions and millions have been enslaved.  In his name the thinkers, the investigators, have been branded as criminals, and his followers have shed the blood of the wisest and the best.  In his name the progress of many nations was stayed for a thousand years.  His gospel filled the world with hatred and revenge, made intellectual honesty a crime, made happiness here the road to hell, denounced love as base and bestial, canonized credulity, crowned bigotry and destroyed the liberty of man.

   It would be far better had the New Testament never been written - far better had the theological Christ never lived.

[33]  The best recommendation for Buddhism is that, like Confucianism, this belief system has existed for twenty-five centuries without a single Crusade, Inquisition, or imperialist attempt to invade and destroy the culture of another people.

[34]   Not a single page of Buddhist history has ever been lurid with the light of inquisitorial fires, or darkened with the smoke of heretic or heathen cities ablaze, or red with blood of the guiltless victims of religious hatred. Buddhism wields only one sword, the sword of wisdom, and recognises only one enemy = ignorance. This is the testimony of history, and is not to be gain-said.

[35]  Ex-Jesuit Priest, Peter Doeswyck : The entire structure of the Roman Church is built on forgeries, spurious epistles, spurious sermons, spurious miracles, spurious relics, spurious councils, and spurious papal bulls.

[36]  Beliefs in supernatural beings have vanished from our culture.  Any general serious belief in God is fading in our culture.  God has lost his spatial location as a monarch in heaven.  He has lost his temporal precedence to the universe as its Creator ex nihilo.  It is not God is being relegated to a remote region.  It is not that God has become a bodiless abstraction (a sexist It).  It is te realization that there is no God to which to relate.

 

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (90 đã gửi)

avatar
Thanh 09/03/2010 08:28:32
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca.
Đúng là bài viết của bạn rất hay.Thanks
avatar
PTP003 16/07/2011 14:15:39
Vì RÕ RÀNG là vậy đạo hữu ạ. Trần Chung Ngọc đã giúp đỡ các tín đồ Thiên Chúa quay lại NHÌN CHÍNH MÌNH. Đó là việc TỐT ĐẸP.
Thân ái
avatar
DK.Thành 09/03/2010 10:55:05
Đây là lần thứ hai tôi đọc bài viềt này.Nhưng lần này đặc biệt ở chổ nó xuất hiện không ở wedsite nước ngoài mà là ở một wedsite trong nước.ĐÓ LÀ BƯỚC KHỞI ĐẦU cho một quy trình vén lên bức màn u minh đen tối ,để ánh sáng chân lý rọi soi cùng khắp .Thời đại bình đẳng tương sinh ,rất cần sự thật để dìu bước kẻ mê lầm trở về cội nguồn dân tộc,và nhận rỏ được cái "tôn giáo ác ôn"(voltaile)như thế nào trong lịch sử tiến hóa của nhân loại

Tất nhiên khó khăn bây giớ là các bài viết này phần lớn đều mang phong cách nghiên cứu hàn lâm ,khó bề tiếp cận được đàn chiên cuồng tín và những tư tưởng tội nghiệp "đạo nào cũng vậy ".

Rất cảm ơn GS Trần Chung Ngọc ,vì đã giúp người đọc hiểu thêm nhiều điều về Giato La Mã,điều mà thế` giới và Châu Âu phải đánh đổi biết bao thời gian mới có được .
Reply Tán thành Không tán thành
12
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
tong van dien 31/03/2010 02:56:05
Theo toi nhan dinh nay da the hien duoc tac gia la nguoi tri thuc,duoc hoc tap nghien cuu nhung đầy thành kiến và phiến diện. hy vong neu co thoi gian, tg co the tim hieu dao Chua voi câch nhìn khác trực quan hơn.
Tôi không bàn luận nhiều bởi chúng ta không cùng lí tưởng,không cùng quan điểm , cách nhìn dễ gây bất đồng.
Reply Tán thành Không tán thành
-9
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
PTP003 16/07/2011 14:19:52
Tại sao THÀNH KIẾN? SỰ THẬT là THÀNH KIẾN sao đạo hữu. PHẢI NHÌN RA SỰ THẬT chứ. Bài viết GIÚP đạo hữu đó. Đó là cái DUYÊN tốt lành cho đạo hữu và Gia Đình.
Với lòng từ.
avatar
Van Nguyen 28/01/2011 14:45:55
Tại sao các bạn lại so sánh Thiên Chúa giáo với lại Phật giáo như thế. Không thể nào so sánh được vì bản chất của 2 đạo là khác nhau. 1 đạo là hướng con người đến sự từ bi giải thoát, còn 1 đạo hướng con người phục tùng để được hưởng phước. Ây da, giống như so sánh mặt trăng với đom đóm lập lòe trong bóng đêm vậy đó. Có gì mà so sánh chứ. Thôi đừng làm chia rẽ thêm nữa

Nam mô bổn sư thích ca mâu ni phật.
avatar
thanhhuyen 31/03/2010 03:57:53
Nói lên sự thật,soi sáng nhận thức qua tài liệu lịch sử ,Có dẫn chứng địa chỉ hẳn hoi,minh bạch thì không có gì là "nói xấu " ai cả .

-Đạo Gia tô đã làm gì trên quê hương tội nghiệp của chúng ta ba bốn trăm năm qua ?

-Sự áp đặt,dối trá của tôn giáo ni đã đưa nhân loại đến đâu ,cũng như dân tộc này đến đâu ?

Vì vậy nói lên sự thật qua lăng kính lịch sử thì không thể cho là phiến diện.Hảy nhiểu đạo Chúa đi rồi sẽ có "cái nhìn khác và trực quan hơn ".Còn bây giờ chưa hiểu,xin hãy từ từ đi từng bước một kẻo vấp đá .Chúng ta đang sống trong thời đại dân chủ văn minh ,không phải thời kỳ đen tối thời trung cổ bởi Vatican thống trị và những tòa hình án dị giáo được "Các Cha" dựng lên để thắt cổ,đốt cháy những ai "dám" nói ngược kinh thánh .Vì vậy việc tiếp cận các tài liệu để làm "sáng mắt" kẻ cuồng tín ,cũng như những ai muốn tìm hiểu sự thật là chuyện không khó.Nhưng nó sẽ khó cho chính những tư tưởng mà hiện giờ còn tưởng mình đang trong thời kỳ trung cổ và sợ bị...lên dàn hỏa.

Chúng ta thấy chưa ? Nhờ vậy mà dần dà xuất hiện vài cái đuôi của những con chiên cuồng tín tội nghiệp !
avatar
abc 31/03/2010 19:49:58
Bạn tong van dien ơi, tác giả bài này đã tìm hiểu đạo Chúa với cách nhìn vô cùng trực quan, không thành kiến và phiến diện chút nào. Có thể bạn không chịu nỗi lời nói khác với niềm tin của mình, nhưng tôi tin bạn sáng suốt có thể nhìn ra cái tâm trong sáng của tác giả. Nói ra sự thật không phải dễ, vì lời thật mất lòng. Nhưng tác giả đã không vì bản thân mình, mà chỉ vì sự thật, một sự thật sẽ giải phóng tất cả chúng ta.
Nếu bạn thấy tác giả có nói điều gì đầy thành kiến và phiến diện, nhìn đạo Chúa không trực quan thì bạn có thể viết một bài dài, phân tích tỉ mỉ và chỉ ra chỗ nào không đúng một cách rõ ràng, rồi gởi cho trang nhà Đạo Phật Ngày Nay, yêu cầu đăng tải. Tôi tin chắc một ngàn phần trăm là trang nhà này sẽ đăng tải đầy đủ. Bạn nên bàn luận nhiều đi, vì có rất nhiều người đang muốn nghe đấy. Dù chúng ta không cùng lí tưởng,không cùng quan điểm, nhưng sự thật chỉ có một. Sự thật sẽ làm cho cách nhìn không còn gây bất đồng nữa.
Thân
avatar
bích tâm 01/04/2010 00:05:48
Chào các bạn! Lần đầu tiên mình đến chỗ này. Thấy ko khí sôi nổi quá. Mình góp ý với các bạn nhe. Theo mình biết thì Tôn giáo nào cũng muốn tốt cho nhân loại thôi. Nhưng tùy thời, tùy hoàn cảnh, thời gian, phong tục tập quán, cái nhìn định kiến xã hội, trào lưu thay đổi ko ngừng. Trong quá trình đó có những tín đồ và tu sĩ , đệ tử xuất gia và tại gia, trí thức...đã có phần chỉnh sửa đôi chút ko còn nguyên bản 2550 lịch sử. có ai biết chuyện gì đã xảy ra ko? hay chỉ toàn đoán cả thôi. Kinh sách, tin đồn, lời nói, chữ nghĩa, ngôn ngữ... có đúng 100% ko? hay đã bị chỉnh sữa ,thay đổi, thêm bớt ít nhiều rồi? Có khi tôn giáo này chỉ đứng ở góc độ này ko đứng ở góc độ khác. Nhìn về mặt tốt quên mặt xấu... Nhưng chân lý thì ko bao giờ thay đổi. Đó là gì? Chân lý thật sự của cả vũ trụ nhân sinh là có nhân quả (= làm ác thì ko ai thích mình hết, ở hiền thì người ta thương), tái sinh, luân hồi ( khoa học hiện đại của Mỹ, nhật, thế giới đã chứng minh), vô thường =có sinh già bệnh chết, khổ, ko hài lòng. Thân thì thay đổi từ nhỏ đến lớn, già chết, Tâm thì lúc buồn, vui, khổ ,sướng, giận...thay đổi ko ngừng, ko cố định = vô ngã, và tất cả chúng sanh đều có tánh Phật =A DI ĐÀ = vô lượng thọ = vô lượng quang = thường tịch quang= nguồn năng lượng tình yêu trong sáng,phục vụ vô điều kiện ,bình đẳng, sáng suốt, bất sanh. Nếu ko có tình yêu, ko có sự phục vụ thì có cái gì xảy ra trong vũ trụ ko? Tất cả những giáo lý Phật thích Ca đưa ra đều đầy đủ và hợp với chân lý, hợp với con người và khoa học hiện đại. Cái nhất thừa mà Phật nói chính là Tánh Phật = Chân tâm= nguồn năng lượng bất sanh này. Chứ ko phải 1 đấng chúa trời có thân xác của 1 con người đâu. Ngày xưa 2500 năm về trước và lâu hơn thế nữa con người chưa có vải mặc, thiếu vải, cho nên người ta tu khổ hạnh ,đạo chúa bị ảnh hưởng của đạo jain, tu sĩ khổ hạnh ko mặc quần áo. rồi về cõi thiên đường cũng ko mặc quần áo, cho rằng tứ đại giai ko, ko cần tiền, ko cần quần áo, ko cần tình yêu...nhưng ngày nay hiện đại con người sáng chế ra vải rồi. Nếu được lựa chọn, bạn nghĩ xem chúng ta nên về cõi cực lạc, hay cõi trời mặc quần áo hay ko? Cõi trời hay cực lạc ở vô hình đều có thần thông biến hóa quần áo. Tại sao cố chấp đến như vậy ,chỉ thích thiên đàng ko mặc quần áo thôi hả? Thời đại thay đổi, con người thay đổi. Chúng ta cũng nên thay đổi sửa đổi lại chút ít gì giống chân lý đi chứ. Giữ hoài cái cũ rích làm sao được. Có thể nói đạo giác ngộ = Phật là tôn giáo hoàn hảo nhất thuộc loại trình độ cao cấp ,đầy đủ chân lý, khoa học, con người, cõi hữu hình và vô hình. Còn giáo lý của các tôn giáo khác có phần ko đầy đủ lắm, tuy nhiên vẫn có những chỗ giống nhau là muốn tốt cho chúng sanh, chỉ là dùng ko đúng cách mà thôi. Ví như Phật là 1 tiến sĩ trình độ cao. Còn Chúa hay các tôn giáo khác thì cũng là Thầy thạc sĩ, đại học gì đó. Nhưng cách dạy của các vị Thầy ko hợp nhau, ko giống nhau. Giáo án ko giống, Trình độ ko giống nhau. Các đệ tử của Phật thuộc loại sâu sắc, trí tuệ cao siêu nên ko thể nào chấp nhận quay về cấp 3 học được. Còn các tín đồ đạo Chúa nhân duyên ít hơn nên họ chỉ thích đạo chúa hay đạo khác. dù sao thì chúng ta cũng nên nhìn nhận khách quan mọi khía cạnh, mọi góc nhìn 1 cách bình đẳng và sáng suốt nhất. Với sự tự mình trãi nghiệm. Chính mắt thấy ,tai nghe thì hãy tin. đừng nghe ai nói hay tin đồn. còn về đạo Phật thì đã được khoa học thế giới hiện đại chứng minh khá nhiều rồi. Và hàng triệu đệ tử của Phật thích ca xưa và nay chứng minh bằng trãi nghiệm.Những ai tuy chưa thể chứng ngộ được thì cũng có thể suy gẫm bằng chân lý của nhân loại để kiểm chứng. Chúng ta nên thông cảm cho nhau, và bắt tay làm hòa với nhau. Tìm ra con đường chung lý tưởng nhất. Hãy chấp nhận những chỗ đúng của nhau đi. Những cái gì xưa củ xin các bạn nên bỏ qua ko nên cố chấp quá. Quy luật là do con người đặt ra. thì cũng phải do chính con người thay đổi lại. Điều này chỉ có các vị cấp cao của tôn giáo thay đổi được thôi. Nhưng họ sẽ ko bao giờ làm vậy bởi vì cái tôi tôn giáo . Trừ khi có Vị siêu nhiên nào đó xuất hiện hóa phép biến tới biến lui ,kỹ xảo thế nào đó, quyền uy tối thượng thế nào đó thì may ra họ mới chịu thay đổi. Đạo Phật là trí tuệ nên ko tin thần thông kiểu đó ,nó giống tà hơn, ko hợp đạo chánh thống. Còn các tôn giáo khác thích phép chúa trời ,thượng đế, ngọc hoàng đại đế, nữ thần... lắm. Các bạn có thể vào web " câu hỏi pháp âm đạo phật ngày nay" nghiên cứu thêm các bài viết của bích tâm để có thêm duyên mới trên con đường giác ngộ giải thoát của các bạn.
Reply Tán thành Không tán thành
-7
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
songhoang 07/05/2010 11:08:04
Bức xúc quá đi! Mấy anh công giáo thì cái gì về chúa cũng đúng, phúc cho ai không biết mà tin, vậy mà tối ngày đòi tự do công luận, bình đẳng, bác ái. Vô nhà thờ là buồn ngủ. Cha cố với con chiên như là cha con thật vậy. Bắt mình gọi Cha nữa chứ. Mình không theo đạo thì coi như khổ vợ đủ đàng. Amen!
Vì "chim" theo chúa.
Một đời đau thương!!!
avatar
Diệu Ngọc 07/05/2010 16:22:41
Bạn songhoang ơi, vậy thì cố lên!

Lúc đầu sợ cho vợ bị nhà thờ làm khổ, nên bạn có thể làm ra vẻ tin chúa, ngoan đạo cho yên thân vợ bạn. Nhưng coi chừng đó, giả quá hóa thật thì khổ cho bạn và các con bạn sau này. Bạn nên trông ngó các con, đừng để cho chúng bị nhuộm đen rồi sau khó tẩy.

Không có gì không thể chuyển hóa được. Bạn có thể từ từ chuyển hóa tâm thức của vợ bạn, nước chảy đá mòn. Không cần thay đổi tôn giáo của ai, chỉ cần người đó biết lẽ phải, bớt "vâng phục" mù quáng cha cố, tự suy nghĩ đúng sai theo lương tâm của mình.

Và nhất là khi các con của bạn lớn lên, đến tuổi kết hôn, nếu chúng yêu người khác đạo, bạn phải đủ mạnh dạn để không bắt ép người khác theo đạo như bạn bây giờ.
Thân
avatar
ngoc bich 12/05/2010 00:21:39
Đạo Phật là đạo yêu đời, là lòng từ bi, là hỷ xả cho chúng sinh. Không ép buộc một ai, Phật là người soi sáng cho chúng sinh, Ngài không ban phước hay giáng họa cho một ai. Ngài yêu thương chúng sanh như nhau. Tôi nguyện đi theo lời dạy và học sự tịnh thức, lòng từ bi hỷ xả của Đức Phật cho hết trăm ngàn muôn kiếp. Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
Reply Tán thành Không tán thành
10
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
công thành 02/04/2012 07:50:20
Đức Phật nói: Kính Phật là điều đại thiện, niệm Phật ( A DI ĐÀ PHẬT ) quan trọng hơn, giúp cắt hết lưới nghi,dứt hết nguồn ác đi khắp 3 cõi không bị chướng ngại,độ người chưa độ! "kinh Vô Lượng Thọ".
"Thời mạt pháp, ức ức người tu hành khó tìm ra 1 người chứng đắc, chỉ nương theo pháp môn Niệm Phật mà thoát khỏi tử sanh luân hồi" (kinh Đại Tập).
avatar
Tony Teo 17/05/2010 20:59:59
Tôi cực lực phản đối các tôn giáo du nhập từ nước ngoài. Đạo Thiên Chúa từ Phương Tây, đạo Hồi từ Ả Rập, Nho giáo từ Trung Quốc và ... đạo Phật từ Ấn Độ. Dẹp hết đi!
Reply Tán thành Không tán thành
-12
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Quang Đạt 18/05/2010 07:16:32
Tác giả Trần Chung Ngọc viết trích dẫn tư liệu khá dài …nhưng không có giá trị gì về lịch sử . Ngay cả cuộc đời Chúa Giê Su rất rõ ràng qua Kinh Thánh mà tác giả dẫn chứng các sách vỡ hết sức mù mờ , sai lệch.

Đức Phật cũng không hề muốn đề cao như tác giả nghĩ bởi đạo Phật xuất phát từ sự hoàn toàn tự nguyện tu tập để đạt được sự an lạc hạnh phúc . Hệ thống kinh điển phát triển Đại Thừa sau này gây tranh cãi rất nhiều cho các nhà nghiên cứu sử học bởi giáo lý đó xuất phát không do Phật thuyết.

Mọi sự so sánh về tôn giáo đều là khập khểnh , giống như râu ông này cắm càm bà kia vậy.
Reply Tán thành Không tán thành
-19
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Tony Teo 18/05/2010 10:13:56
bạn songhoang nói xạo quá đi nha! Hổng chứng songhoang với Dieu Ngoc là một à nha!

Thương vợ gì mà đi nói xấu đạo của vợ mình vậy hả? nghe là biết nói xạo rồi. chán songhoang quá!
Reply Tán thành Không tán thành
-2
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Quang Đạt 22/05/2010 13:28:05
Nếu bạn songhoang không thích đạo TC của vợ thì đạo ai nấy giữ , đâu có ai ép buộc ta được. Đạo TC là đạo mà phép lạ được thể hiện nhiều nhất trên thế giới cho đến ngày nay các hiện tượng phép lạ vẫn đang xảy ra và khoa học không giải thích được. Như Phật giáo Tây tạng với hiện tượng tái sinh của các vị Lạt Ma mà các nước phương tây phải tin phục là có sự luân hồi.

Chúng ta cứ nghĩ nếu các tôn giáo lớn như Phật giáo , đạo TC biến mất không có mặt trên đời thì thế giới này con người sẽ tàn bạo ra sao. Tất cả mọi phạm trù đạo đức xã hội đều không thể bằng đạo lý của các tôn giáo này . Chính giáo lý của các tôn giáo đã hướng thiện con người sống nhân ái , tốt lành , thánh thiện hơn , giúp ích cho cộng đồng xã hội.

Tác giả Trần Chung Ngọc nhận định về đạo TC thật là phiến diện , nông nỗi và đầy thành kiến. Bất cứ ai đọc Kinh Thánh Tân Ước thì sẽ thấy lời Chúa là chân lý , là sự thật , là sự sống . Không ai có thể sửa , bắt bẻ dù là một câu trong Kinh Thánh Tân Ước. Đủ thấy lời nói của Chúa hoàn hảo đến mức độ nào. Khác với Cựu Ước mà Hồi giáo dựa vào đó với bộ kinh Coran đầy tính bạo lực trong đó. Đến thời đại ngày nay Hồi giáo vẫn còn thực thi ném đá đàn bà ngoại tình , chặt tay chặt chân kẻ trộm cắp. Thật là hành động dã man đối với xã hội văn minh ngày nay.

Chính Hồi giáo đã tiêu diệt thãm sát Phật giáo Ấn Độ nhưng tác giả Trần Chung Ngọc lại không đề cập gì đến cả. Đạo TC đã mang văn minh đến cho nhân loại , thử hỏi lịch sử Hồi giáo đã mang lợi ích gì đến cho thế giới . Cho đến ngày nay thế giới này bất an , bạo động khắp nơi cũng vì Hồi giáo cực đoan gây ra , chứ không phải do đạo TC .

Trong tất cả những bình luận trong đây chỉ có cô Ngọc Bích là nói đúng nhất , có ý nghĩa nhất.

Điều lạ lùng nhất là một trang web có giá trị như thế này lại có một số người bài xích tôn giáo , lại còn so sánh các tôn giáo với nhau , thật là khập khểnh . Điều này không đúng với tinh thần của đạo Phật vốn chú trọng đến lòng từ bi , trí tuệ , hòa bình hòa hợp cộng đồng.

Quang Đạt
Reply Tán thành Không tán thành
-13
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Quang Đạt 23/05/2010 01:28:26
TÔN GIÁO NÀO TỐT NHẤT

Leonardo Boff

Một cuộc đối thoại ngắn diễn ra giữa một lý thuyết gia người Ba Tây tên là Leonardo Boff và Đức Đạt Lai Lạt Ma. Leonardo Boff được biết là một trong những nhà Thần học người chủ trương khôi phục sự Tự Do trong thế giới ngày nay.

Ông tường thuật buổi gặp gỡ với Ngài như sau:

"Trong một cuộc thảo luận bàn tròn giữa Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi về Tự Do và Tôn Giáo trong giờ nghỉ. Tôi đã hỏi Ngài một cách hiểm độc, đầy thích thú:

- Thưa Ngài, tôn giáo nào tốt nhất?

Tôi nghĩ Ngài sẽ nói với tôi là: "Đạo Phật của người Tây Tạng" hay "Những tôn giáo Đông Phương sẽ tốt hơn vì nó lâu đời hơn Đạo Thiên Chúa Giáo hay Tin Lành".

Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng lại, im lặng. Ngài mỉm cười nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi rất ngạc nhiên bởi vì tôi biết sự hiểm hóc trong câu hỏi mà tôi đã đặt cho Ngài. Ngài trả lời:

- Tôn giáo tốt nhất là tôn giáo đưa ông đến gần với Thượng Đế nhất. Tôn giáo đó giúp ông ngày càng hoàn thiện hơn.

Để thoát ra khỏi sự bối rối trước câu trả lời khôn ngoan đó, tôi lại hỏi tiếp:

- Điều gì làm tôi trở nên tốt hơn?

Ngài trả lời:

- Bất cứ điều gì làm ông trở nên giàu tình thương hơn, nhạy cảm hơn, ít lệ thuộc hơn, thân thiện hơn, nhân tính hơn, trách nhiệm hơn, đạo đức hơn.... Tôn giáo nào giúp bạn những điều đó, thì đó là tôn giáo tốt nhất.

Tôi đã im lặng trong một khoảnh khắc một cách sửng sốt, ngay cả cho đến hôm nay, mỗi khi nghĩ về những lời giải thích thông minh và chính xác của Ngài:

"Bạn tôi ơi, tôi không quan tâm về tôn giáo của bạn, hay bạn có phải là người có đức tin hay không. Điều thật sự quan trọng đối với tôi là cách hành xử của bạn trước người thân, gia đình, bè bạn, công việc, cộng đồng, và trước thế giới. Bạn hãy nhớ rằng vũ trụ này chính là tiếng vọng từ những hành động và suy nghĩ của chúng ta.

Luật Nhân Quả không chỉ dành riêng cho ngành Vật Lý, mà nó còn bao trùm trong các mối quan hệ giữa con người với nhau. Nếu ta hành động với tâm thiện, ta sẽ nhận được điều thiện đáp trả. Nếu ta hành xử với tâm ác, thì điều ác sẽ quay về với ta.

Những gì tổ tiên ta dạy bảo chúng ta đều là sự thật. Bạn sẽ luôn luôn có những điều mình mong ước. Được sống hạnh phúc không phải là số phận, mà nó là sự lựa chọn."

Cuối cùng, Ngài nói:

"Gieo ý nghĩ, nó sẽ trở thành câu nói
Gieo câu nói, nó sẽ trở thành hành động
Gieo hành động, nó sẽ trở thành thói quen
Gieo thói quen, nó sẽ trở thành tính cách
Gieo tính cách, nó sẽ tạo nên số phận

Và số phận của bạn sẽ là cuộc đời bạn!"

Ngài Đạt Lai Lạt Ma kết luận:

"KHÔNG CÓ MỘT TÔN GIÁO NÀO CAO HƠN SỰ THẬT!"
avatar
KIM SINH 23/05/2010 07:24:21
gữi Quang Đạt,

Hình như bạn không đọc các bình luận phản hồi cho nên bạn tiếp tục lập lại các luận điệu củ.Do đó để khỏi mất công cho tôi và các bạn khác, tôi trích dẫn vài bình luận có sẳn trên trang web này để hầu tiếp .

Xin các bạn có các bình luận được trích dẫn, hoan hỉ tha thứ vì tôi chưa xin phép.

< VỀ HÔN NHÂN KHÁC TÔN GIÁO >

Phương Thuỷ vào lúc 19/05/2010 02:51:24

Quang Đạt giả nai ra vẽ vô tư để làm gì ?
Bạn biết tỏng đâu chỉ học giáo lý và làm lễ ở nhà thờ, còn phải ký giấy cam kết sau này buộc phải để con cái theo đạo chúa. Các đứa bé còn đỏ hỏn sẽ phải nhận tội tổ tông ( tổ tông nào ? chúng đâu có biết )và "được" rữa tội ( tội gì ? khi chúng chỉ biết bú mà thôi ).
Sao lại có cái thứ đạo lý ràng buộc một phía , gieo rắc đau khổ , thế mà vẫn rêu rao "chúa lòng từ" !

thái dương vào lúc 11/04/2010 04:37:22

công giáo luôn bắt buộc đổi đạo mới cho lập gia đình, đó là một điều lệ, tuy nhiên thỉnh thoảng cũng có người ngang bướng không chịu cải đạo chỉ có sinh con thì phải rửa tội.

kẻ ở miền xa vào lúc 15/05/2010 01:13:24

Nếu nói các bạn đạo Chúa tôn kính đức Phật, tôn trọng đạo lý đức phật thì SAO LẠI ÉP BUỘC NGƯỜI PHẬT TỬ CẢI ĐẠO QUA HÔN NHÂN? Chúng ta nên nhìn thực tế chứ không nên nghe những lời sáo rỗng ở chóp lưỡi đầu môi. Nếu nói đạo Chúa là tốt nhất, là bác ái, nhân từ, tình yêu, hòa bình… để người khác theo thì không lẽ đạo Phật lại không có tình yêu thương con người, hòa bình?


< VỀ TCN NHẬN ĐỊNH PHIẾM DIỆN >

abc vào lúc 01/04/2010 09:49:58

Nếu bạn thấy tác giả có nói điều gì đầy thành kiến và phiến diện, nhìn đạo Chúa không trực quan thì bạn có thể viết một bài dài, phân tích tỉ mỉ và chỉ ra chỗ nào không đúng một cách rõ ràng, rồi gởi cho trang nhà Đạo Phật Ngày Nay, yêu cầu đăng tải. Tôi tin chắc một ngàn phần trăm là trang nhà này sẽ đăng tải đầy đủ.

thanhhuyen vào lúc 31/03/2010 17:57:53

Nói lên sự thật,soi sáng nhận thức qua tài liệu lịch sử ,Có dẫn chứng địa chỉ hẳn hoi,minh bạch thì không có gì là "nói xấu " ai cả .

KIM SINH vào lúc 19/05/2010 00:53:50

Có lửa mới có khói. Đứng trước sự bôi bác dân tộc mình, thóa mạ văn hóa của ông cha mình mà vẫn ngậm tăm mới là thành tâm thiện ý hay sao ? Chỉ có bọn người phi tổ quốc, phi dân tộc mới nghĩ như vậy.

Bạn đã viết :"nên xem xét cả hai mặt của nó..." thì đúng ý tôi quá, tôi không "khích tướng" mà chính vì muốn biết mặt thứ hai của nó mà thôi . Rất tiếc bạn lại cho rằng mặt thứ hai của nó không có ý nghĩa gì.


< VỀ TÂN ƯỚC >

Kiều Uyển Hoa vào lúc 06/03/2010 09:53:45

Jésus dạy Đạo cho tông đồ của mình dữ dằn thế này: "Phàm ai không theo ta thì nghịch cùng ta (Luca 11.23) Còn như những kẻ nghịch cùng ta, không muốn ta cai trị họ, hãy kéo họ đến đây, và chém đi trước mặt ta (Luca 19.27)" Và suốt bao nhiêu thế kỷ, các tín đồ Gia-tô giáo đã trung thành với lời dạy này, đi săn lùng tìm giết người khác đạo, tổ chức những cuộc "thánh chiến" hòng tiêu diệt những người khác tôn giáo, không chịu làm con chiên cho nhà thờ "chăn dắt".

duy linh vào lúc 11/04/2010 16:13:00

Hãy đem những kẻ thù của ta ra đây những kẻ không để ta ngự trị trong họ,và hãy giết chúng ngay
(các bạn đã tuân lệnh và đã thực hành chưa)
-ĐỪNG TƯỞNG RẰNG TA XUỐNG TRẦN ĐỂ MANG LẠI HÒA BÌNH TRÊN TRÁI ĐẤT. TA KHÔNG XUỐNG ĐÂY ĐỂ MANG LẠI HÒA BÌNH MÀ LÀ GƯƠM GIÁO. VÌ TA XUỐNG ĐÂY ĐỂ LÀM CHO CON CHỐNG LẠI CHA, CON GÁI CHỐNG LẠI MẸ, CON DÂU CHỐNG LẠI MẸ CHỒNG, VÀ KẺ THÙ CỦA CON NGƯỜI Ở NGAY TRONG NHÀ HẮN.
-22: 18: NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC ĐỂ CHO MỘT PHÙ THỦY(ngoại đạo) ĐƯỢC SỐNG SÓT [King James Version:
- Luke 14, 26: Nếu kẻ nào đến với ta mà không "căm ghét" cha mẹ, vợ con, anh chị em, và ngay cả đời sống của hắn, thì hắn không thể là môn đồ của Ta.
-Đừng tưởng Ta đến để đem hòa bình cho thế giới. Không, Ta đến để chia loài người làm hai. Từ đây, một nhà có năm người sẽ chia rẽ chống đối nhau: hai chống ba, và ba chống hai. Mâu thuẫn sẽ diễn ra giữa con trai với cha, con gái với mẹ, con dâu với mẹ chồng.

Diệu Ngọc vào lúc 10/05/2010 10:16:15

Thiên Chúa rất yêu thương con người, nhưng con người nào? Đó là những con người chịu tin Chúa, chịu làm tôi tớ Chúa, chịu làm con chiên của Chúa, bảo sao nghe vậy.
Nhưng Thiên Chúa không chấp nhận những người khác: những người tự do, những người có lý tưởng khác, có niềm tin khác, thờ "thần" khác, và dạy là phải tiêu diệt họ đi; kinh thánh nói rõ như vậy, từ cựu ước tới tân ước.

Đó không phải là lời dạy suông, mà đã thành hiện thực. Có biết bao nhiêu thế hệ tín đồ TCG đã làm đúng như vậy, gây đổ máu, gây thảm họa cho nhân loại suốt nhiều thế kỷ.

kẻ ở miền xa vào lúc 11/05/2010 00:35:52

Tân Ước, Matthew 15: 21-28:
"Thế rồi Giê-Su đi tới vùng Tyre và Sidon. Và có một người đàn bà người Canaan đến từ vùng đó và kêu với Giê-Su "Hãy thương tôi, Chúa ơi, Con của David. Con gái tôi đang bị quỷ ám nặng." Nhưng Người không thèm trả lời bà ta một tiếng. Và các đệ tử của Giê-Su tới và yêu cầu Giê-Su: "Hãy đưổi bà ta đi, vì bà ta cứ kêu cứu cùng chúng ta." Nhưng Giê-Su trả lời: "Ta được phái xuống đây chỉ để cứu dân Do Thái mà thôi." Rồi người đàn bà kia tới và thờ phượng Giê-Su và nói: "Chúa ơi, hãy giúp tôi." Nhưng Người trả lời: "Lấy bánh của con dân Do Thái mà ném cho mấy con chó nhỏ ăn thì thật là chẳng tốt tí nào." Và người đàn bà kia nói: "Đúng vậy, Chúa ơi, nhưng dù là những con chó nhỏ thì chúng cũng được ăn những mảnh bánh vụn rơi vãi từ trên bàn của chủ chúng xuống chứ." Rồi Giê-Su trả lời: "Ô, Bà Già! Lòng tin của bà thật là lớn lao! Thôi tôi cũng chiều theo ý bà." Và con gái bà ta hết bị quỷ ám ngay từ gìờ phút đó."

Phương Hải vào lúc 08/03/2010 12:30:51

Trong "thánh kinh Ma-thi-ơ" 21.18-22", có ghi: "Sáng mai khi trở lại thành thì Ngài đói. Thấy một cây vả ở bên đường, Ngài bèn lại gần, song chỉ thấy những lá mà thôi, thì Ngài phán cùng cây vả rằng: Mầy chẳng khi nào sanh ra trái nữa! Cây vả tức thì khô đi. Môn đồ thấy đều (điều) đó, lấy làm kỳ, nói rằng; Cớ sao trong giây phút mà cây vả liền khô đi vậy? Đức Chúa Jésus đáp rằng: Quả thật ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi có đức tin, và không nghi ngờ chi hết, thì chẳng những các ngươi làm được đều (điều) đã làm cho cây vả mà thôi, song dầu các ngươi biểu hòn núi nầy rằng: Hãy cất mình lên và quăng xuống biển, đều (điều) đó cũng sẽ làm được. Trong khi cầu nguyện, các ngươi lấy đức tin xin việc gì bất kỳ, thảy đều được cả."
Trong trích đoạn trên, ta thấy những điều "hay" như sau:
1. Thứ nhứt là Chúa Jésus cũng đói. Nhưng không giống như chúng ta, không biết biến hóa gì. Trái lại Chúa Jésus đã từng làm "phép lạ": biến bánh và cá từ ít thành nhiều; biến nước lã thành rượu. Tại sao Chúa không biến một thứ gì đó làm thực phẩm cho mình, mà phải tìm trái vả trên cây vả trái mùa nên không có trái, đến nỗi sinh tức giận mà rủa sả làm cho cây vải chết khô.
2. Thứ hai là Chúa Jésus đã phán rõ ràng rằng nếu các tín đồ của Ngài tin Ngài thì có thể rủa cho cây vả chết khô; thậm chí có thể ra lệnh cho hòn núi tự cất mình lên và tự quăng mình xuống biển.
Nhưng trong hàng tỷ tín đồ của Ngài, từ Giáo hoàng cho đến con chiên thấp nhất, có ai làm được như vậy chưa? Vậy phải kết luận sao đây?

Bùi Thúc Định vào lúc 19/04/2010 07:54:39

Bạn hỏi: "Nhưng xin hỏi TG rằng: tác giả đã biết gì về chú giải kinh thánh chưa?". Thú thật với bạn là tôi có đọc. Nhưng tôi không thể tiêu hóa nổi những sự chú giải đó. Thí dụ:

MA-THI-Ơ: 10: 34-Chớ tưởng rằng ta đến để đem bình an cho thế gian; ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm dáo. 35-Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, con dâu với bà gia; 36-và người ta sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình. 37-Ai yêu cha mẹ hơn ta thì không đáng cho ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn ta thì cũng không đáng cho ta;

Trong câu này Chúa nói rất rõ: "CHỚ TƯỞNG RẰNG........, TA ĐẾN ĐỂ.......Rõ ràng là "mục đích" Chúa xuống trần là để làm những việc đó. Vậy mà các Cha giảng là ý Chúa không phải như vậy. Ý Chúa là sau khi nghe Chúa giảng đạo thì có người tin, có người không tin nên chống đối nhau (hậu quả)

Nhu Tam Thanh vào lúc 13/05/2010 11:24:24

Cái tôn giáo mà suốt chiều dài năm tháng chỉ làm có mỗi việc la "xưng thú tội lỗi " , "thống hối hiếp dâm" ...chưa kể vô số sửa sai ,chỉnh lý chính cái "chân lý" của mình cho phù hợp với từng thời đại ; thử hỏi những ai có chút tư duy đứng đắn có còn nhìn tôn giáo này bằng nhãn quan nghiêm túc,đừng nói chi đến trân trọng .


< ĐẠO TC VÀ VĂN MINH NHÂN LOẠI >

Bùi Thúc Định vào lúc 11/05/2010 07:02:43

" Văn minh Âu Mỹ là nền văn minh Ki Tô??
Chúng ta đã thấy những chính sách đốt sách vở của Công giáo, chính sách tiêu diệt các nền văn hóa địa phương, giết người ngoại đạo, bách hại dân Do Thái, và đàn áp các khoa học gia vì những khám phá của họ ngược với Thánh Kinh v..v.. Vậy nền văn minh KiTô là nền văn minh nào, có phải là nền văn minh hiện thời không? Có bao nhiêu khoa học gia, tư tưởng gia, triết gia tuyệt đối tin vào KiTô giáo đã đóng góp cho nền văn minh hiện đại và đóng góp những gì? Hay là nền văn minh hiện đại bắt nguồn từ những khoa học gia bị Giáo hội bạo hành, rồi phát triển qua những khoa học gia, tư tưởng gia mà giáo hội đã không còn quyền hành để thiêu sống hay bắt giam nữa.
Chúng ta cũng đã biết, khi Giáo hội Công giáo La Mã nắm quyền thống trị ở Âu Châu thì đã kéo bức màn "man rợ và đen tối trí thức" phủ lên Âu Châu trong 10 thế kỷ. Sau thời đại hắc ám này, chúng ta thấy xuất hiện ở Âu Châu những thời đại Phục sinh (Renaissance), thời đại Khai sáng (the age of Enlightenment), thời đại lý trí (the age of reason), thời đại cách mạng khoa học (the age of scientific revolution), thời đại phân tích (the age of analysis), thời đại kỹ nghệ (the industrial age) v...v... Tất cả những thời đại này lập thành nền văn minh hiện nay của Tây phương, và lịch sử đã chứng minh rằng, Giáo hội Công giáo đã hết sức ngăn chặn sự phát triển trí thức của nhân loại này nhưng đã hoàn toàn thất bại. Các đại tư tưởng gia Tây phương như Voltaire, Montesquieu, Rousseau, Victor Hugo, Thomas Paine v...v.. là những người đi tiên phong trong vấn đề cải cách xã hội, đề xướng quyền tự do và nhân quyền của con người. Tác phẩm của họ đều bị Giáo hội giam chặt trong cái gọi là "danh sách những tác phẩm cấm tín đồ đọc" (Index of banned books). Những khoa học gia tiên phong của cuộc cách mạng khoa học như Copernicus, Kepler, Bruno, Galileo v...v... đều bị Giáo hội dùng "sự ngu dốt và bạo quyền khống chế sự thật" giam cầm hoặc thiêu sống. Vậy, có thể tin được chăng, nền văn minh Tây phương là nền văn minh Ki Tô? "

Diệu Ngọc vào lúc 08/05/2010 10:48:27

Bạn tự hào là nền văn minh khoa học là do những người Gia-tô mang lại chứ gì? Bạn ơi, kiến thức của bạn về chính tôn giáo của bạn còn mù mờ vô cùng. Tôi chắc là bạn chưa từng đọc kỹ thánh kinh dù là tân ước hay cựu ước mà bạn chỉ biết thánh kinh qua những lời giảng hoa mỹ của các cha nhà thờ mà thôi. Và nhất là bạn chưa biết tí gì về lịch sử châu Âu và châu Mỹ đã từng run sợ rên siết trong bàn tay sắt của giáo hội Gia tô.
Bạn không hề biết là nhà thờ đã thiêu sống các nhà khoa học thời đó có phát kiến khác với quan niệm của nhà thờ (như khoa học gia Bruno), đã săn lùng và thiêu sống những ngưới mà họ cho là phù thủy, đã ngăn cản sự phát triển khoa học như thế nào, đã thiêu sống nữ anh hùng của dân tộc Pháp là Jeanne d'Arc để rối mấy trăm năm sau lại trơ trẻn phong thánh cho bà này. Rồi bạn cũng chẳng biết là tay Nguyễn Trường Tộ có mặt trên tàu chiến Pháp lúc tàu này bắn phá Đà Nẳng. Tóm lại bạn chẳng biết gì hết.

khách qua đường vào lúc 05/05/2010 00:56:01

VẬY BẠN THẤY ĐƯỢC BAO NHIÊU NHÀ BÁC HỌC PHẢI LÊN GIÀN HỎA THIÊU, PHẢI TỬ VÌ KHOA HỌC DO CÁI ĐẠO CHÚA, ĐẠO CỦA TÌNH YÊU, BÁC ÁI NHÂN TỪ GÂY RA???

PHƯƠNG THUỶ vào lúc 01/05/2010 02:47:37

-- Nước Mỹ từ đâu mà có : Nước Mỹ có là do “ bọn thờ chúa ” từ châu Âu đến xâm lược ; nước Úc của ông cũng thế thôi. Nước Việt của chúng tôi cũng bị bọn đó xâm lược, nhưng chúng tôi đã tống cổ chúng hết sạch rồi.

-- Trên tờ đô-la có in chữ gì : có in “ we trust in God ” . Chính bọn “ trust in God ” đã cướp đất, tàn sát dân bản địa châu Mỹ , và bắt dân châu Phi làm nô lệ . Chính bọn chúng đã xâm lược nước tôi , thả bom , rải chất độc màu da cam sát hại hàng triệu dân chúng tôi .

tôi không hiểu vào lúc 05/05/2010 00:03:14

- Thiên Chúa đòi hỏi và chấp nhận giết người để tế Thiên Chúa (Leviticus 27; Judges 11; 2 Samuel 21).

- Thiên Chúa giết đứa con đầu lòng trong mọi gia đình Ai Cập (Exodus 12)

- Thiên Chúa chấp nhận nô lệ (Exodus 21; Leviticus 25)

- Thiên Chúa chấp nhận việc bán con gái làm nô lệ (Exodus 21)

- Thiên Chúa ra lệnh giết các phù thủy và những kẻ lạc đạo (Exodus 22)

- Thiên Chúa xử chết những người vi phạm ngày lễ Sabbath (không nghỉ làm việc ngày thứ Bảy) (Exodus 31)

- Thiên Chúa giết 70000 người trong một dịch hạch do chính Chúa tạo ra (2 Samuel 24)

- Thiên Chúa cho 2 con gấu cắn nát 42 đứa trẻ vì chúng chế riễu nhà tiên tri Elisha (2 Kings 2)

- Thiên Chúa tạo ra hồng thủy giết chết mọi người và mọi sinh vật, chỉ chừa lại gia đình tên say rượu Noah và giống vật mỗi thứ một cặp, vì Chúa thấy loài người, do chính Chúa “sáng tạo” ra, tội lỗi (Genesis 6) [Dưới con mắt cận thị của Thiên Chúa thì con người sa ngã, mang tội với Thiên Chúa, do đó Thiên Chúa tạo ra Hồng Thủy để giết hại hầu hết loài người. Nhưng thử hỏi, tại sao Thiên Chúa lại giết cả mọi sinh vật hoàn toàn vô tội, gồm có nhiều triệu chủng loại khác nhau, khi chúng do chính Chúa “sáng tạo” ra và không hề làm điều gì trái với ý của Thiên Chúa?]

- Thiên Chúa ra lệnh giết vợ con, anh em nếu họ theo tôn giáo khác (Deuteronomy 13)

- Thiên Chúa xử chết những đứa trẻ nào không cắt miếng da đầu dương vật (Genesis 17)

- Một học giả trên Internet đã đếm được là trong Thánh Kinh Thiên Chúa đã giết trên 2 triệu người, đó là con số đếm được, trong khi Satan chỉ giết có 10 người, với sự đồng ý của Thiên Chúa, trong vụ đánh cuộc về trường hợp của Job.

Kiều Uyển Hoa vào lúc 17/03/2010 16:30:06

Nếu các bạn biết đạo Ca-tô bên châu Âu đã từng tổ chức bảy cuộc "thánh chiến" hòng tiêu diệt người Hồi giáo; nếu các bạn biết giáo hội Ca-tô đã từng ra lệnh thiêu sống hàng ngàn người trên dàn hỏa chỉ vì cho là họ theo "tà giáo" (tức là không tin Chúa của Ca-tô giáo); nếu các bạn biết giáo hội Ca-tô đã hàng nghìn năm kềm hãm sự phát triển của khoa học ở châu Âu; nếu các bạn biết là Công giáo La mã và Tin lành cùng thờ một Chúa Jésus mà lại bắn giết nhau dã man; nếu các bạn biết các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của nghĩa sĩ Việt Nam trước đây thất bại vì sự phản bội của một bộ phận cuồng tín vì tôn giáo; nếu các bạn biết chỗ nào mà người Ca-tô chiếm đa số thì những người Phật tử hay những người không theo Ca-tô giáo không còn đất sống; nếu các bạn biết Vatican đã phân chia nhiệm vụ cho các nước châu Âu (như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Hà Lan ...) đi xâm chiếm các nước châu Á để làm thuộc địa hầu truyền đạo và bóc lột; nếu các bạn biết ...

Trung Việt vào lúc 14/05/2010 09:32:52

; còn những đau thương, chết chóc, thảm họa mà tôn giáo mang lại cho nhân lọai thì mặc kệ phải không? Còn việc họ nô lệ hóa người khác, dẫn bước thực dân đi xâm chiếm thuộc địa thì không cần nhìn thực tế phải không?

Đâu phải tự nhiên mà Giáo hoàng xưng thú 7 núi tội lỗi, kêu gọi giáo hội thống hối?

kẻ ở miền xa vào lúc 11/05/2010 00:35:52

tôi cũng cho rằng trước khi Giê Su có mặt trên Trái đất này thì con người đã tồn tại, và cũng xuất hiện các nền văn hóa cổ đại. Trước khi người phương Tây đem Chúa vào nước ta, thì người dân Đại Việt đã có chữ viết riêng, nền văn hóa riêng rồi, các nước ấn Độ, Trung Hoa cũng vậy. Thưa bạn, người Phương Tây đã du nhập nền văn hóa, chữ viết, tín ngưỡng khác vào nước ta là do muốn biến nước ta thành thuộc địa, biến người dân An Nam phải cúi mình trước quốc mẫu Pháp.
bên đạo của bạn tôn trọng tôn giáo khác như thế nào thì bạn phải biết rõ hơn ai hết. Còn gì tôn trọng các tôn giáo khác hơn là gọi các tôn giáo khác là Đạo Bụt Thần Ma Quỷ, đòi chém ngã THẰNG THÍCH CA, và xuất bản những truyện tranh bôi bẩn các tôn giáo khác:

Phương Thủy vào lúc 10/05/2010 10:40:09

Người Việt tự hào có tổ tiên cùng sinh ra từ một bào thai(đồng bào) ; Người Do Thái tự hào cùng là cháu chít của Adam-Eva ,thì tôi đã hiểu từ lâu.

Còn có người Việt ( không chối cải được ) lại nhận Adam-Eva là tổ tiên và nhận luôn cái tội tổ tông , thì ai hiểu được hãy bình giảng cho mọi người sáng tỏ.

Diệu Ngọc vào lúc 10/05/2010 10:16:15

Thiên Chúa rất yêu thương con người, nhưng con người nào? Đó là những con người chịu tin Chúa, chịu làm tôi tớ Chúa, chịu làm con chiên của Chúa, bảo sao nghe vậy.
Nhưng Thiên Chúa không chấp nhận những người khác: những người tự do, những người có lý tưởng khác, có niềm tin khác, thờ "thần" khác, và dạy là phải tiêu diệt họ đi; kinh thánh nói rõ như vậy, từ cựu ước tới tân ước.

Đó không phải là lời dạy suông, mà đã thành hiện thực. Có biết bao nhiêu thế hệ tín đồ TCG đã làm đúng như vậy, gây đổ máu, gây thảm họa cho nhân loại suốt nhiều thế kỷ.

Phương Thuỷ vào lúc 14/05/2010 10:42:02

Nhiều người Việt Nam mơ hồ cho rằng có một nền văn minh thiên chúa giáo là ân nhân của nhân loại, là cha đẻ của nền khoa học Âu Mỹ, là hiệp sĩ khai hóa cho phần thế giới còn lại.

Sự thật như thế nào ? Hãy để cho chính danh nhân trí thức Âu Mỹ xưa và nay phát biểu qua bộ sưu tập sau đây. ( từ “ tôn giáo ” trong các phát biểu mặc định chỉ cho độc thần giáo của Âu Mỹ, không dính dáng đến các tôn giáo của Phương Đông ) :

Pope PAUL IV (1476-1559) Giáo hoàng : *Nếu cha tôi là một kẻ lạc đạo, tôi sẽ đích thân đi lượm củi để thiêu sống ông ta (If my own father were a heretic, I would personally gather the wood to burn him.)

Pope GREORY I (540-604) Giáo hoàng : *Niềm hạnh phúc của những người được chọn ở trên thiên đường sẽ không được hoàn hảo trừ phi những người này có thể nhìn xuống địa ngục và thích thú trước những sự đau đớn cùng cực của anh em họ trong ngọn lửa vĩnh hằng. (The bliss of the elect in heaven would not be perfect unless they were able to look across the abyss and enjoy the agonies of their brethen in eternal fire.)

ALBERT EINSTEIN (1879-1955), Khoa học Gia Do Thái, phát minh Thuyết Tương Đối : *Tôi không thể quan niệm một Chúa Ki Tô lại thưởng phạt tạo vật do ông ta dựng nên (I cannot conceive of a God who rewards and punishes his creatures) ; *If people are good only because they fear punishment, and hope for reward, then we are a sorry lot indeed. ; *Tôi không tin vào một ngôi Chúa, tôi chưa hề phủ nhận điều này, mà đã từng diễn đạt điều đó rõ ràng. ( I do not believe in a personal God and I have never denied this but have expressed it clearly.) ; * I cannot imagine a God who rewards and punishes the objects of his creation, whose purposes are modeled after our own -- *Chúa trời, nói ngắn gọn, chỉ là phản ánh sự yếu đuối của con người ( a God, in short, who is but a reflection of human frailty.)

BERTRAND RUSSELL (1872-1970), Triết gia, Nhà Toán học Anh, tác giả cuốn “Why I Am Not A Christian” : * Quan điểm của tôi về tôn giáo giống như quan điểm của Lucretius. Tôi coi nó như là một bệnh chứng xuất phát từ sự sợ hãi và là nguồn gốc của sự khổ sở không thể kể được của loài người (My own view on religion is that of Lucretius. I regard it as a disease born of fear and as a source of untold misery to the human race.) ; *Nếu tôi nhớ không lầm, không có một lời nào trong các Phúc Âm ca tụng sự thông minh (So far as I can remember, there is not one word in the gospels in praise of intelligence.) *Đàn áp tôn giáo được sử dụng trong thần học chứ không ở trong số học (Persecution is used in theology, not in arithmetic.) [ số học : ý nói khoa học ]

ALEXANDRE DUMAS (1802-1870), Văn hào Pháp: *Tín đồ Ca-Tô và Tin Lành, trong khi thiêu sống và giết hại lẫn nhau, vẫn có thể cộng tác để nô lệ hóa những người anh em da đen của họ (Catholics and Protestants, while engaging in burning and murdering each other, could cooperate in enslaving their black brethen.)

CHARLES DARWIN (1809-1882), Khoa học gia Anh, nhà lập thuyết Tiến Hóa : * Khoa học và chúa KiTô chẳng có liên hệ gì với nhau. Tôi không tin đã có một sự mạc khải nào (Science and Christ have nothing to do with each other. I do not believe that any revelation has ever been made).

ARTHUR SCHOPENHAUER (1788-1860), Triết gia Đức : *Bạn có thể ghi nhận là đức tin và kiến thức thì liên hệ với nhau như là hai cán cân; khi cán cân bên này lên thì cán cân kia xuống (You may observe that faith and knowledge are related as the scales of a balance; when the one goes up, the other goes down) ; *Những hoa trái của Ki Tô giáo là chiến tranh tôn giáo, những cuộc tàn sát, những cuộc chiến tranh thập giá, những tòa án xử dị giáo, sự tiêu diệt các thổ dân Mỹ, và đưa những nô lệ Phi Châu vào thay thế (The fruits of Christianity were religious wars, butcheries, crusades, inquisitions, extermination of the natives in America, and the introduction of African slaves in their place) ; *Ca-Tô giáo là tôn giáo lên thiên đường bằng cách cầu xin, vì nó quá phiền toái để tự mình đạt được. Linh mục là những kẻ buôn bán thiên đường (The Catholic religion is an order to obtain heaven by begging, because it would be too troublesome to earn it. The priest are the brokers for it) ; * Mọi tín lý, bất kể là vô lý tới đâu, khi cấy vào con người từ nhỏ, chắc chắn là ở trong đó suốt đời (Any dogma, no matter how extravagantly absurd, inculcated in childhood, is sure to retain its hold for life.)

NAPOLEON BONAPARTE (1769-1821), Hoàng đế Pháp: *Hiệp hội Giêsu là hội nguy hiểm nhất, và đã gây nên nhiều tổn hại hơn tất cả những hội tôn giáo khác (The Society of Jesus is the most dangerous of orders, and has done more mischief than all the others) ; *Kiến thức và lịch sử là những kẻ thù của tôn giáo (Knowledge and history are the enemies of religion) ; *Ở mọi nơi và mọi thời, linh mục đã đưa vào sự gian dối và sai lầm (Priests have everywhen and everywhere introduced fraud and falsehood) .

THOMAS JEFFERSON (1743-1826), Tổng Thống Mỹ : *Trong mọi quốc gia và trong mọi thời đại, linh mục đều đã thù nghịch đối với tự do.(In every country and in every age, the priest has been hostile to liberty); *Thần Ki-Tô là một nhân vật có những tính cực kỳ độc ác, bất khoan dung, đồng bóng , và bất công. (The God is a being of terrific character - cruel, vindictive, capricious, and unjust); * Đã tới 5- 6 mươi năm từ ngày tôi đọc cuốn Khải Huyền, và từ đó tôi coi nó chỉ là những lời điên dại mê sảng của 1 kẻ cuồng điên (It has been 50 and 60 years since I read the Apocalypse, and I then considered it merely the ravings of a maniac).

JAMES MADISON (1751-1836), Tổng Thống Mỹ : *Trong gần 15 thế kỷ, cơ sở hợp pháp của Ki Tô giáo đã được phán xét. Hoa trái của Ki Tô giáo là gì ? Ở khắp nơi, không nhiều thì ít, sự lười biếng và hãnh diện của giới giáo sĩ, sự ngu tối và quỵ lụy của giới tín đồ, sự mê tín, cố chấp và bạo hành trong cả hai giới (During almost 15 centuries has the legal establishment of Christianity been on trial. What has been its fruits? More or less in all places, pride and indolence in the clergy; ignorance and servility in the laity; in both, superstition, bigotry, and persecution.)

ABRAHAM LINCOLN (1809-1865), Tổng Thống Mỹ : *Cả hai [Ca Tô và Tin Lành] đều đọc cùng một cuốn thánh kinh, cầu nguyện cùng một Chúa, và người này viện đến sự giúp đỡ của Ngài để chống lại người kia (Both read the same Bible, and pray to the same God; and each invokes His aid against the other.)

BENJAMIN FRANKLIN (1706-1790), Khoa học gia Mỹ: *Cách nhìn mọi sự việc bằng đức tin là nhắm con mắt của lý trí lại. (The way to see by faith is to shut the eye of reason).

THOMAS PAINE (1737-1809), triết gia Anh, tác giả cuốn sách nổi tiếng Thời Đại Của Lý Trí : *Cuốn Tân Ước dạy chúng ta những gí ? Tin rằng Đấng Toàn Năng phạm tội lăng nhăng với một người đàn bà đã có chồng; và tin vào cái chuyện lăng nhăng này gọi là đức tin. (What is the New Testament teaches us? To believe that the Almighty committed debauchery with a woman engaged to be maried; and the belief of this debaucery is called faith ) ; *Nguồn gốc của sự xấu xa nhất, của những sự độc ác khủng khiếp nhất, và những sự khổ sở to lớn nhất giáng lên đầu nhân loại là ở trong cái gọi là mạc khải, hay tôn giáo mạc khải (The most detestable wickedness, the most horrid cruelties, and the greatest miseries that have afflicted the human race have had their origin in this thing called revelation, or revealed religion); *Tin vào một vị Thần độc ác làm cho con người thành độc ác (Belief in a cruel god makes a cruel man.); *Một thầy giáo giỏi có ích hơn là 100 linh mục (One good school master is of more use than a hundred priests.)

VOLTAIRE (1694-1778), Văn hào, Triết gia .. Pháp : *Ki-Tô giáo là tôn giáo lố bịch nhất, vô lý nhất và đẫm máu nhất làm nhiễm độc thế giới. (Christianity is the most ridiculous, the most absurd and bloody religion that has ever infected the world); *Trong 1700 năm, Ki Tô giáo không làm gì khác ngoài việc gây hại cho nhân loại (For 1700 years, the Christian sect has done nothing but harm; *Những tín đồ Ki-Tô là những người bất khoan dung nhất (Christians have been the most intolerant of all men); *Hãy nghiền nát cái đồ ô nhục (Erasez l’infâme!) [crush the infamous thing - Christianity] ; *Vô thần là thói xấu của một số nhỏ những người thông minh (Atheism is the vice of a few intelligent people); *Thần Ki-Tô luôn luôn ở phía những tiểu đoàn mạnh nhất (God is always on the side of the heaviest battalions); *Tai họa giáng vào thế giới qua tội lỗi của Adam. Nếu cái tên ngu đần ấy không phạm tội, chúng ta đã có thể không bị làm khổ bởi bệnh đậu mùa, bệnh ghẻ, hoặc môn thần học, hoặc đức tin duy nhất có thể cứu rỗi chúng ta (Evil came into the world through the sin of Adam. If that idiot had not sinned, we should not have been afflicted with the smallpox, nor the itch, nor theology, nor the faith which alone can save us.); *Lời của Thần Ki Tô là lời của các linh mục; sự vinh quang của Thần Ki Tô là sự hãnh diện của các linh mục; ý của Thần Ki Tô là ý của các linh mục; xúc phạm Thần là xúc phạm các linh mục; tin vào Thần là tin vào mọi điều linh mục nói (The word of God is the word of the priests; the glory of god is the pride of the priests; the will of god is the will of the priests; to offend god is to offend the priests; to believe in god is to believe in all that the priests tell us.)

ROBERT G. INGERSOLL (1833-1899 ) : *Sự khác biệt giữa đạo Công giáo và đạo Tin lành là gì ? Và đạo nào tốt hơn? Tin lành khá hơn vì có ít chất công giáo hơn [nghĩa là ít độc tài, xảo quyệt, hoang đường hơn], nhưng sự khác biệt giữa đạo Công giáo và đạo Tin lành chỉ là sự khác biệt giữa một con cá sấu lớn và một con cá sấu nhỏ. (What is the difference between Catholicism and Protestantism? and which one is better? Protestantism is better because it is less Catholic, but the difference between Catholicism and Protestantism is only the difference between an alligator and a crocodile .)

FRIEDRICH NIETZCHE (1844-1900), Triết gia Đức : *Thần Ki-Tô đã chết ( God is dead.) *Chúng ta không nên đi đến nhà thờ nếu chúng ta muốn hít thở không khí trong lành (One should not go to church if one wants to breathe pure air.) *Điều nào đúng: con người là một trong những sai lầm của God, hay God là một trong những sai lầm của con người. (Which is it: is man one of God’s blunders, or is God one of man’s blunders ? )

ÉMILE ZOLA (1840-1902), Văn hào Pháp : * Phải chăng khoa học đã thoái lui ? Không phải ! Chính Ca-Tô giáo đã luôn luôn phải thoái lui trước khoa học, và sẽ còn bị bắt buộc phải thoái lui (Has science ever retreated ? No ! It is Catholicism which has always retreated before her, and will always be forced to retreat.)

WILLIAM E. H. LECKY (1838-1903), Sử gia Ái Nhĩ Lan: *Hầu hết Âu châu, trong nhiều thế kỷ, đã bị ngập máu, máu đổ do sự chủ mưu trực tiếp hoặc với sự hoàn toàn chấp thuận của những người có quyền trong giới giáo sĩ (Almost all Europe, for many centuries, was inundated with blood, which was shed at the direct instigation or with the full approval of the ecclesiastical authorities). *Bất cứ khi nào mà giới giáo sĩ, Ca-Tô hay Tin Lành, đứng cạnh thế quyền dân sự, thì kết quả là sự bạo hành (Whenever the clergy were at the elbow of the civil arm, no matter whether they were Catholic or Protestant, persecution is the result.)

SIGMUND FREUD (1856-1939), Nhà Phân tâm Anh : *Tôn giáo giống như là chứng bệnh suy nhược thần kinh của trẻ con (Religion is comparable to a childhood neurosis.) ; *Giáo hội Ca-Tô là đối thủ của mọi tự do tư tưởng (The Catholic Church so far has been the implacable enemy of all freedom of thought.)

GEORGE SANTAYANA (1863-1952), Triết gia Mỹ: *Ki Tô giáo đàn áp tôn giáo, tra tấn và thiêu sống con người. Như một con chó săn, tôn giáo này đánh hơi và truy lùng kẻ lạc đạo. Tôn giáo này gây nên những cuộc chiến tranh, và nuôi dưỡng thù hận và tham vọng. Tôn giáo này thánh hóa sự tận diệt và sự chuyên chế (Christianity persecuted, tortured, and burned. Like a hound it tracked the very scent of heresy. It kindles wars, and nursed furious hatred and ambitions. It sanctified extermination and tyranny..)

CULBERT OLSON, Thống đốc bang California 1938-1943: Tôi không hiểu làm sao mà người nào đọc thánh kinh mà lại có thể tin rằng đó là lời của Thần Ki-Tô, hoặc tin đó không phải là chuyện man rợ của một dân tộc man rợ (I don’t see how anybody can read the Bible and believe it’s the word of God, or believe that it is anything but a barbarous story of a barbaric people.)

FERDINAND MAGELLAN (1480-1521), Nhà hàng hải Bồ Đào Nha: *Giáo hội bảo rằng trái đất thì phẳng dẹt, nhưng tôi biết rằng nó hình cầu, vì tôi đã nhìn thấy bóng nó trên mặt trăng, và tôi tin vào một cái bóng hơn là tin vào giáo hội. (The church says the earth is flat, but I know that it is round, for I have seen the shadow on the moon, and I have more faith in a shadow than in the church)

DENIS DIDEROT (1713-1784), Khoa học Gia Pháp: *Ki-Tô giáo dạy chúng ta phỏng theo một vị Thần độc ác, ngấm ngầm, ghen tuông, và không thể nguôi trong những cơn phẫn nộ của ông ta (The Christian religion teaches us to imitate a God that is cruel, insidious, jealous, and implacable in his wrath); Sự cuồng tín chỉ cách sự man rợ có một bước (Fanaticism is just one step away from barbarism); Hãy xét cái hình ảnh mà người ta vẽ cho chúng ta về Đấng Tối Cao, người có đầu óc ngay thẳng nhất phải ước rằng hắn ta đừng có hiện hữu (Considering the picture that is drawn for us of the Supreme Being, the most righteous soul must be tempted to wish that he did not exist).

MARK TWAIN (1835-1910), Văn hào Mỹ: * Đức tin là tin vào cái mà chúng ta biết nó không như vậy (Faith is believing what you know ain’t so). * Không phải là những phần trong thánh kinh mà tôi không hiểu làm tôi bực mình, mà là những phần mà tôi hiểu (It ain’t those parts of the Bible that I can’t understand that bother me, it is the parts that I do understand.)

PIERRE LAPLACE (1749-1827), Khoa học gia Pháp: * Kính thiên văn đã quét hết vòm trời mà không thấy Thiên Chúa ở đâu. (The telescope sweeps the skies without finding god.)

RICHARD FEYNMAN , Vật Lý Gia Mỹ, Giải Nobel: * Thiên Chúa được phát minh ra để giải thích những điều khó hiểu.Thiên Chúa luôn luôn được phát minh ra để giải thích những điều chúng ta không hiểu. Nay, khi sau cùng chúng ta khám phá ra rằng một cái gì đó vận hành như thế nào, chúng ta có những định luật mà chúng ta tước khỏi từ Thiên Chúa, chúng ta không còn cần đến ông ta nữa.(God was invented to explain mystery.God is always invented to explain those things that you do not understand. Now, when you finally dicover how something works, you get some laws which you are taking away from God; you don’t need him anymore.)

GORE VIDAL , Văn sĩ : *Tôi coi chủ nghĩa độc thần là tai họa to lớn nhất đã giáng xuống đầu nhân loại. Tôi không nhìn thấy cái gì tốt ở Do Thái Giáo, Ki tô Giáo hay Hồi Giáo – Có những người tốt, đúng vậy, nhưng tôn giáo nào mà đặt căn bản trên một thần duy nhất điên cuồng, ác độc, thì tôn giáo đó không có ích gì cho nhân loại , còn như , đạo Khổng, không phải là một tôn giáo mà là một hệ thống đạo đức và giáo dục.(I regard monotheism as the greatest disater ever befall the human race.I see no good in Judaism, Christianity or Islam – good people, yes, but any religion based on a single, well, frenzied and virulent god, is not as useful to the human race as, say, Confucianism, which is not a religion but an ethical and educational system.)

ARTHUR SCHLESINGER, Jr., Sử Gia: *Là một sử gia, tôi thú nhận là cảm thấy khôi hài khi tôi nghe người ta ca tụng truyền thống Do Thái – Ki Tô là nguồn gốc của quan niệm về nhân quyền ngày nay.Thật ra thì, những thời đại sùng đạo được nổi tiếng là không hề quan tâm đến nhân quyền. (As a historian, I confess to a certain amusement when I hear the Judeo-Christian tradition praised as the source of our present-day concern for human rights.. In fact, the great religious ages were notable for their indifference to human rights.)

PETER WILLIAM ATKINS , Nhà Hóa Học Anh: *Không thể nào là người lương thiện trí thức mà lại tin vào các Thiên Chúa.Và không thể nào tin vào các Thiên Chúa mà lại là những khoa học gia chân chính.(It is not possible to be intellectually honest and believe in gods.And it is not possible to believe in gods and be a true scientist.)

FRANCIS CRICK , Nhà sinh học, cùng khám phá ra DNA với James Watson : *Nếu những tôn giáo mạc khải đã mạc khải ra những điều gì, thì chúng thường là sai lầm. (If revealed religions have revealed anything it is that they are usually wrong) *Nếu một số điều trong cuốn Kinh Thánh rõ ràng là sai lầm, vậy thì tại sao những điều còn lại lại phải được tự động chấp nhận. (If some of the Bible is manifestly wrong, why should any of the rest of it be accepted automatically)

HARVEY FIERSTEIN , Kịch sĩ Mỹ: *Giáo hội Công giáo là tổ chức duy nhất mà chúng ta biết là dùng tiền của một quỹ nhơ bẩn được tạo lên chỉ để dùng riêng để bồi thường cho những gia đình có con em bị xâm phạm tình dục.Vậy thì luôn luôn hãy nhớ rằng chúng ta không thể xét đoán một người qua cái cổ áo của người đó [các linh mục thường mặc áo chùng thâm với cái cổ cồn trắng] (The Catholic Church is the only organization on record to dispense money from a slush fund set up solely for the paying off of abused children’s families.So always remember you cannot judge a man by his collar.)

JOHN BURROUGHS(1837-1921), Văn hào Mỹ: * Khoa học đã đóng góp cho sự phát triển của nền văn minh Tây phương trong 100 năm nhiều hơn là sự đóng góp của Ki Tô Giáo trong 1800 năm. (Science has done more for the development of Western civilization in 100 years than Christianity in 1800 years.) * Nền văn minh của chúng ta không được xây dựng trên Ki Tô Giáo mà là trên lý trí và khoa học (Our civilization is not founded upon Christianity; it is founded upon reason and science.) * Những người hoài nghi và những người không tin (God của Ki Tô giáo) không bao giờ có thể giết nhau như những tín đồ Ki Tô đã giết nhau (Skeptics and disbelievers could never slaughter each other as the Christians have.)


< VỀ HỒI GIÁO >

KIM SINH vào lúc 19/05/2010 00:53:50

Hồi giáo và các tổ chức cực đoan,các đoàn quân xâm lăng là các chủ thể khác nhau, sao bạn lại bạo miệng nói :"Hồi giáo quá khích cực đoan" "Hồi giáo thảm sát Phật giáo" !!! Bạn nhìn nhận như vậy mới đúng là trưởng thành , mới là xem xét cả hai mặt...thật vậy sao ???

Bạn khỏi "khích tướng" Trần Chung Ngọc. Muốn biết Ông ấy viết gì về Hồi giáo thì chịu khó đọc lại bài trên đây để có cái link, vào đó tha hồ đọc.


< VỀ PHÉP LẠ CỦA ĐẠO TC >

Quang Đạt viết "Đạo TC là Đạo mà phép lạ được thể hiện nhiều nhất trên thế giới cho đến ngày nay..." thật là bạn coi rẻ nhân loại quá , thế kỷ 21 rồi chứ có phải trung cổ đâu mà đem ba cái chuyện trẻ con đó ra khoe. Nhưng thôi , để cho các bạn khác bình luận.
Reply Tán thành Không tán thành
21
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
KIM SINH 23/05/2010 10:59:34
Tôn giáo nào tốt nhất ? Cuộc đối thoại giữa một bồ tát và một ma vương hiểm độc.

Chỉ một thoáng , bồ tát đã nhận ra ma vương dưới lốp nhà thần học, liền “ tùy duyên bất biến” dùng ngôn ngữ của ma để đối thoại với ma.

--“… là tôn giáo đưa ông đến gần Thượng Đế nhất ” , thế là không có đường bài bác nhé ma vương. Thật ra , ai mà chẳng biết bồ tát đâu có chấp nhận chúa hay thượng đế gì. Mi tin thì mi cứ tin đi, chưa phải lúc ta đánh đổ đức tin bá láp đó.

-- “ giàu tình thương hơn ” ( tức từ bi ,yêu thương muôn loài, cao cả hơn bác ái, chỉ yêu thương con người ) “ nhạy cảm hơn ” ( trí tuệ thay cho đức tin mù quáng ) “ ít lệ thuộc hơn ” ( không giáo điều, không bị chăn dắt, không làm tôi tớ ) “ thân thiện hơn ” ( hằng thuận là kim chỉ Nam, không trịch thượng , ngã mạn mạo nhận sứ mệnh khai phóng toàn cầu ? ) “ nhân tính hơn ” ( tính nhân bản, lấy con người làm trung tâm chứ không phải phụng sự thần thánh ) “ trách nhiệm hơn ” ( không sợ hãi, không phó thác cho thần thánh mà phải tự mình đi tới ) ….tuyệt vời, bồ tát không nói một tiếng “ Phật ” mà buộc ma vương phải nghe Phật pháp , lại còn so sánh với “ bổn đạo ” của ma vương nữa .

-- “ Luật Nhân Quả không chỉ dành riêng cho ngành vật lý…” Bồ tát nói về khoa học chứ không nói lý nhân quả của Phật học đâu nhá ! Ma vương cứ phải nghe giảng Phật pháp mà chẳng hay biết mô tê.

-- 6 câu kệ nghe quen quen, đâu đó trong Kinh Pháp Cú , thế là Bồ Tát giảng xong thời pháp về quá trình hình thành tam nghiệp THÂN KHẨU Ý. Ma vương thọ Phật pháp mà vẫn tưởng như đang nghe chúa phán.

-- Còn kết luận : “ Không có một tôn giáo nào cao hơn sự thật ” khác chi Bồ Tát nhắc nhở rằng phàm là tôn giáo thì phải căn cứ vào sự thật, không bố láo huyễn hoặc, không hù dọa ban thưởng trừng phạt , không hứa hẹn bánh vẽ. Tôn giáo mà bày trò dối trá, mê muội thì chỉ …ma nó tin.

Cám ơn bạn Quang Đạt đã post bài này thật là hay.
avatar
Quang Đạt 24/05/2010 12:11:28
TP.HCM: Hồng y Phạm Minh Mẫn chúc mừng Phật đản PL.2554

(GNO-TP.HCM): Sáng ngày 22-5- 2010 vừa qua, phái đoàn Tòa tổng Giám mục TP.HCM do Hồng y Phạm Minh Mẫn đã dẫn đầu đã đến thăm và chúc mừng Đại lễ Phật đản PL: 2554 – DL: 2010 đến chư Tăng Ni và Phật tử thành phố. HT. Thích Trí Quảng – Trưởng BTS THPG TP.HCM cùng chư tôn đức Thường trực BTS thân mật tiếp đoàn.

Hồng y Phạm Minh Mẫn chân thành thăm hỏi sức khỏe và kính gởi lời chúc Chư tôn giáo phẩm lãnh đạo Thành hội Phật giáo, chư tôn đức Tăng Ni, quý Phật tử toàn thành phố trọn hưởng một mùa Đản sinh tràn ngập niềm hoan hỷ, hạnh phúc và đạt được nhiều thành tưu tốt đẹp trong các công tác Phật sự. Dịp này, Hồng y Phạm Minh Mẫn cũng trao thư chung của Tòa thành Vatican gởi các tôn giáo trên thế giới nói lên vấn đề đang được quan tâm, đó là sự biến đổi khí hậu và môi trường sống.

HT. Thích Trí Quảng – Trưởng BTS ân cần ghi nhận những tình cảm chân thành, sự gắn bó mà Tòa tổng Giám mục đã đành cho Tăng Ni, Phật tử thành phố. Hòa thượng mong rằng với truyền thống hòa hợp, người Phật tử và người Công giáo thành phố tiếp tục chia sẽ với nhau những vấn đề tu tập, tâm linh mà mỗi bên trải nghiệm; cùng đồng hành bên nhau trên con đường phung sự chúng sanh và dân tộc, góp phần giảm thiểu những tác hại do biến đổi khí hậu và môi trường sống.
avatar
Quang Đạt 24/05/2010 12:52:23
Đọc bài này cho thấy đạo Phật vẫn tiếp tục phát triển hùng mạnh ở VN và trên toàn cầu . Thế giới đang có 2 tỷ tín đồ theo đạo Phật . Không hiểu một nhóm người nào đó vọng động và ai đó cứ viết việc cải đạo . Thời Đức Phật đã có Lục Sư ngoại đạo nhưng Ngài im lặng không nói gì về họ . Ngài cũng có bài kinh Kalama vốn nổi tiếng khi lúc đó các tín đồ hoang mang trước nhiều trường phái khác nhau không biết tin vào đâu. Giáo Pháp của Đức Phật tỏa sáng , Ngài hướng dẫn tâm linh cho cả nhân loại ra khỏi bể khổ trầm luân đến bến bờ an lạc.


Thái Lan: Trọng thể khai mạc Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc Vesak 201024/05/2010 01:03 (GMT+7)

(GNO-Thái Lan): Sáng 23-5, tại Trường Đại học Mahachulalongkornrajavidyalaya, Ayutthaya, lễ khai mạc Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc năm 2010 do Thái Lan và Nhật Bản đồng đăng cai tổ chức đã diễn ra trang trọng với sự tham dự của chư tôn đức lãnh đạo Phật giáo từ 74 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, quy tụ gần 1.700 Phật tử quốc tế và 1.300 Phật tử Thái Lan.

Đại diện cho Phật giáo Việt Nam, HT.Thích Giác Toàn - Phó Chủ tịch HĐTS TƯGH cùng hơn 20 vị Tăng Ni, cư sĩ Phật tử tham dự lễ. Buổi lễ còn vinh dự cung nghimh đón Trưởng lão Hòa thượng Somder Phar Buddhacharya, Chủ tịch Hội đồng Điều hành, Phó Tăng thống Thái Lan quang lâm, chào đón đại diện Hoàng gia và Chính phủ Thái.

Sau phần trình diễn văn nghệ chào mừng, phát biểu của Hòa thượng Phó Tăng thống Thái Lan Somder Phar Buddhacharya, Hòa thượng Dharmakosajarn - Hiệu trưởng Trường Đại học Mahachulalongkornrajavidyalaya kiêm Chủ tịch Ủy ban Tổ chức Quốc tế Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc 2010 đã báo cáo công tác tổ chức và khai mạc đại lễ. Qua đó, Hòa thượng chân thành cảm ơn chư tôn đức Phật giáo khắp thế giới đã có mặt tại Thái Lan để tham dự Đại lễ, giữa lúc tình hình tại đây vẫn còn bất ổn sau vụ biểu tình vừa qua. "Sự kiện này đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới hình ảnh của Thái Lan, nhất là dịp Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc được tổ chức tại Thái Lan", Hòa thượng khẳng định.

Với chủ đề chính "Sự biến đổi toàn cầu và vai trò của Phật giáo", Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc Vesak 2010 diễn ra trong 3 ngày 23, 24 và 25-5 tại 2 địa điểm: Hội trường Liên Hiệp Quốc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (Bangkok) và Đại học Mahachulalongkornrajavidyalaya.

Hôm nay 24-5, trong khuôn khổ của Đại lễ, toàn thể đại biểu sẽ tập trung thảo luận theo 5 nhóm chủ đề của hội thảo tại Đại học Mahachulalongkornrajavidyalaya.
Reply Tán thành Không tán thành
-1
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Quang Đạt 24/05/2010 13:11:14
Đối với đồng bào VN thì đạo Phật được xem là Quốc giáo , là cái nôi che chở hồn dân tộc từ ngàn năm . Cho đến bây giờ đạo TC cũng chiếm có 6% mà thôi . Còn các tôn giáo khác chiếm số ít hơn nữa.

Người ta thống kê gần đây là tới trên 2 tỷ tín đồ Phật giáo và những người thiện cảm với đạo Phật ở khắp thế giới . Chân lý đạo Phật lan tỏa sáng khắp nơi trên thế giới . Đạo Phật không xuất phát từ sự mặc khải của Chúa Trời , không từ hình thức bên ngoài mà từ sự thúc liễm nội tâm , tâm thức bên trong một cách hoàn toàn tự nguyện. Những lời dạy kim khẩu của Đức Phật có giá trị lớn lao trong việc chuyển hóa nội tâm dẫn đến hạnh phúc an lạc , thoát khỏi luân hồi sinh tử bể khổ trầm luân của cuộc đời.

“ Thà đốt lên một ngọn lửa , còn hơn ngồi trong bóng tối mà nguyền rủa ”, chúng ta nên tinh tấn , thúc liễm thân tâm , độ sinh , hoàng pháp thì có giá trị hơn là phán xét. Không ai dám phủ nhận đạo Phật về lòng từ bi , trí huệ lan tỏa ánh đạo vàng khắp thế giới mang lại hồn dân tộc , Quốc Thái dân an , nhà nhà hạnh phúc .

Quang Đạt
avatar
Phuoc Tam Ca 28/05/2010 06:45:23
Đến với Đạo phải hiểu Đạo. Tôi thấy nhiều người đến với Đạo vì cái gì đó chứ không phải Hiểu để Đến. Những người như thế rất ít có thành quả. Nhưng biết làm sao được. Cũng nên nói đến trách nhiệm của các vị trong tu viện: họ đến là mừng, đóng góp là mừng chẳng cần quan tâm đến cái Hiểu, cái Biết, cái Chân Lý trong Đạo. Không tin thì thử đến nhà thờ, tu viện mà hỏi những kiến thức về Đạo của những tín đồ mà xem.
Về Chúa thì tôi không phán xét, tôi không có ý kiến.
Về Phật thì bạn nào không tin thì hãy đọc cuốn sách "Đức Phật và Phật Pháp - Đại Đức Narada Maha Thera" link: http://www.thuvienhoasen.org/ducphatvaphatphap-00.htm, xong rồi tìm cuốn sách chuyên thiền định nguyên thủy của Phật (tứ niệm xứ,vô sắc giới...)mà thực hành...sẽ trải nghiệm nhiều thứ mà khi đẻ ra và có học đến tiến sĩ cũng chẳng thể biết được...
Reply Tán thành Không tán thành
-5
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Phuoc Tam Ca 28/05/2010 07:06:08
Cũng phải biết rằng Phật giáo là triết học, lối sống theo triết học giải thoát chứ không phải tôn giáo.
Reply Tán thành Không tán thành
-3
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
KIM SINH 28/05/2010 12:03:32
Bạn Phuoc Tam Ca hiểu và biết rất nhiều nhưng mời bạn thử bàn thêm vài vấn đề xem có nên khẳng định đạo Phật không phải là tôn giáo hay không .

Rất nhiều người, nhất là trong giới học giả, trí thức khoa học rất thích thú khi khám phá ra rằng đạo Phật không phải là tôn giáo. Lý do là đạo Phật rất gần với khoa học, có hệ thống triết học , triết lý sâu sắc cao siêu và đặc biệt không chấp nhận, không tôn thờ một chúa hay thượng đế nào cả. Họ đã quen với khái niệm tôn giáo thông thường thì tín đồ ắc phải có đức tin tuyệt đối, phó thác thân phận vào một thượng đế sáng thế , toàn năng , ban thưởng trừng phạt hoặc phải có phụng thờ nhiều vị thần chưởng quản gì đó. Đạo Phật thì hoàn toàn không. Họ nói đúng , nếu xét theo khái niệm của họ.

Cũng có trường hợp nhà cầm quyền cố tình hạ bớt số lượng tín đồ Phật giáo bằng cách bắt bí : khi làm CMND hễ khai Phật giáo thì cán bộ hỏi ngay "pháp danh ?" Có mấy ai 17 tuổi mà đã quy y ! Khi khai sơ yếu lý lịch công nhân viên cũng vậy, thôi thì điền chữ "không" cho được bình yên.

Hầu hết gia đình người Việt đều có bàn thờ Phật , nhưng bây giờ mà thống kê tôn giáo theo CMND thì công giáo tin lành lại là đa số vì họ sẳn có tên thánh ngay sau khi chào đời. Do đó có thể nói đa số Phật tử VN là tín đồ thầm lặng, tín đồ " vô ( pháp ) danh ".

HT Thích Thanh Từ có lần thuyết giảng " Nói đạo Phật là tôn giáo theo nghĩa đánh đồng ( như khái niệm thông thường kể trên ) thì oan cho đạo Phật lắm" . ĐĐ Thích Nhật Từ cũng có bài giảng " Đạo Phật, tôn giáo không tín ngưỡng " nhưng cả hai vị này đâu có chủ trương đạo Phật "phi tôn giáo" ; Hai vị chỉ phiền hà vì cái khái niệm tôn giáo đánh đồng hiện nay không phù hợp với đạo Phật mà thôi.

Một ngày nào đó nhà nước VN ngộ ra rằng đạo Phật không phải là tôn giáo ( và có nhiều người ủng hộ lắm )thì cái Giáo Hội Phật giáo Việt Nam , các Tỉnh Hội, Thành Hội nhất nhất đều bất hợp pháp, phải giải thể ; tất cả chùa chiền cũng bị đánh đồng với miếu, đền , am cúng bái theo tập tục dân gian, cấm tiệt không được giảng pháp. Lúc đó từ " Phật giáo " bị cấm sử dụng, chỉ còn " Phật học " dành riêng cho giới trí thức salon tán gẫu, còn dân gian chỉ được phép đến nhà thờ nếu muốn có nơi nương tựa tâm linh.

Tôi viết như trên không có cường điệu để hù dọa Phuoc Tam Ca, chỉ mong bạn xét lại quan điểm cho thoáng hơn. Bạn viết " Phật giáo là triết học...chứ không phải tôn giáo " đã "là giáo mà lại không phải giáo" thì khó thuyết phục lắm! Phải chi bạn viết như thế này " Phật giáo không những là một tôn giáo, mà hơn thế nữa còn là một nền triết học hoàn chỉnh phục vụ thiết thực cho nhân sinh..." thì ai cũng phải phục.

Các cuốn sách mà bạn giới thiệu rõ ràng rất hay, nhưng Phật pháp không phải chỉ có như thế, không phải chỉ có thiền định ( con đường căn bản ), nhưng không nhất thiết mọi người phải tu thiền mà còn mật tông, tịnh độ...tất cả đều là Phật pháp do Phật dạy cả , không có cái cao cái thấp , chỉ là hiệu quả hơn nếu phù hợp với căn cơ của từng người.

Bạn có nghiên cứu và thực hành thiền định, bạn thấy hay và rồi bạn tiếc cho những phật tử tu theo pháp môn khác là không Hiểu không Biết không đến được với Đạo , như thế e rằng bạn chủ quan quá. Tốt nhất bạn nên nghiên cứu thêm các tông phái khác trước khi nhận định như vậy. Một gợi ý, bạn nên vào web chuahoangphap.com để biết tịnh độ dạy cái gì trong các khóa tu Phật thất (7 ngày)với 3-4 ngàn Phật tử tham dự mỗi khóa.
Reply Tán thành Không tán thành
10
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Quang Đạt 29/05/2010 03:22:03
Đạo hữu Phuoc Tam Ca nói khá đúng , đa phần người ta đến với đạo Phật nhưng chưa hiểu rõ ý nghĩa lắm . Họ đến với Tam Bảo để nương tựa , tham cầu lợi lộc đủ điều mà không thấy ý nghĩa của sự hướng thượng , phát triển tâm linh , đạo quả . Sứ mạng của các nhà Sư là hướng dẫn các Phật tử trên tiến trình an lạc giải thoát.

Nói về Đại Đức Narada thì thật là tuyệt vời , các bài thuyết giảng của Ngài là kim chỉ nam cho các Tu sĩ và Phật tử thuần thành ở khắp nơi trên thế giới. Thiền thì có thiền định và thiền tuệ , quả là cảnh giới thiền thì không dùng ngôn ngữ diễn tả được , dùng tất cả kiến thức khoa học của thế gian cũng không hiểu được thiền. Đó là cảnh giới của Tâm Thức.

Đạo Phật có phải là tôn giáo hay không ? xin thưa các bạn hãy đọc đôi điều về Phật giáo.

Giáo lý đạo Phật không đặt nền tảng trên các giáo điều thiên khải hồ nghi, nó cũng không phải là phát minh tài trí của một bộ óc đặc biệt, mà là những quy tắc hợp lý và thực tiễn được xây dựng trên những sự thật có thể chứng minh qua thực tiễn cuộc sống và kinh nghiệm cá nhân. Chúng ta cần nhớ trước thời Đức Phật Thích Ca đã có 6 vị Cổ Phật ra đời. Đó là :
1. Đức Phật Tỳ Bà Thi , 2. Đức Phật Thi Khí , 3. Đức Phật Tỳ Xá Phù , 4. Đức Phật Câu La Tôn Đại , 5. Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni , 6. Đức Phật Ca Diếp.

Tưởng nên biết rằng, bất cứ một quyền lực siêu nhiên ngoại giới nào cũng không thể dự phần vào trong việc tạo nên cá tính của một Phật tử. Trong Phật Giáo, không tin có Đấng thần linh thưởng hay phạt. Sự khổ đau hay hạnh phúc là kết quả không thể tránh được của hành động riêng mình mà Phật giáo gọi là nghiệp. Giáo lý đạo Phật không chấp nhận vấn đề Thượng Ðế phải chịu thay cho con người về sự hạnh phúc hay đau khổ của họ. Không phải do hành động mong được thưởng hay sợ bị trừng phạt đã thúc đẩy người Phật tử làm việc lành hoặc tránh điều ác. Người Phật tử biết rõ về nhân quả , nghiệp báo , về những kết quả tương lai, nên họ tránh tạo điều ác, bởi vì nó gây chậm trễ cho sự giải thoát và làm việc lành vì nó trợ giúp trong việc tiến đến sự Giác Ngộ (Bodhi). Cũng có những người họ làm lành, vì biết đó là điều thiện, và tránh không làm ác .

Ðể hiểu rõ nền luân lý cao siêu đặc biệt này, Đức Phật khuyên các đệ tử thuần thành của Ngài nên đọc cẩn thận các kinh sách như Pháp Cú (Dhammapada), Thiện sanh (Sigalovada), Mangala, Karaniya, Parabhava, Vasala, và Dhammikka v.v...

Ðó là những lời dạy Đạo lý nó vượt cao hơn các hệ thống đạo đức xã hội thông thường khác, nhưng Đức Phật chế định Giới Luật nhằm các vị Tỳ Kheo giữ giới chỉ là bước đầu, chứ không phải là mục tiêu của Phật Giáo. Chính việc thực thi toàn bộ Gíao Pháp của Đức Phật , trong đó việc giải trừ các kiết sử để thành tựu Thánh Qủa nhằm đi đến giải thoát mới là mục tiêu của Đạo Phật .

Hiểu theo nghĩa này, Phật Giáo không phải là triết lý, nhưng theo nghĩa kia, Phật Giáo là triết lý của các triết lý. Theo một lối hiểu, Phật Giáo không phải là tôn giáo, theo cách hiểu khác, Phật Giáo là tôn giáo của các tôn giáo.

Phật Giáo không phải là cái đạo siêu hình, cũng không phải là cái đạo của nghi thức.

Phật Giáo không hoài nghi, cũng không võ đoán, mà thực tế .

Phật Giáo không dạy lối sống khổ hạnh, cũng không chủ trương đam mê dục lạc , hưởng thụ .

Phật Giáo không bi quan, cũng không lạc quan.

Phật Giáo không chủ trương cuộc sống vĩnh cửu, cũng không phải là thuyết hư vô.

Phật Giáo không bảo rằng thế giới này hay thế giới khác là tuyệt đối.

Phật Giáo là Con Ðường Giác Ngộ duy nhất.

Ngữ nguyên tiếng Pali gọi Phật Giáo là Dhammma (Giáo Pháp), có nghĩa là giữ gìn (duy trì). Không có một danh từ Anh văn nào có thể dịch đúng sát nghĩa của tiếng Pali này.

Giáo Pháp là cái gì đúng thật như vậy. Nó là Giáo Lý của Thực Tế. Giáo Pháp là phương tiện để Giải Thoát mọi khổ đau, và chính Dhamma (Giáo Pháp) là sự Giải Thoát. Dù Phật có ra đời hay không, Giáo Pháp vẫn tồn tại. Giáo Pháp bị che lấp trước cặp mắt vô minh của con người, cho đến khi một vị Phật, đấng Toàn Giác ra đời, chứng ngộ và từ bi truyền bá giáo pháp đó cho thế gian.

Giáo Pháp này không phải là cái gì ở ngoài, mà nó sát cánh gắn liền với chúng ta. Cho nên, Đức Phật dạy : “Hãy ẩn trú chính nơi con như một hải đảo, như chỗ Nương Tựa. Hãy ẩn náu nơi Giáo Pháp (Dhamma) như một hải đảo, như chỗ Nương Tựa. Ðừng tìm sự ẩn náu ở bên ngoài” (Kinh Đại Bát Niết Bàn). Chính Giáo Pháp của Đức Phật là con đường đi đến giải thoát cho nhân loại .

Quang Đạt
avatar
KIM SINH 29/05/2010 12:24:12
Bạn Quang Đạt tự kiêu quá,"đa phần người ta đến với đạo Phật nhưng chưa hiểu rõ ý nghĩa lắm" vậy thì riêng bạn đứng ở đâu khi phát biểu như vậy ? trong đa phần hay trong biệt phần "đã hiểu rõ" ?

"Họ đến với tam bảo để nương tựa"? Đúng quá rồi ! Học Phật thì nên nương tựa tam bảo, chứ ai lại nương tựa ma quân ? ; các vị xuất gia tu hành vài chục năm mà vẫn còn nương tựa tam bảo huống chi là phàm phu như "đa phần người ta". Quang Đạt đã là thánh rồi chăng ?

"Họ đến với Tam Bảo để...tham cầu lợi lộc đủ điều" Ái chà , câu này lộng ngôn rồi đây ! Phật tử bỏ cả công ăn việc làm để đến với tam bảo mà Quang Đạt lại chụp mũ "tham cầu lợi lộc" thì nên xem xét lại : Quang Đạt thực ra là ai đây ?

Các câu "không phải là triết lý... nhưng...là triết lý của các triết lý" và " không phải là tôn giáo ...là tôn giáo của các tôn giáo" Quang Đạt mượn các câu này để nói lên quan điểm gì vậy ? Ông nào nói như thế thì Ông ấy tự nghe, còn đạo Phật không có tự đại như thế đâu .
avatar
Quang Đạt 29/05/2010 13:51:09
QĐ tôi chỉ là hạt cát thôi , chứ không là gì cả . Bạn KIM SINH thảo luận mà không có thành tâm , thiện ý hay suy diễn theo cá nhân , “ bắt bẻ“”từng câu chữ.

QĐ tôi không thích hý luận và cũng biết là nên trao đổi với đối tượng nào . Thường thì người ta hay “ suy bụng ta ra bụng người ”và cho người khác giống như mình . Thật ra không có đúng vậy đâu. Bạn KIM SINH nặng về phê phán , QD tôi nghiêng về xây dựng hướng thiện.

Những điều QĐ tôi nói đều chuẩn xác , có lẽ bạn ít đi chùa chiền , thiền viện nên xa rời thực tế và không biết những sinh hoạt của cộng đồng Phật tử.
Tôi đồng quan điểm với Đạo hữu Phuoc Tam Ca rất là thực tế đã nói về việc ngày nay người ta đến chùa vì cái gì đó , chứ không phải để hiều .

Người ta đến với chùa chiền Phật Pháp cầu xin đủ điều , trong đó có bạn KIM SINH cũng vậy nữa đó. Cái mà độc giả cần xét là KIM SINH là ai? Phật tử thì không phải rồi bởi vì Phật tử thuần thành thì họ rất nhu thuận hòa ái, còn bạn thì không có lòng nhân từ , hiểu biết, còn chấp hơn thua . Ai nói đúng sự thật mà khác với mình là sửng cồ lên . KIM SINH là đạo TC cũng hổng phải rồi vì tôi có sinh hoạt ở giáo đoàn TC một thời gian nhằm tìm hiểu về họ thì thấy họ rất tôn trọng đạo Phật.

Người mà nói những câu trên là một Đại Trưởng Lão trong đạo Phật được tất cả các Hòa Thượng ở các nước Châu Á phải tôn kính lắng nghe đó. Chỉ có một mình bạn lập dị chống đối là do cái tôi bản ngã của bạn đó thôi.
Có lẽ bạn KIM SINH còn nhỏ tuổi , chưa trưởng thành chững chạc cho lắm , bạn cần học hỏi nhiều hơn khi nào “ Ngũ thập tri thiên mệnh ”thì hiểu lẽ đạo nhiều hơn. Đạo vốn không lời , dùng lời rồi bỏ lời thôi.

Quang Đạt
Reply Tán thành Không tán thành
-6
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
KIM SINH 30/05/2010 09:50:45
Quang Đạt thảo luận mà cứ quy chụp hết thế này đến thế khác. Nguyên một bình luận trên, bạn chẳng thảo mà cũng không luận , chỉ áp đặt cho tôi là thế này thế nọ.

Về tuổi tác, trên diễn đàn không thành vấn đề, nhưng bạn "suy bụng ta" rồi cứ cho rằng tôi "chưa trưởng thành chững chạc" đó là thảo luận ư ? Bạn đã "Ngũ thập tri thiên mệnh" thì có gì đáng trân trọng khi bạn cứ viết tầm bậy chia rẽ Nam Bắc tông. Tôi không hỗn với bạn đâu, "tri thiên mệnh" là quá khứ qua lâu rồi đối với một người từng là sinh viên xuống đường 1963 ; nhưng tuổi tác chẳng có đáng gì đem ra để hù thiên hạ cả.

Tôi biết bạn là đệ tử Nam tông, được tặng xá lợi Phật , thật quý hóa, bạn cứ tiến bước trên con đường của bạn, cớ sao bạn nói xấu các tông phái khác, lên lớp phải tu thế này thế nọ ?

Phật tử quy y rồi thì nương tựa tam bảo (Phật Pháp Tăng),nhưng bạn lý sự cho là "Họ đến với Tam Bảo để nương tựa , tham cầu lợi lộc đủ điều" rồi bạn dẫn “Hãy ẩn trú chính nơi con như một hải đảo, như chỗ Nương Tựa. Hãy ẩn náu nơi Giáo Pháp (Dhamma) như một hải đảo, như chỗ Nương Tựa. Ðừng tìm sự ẩn náu ở bên ngoài” Như vậy bạn cho rằng chỉ nên nương tựa Pháp , còn Phật và Tăng thì không đáng nương tựa vì điều đó là "tham cầu lợi lộc đủ điều" ?

Tôi viết "Quang Đạt thực ra là ai đây?" là có ý cảnh báo mọi người cần biết để hiểu được các câu bóng gió của Quang Đạt. Đọc lại các bình luận thì sẽ rõ:

Quang Đạt vào lúc 18/05/2010 20:54:47
Cách tác giả Trần Chung Ngọc đặt vấn đề , trích dẫn các kinh Thánh Cựu ước một cách thiếu thành tâm, thiện ý dễ phản cảm cho độc giả. Vì vậy chẳng ai cần phản biện vì sẽ chẳng có ý nghĩa gì...Hồi giáo quá khích cực đoan mang bạo lực đến khắp nơi cho thế giới ngày nay thì không thấy tác giả Trần Chung Ngọc phân tách nói về vấn đề này.
Hoặc Hồi giáo thãm sát Phật giáo đến mức gây lụi tàn ngay trên quê hương Ấn Độ cũng không thấy tác giả nói gì???!!!

Quang Đạt vào lúc 14/05/2010 05:04:58
Bài viết của Trần Chung Ngọc phân tích khá dài nhưng xem xét kỷ thì không có giá trị gì ...các Soeeur dấn thân trong công tác xã hội từ thiện , cứu giúp những mảnh đời cơ nhở bất hạnh ở các trại phong cùi , viện mồ côi , những người già neo đơn bệnh tật v.v… cứ hãy nhìn bà Mẹ Theresa , bà là Thánh nhân biểu tượng cho tình yêu nhân loại đã thương yêu ...

Quang Đạt vào lúc 28/05/2010 05:06:17
Còn về Xá Lợi Phật thì ĐĐ Thích Phước Tiến giảng nhiều sai sót lắm , có lẽ do Thầy Tiến xuất thân từ Tu sĩ Bắc Tông nên không có hiễu biết đầy đủ về XL Phật và Chư Thánh. Thường thì các vị Thầy Bắc Tông không có XL Phật , thậm chí dù là các chùa lớn đi nữa cũng không có. Các vị Sư cao Tăng Nguyên Thủy thì họ hiểu rõ về Xá Lợi Phật bởi họ đang cất giữ , tôn thờ rất cẩn trọng kim thân của Đức Phật sau khi Ngài nhập diệt Niết Bàn .
Bả thân QĐ đã được HT Viên Minh , trụ trì chùa Bửu Long , là nơi đang xây Bảo Tháp Xá Lợi lớn nhất VN , Ngài tặng QĐ Xá Lợi Phật. Đúng là XL Phật tỏa sáng lấp lánh , có những viên màu sắc ngà trắng , đỏ , xanh.
QĐ có nhiều tài liệu thực tế về XL Phật nên biết việc XL Phật phát sinh ra thêm là có thật . ĐĐ Thích Phước Tiến không biết rằng các Sư Nam tông Nguyên Thủy họ biết cách thử xem đó có đúng là XL Phật hay không ? nếu cần thì thử nghiệm sẽ biết ngay chứ không cần thí nghiệm ADN gì cả. Thấy Tiến cũng nói trật là Đức Phật còn tóc. QĐ nghĩ cái gì mình không am hiểu thì không nên thuyết giảng dễ gây phản cảm và không đúng với tinh thần đạo Phật.
avatar
Phương Thuỷ 31/05/2010 03:54:02
Kim Sinh luận, Quang Đạt bí rồi chống chế bằng cách lên mặt kẻ cả bắt nạt . Ai dè “kẻ cắp gặp bà già”. Viết bậy nên bị bắt bẻ thì đúng rồi còn gì nữa. Đọc kỹ các bình luận trên web này sẽ biết Kim Sinh bao nhiêu tuổi.

Còn về xá lợi, xem video thấy ĐĐ Thích Phước Tiến giảng rất nghiêm túc. Không hiểu sao Quang Đạt lại dị ứng, thử điểm lại các vấn đề Quang Đạt “ bị phản cảm ” xem sao :

1/- ĐĐ giảng đầy đủ giá trị to lớn của xá lợi Phật về mặt lịch sử, về hiệu quả tín tâm. ĐĐ không có “châm biếm”, ĐĐ nói “ Đừng hiểu lầm xá lợi Phật là một loại kim cương… Đối với Phật tử, xá lợi Phật quý hơn kim cương mã não…nhưng đối với người ngoài họ xem xá lợi Phật không khác mãnh xương , bán không ai mua.

2/- ĐĐ nói hiện nay xá lợi Phật trong quần chúng quá nhiều, thật giả chưa kiểm chứng được. ĐĐ khuyên những ai đang thờ xá lợi Phật thì cứ giữ lấy tiếp tục thờ nhưng phải phát bồ đề tâm thì mới có hiệu dụng và đừng mê tín, đừng để bị lợi dụng.

3/- Quang Đạt viết : “Thấy Tiến cũng nói trật là Đức Phật còn tóc”. Sự thật là ĐĐ chỉ kể chuyện về xá lợi tóc : Ở Miến Điện, là nơi duy nhất, hiện thờ xá lợi tóc của Phật, theo họ thì xưa kia có thương gia Miến cúng dường Phật ngay sau khi Ngài nhập định 49 ngày và được Phật cắt tóc tặng cho. Qua câu chuyện này, Thuỷ cho rằng người Miến cũng có logic, rất có thể họ gặp may đúng lúc Phật cắt tóc cạo râu sau 49 ngày nhập định. Câu chuyện này không liên quan gì đến Phật thường để tóc hay cạo sạch tóc. ĐĐ không nói đến, do đó không có vấn đề ĐĐ trật hay đúng.

4/- Quang Đạt viết : “Còn về Xá Lợi Phật thì ĐĐ Thích Phước Tiến giảng nhiều sai sót lắm , có lẽ do Thầy Tiến xuất thân từ Tu sĩ Bắc Tông nên không có hiễu biết đầy đủ về XL Phật và Chư Thánh” và “QĐ nghĩ cái gì mình không am hiểu thì không nên thuyết giảng dễ gây phản cảm và không đúng với tinh thần đạo Phật.” Cái này Thuỷ chịu thua không dám có ý kiến.

Video clip này hiện còn trên mạng, Quang Đạt và mọi người nên xem lại coi Thuỷ kể có đúng sự thật hay không.

Sau cùng đối với câu “QĐ có nhiều tài liệu thực tế về XL Phật nên biết việc XL Phật phát sinh ra thêm là có thật .” thì Thuỷ xin chờ đến khi Quang Đạt chứng minh được rằng xá lợi Phật tự đẻ ra thêm . Trong thời gian chờ, Thuỷ vẫn cho rằng tin như vậy là mê tín.
avatar
Quang Đạt 07/06/2010 11:36:05
MỘT CHUYỆN TÙY DUYÊN KỂ VỀ SỰ KỲ DIỆU CỦA XÁ LỢI PHẬT

Ngọc Xá lợi Đức Phật! một điều mơ ước được phụng thờ mà tôi – Tỳ kheo Ni Thích nữ Huệ Tâm - Ủy viên kiểm soát Ban trị sự Phật giáo Đồng Nai, trụ trì chùa Hoàng Ân nghĩ mình cả đời không thực hiện được.

32 năm về trước (1972), Đại Đức NãRaDa - một Tiến sĩ Phật học giảng dạy tại trường Đại học NALANDA (Ấn Độ) cúng dường xá lợi Đức Phật Thích Ca tại ba ngôi chùa cổ. Đó là chùa Thiên Long, Thanh Long và Bửu Long. Cả ba ngôi chùa cổ tự này đều thuộc tỉnh Đồng Nai. Từ đó, tôi thầm mơ ước có được.

Năm 1989, sau khi tốt nghiệp Đại học phật giáo, tôi nương thân ở một số chùa và đến năm 1998, tôi về trụ trì Hoàng Ân cổ tự. Ngôi chùa nằm trong hẻm nhỏ, không có gạo ăn, không có điện nước để xài.

Lúc mới về chùa, tôi gặp nhiều chướng ngại, đố kỵ của người, đôi lúc cũng nãn lòng nhưng vì thấy những điều linh ứng và phần vì cảm thương chùa nghèo nên tôi không nỡ bỏ chùa. Tôi chỉ thầm niệm phật chính nhờ sự gia gia hộ của Đức Phật, Bồ Tát mà tôi vẫn đứng vũng giữa phong ba bão tố. Và một phước duyên đến với tôi:

Tôi có đứa cháu rể định cư ở Mỹ hơn 20 năm, cháu có quen với một số nhà sư Thái Lan ở Mỹ. Có một dịp cậu về Việt Nam có Đại Đức LIM trụ trì chùa Quan Thánh ở Houston, Texas; sư SAM SART và các nữ tu cùng về Việt Nam và có ghé thăm chùa.

Sau đó, vào ngày mùng 8/4 ngày Đức Phật Đản sanh, Đại Đức LIM gởi cho chị của tôi từ Mỹ mang về 5 viên xá lợi của Đức Phật.

Tiếp theo ba tháng sau, nhà sư SAMSAT qua thăm Việt Nam, cùng đi có nhà sư ONNT và Thầy Bổn sư của quý Thầy, cúng dường cho chùa thêm 19 viên xá lợi, lúc này số xá lợi Phật lên đến 24 viên, được thờ tại chùa Hoàng Ân. Thật là diễm phúc cho tôi; và quý thầy còn cúng dường cho chùa hơn 200 viên xá lợi nhỏ như hạt cát, màu vàng lóng lánh.

Thật vui mừng lớn lao! Mấy mươi năm trước, tôi chỉ mơ ước có được một viên xá lợi của Thánh Chúng còn không có mà nay được 24 viên Ngọc Xá lợi của Đức Phật Bổn Sư. Ôi! hiện thực mà ngỡ như một giấc mơ.

Và chuyện nhiệm mầu đã xảy ra. Ngày 5/7/2003, tôi cùng thị giả đến chùa Huệ Lâm của cố Sư bà Thích Nữ Giác Nhẫn. Sư bà vãng sanh được hơn 05 tháng. Ngài là bặc chân tu, thực học, trên 60 năm hành đạo, hóa đạo và lúc nào cũng xiển dương pháp môn niệm phật cầu vãng sanh cực lạc. Ngài ra đi và lưu lại nhiều xá lợi rất đẹp. Buổi lễ trà tỳ của Sư bà tôi cũng có tham dự và được cung thỉnh xá lợi từ Bình Hưng Hòa về chùa.

Xá lợi của Sư bà Giác Nhẫn được cung thỉnh vào một cái tháp, được thờ trước linh tiền. Thấy có đèn rọi vào tháp xá lợi của sư bà thật sáng nên tôi liền thỉnh 24 viên xá lợi của Đức Phật từ trong đấy ra xem cho rõ (ở chùa chỉ dùng đèn pin hoặc ra giữa nắng để chiêm bái).

Lạ thay! Tôi phát hiện có một viên xá lợi vừa phát sanh. Tôi gọi cô thị giả, cô Diệu Liên (cháu của Sư bà) cùng xem và vội chạy trở lên lầu báo tin cho Sư bà Giác Bổn (bào muội của Sư bà Giác Nhẫn). Tôi thấy quá mầu nhiệm nên liền hỏi Ni sư Như Trí – là trưởng tử của sư bà Giác Nhẫn chỗ bán tháp Xá lợi để tôi thỉnh một cái vì ở chùa không có tháp. Nhưng Ni sư không chỉ, tỏ vẻ ghen tị với số Xá lợi của tôi. Qua cảm nhận tôi biết được điều này nhưng tôi không giận chỉ thầm tiếc cho một người xuất gia mà tâm không buông xả, độ lượng thì làm sao được việc lớn?

Thật vậy! chỉ một năm sau, dầu đã thừa kế ngôi chùa Huệ Lâm, có tờ di chúc của sư bà hẳn hoi với phần thân thế quen biết nhiều chỗ nhưng cuối cùng cũng tự động đi nơi khác và bị Chư tôn Hòa Thượng Giáo phẩm truất khỏi ngôi tổ đình.

Ngày Đại tường của sư bà vừa qua (16/3/05), về chùa không thấy cô, tôi cũng buồn cho cô. Đây là bài học của cô vì không những xem mọi người không ra gì mà mà còn không tin xá lợi Đức Phật và cũng chính bài học của cô mà niềm tin tưởng của tôi càng tăng.

Ngọc Xá lợi sau đó liên tục phát sanh!

Ngày mùng 5-7-2003 đã phát sanh lần đầu tiên 1 viên tại chùa Huệ Lâm – Q.8.
Ngày 13/7/03 : 1 viên.

Ngày 14/7/03 : 1 viên.

Ngày 15/7/03 : 1 viên.

Ngày 16/7/03 : 1 viên.

Ngày 17/7/03 : 1 viên.

Không nén được phần hoan hỷ nhân tiết Vu Lan, vào ngày 19/7Â.L, tôi làm lễ cung nghinh Xá lợi Phật tại chùa Hoàng Ân. Tôi thỉnh 80 vị Tôn Đức Tăng Ni và hàng trăm phật tử và cũng mời 2 nhà sư Thái Lan SAMSAT và ONNT nhưng vì visa hết hạn nên phải trở về Mỹ.

Tôi chụp hình rửa ra trên ngàn tấm trong ngày đại lễ. Lúc nhà sư Thái Lan cúng dường xá lợI cho tôi, sư nói tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ, còn tôi chỉ nghe được một vài câu nhưng cũng biết đây là xá lợi Phật. Trong số xá lợi có 200 viên màu vàng lớn hơn hạt cát một chút nhưng chiếu sáng lấp lánh rất đẹp. Tôi không rõ đây là phần xá lợi gì của Đức Phật nhưng có một cô Phật tử nằm chiêm bao được báo mộng là “hãy vào chùa Hoàng Ân để chiêm bái 200 viên xá lợi mồ hôi của Đức Phật”.

Sáng ngày 19/7/03, cô chủ tiệm đồng hồ Hũu Thành cùng bạn vào chùa Hoàng Ân. Trong lúc chùa làm lễ, 2 cô ra thắp nhang ở miễu bà, liền thấy tượng bà với nét mặt tươi cười, cả hai đều kinh ngạc hơn khi thấy hai dòng nước mắt bà chảy ra, có lẽ bà vui mừng trước buổi lễ cung thỉnh xá lợi Phật và còn một điều không thể nghi bàn nữa là lễ hôm ấy, vô số xá lợi Đức Phật hiện ra, có nhiều người cùng thấy với tôi.

Các vị ấy đều là Phật tử và hiện làm ở các cơ quan, công sở. Vị nào muốn tìm hiểu thêm xin liên hệ với tôi để được cung cấp các số điện thoại và danh tánh của các vị ấy để biết thêm lời tôi kể ở đây.

Trước lúc xá lợi Đức Phật phát sanh, những điều vi diệu hiện ra. Sau đó, 88 viên ngọc xá lợi phát sanh, tôi mừng vui, bước chân đi như người đi trên mây. Từ ngày 4/7 – 16/7 : 8 viên. Ngày 19/7: 88 viên

Tổng cộng tất cả số xá lợi hiện có là 96 viên từ 24 viên ban đầu hiện thực dường như giấc mộng, mộng mà như hiện thực.

Đúng như lý Bát Nhã “sắc tức thị không, không tức thị sắc, ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”. Tâm không trụ chấp, dính mắc chỗ nào, tâm sanh ra tất cả. Ví như từ không có một viên Xá lợi nào mà bây giờ được 96 viên. Biết nói thế nào diễn tả niềm hỷ lạc vô biên.

Ngược dòng thời gian, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt Niết Bàn năm 624 trước Công nguyên + 2005 năm dương lịch = 2629 năm. Đức Phật đản sanh: 2629 – 80 năm tuổi thọ = 2549 năm.

Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn 2629 năm nhưng ngọc Xá Lợi của Ngài vẫn còn lưu hạ. Kinh điển ghi chép rằng Đức Phật nhập Niết Bàn giữa rừng cây Tala Song Thọ, sau 7 ngày làm lễ trà tỳ tại thành Xá Vệ, lửa không cháy được cho đến khi Tôn giả Đại Ca Diếp du hóa từ phương xa nghe tin Đức Thế Tôn nhập diệt, Ngài vội vã dẫn 500 môn đệ băng rừng lội suối về đến nơi quỳ trước cổ kim quan, lúc này hai bàn chân của Đức Phật từ trong cổ kim quan ló ra. Không cầm được nước mắt, Đại Ca Diếp than khóc kính lạy Đức Thế Tôn, bậc cửu chủ trong thiên hạ, Đức Từ Phụ hãy an lòng ngơi nghĩ, chúng con xin kế thừa mạng mạch Phật pháp.

Lạ thay! Hai bàn chân của Đức Phật tự thụt vào và Ngài dùng Tam Muội Chân Hỏa tự trà tỳ kim thân mình.

Sau khi hỏa táng, tất cả Xá lợi của Ngài được chia làm ba phần:

- Xá lợi lớn bằng hạt đậu (hay nút đũa, 5 cân)

- Xá lợi vừa bằng hạt gạo, hạt thóc được 6 cân

- Xá lợi nhỏ bằng hạt mè được 5 cân

Hiện nay tóc và răng của Ngài vẫn còn lưu hạ bên Thái Lan và một vài nước. Trong Kinh sách nói có phước đức thì được lưu giữ Xá lợi, còn không thì Xá lợi thị thâu lại. Tôi đã chứng kiến tận mắt điều này. Vì ở Cù Lao Phố, có một ngôi chùa, nhân ngày cúng Tổ, thỉnh được hai viên Xá lợi từ một chùa THERAVADA ở Sài gòn. Buổi lễ rất trang trọng. Xá lợi thờ được 7,8 tháng thì bỗng biến mất.

Gần ở cầu Nước Trong - huyện Long Thành - Đồng Nai, có một chùa cũng thỉnh được một viên Xá lợi Đức Phật từ Cần Thơ, vị trụ trì hỏi tôi chỗ để thỉnh tháp. Tôi chỉ đường Nguyễn Chí Thanh - Chợ Lớn. Ba tháng sau gặp lại, tôi hỏi Sư cô trụ trì có thỉnh được tháp thờ Xá lợi chưa? Sư cô buồn bã nói: “Không có mua. Không biết sao về chùa giở viên Xá lợi ra, tự nhiên viên Xá lợi chảy thành nước”.

Tôi nghe mà giựt mình. Thế nên 24 viên ngọc Xá lợi của Đức Phật và 96 viên Xá lợi phát sanh cộng với mấy trăm viên mồ hôi Đức Phật, đối với tôi là những hạt bảo châu vô giá.

Gần 20 năm nay, tôi đi dạy các khóa hạ, các trường Phật học, cũng mong ước mở trường học tại chùa hoặc trường hạ cho Ni chúng vân tập về tu học trong ba tháng cấm túc an cư. Nhưng vì chưa có điều kiện xây dựng nên chưa thực hiện được.

Lòng thôi thúc tôi phải làm một việc gì đó có ý nghĩa hơn cho chúng sanh nên sau lễ Phật đản năm 2004, tôi đến chùa Hoằng Pháp – Hóc Môn nhờ quý Thầy hướng dẫn tổ chức Phật Thất.

Ngày 24/4/Giáp Thân (2004), tôi khai khóa tu niệm Phật lần đầu tiên tại chùa Hoàng Ân. Và một tháng sau, nhân ngày Tết Đoan Ngọ, nhà Sư CHEEN từ Mỹ về cúng dường cho chùa thêm 20 viên Xá lợi của Đức Phật, Xá lợi có ánh sáng trắng như kim cương. Phật tử vân tập về chùa để tu niệm Phật trên 60 vị, mội người một nơi nhưng vâng theo lời dạy của Đức Bổn sư, sau khi ta nhập diệt, chúng sanh trong thời mạt pháp, pháp Phật khó hành trì, chỉ có pháp môn Niệm Phật dễ thâm nhập, tinh chuyên niệm Phật, nhất tâm bất loạn, lâm mạng chung thời vãng sanh về cõi A Di Đà Phật.

Và hiện tiền phước báu đến với Hoàng Ân Cổ Tự, chùa tuy không giàu có về vật chất, nhưng an lạc niềm vui.

Tôi về trụ trì ngôi chùa nghèo, thiếu thốn mọi bề, phải tạo cảnh an bần mới lạc đạo. Tôi vui vì trên chánh điện có Phật và Phật ngự trong lòng.

Thỉnh được ngọc xá lợi của Đức Phật về, tôi mừng quá, lại không biết thờ ở đâu, thỉnh lên cao không chiêm bái được, để ở dưới thấp thì sợ mất.

Nhưng, đạo Phật tự lợi, lợi tha, phước báu này tôi không thể giữ riêng cho mình, phải san sẻ cùng mọi người.

Một cái tháp bằng kiếng tám cánh tượng trưng cho tám cánh cửa bát chánh đạo mở ra để chúng sanh đi vào Phật đạo, ngọc Xá lợi của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật được kính cẩn thờ phụng trong đó.

Ý ngôn tại ngoại, không ngôn từ nào diễn đạt được cảm xúc mừng vui của tôi. Không biết do tưởng tượng hay hiện thực, mỗi lần gặp điều gì không vui, tôi bước lên chánh điện, bật đèn ngắm nhìn ngọc Xá lợi của Đức Phật, tôi lại thấy lòng an tịnh, muộn phiền xua tan. Ngọc Xá lợi Đức Phật đẹp lạ thường khi mỗi lần có Phật tử xin chiêm bái.

Tôi hứng một ly nước từ giếng cổ, nước trong vắt như nước suối, chắp tay khấn Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni, cung kính thỉnh ngọc Xá lợi đặt trên ly nước.

Kỳ diệu thay, 24 viên Xá lợi không chìm, viên này kết viên kia. Nhìn bằng mắt thường thấy chiếu sáng màu ngũ sắc và một vòng hào quang bao bọc các viên xá lợi.

Sau khi kết lại với nhau, ngọc Xá lợi vẫn chạy vòng quanh ly nước, không tách rời nhau như đạo Phật đồng nhất thể.

Tất cả mọi người đều mừng vui chắp tay cung kính quỳ lại.

Xá lợi Phật lại phát sanh lần mới nhất là vào dịp Tết Ất Dậu (2005) vừa qua. Ngày mùng 4 Tết 2005, có 100 Phật tử ở chùa Thiên Bản (Sàigòn) đến viếng chùa và xin chiêm bái Xá lợi. Có ba cô Phật tử ở đường Võ Văn Tần nhà ở gần chùa, thấy ngọc Xá lợi kết với nhau có hình Đức Quán Thế Âm đang bay trên ly nước Xá lợi. Họ chỉ hỏi Sư cô có thấy không? Tôi trả lời là không thấy. Phật tử thấy tốt hơn Sư cô. Sư cô chỉ thấy một vòng hào quang bao chung quanh Xá lợi. Tất cả cùng thấy như Sư cô.

Ngọc Xá lợi Đức Phật có lúc phát sanh trong tháp, có lúc phát sanh trên tay, có lúc phát sanh trên mặt nước.

Ngày 22 tháng Giêng 2005, có đoàn Phật tử ở Chợ Lớn nghe tin đồn liền từ Sàigòn qua Đồng Nai đến chùa Hoàng Ân xin chiêm bái Xá lợi Đức Phật. Đang kết lại thành một khối thì tự nhiên có một viên Xá lợi nhỏ như đầu cây kim nổi lên. Tôi ngỡ là hạt bụi.

Đầu Xá lợi chạy ngổng lên khỏi mặt nước, chạy vòng vòng còn nhanh hơn những hạt Xá lợi lớn. Hào quang sáng trắng lấp lánh tỏa ra. Mừng rỡ tôi la lớn Ngọc Xá Lợi Phát Sanh ! Ngọc Xá Lợi Phát Sanh!

Và mới đây, vào ngày Vía Đức Quán Thế Âm 19-2 Ất Dậu (2005), trong khi thỉnh Xá lợi để Hải Trí chụp hình, thì tôi thấy có một viên Xá lợi phát sanh cùng hào quang tỏa ra phát sáng. Hải Trí đã chứng kiến tận mắt và cậu bé vô cùng xúc động trước sự nhiệm mầu này. Cũng nhờ vào Hải Trí mà tôi có dịp trình bày về ngọc Xá lợi Đức Phật cho chư vị.

Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni - Đức Từ Phụ A Di Đà - Đức Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật - Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cùng Long Thần Hộ Pháp đã, đang và sẽ tiếp tục từ bi gia hộ, hoa giác ngộ mọc lên trên mỗi bước chân đi.

Cầu mong sao cho chân cứng đá mềm, tứ chúng đệ tử chúng con: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di cùng Thiện nam tín nữ thừa hành theo lời giáo huấn của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni mà thực hành pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.

Nguyện cầu hoa khai kiến Phật, hoa sen nở thấy Phật. Mỗi tối niệm Phật và mỗi chủ nhật nơi mái chùa Hoàng Ân hẻo lánh, vâng theo lời dạy của Đức Thế Tôn, tinh tấn thời khóa niệm Phật bất thối chuyển.

Câu Lục tự Di Đà, âm điện bổng trầm ngân vang “Nam Mô A Di Đà Phật”. Bốn bước nhẹ nhàng an lạc, từng bước chân sắc áo cà sa vàng ánh, hòa sắc cùng áo lam người Phật tử tịnh lạc vô biên, tịnh mặc tiêu dao.

Giữa chánh điện tôn nghiêm, nhắm đôi mắt lại niệm chữ Di Đà, tôi cảm nhận một niềm giao cảm với Phật A Di Đà. Chừng như trước mắt tôi là cõi Tây Phương Cực Lạc có Đức Tây Phương Giáo chủ A Di Đà ngự tọa. Đức Phật phóng quang tuyên thuyết Kinh A Di Đà, hoa sen bảy báu nở, hằng hà sa số chư Phật, Thánh chúng đông đầy từ ái nhìn xuống cõi nhân gian.

Lắng nghe nơi cõi Ta bà tâm thành khẩn thiết, chúng sanh dị khẩu đồng âm thánh thót niệm danh hiệu Ngài. Chừng như Đức Phật mỉm cười phóng quang gia hộ nơi cõi Ta bà, Phật pháp xương minh, thiền môn hưng thịnh, tứ chúng an hòa, tấn tu đạo nghiệp, hiện tiền sanh chúng phước lạc an vui, lâm mạng chung thời vãng sanh về cõi A Di Đà Phật.
Namo Sakya Muni Buddha.
Reply Tán thành Không tán thành
-6
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Quang Đạt 07/06/2010 11:52:36
XÁ LỢI PHẬT
VÀ LỢI ÍCH KHI CHIÊM BÁI

Việc thờ phượng và chiêm bái Xá-Lợi Phật đã được phổ biến đến Phật tử Việt Nam rất lâu. Xá-Lợi Phật là phần di thể còn lại sau lễ hỏa táng nhục thân của một bậc vĩ nhân đã sanh ra trong hoàng tộc Sākya: Thái tử Siddhattha (Sĩ-Đạt-Ta). Ngài đã từ bỏ ngai vàng, vợ đẹp, con thơ, lên đường tầm cầu giải thoát, đã thanh lọc mọi ô nhiễm trong tâm và trở thành bậc hoàn toàn giác ngộ, sau đó đã tận tụy 49 năm dìu dắt chúng sanh thoát qua biển khổ trầm luân của hiện hữu.
Với lòng từ bi vô lượng, Ngài đã để lưu lại Xá-Lợi ở thế gian này sau khi viên tịch Niết Bàn để cho chúng sanh đời sau còn có duyên may chiêm bái và cúng dường. Vì thế, Xá-Lợi Phật là bằng chứng hùng hồn nhất về sự hiện diện của Ngài và ý nghĩa của sự xuất hiện ấy không ngoài mục đích giúp cho chúng sanh đoạn tận mọi khổ đau, thành tựu cứu cánh giải thoát Niết Bàn, không còn luân hồi sanh tử.

Do lòng kính trọng ân đức Phật Bảo nên chúng ta quý trọng và tôn thờ những gì có liên quan đến Ngài. Do sự bày tỏ lòng tôn kính qua hình thức chiêm bái cúng dường đến Xá-Lợi của Ngài, nghiệp quả lành sẽ phát sanh, đồng thời niềm tin vào con đường giải thoát sẽ được củng cố và tăng trưởng. Việc xây dựng các ngôi bảo tháp thờ Xá-Lợi Phật, trước tiên ở cõi trời, kế đến là Ấn Độ, sau đó là Tích Lan, v.v... và hiện nay đang được tiến hành tại nhiều nơi trên thế giới cũng không ngoài mục đích trên.

Xá Lợi là gì?
Xá lợi được phiên âm của từ “sarira”, nghĩa đen là “những hạt cứng”. Danh từ Xá Lợi không phải là xa lạ đối với người Á Châu. Người con Phật vẫn thường nghe nói đến Xá Lợi, và của chư Tổ. Không phải ai cũng có đủ duyên lành được chiêm ngưỡng Xá Lợi Phật .
Xá Lợi là sự kết tinh kỳ diệu của sự thành đạt tâm linh, của sự phát triển tột cùng của hạnh từ bi và trí tuệ. Xá Lợi có những hình dạng như những viên ngọc trai hay đá quí nhiều màu sắc trắng xanh đỏ vàng tím, long lanh như ngọc, rắn như kim cương, búa đập không vỡ, lửa thiêu không cháy, thu nhặt được sau lễ trà tỳ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, các bậc Thánh đệ tử và các vị Đại Sư.
Theo ghi chép trong lịch sử Phật giáo, khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni viên tịch, hàng đệ tử làm lễ trà tỳ. Sau khi lửa tàn, họ phát hiện trong tro có rất nhiều tinh thể trong suốt, hình dạng và kích thước khác nhau, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra những tia sáng muôn màu, giống như những viên ngọc quý. Họ đếm được cả thảy 84.000 viên, đựng đầy trong 8 hộc và 4 đấu. những vật thể đó được đặt tên là Xá lợi, là bảo vật của Phật giáo.

Xá lợi của hàng đệ tử:
Có thể nói hầu hết đệ tử của Đức Phật từ hàng xuất gia đến tại gia đều có Xá lợi sau khi hỏa táng. Kích cỡ và màu sắc cũng có khác nhau, nhưng có chung một điểm là: “Chẳng phải kim loại, chẳng phải phi kim, cũng chẳng phải kim cương đốt không cháy, thậm chí vẫn sáng lấp lánh màu sắc, thách thức với thời gian, chẳng mảy may hư hỏng”.

Những năm gần đây, lịch sử Phật giáo và giới khoa học đã ghi lại khá nhiều trường hợp các vị cao Tăng sau khi viên tịch, hỏa thiêu đã để lại Xá lợi. Tháng 12/1990, Hoằng Huyền pháp sư ở Singapore viên tịch, sau khi thi thể được hỏa thiêu, người ta phát hiện thấy trong phần tro của ngài có 480 hạt cứng, loại cỡ như hạt đỗ tương, loại nhỏ bằng hạt gạo, trông gần như trong suốt và tỏa sáng lấp lánh như kim cương. Sau khi phân tích, các nhà nghiên cứu đã xác định rằng đó chính là Xá Lợi .
Tháng 3/1991, Phó hội trưởng Hội Phật giáo Ngũ Đài Sơn, ủy viên thường vụ Hội Phật giáo Trung Quốc, sau khi viên tịch đã được hỏa táng theo tâm nguyện của ngài. Trong tro có tới 11.000 hạt xá lợi, đạt kỷ lục thế giới từ trước đến nay về những trường hợp xá lợi được ghi nhận chính thức.
Viên xá lợi có thể to như quả trứng vịt, đó là trường hợp của pháp sư Khoan Năng, vị trụ trì Tây Sơn Tẩy Thạch Am ở huyện Quế Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Ngày 27/9/1989, ngài viên tịch ở tuổi 93. Sau khi hỏa thiêu, người ta tìm thấy trong tro hài cốt 3 viên xá lợi màu xanh lục, trong suốt, đường kính mỗi viên lên tới 3-4 cm, tựa như những viên ngọc lục bảo.

Trái tim thành Xá lợi:
Trường hợp Bồ Tát Quảng Đức tự thiêu vào ngày 20 tháng 4 năm Quý Mão tức ngày 11 tháng 6 năm 1963 sau khi thiêu còn trái tim, người ta đã dùng lửa đến 4.000 độ, xương thịt cháy tiêu hết. Duy chỉ có trái tim của Ngài vẫn còn nguyên, được thiêu lần thứ hai vẫn không cháy. Trần Quang Tuyến tìm cách hủy trái tim này trước sự chứng kiến của nhiều người để dập tắt niềm tin của Tăng Ni Phật tử cả nước. Tuyến đã dùng axit đổ vào trái tim của Hòa thượng Thích Quảng Đức, tuy nhiên, đổ vào bao nhiêu axit cứ trôi đi bấy nhiêu, không thẩm thấu vào được. Ông Diệm đã mời các nhà khoa học Mỹ đến tìm cách phá hủy trái tim này. Người Mỹ đã dùng hồ quang điện (lửa hàn), thứ nóng nhất mà họ có, để đốt trái tim. Tuy nhiên, ngọn lửa nhiều ngàn độ C xanh lét, làm tan chảy cả sắt cũng không đốt cháy được trái tim lạ kia. Những nhà khoa học Mỹ lúc đó mới tin vào sức mạnh bất diệt của Phật giáo. Đốt không được, phá hủy không xong. Một trái tim bất diệt!

Tháng 6/1994, pháp sư Viên Chiếu, 93 tuổi, trụ trì chùa Pháp Hoa (núi Quan Âm, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc) trong một buổi giảng kinh tối đã nói với các đệ tử: “Ta sẽ để lại trái tim cho chúng sinh”. Sau đó vị sư nữ này ngồi kiết già và viên tịch.
Sau khi ngọn lửa tắt, trái tim vẫn còn mềm, nóng, rồi mới nguội dần và cứng lại, biến thành một viên xá lợi lớn, màu nâu thẫm. Khoảng 100 đệ tử có mặt trong lễ hỏa táng đã tận mắt chứng kiến hiện tượng lạ lùng đó.
Ngoài ra các đệ tử còn thu được 100 viên xá lợi to nhỏ khác nhau. Có viên thì hình tròn (xá lợi tử), có viên lại nở xòe ra như những bông hoa (xá lợi hoa). Những bông xá lợi hoa trông rất đẹp, lóng lánh như những bông hoa tuyết, chung quanh còn được giát bằng những hạt xá lợi nhỏ cỡ hạt gạo, sắc đỏ, vàng, lam, nâu... hết sức kỳ diệu.

Khoa học chưa giải thích được Xá lợi:
Gần đây, giới khoa học bắt đầu tìm cách giải thích những hiện tượng huyền bí được nhà Phật nói đến trong kinh điển. Thế nhưng khi bắt tay vào nghiên cứu hiện tượng Xá lợi, họ đã gặp không ít trở ngại.
Phương Tây, người ta không tin là có Xá Lợi Phật Tổ. Mãi đến năm 1997, ông Peppé người Pháp khi tiến hành khảo cổ tại vùng Piprava, phía nam Népal, đã tìm thấy những viên xá lợi đựng trong chiếc hộp bằng đá. Trên hộp có khắc những văn tự Brahmi, nội dung như sau: “Đây là xá lợi của Đức Phật. Phần xá lợi này do bộ tộc Sakya, nước Savatthi phụng thờ”. Khám phá này đã chứng minh: Những gì được ghi trong kinh Trường A Hàm và một số kinh sách khác về việc phân chia xá lợi đức Phật thành 8 phần cho 8 quốc gia cổ đại khi Phật nhập Niết bàn là có thật. Điều kỳ lạ là trải qua hơn 25 thế kỷ, xá lợi Đức Phật vẫn còn nguyên vẹn, lấp lánh màu sắc.

Về sự hình thành của những viên xá lợi, cho đến nay vẫn tồn tại nhiều cách giải thích khác nhau. Các nhà xã hội học cho rằng, do thói quen ăn chay, thường xuyên sử dụng một khối lượng lớn chất xơ và chất khoáng, quá trình tiêu hóa và hấp thu rất dễ tạo ra các muối phosphate và carbonate. Những tinh thể muối đó tích lũy dần trong các bộ phận của cơ thể và cuối cùng biến thành xá lợi.
Tuy nhiên, giả thuyết này không đủ sức thuyết phục. Bởi lẽ số người ăn chay trên thế giới có tới hàng trăm vạn, nhưng tại sao không phải ai khi hỏa táng cũng sinh xá lợi? Số người theo đạo Phật cũng nhiều vô kể, thế nhưng tại sao trong cơ thể những tín đồ bình thường lại không có xá lợi?
Một số nhà khoa học cho rằng, có thể xá lợi là một hiện tượng có tính bệnh lý, tương tự như bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi mật... Giả thuyết này cũng khó đứng vững. Bởi vì, sau khi đưa xác đi thiêu, trong phần tro của những người mắc các chứng bệnh kể trên không hề phát hiện Xá lợi. Mặt khác, những cao Tăng có xá lợi thường sinh thời thường rất khỏe mạnh, tuổi thọ cũng rất cao.
Nhà Phật cũng có những quan điểm riêng về vấn đề Xá Lợi . Quan điểm thứ nhất cho rằng xá lợi là kết quả của quá trình tu hành và khổ luyện. Quan điểm thứ hai cho rằng đó là kết quả của quá trình tu dưỡng đạo đức, chỉ xuất hiện ở những người có tấm lòng đại từ đại bi, luôn làm việc thiện.
Tuy nhiên, cuối cùng thì Xá Lợi đã được hình thành như thế nào? Thành phần của nó ra sao? Chẳng phải kim loại, chẳng phải phi kim, cũng chẳng phải kim cương, lục bảo, chỉ là tro cốt còn lại của người tu hành sau khi hỏa táng; vậy mà sao đốt không cháy, thậm chí vẫn sáng lấp lánh màu sắc, thách thức với thời gian, chẳng mảy may hư hỏng...? Hàng loạt câu hỏi như vậy cho đến nay vẫn chưa có lời giải đáp.

Ích lợi gì cho những người chiêm bái?
Vì là kết tinh của sự thành đạt tâm linh, nên, như lời dạy của Lạt Ma Zopa Rinpoche, “Mỗi phần nhục thân và Xá Lợi của các Ngài chứa đựng một năng lực mầu nhiệm có thể làm căn lành tăng trưởng và giải trừ nghiệp ác”. Vì thế, Xá Lợi có năng lực cảm hóa tâm người, phát triển lòng bác ái trong nội tâm của những ai có cơ duyên được chiêm bái Xá Lợi. Đức Phật đã từng dạy rằng có bốn nơi chốn đặc biệt: “nơi ta được sanh ra, nơi ta giác ngộ, nơi ta thuyết pháp và nơi ta nhập diệt. Sự thăm viếng một trong bốn nơi chốn này giống như sự gặp gỡ với chính bản thân ta.” Vậy thì khi chiêm ngưỡng Xá Lợi cũng tương tợ như thế.
Cho nên, những viên Xá lợi là tinh cốt còn lưu lại có công năng thù thắng, giúp tăng trưởng các điều lành thiện và tiêu trừ những điều xấu ác. Chỉ cần thành tâm, chúng ta có thể cảm nhận được năng lực mầu nhiệm của Xá Lợi.

Trong Kinh Sư Tử Hống, Đức Phật dạy: “Dù là bây giờ, cúng dường Như Lai, hay là mai sau, cúng dường Xá lợi, công đức tích tụ, ngang bằng như nhau, và quả gặt hái ngang bằng như nhau.”
Dù trong hiện tại chúng ta không đủ Phước Duyên để diện kiến Đức Phật, nhưng cũng vẫn có đầy đủ thiện duyên để gặp được Xá lợi Phật cùng Phật pháp. Vậy mặc dù Đức Phật không thị hiện ngay trước mặt chúng ta với sắc tướng quen thuộc của Ngài, chúng ta có thể thấy được Xá lợi Phật và vẫn còn có thể đạt giác ngộ.

Nên cúng dường Xá lợi như thế nào?
Cúng dường Xá lợi có ba cách:

1. Cúng dường tài vật, như tịnh tài, hoa, đèn, thực phẩm và thức uống.

2. Cúng dường tấm lòng kính ngưỡng tôn kính chư Phật bằng cách quét dọn nơi có Xá lợi, đảnh lễ cúng dường mạn đà la, xây tượng Phật và bảo tháp.

3. Cúng dường công phu hành trì: sống thuận theo chánh pháp, mở tấm lòng vị tha biết quan tâm cho người khác hơn bản thân, hay ít ra cũng khát khao cố gắng để được như vậy.

Nên nghĩ gì khi đến chiêm bái Xá lợi :
Khi đến một nơi có Xá lợi, quan trọng nhất là đừng xem đây chỉ như một viện bảo tàng. Phải thấy Xá lợi chính là hiện thân của Phật và cũng là hiện thân của tất cả mọi tánh đức cao quí của đấng giác ngộ. Và dòng ánh sáng trắng rót xuống đỉnh đầu, tất cả ác nghiệp thân miệng ý kết thành khói đen, hay thành nước đục, và bị tống ra khỏi thân thể qua các lỗ chân lông.

Khi thân thể bị bệnh:
Chúng ta nên đến trước Xá lợi, quán tưởng có luồng ánh sáng rót xuống đỉnh đầu của mình và chúng sinh, thấy tật bịnh cùng tất cả những gì làm giảm hại sức khỏe kết lại thành mũ máu và bị tống ra khỏi thân thể từ hai gót chân.

Chiêm bái Xá lợi lúc tâm bất an :
Gặp việc phiền não trong gia đình hay bạn bè gây gỗ, chúng ta có thể đến chiêm bái Xá lợi, đi nhiễu quanh Xá lợi (đi quanh theo chiều kim đồng hồ). Quán tưởng các bậc thiện thệ giải thoát, nhờ siêng năng đoạn khổ đau, không chấp trước, luôn hỷ xả nên hình thành xá lợi. Nay con nguyện học theo hạnh đó xem phiền não: bò cạp, cóc, rắn rít…con cần phải tránh xa. Đồng thời cầu nguyện cho chúng sinh đang bị phiền não tác hại cũng nương theo đó mà được thanh tịnh. Thay vì than thân trách phận, tìm quên ở rượu chè nghiện ngập, phương pháp quán tưởng này sẽ giúp chúng ta đừng quá chú trọng đến bản thân, dùng khổ đau của chính mình làm động cơ thúc đẩy việc tu hành.

Vì sao phải đảnh lễ và đi nhiễu quanh Xá lợi :
Tôi một lòng kính lễ quí vị, và cầu mong quí vị nên đi nhiễu, đảnh lễ Xá lợi Phật. Làm như vậy để nhận lực gia trì của chư Phật, điều này thật quan trọng. Vì lợi ích của chúng sinh mà chư Phật phát tâm bồ đề; vì lợi ích của chúng sinh mà chư Phật bước trên con đường tu; và cũng vì lợi ích của chúng sinh mà chư Phật thị hiện giác ngộ viên mãn. Vì lý do này, chư Phật và Xá lợi Phật vô cùng mầu nhiệm, vẫn còn đó đầy đủ năng lực gia trì. Hiểu như vậy thì sẽ nhận được lực gia trì rất mãnh liệt. Cho dù tâm không định cũng vẫn có thể nhờ Xá lợi mà nhận được lực gia trì. Nhờ hiểu lý lẽ này, chúng ta có thể mau chóng giác ngộ. Cho dù không hiểu nhiều, chiêm bái Xá lợi cũng sẽ là nhân tố thành tựu đạo nghiệp trên bước đường tu tập và hướng đến giải thoát giác ngộ.
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng chánh giác!
Kính lễ Tăng, người thừa chí cả, thay Thế Tôn truyền bá đạo mầu!

Namo Sakya Muni Buddha .
Reply Tán thành Không tán thành
-5
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Quang Đạt 08/06/2010 02:50:12
Chào Phương Thủy ,

Tôi nghĩ bạn Phương Thủy không phải là Phật tử thuần thành nên lời văn không được thanh lịch cho lắm . Bạn PT cũng đừng suy bụng ta ra bụng người , mỗi người có quan điểm khác nhau nhưng phải nói đúng sự thật , không suy diễn sai lệch không đúng với tinh thần đạo Phật.

ĐĐ Thích Phước Tiến có những bài thuyết pháp rất hay , ai cũng phải công nhận điều đó . Lời giảng chân chất , bình dị , mộc mạc dễ đi vào lòng người , tuy nhiên khi Ngài giảng về XL Phật thì sai sót nhiều. QĐ đã đăng 2 bài tư liệu có thật để độc giả xem và cần có thể liên hệ thực tế để kiểm chứng về sự phát sinh của XL Phật.

QĐ trả lời 4 câu của bạn Phương Thủy nhằm sáng tỏ vấn đề sau đây :

1 / Xá Lợi Phật là kim thân của Đức Phật để lại có giá trị vô giá về tâm linh thì ĐĐ Thích Phước Tiến không nên giễu cợt , châm biếm ví von với vàng bạc , mã não mua bán ngoài chợ trời . Điều này sẽ đắc tội nặng .

2 / ĐĐ TPT cần nhớ người ta phất tâm Bồ Đề là để tìm cầu giải thoát , chứ không ai phát tâm thì mới có hiệu dụng . XL Phật là bất khả tư nghì , có giá trị không phụ thuộc vào tín đồ có phát tâm hay không phát tâm . Cần nhớ là các Phật tử nào sở hữu XL Phật thì cần biết ai trao cho , chắc chắn không thể là một người phàm phu trao cho được . Phải có cơ duyên lớn trong cuộc đời và thường là các vị Cao Tăng , Đại trưởng lão của Phật giáo Nam Tông trao tặng nhân một hữu duyên nào đó .

3 / Theo kinh điển ghi chép lại thì sau khi Đức Phật nhậpĐại định 49 ngày đắc quả vị chánh đẳng chánh giác thì những người Đức Phật gặp đầu tiên là 5 anh em Thánh Tăng Kiều Trần Như để độ cho họ , chứ không có thương gia Miến Điện nào cả . Đức Phật cũng không có tóc khi đó , cái mà ta tưởng là tóc đó là Búi Nhục Kế , là thịt trên đầu Ngài đụn lên trông như tóc . Điều này có nói rõ mô tả trong 32 tướng tốt , 80 vẻ đẹp của Đức Phật từ kinh Nguyên Thủy đến kinh đại thừa sau này

4 / Tôi đã xem qua Video clip và nhận thấy ĐĐ TPT suy diễn khá nhiều xa rời sự thật . Đó là do Ngài chưa từng sở hữu , thờ phượng XL Phật bao giờ , chỉ nhìn thấy trong những cuộc triễn lãm , rồi suy đoán . Nếu ĐĐ TPT có XL Phật thì Ngài sẽ thấy XL có nhiều màu sắc khác nhau phát sáng lấp lánh . Việc XL sinh ra thêm có nhiều nơi biết lắm và điều này đã có từ lâu , có sự thật và các Tu sĩ Nam Tông đều biết sự mầu nhiệm này.

Bạn Phương Thủy có thể liên lạc với Sư cô Thích Nữ Huệ Tâm , trụ trì chùa Hoàng Ân ( Đồng Nai ) để biết sự thật XL Phật phát sinh . Những tài liệu QĐ có thực tế và có giá trị .

Về Kim Sinh thì hết sức lầm lẫn khi cho đạo Phật là một tôn giáo . Chưa bao giờ đạo Phật tuyên bố như vậy . Đạo Phật có giá trị ở sự tự nguyện mà bài kinh Kalama nổi tiếng có nói đến . Những lời đăng vừa qua ở trên QĐ đối thoại với Kim Sinh là lời của Ngài Đại Trưởng lão Narada Thera. Tất cả các Hòa Thượng các nước Châu Á đều ngưỡng mộ lắng nghe Ngài Narada thyết pháp cả . Ngài cũng là người khai sáng mở mang rất nhiều chùa chiền , Thiền Viện và thuyết giảng giáo lý cho các nước Phật giáo Châu Á .
Có lẽ Kim Sinh mãi cay cú hơn thua nên bắt bẻ lời của Ngài Narada mà không biết , tưởng lời nói đó là của QĐ . Thật là đắc tội với Ngài .
Namo Sakya Muni Buddha .

Quang Đạt
Reply Tán thành Không tán thành
-11
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Quang Đạt 08/06/2010 03:01:47
Các bài viết của Trần Chung Ngọc ở diễn đàn này không có giá trị khảo cứu lịch sử bởi mang đầy thành kiến , chấp ngã , gây mất đoàn kết tôn giáo .

Dễ gây phản cảm cho độc giả gần xa . Trong khi đạo Phật trên tinh thần luôn hòa hợp , yêu thương , hòa bình , Quốc thái dân an , nhà nhà hạnh phúc .

Người có trí tuệ sáng suốt thì biết hòa hợp , học hỏi những điều hay , có giá trị qua lời dạy của các bậc Giáo chủ các tôn giáo. Chứ không thành kiến áp đặt hay cố chứng minh đạo mình hay hơn đạo người. Làm như vậy sẽ vô nghĩa .

Chúng ta cần sống yêu thương , từ bi , phụng sự bá tánh hơn là phê phán tôn giáo cho thấy nhân cách lệch lạc , vốn chỉ tạo nghiệp bất thiện không giúp ích gì cho phát triển tâm linh , đạo quả .
Reply Tán thành Không tán thành
-10
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
KIM SINH 08/06/2010 07:13:42
Quang Đạt viết trước sau không thống nhất. Đã viết : " hết sức lầm lẫn khi cho đạo Phật là một tôn giáo. Chưa bao giờ đạo Phật tuyên bố như vậy." rồi lại viết " gây mất đoàn kết tôn giáo " ??

Đạo Phật tại VN đã là một tôn giáo gần 2000 năm rồi mà không cần thiết được ai tuyên bố cả. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất trước đây và Giáo hội Phật giáo Việt Nam bây giờ đều hoạt động theo các điều luật tôn giáo đương thời. Nếu không là tôn giáo thì Giáo hội là hiệp hội gì ? Doanh nghiệp ? Đãng phái ??? Các vị tôn đức Hòa Thượng, Thượng tọa ...tăng ni gia nhập Giáo Hội là lầm lẫn hết sao ? Khi Phật tử ghi vào lý lịch " Phật giáo " là sai quấy hết sao ? Liên Hiệp Quốc cử hành VESAK hàng năm không có nhằm tôn vinh triết học triết lý gì cả, mà chính là tôn vinh Đức Phật và Phật giáo, một tôn giáo ưa chuộng hòa bình, chưa từng gây bao động chiến tranh...

Như tôi có viết trong bình luận bên trên, vấn đề là khái niệm tôn giáo của phương Tây , hễ là tôn giáo thì ắt thờ phượng một Chúa hay Thượng đế... cho nên họ nói đạo Phật không phải là tôn giáo. Đó là họ nói theo khái niệm của họ, ý nhấn mạnh rằng Phật giáo đặc biệt không chấp nhận một thượng đế nào cả.

Phật giáo VN cũng không muốn bị đánh đồng trong khái niệm tôn giáo thông thường của phương Tây ,nhưng không ai từ chối ghi "Phật giáo" vào mục tôn giáo trong tờ khai lý lịch cả.

Quang Đạt đang thờ phượng Xá lợi và tin tưởng "vì là kết tinh của sự thành đạt tâm linh" , vậy Quang Đạt đang thực hành đức tin gì ? Đức tin triết học ? Không phải ! Đức tin triết lý ? Không phải ! Đức tin vào một hệ thống giáo dục đạo đức ? Cũng không phải ! Theo tôi đơn giản là : Quang Đạt đang thực hàmh theo một đức tin tôn giáo .
Reply Tán thành Không tán thành
11
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Kiều Uyển Hoa 08/06/2010 10:45:08
Chào bạn Quang Đạt,

Bạn nói: Bạn Kim Sinh "...bắt bẻ lời của Ngài Narada mà không biết, tưởng lời nói đó là của QĐ. Thật là đắc tội với Ngài."

Tại sao bạn Kim Sinh "tưởng" như vậy?

Vậy khi bạn trích dẫn lời nói của Ngài Narada, bạn có ghi đó là lời trích dẫn không, bạn có ghi tác giả lời nói đó là ai không, hay bạn chỉ viết ra, làm cho người ta lầm tưởng đó là lời của bạn? Nếu bạn Kim Sinh tưởng như vậy, thì đó là do lỗi của ai?
Mà dù đó có là lời của ai, thì trong Phật giáo, bạn Kim Sinh vẫn có quyền nghĩ khác vì trong Phật giáo không có giáo điều ép buộc tất cả tín đồ phải răm rắp tuân theo.

Trong khi nghe các băng thuyết giảng Phật Pháp của các vị Thầy, có nhiều điều tôi không đồng ý với các vị. Nhưng khi tôi không đồng ý điều gì, thì tôi muốn gởi thư trình bày với các vị trước, chờ nghe lời các vị giải thích. Nếu tôi không biết các vị ở đâu thì tôi định nếu có dịp gặp, sẽ trình bày trực tiếp để thảo luận, đối thoại. Tôi thật không dám tự cao, cho là mình đúng, rồi tung lên mạng, chỉ trích này nọ.

Dù là quan tòa xử cũng phải để cho đương sự trình bày. Huống chi là đối với các vị Thầy, trưởng tử của Như Lai, mà bạn thiếu tôn trọng, chê bai đủ thứ. Bạn quá tự tin, không biết rằng đó cũng là ngã mạn sao?

Tôi nghĩ là bạn còn trẻ lắm nên không biết trong quá khứ, thời thuộc Pháp và thời NĐD, Phật giáo đã từng khốn đốn vì không được xem là một tôn giáo, bị Dụ số 10 của Bảo Đại ràng buộc, xem không khác một hội đá banh. Bây giờ bạn ra sức chứng minh Phật giáo không phải là một tôn giáo, vậy bạn muốn đẩy Phật giáo trở thành gì? Một hội như hội nhà văn, hội âm nhạc hay một CLB bóng đá?

Tại sao Phật giáo lại không phải là một tôn giáo?
Ai thích triết học thì nhìn Phật giáo như một triết lý sống. Ai thích nguyện cầu, tụng kinh, niệm Phật thì nhìn Phật giáo như một tôn giáo. Chúng ta chẳng đã nghe câu "Phật pháp bất ly thế gian pháp" sao? Tại sao cứng nhắc, cứ cho Phật giáo là thế này thế kia theo sở thích của mình? Bạn không chịu nỗi người khác ý với mình.

Đó là lý do để trong Phật giáo có tới tám vạn bốn ngàn pháp môn; ai cũng có cơ hội tìm thấy lối tu tập thích hợp với căn cơ của mình.
avatar
Phương Thuỷ 09/06/2010 07:40:43
Sao Quang Đạt cứ "chụp" hoài vậy , cứ trao đổi ý kiến theo đề tài , còn thuần thành , thanh lịch thì đâu có ai cầu QĐ nhận xét, mà QĐ cũng đâu có tư cách nhận xét.

1/-Chuyện ĐĐ Thích Phước Tiến có giễu cợt châm biếm Xá lợi hay không cứ để mọi người xem video clip rồi kết luận.

2/- ĐĐ nói cần thêm phát tâm bồ đề mới có hiệu dụng tinh tấn trong tu tập ( Thuỷ : Còn cứ thờ lạy xá lợi khơi khơi mà không lo tu thì bản thân chẳng có tiến bộ gì cả ; thờ lạy xá lợi để có tín tâm hổ trợ tu tập , chứ đâu phải mưu cầu xá lợi phát sáng hoặc đẻ ra thêm ). QĐ viết : "XL Phật là bất khả tư nghì , có giá trị không phụ thuộc vào tín đồ có phát tâm hay không phát tâm" Lòng tin của QĐ sâu đậm quá rồi, Thuỷ chào thua , trao đổi ý kiến nữa cũng vô ích.

3/-Chuyện xá lợi tóc là truyền thuyết của người Miến Điện , ĐĐ đâu có bảo mọi người nên tin đâu mà QĐ cứ cố công kích ĐĐ. Riêng Thuỷ thì QĐ không hợp lý khi bảo Phật không gặp ai cả trước khi gặp các anh em Kiều Trần Như , đường dài không có ai cúng dường làm sao Phật đi nổi. Ngoài ra QĐ có gì để chắc rằng thái tử Tất-Đạt-Đa không còn mọc râu tóc , không để râu tóc trong thời gian tu khổ hạnh hành xác cho đến sau 49 ngày nhập định thành Phật ?.

4/-Tài liệu của QĐ có giá trị hay không , cứ mời mọi người đọc rồi đánh giá. Riêng Thuỷ không gặp bất cứ ai do QĐ giới thiệu vì biết chắc họ cũng tin cũng nói như QĐ mà thôi.
avatar
Phương Thuỷ 10/06/2010 02:55:03
Kính mời quý vị đọc các tài liệu về xá lợi do Quang Đạt post trên đây , và cho nhận xét về giá trị của các tài liệu này.

Phương Thuỷ
Reply Tán thành Không tán thành
-1
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Nguyễn Minh Trí 10/06/2010 04:06:11
Tôi nghĩ anh QĐ không cần phải thảo luận với nhóm người trong đây . Họ đầy sân hận , hung hăng , thiển cận , mù quáng về giáo lý đạo Phật . Phật tử thật sự thuần thành thì họ hòa ái , nhu thuận , sáng suốt chứ không vọng động . Không ai đem ngọc quý mà quăng vào chuồng heo cả , nó sẽ dẫm đạp mà đắc tội.

Các bài viết của anh QĐ thực tế cụ thể hoàn toàn thuyết phục . Tôi rất tâm đắc bởi phản ánh sự công bằng khi nhìn về đạo Phật và các tôn giáo .

Vừa qua GHPGVN đã cung nghinh tôn vinh Xá Lợi Phật rất trọng thể từ Ấn Độ về nước . Điều đó cho thấy Phật giáo VN nhận biết về giá trị cao quý của XL Phật.

Cái cô Phương Thủy nào đó hung hăng quá , nhận thức lại kém cõi ấu trĩ , không thông thuộc lịch sử cuộc đời Đức Phật mà thảo luận e chỉ làm độc giả nực cười .

Giá trị của XL Phật thì khắp nơi tín đồ Phật tử đều tôn kính . Từ xưa đến nay chưa có ai dám thuyết pháp nói ví XL Phật như vàng bạc ngoài chợ cả . Thật là thiện tai ! thiện tai !

Chỉ việc XL Phật phát sinh có thật qua tài liệu anh QĐ cũng đủ thấy cái cô Phương Thủy nào đó hồ đồ khi nhận định XL Phật sinh ra thêm đó là mê tín . Thiệt hết biết Phật tử gì mà như vậy thật hổ thẹn .

Cái gì biết nói biết , không nói không , chứ không suy diễn . Phải nói đúng sự thật chân lý . Những độc giả gần xa khi đọc chắc là chĩ mĩm cười đối với nhóm người quá khích lập dị này.

Cái cô Kiều Uyển Hoa nào đó thiệt buồn cười, theo tôi biết Phật giáo chưa bao giờ tuyên bố mình là một tôn giáo cả vì tính chất Phật giáo là hoàn toàn tự nguyện . Phật giáo đứng trên mọi triết lý nhân sinh thông thường . Nếu là tôn giáo thì Phật giáo sẽ có tổ chức hệ thống giáo quyền chặt chẽ như đạo TC La Mã . Cái hay của đạo Phật là không có giáo quyền bắt buộc mà là sự tự nguyện. Cái cô này cứ cãi chày cãi cối mà không rõ về đạo Phật , cần phải học giáo lý đạo Phật thêm nữa . Có lẽ cô này do ít đi chùa chiền , thiền viện để được các Thầy , các Sư giáo hóa điểm đạo cho đời sống tâm linh hạn hẹp của mình .
Vài lời đàm luận .

Nguyễn Minh Trí - Thiền Viện Viên Không
Reply Tán thành Không tán thành
-11
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Kiều Nguyệt Nga 10/06/2010 06:16:51
Bạn Kiều Uyển Hoa nói vậy hóa ra bạn không thèm đọc và hiểu những gì QĐ viết mà cứ thấy cái gì do QĐ post là đã vội vàng chỉ trích rồi. Giả sử nếu QĐ trích một lời dạy của Đức Phật rồi post lên đây chắc bạn cũng chẳng thèm đọc rồi sau đó lại nói là tại QĐ không nói rõ đó là lời của Đức Phật sao? Qua chuyện này cũng đủ thấy bạn là người thế nào rồi.
Reply Tán thành Không tán thành
-6
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
kẻ ở miền xa 10/06/2010 10:41:14
Khi xưa Phật còn tại thế, Phật có dạy hàng đệ tử là chớ vội tin điều gì. Lời Phật dạy các đệ tử còn phải ngẫm nghĩ, suy xét xem đúng hay sai rồi tin theo.
Cũng vậy, trước những ý kiến khác chiều, mọi người cần suy nghĩ, phân tích rồi cùng thảo luận trên tinh thần KIẾN ĐỒNG HÒA GIẢI, không nên quy chụp là Phật tử hay chưa là Phật tử, mù quáng, thiển cận, ấu trĩ...
Thế không lẽ chỉ có người Phật tử mới được quyền tranh luận, còn ngoại đạo hay những ai chưa là Phật tử thì không có quyền lên diễ đàn này?
Trở lại chuyện Xá Lợi, tin hay không là quyền tự do của mỗi người, không nên phải áp đặt thế này thế này, thế nọ. Tôi chỉ nghe về trái tim bất diệt của hòa thượng Thích Quảng Đức, nghe thì nghe thế thôi, chứ tôi cũng đâu có thấy tận mắt nên cũng không tin lắm.
Còn việc ai muốn cho đạo Phật là tôn giáo thì cho, ai cho đạo Phật là một triết lý nhân sinh thì cho. Tôi không tranh luận vì Phật còn chẳng bắt ai phải tin theo Ngài thì tôi lấy quyền gì mà phải thế này, phải thế nọ.
Thôi xin hai phía bình tâm, viết lách tử tế, đàng hoàng vì dù sao đây cũng là diễn đàn Phật giáo chứ không phải là cái ..chợ trời.
Bạn Minh Trí viết:"Không ai đem ngọc quý mà quăng vào chuồng heo cả , nó sẽ dẫm đạp mà đắc tội". Xin có nhận xét rằng: TIỀN VÀNG,NGỌC NGÀ CHÂU BÁU CÓ NGƯỜI QUÝ LẮM, LÀ TẤT CẢ...NHƯNG CŨNG CÓ NGƯỜI CHO LÀ VẬT NGOÀI THÂN, LÀ CÁT BỤI PHÙ DU MÀ THÔI. KHÔNG THỂ BẮT NGƯỜI KHÁC NHÌN SỰ VẬT THEO CON MẮT CỦA MÌNH ĐƯỢC.
VÀ CUỐI CÙNG, XIN MỌI NGƯỜI ĐỪNG ĐỘC THOẠI, ĐỘC ĐOÁN, QUY CHỤP ĐỦ THỨ NHƯ VIETCATHOLIC HAY TIENGNOIGIAODAN.. VÌ PHẬT GIÁO LUÔN LẮNG NGHE ĐÔI CHIỀU CHỨ KHÔNG ĐỘC THOẠI, ĐỘC TÔN NHƯ ĐẠO CHÚA.
Thân chào.
avatar
Phương Thuỷ 10/06/2010 12:22:55
Tôi cho rằng ai tin xá lợi tự đẻ ra thêm là mê tín.

Chưa có tôn đức nào trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam dạy Phật tử nên tin như vậy. Đó là chứng lý cho lập trường của tôi. Quang Đạt, Nguyễn minh Trí , Kiều Nguyệt Nga , chỉ là một , đã tự nhận là thay mặt cho Thiền viện Viên Không thì nên nhờ Ngài Trụ Trì Thích Hộ Pháp lên tiếng về vấn đề này ; bằng không tôi cho rằng Quang Đạt đã mạo nhận.

Quang Đạt đã “chụp” tôi là “ không phải là Phật tử thuần thành nên lời văn không được thanh lịch cho lắm ” nay Quang Đạt dùng những từ ngữ khủng khiếp :

“Họ đầy sân hận , hung hăng , thiển cận , mù quáng về giáo lý đạo Phật”

“ hung hăng quá , nhận thức lại kém cõi ấu trĩ , không thông thuộc lịch sử cuộc đời Đức Phật mà thảo luận e chỉ làm độc giả nực cười”

“ cũng đủ thấy cái cô Phương Thủy nào đó hồ đồ khi nhận định XL Phật sinh ra thêm đó là mê tín . Thiệt hết biết Phật tử gì mà như vậy thật hổ thẹn .”

“ Cái gì biết nói biết , không nói không , chứ không suy diễn . Phải nói đúng sự thật chân lý . Những độc giả gần xa khi đọc chắc là chĩ mĩm cười đối với nhóm người quá khích lập dị này. ”

“ Cái cô Kiều Uyển Hoa nào đó thiệt buồn cười ... Cái cô này cứ cãi chày cãi cối mà không rõ về đạo Phật , cần phải học giáo lý đạo Phật thêm nữa . Có lẽ cô này do ít đi chùa chiền , thiền viện để được các Thầy , các Sư giáo hóa điểm đạo cho đời sống tâm linh hạn hẹp của mình .”

Do vậy tôi không nhận và trả lại nguyên văn “ không phải là Phật tử thuần thành nên lời văn không được thanh lịch cho lắm ” cho chủ sở hữu là Quang Đạt vậy.
Reply Tán thành Không tán thành
10
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Kiều Uyển Hoa 11/06/2010 01:48:02
Thưa bạn kẻ ở miền xa,
Bạn nói: "Thôi xin hai phía bình tâm, viết lách tử tế, đàng hoàng ..." Tôi không biết khi bạn nói như vậy thì trong hai phía đó bạn có cho tôi vào trong phía nào không. Nếu có, xin bạn vui lòng cho biết trong bài bình luận của tôi có chỗ nào không được "tử tế, đàng hoàng", làm bạn phải lên tiếng nhắc nhở. Rất cảm ơn.
avatar
11/06/2010 11:01:01
Thưa bạn KUH, thực tình tôi chỉ muốn khuyên các bạn CG, TL và các bạn tự xưng là Phật tử nào đó mà ngôn ngữ hơi.. chợ búa khi vào diễn đàn này (các bài khác). Mình chỉ khuyên các bạn ấy thôi, tự điều chỉnh lại, chứ không nhằm vào bất cứ ai cả vì với mình tất cả các bạn trên diễn đàn này đều là bạn, dù tôn giáo, tư tưởng có khác nhau.
Thân chào bạn.
avatar
kẻ ở miền xa 11/06/2010 11:04:20
gửi bạn KUH, ý kiến trên là của mình
. xin lỗi bạn
avatar
khánh 26/06/2010 21:13:27
chào bạn tôi có vài điều muồn nói thực sự thì củng tinh cờ vô đây nếu bạn nói cơ đốc giáo mê tính thì bạn giải thích sao về giáo lí nhà phật như 19 tầng địa ngục nếu bạn nói thiên đình ơtrên trời vậy tại sao các phi thuyền của nasa không đụng trúng 9 tầng mây hi vong bạn sẻ liên lạc với tôi để bình luận thêm về vấn đề nài trong niềm tôn trong vào niềm tin của nhau cám ơn
avatar
GT 27/06/2010 11:24:58
Chào bạn Khánh.
Trong đạo Phật, tùy theo nghiệp lực của chúng sanh mà có những cảnh giới khác nhau nào là 3000 thế giới, 6 đường (lục đạo) ...chứ không chỉ có thiên đàng, địa ngục như bạn nói.
CÓ ĐIỂM KHÁC NHAU TRONG PHẬT GIÁO VÀ TCG LÀ:
THEO PG: AI LÀM VIỆC ÁC, THÌ PHẢI NHẬN QUẢ BÁO XẤU, GIEO NHÂN NÀO GẶT QUẢ NẤY, KHÔNG AI CÓ THỂ CHỊU TỘI THAY CHO AI ĐƯỢC, KỂ CẢ MẪU TỬ TÌNH THÂM.
THEO TCG: AI TIN CHÚA THÌ LÊN THIÊN ĐÀNG VỚI CHÚA, KHÔNG TIN CHÚA TIN BỊ ĐÀY XUỐNG HỎA NGỤC ĐỜI ĐỜI, CHỈ CẦN TIN CHÚA MÀ THÔI, KHÔNG CẦN XÉT ĐẾN TỐT XẤU RA SAO. AI TIN CHÚA MÀ LÀM VIỆC ÁC ,VIỆC XẤU... ĐỂ MỞ RỘNG NƯỚC CHÚA, VINH DANH CHÚA THÌ CŨNG ĐỀU ĐƯỢC LÊN THIÊN ĐÀNG.
avatar
Tony Teo 29/06/2010 23:11:26
chán bạn GT quá đi, nói như em bé mẫu giáo tập đếm 1,2,3 vậy đó. Người a nói tin Chúa tức là phải làm theo những điều Chúa dạy. Giống như hiểu Phật tức là phải làm theo lời Phật dạy đó. hiều chưa bạn hiền. chán bạn ghê, cứ bắt tui ôn tập cho bạn hoài thì làm sao bạn lên lớp được.
avatar
GIA THỊNH 30/06/2010 09:36:09
Chào bạn Teo.
Nếu bạn làm theo lời Chúa như trét phân lên mặt người khác, gọi người phi Do Thái là chó, đưa người ngoại đạo lên giàn hỏa... thì dĩ nhiên BẠN LÀ MỘT CON CHIÊN TỐT CỦA CHÚA VÀ CỬA THIÊN ĐÀNG SẼ RỘNG CỬA ĐÓN CHÂN BẠN , NHƯNG VỚI CHÚNG TÔI THÌ ĐÓ LÀ VIỆC LÀM VÔ NHÂN ĐẠO, MẤT DẠY VÀ CHÍNH NHỮNG VIỆC LÀM ĐÓ SẼ NHẬN QUẢ BÁO XẤU DO CHÍNH CÁC BẠN GÂY NÊN, PHẬT KHÔNG HỀ CỨU RỖI NHỮNG VIỆC LÀM VÔ NHÂN ĐẠO ẤY.
BẠN TÈO HIỂU CHỨ Ạ?
avatar
Thanh Huyen 30/06/2010 19:34:20
Bạn Gia Thinh ơi ! Cái con chiên T.Tèo này lì lượm hết chổ nói .Cứ lải nhải những chuyện ngoài mục đích bài viết chính .Hơi đâu bạn đôi co .Chiên bao giờ cũng vẫn là chiên .Ba trăm ngàn người Do Thái chưa được Jesus "cứu'" lên cái gọi thiên đàng của ông ta thì làm sao tới chiên T.Tèo lỳ lượm này được.Ăn theo tấm khố Jesus !Tội quá đi thôi.
avatar
TN 15/07/2010 06:12:37
Bai viet nay hay qua.Noi thiet minh cung khong hieu nhieu ve dao chua nen khong dam len tieng che bai nhung minh uoc sao the gioi nay ai cung tin dao Phat vi nhu the se khong ai lam ac nua,chu cu tin lam sao cung duoc cuu roi,xa toi thi cu co nhieu nguoi lam chuyen ac ma khong so qua bao,thiet buon thay!
avatar
Quang Đạt 21/07/2010 00:49:13
Thân chào cô Kiều Nguyệt Nga ,

Nick Phương Thủy hay Kiều Uyển Hoa qua văn phong thì là đàn ông chứ không phải phụ nữ . Cô Kiều Nguyệt Nga nhận xét rất đúng bởi vì họ chỉ lo bắt bẻ mà không biết đến nội dung các câu nói đó như thế nào , là của ai . Họ là hạng người như thế nào thì QĐ biết rõ chỉ cần qua vài lần đối thoại .

Cái cô Phương Thủy mạo nhận là nam giới giả danh còn phỉ báng Xá lợi Phật nữa trong khi XL Phật được tín đồ Phật giáo trên khắp toàn câu tôn kính , và được ghi chép trong kinh điển Bắc truyền hẳn hoi .

Bạn GT thì ngây ngô đến mức cho rằng : ai tin Chúa thì lên Thiên Đàng , không tin Chúa thì bị đày xuống hỏa ngục . Thiệt nực cười .
Về tín ngưỡng từ cổ chí kim tin hay không tin là thuộc phạm trù tự do mỗi cá nhân con người làm gì có chuyện ép buộc . Một đời sống thánh thiện mới đưa con người lên Thiên Đàng , còn một đời sống tội lỗi thì phải xuống hỏa ngục , đó là sự công bằng .

Quang Đạt
Reply Tán thành Không tán thành
-2
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Phương Thuỷ 21/07/2010 17:52:14
Quang Đạt lâu nay bận sinh hoạt giáo đoàn , có phải không ? Nguyễn minh Trí và Kiều Nguyệt Nga cũng cùng đi chung như hình với bóng , có phải không ?

Quang Đạt nói tôi phỉ báng Xá lợi Phật thì phải đưa ra bằng chứng , bằng không thì tôi được quyền phê phán Quang Đạt vu vạ tráo trở . Riêng tôi lập lại một lần nữa : Ai tuyên truyền Xá Lợi tự đẻ ra thêm là tuyên truyền mê tín, là phỉ báng Xá Lợi , phỉ báng Đạo Phật .

Quang Đạt phân biệt Nam Nữ để làm gì ? Tôi có bao giờ thừa nhận là Nam hay Nữ đâu mà Quang Đạt nói tôi giả danh . Dù sao , khi Quang Đạt viết “Cái cô Phương Thuỷ..." thì Quang Đạt đã tự suy đoán và tự hạ phẫm giá của Quang Đạt vậy.

Cái trò mạo nhận là người của Thiền Viện Viên Không thì Quang Đạt-Nguyễn Minh Trí sao vẫn chưa hồi đáp hay là Quang Đạt muốn chối bỏ ? Chạy chối cũng vô ích , ai đọc qua cũng thấy rất rõ Quang Đạt là “ hạng người như thế nào ".
avatar
Quang Đạt 21/07/2010 00:56:03
Đây là bài thuyết Pháp của Ngài Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 ( Tây Tạng ) nhận định về các tôn giáo khác trên thế giới . Đọc bài này mới thấy một số ít hội viên trong này phiến diện , hẹp hòi , sân hận , mang tội Đại vọng ngữ như thế nào theo giáo lý Phật Đà khi bài bác các tôn giáo khác , kể cả các Tu sĩ Phật giáo cũng tham gia thật là đáng trách .

NHIỀU TÍN NGƯỠNG , MỘT SỰ THẬT

Dalai Lama

Khi còn là một bé trai ở Tây Tạng, tôi cảm thấy rằng Phật giáo của tôi phải là tôn giáo hạng nhất – và những tín ngưỡng khác kém hơn. Bây giờ tôi thấy tôi đã ngây thơ như thế nào, và sự cực đoan của những tôn giáo thiếu khoan dung ngày nay nguy hiểm như thế nào.

Mặc dầu sự thiếu khoan dung có thể cũ như chính tôn giáo, chúng ta vẫn còn có thể nhìn thấy những dấu chỉ mạnh mẽ về sự độc hại của nó. Tại châu Âu, có cuộc thảo luận sôi nổi về các di dân đeo mạng che mặt hay muốn xây dựng tháp nguyện đường và những đợt bạo lực chống lại di dân Hồi giáo. Phái vô thần cấp tiến lên án chung tất cả những ai giữ tín ngưỡng tôn giáo. Tại Trung Đông, lửa chiến tranh được quạt bởi hận thù của những người thuộc về tôn giáo khác nhau.

Những căng thẳng như vậy có vẻ gia tăng khi thế giới trở thành nối kết nhiều hơn và văn hóa, người dân và tôn giáo cuốn quyện với nhau hơn bao giờ hết. Áp lực này không chỉ thử thách lòng khoan dung của chúng ta – nó đòi hỏi chúng ta khuyến khích chung sống hòa bình và có sự hiểu biết vượt qua biên giới [niềm tin tôn giáo của mình].

Đương nhiên, mỗi tôn giáo có một ý thức riêng như là phần cốt lõi đặc trưng của mình. Dầu vậy, tôi tin rằng có khả năng thực sự cho một sự hiểu biết lẫn nhau. Khi bảo tồn niềm tin về truyền thống của mình, người ta vẫn có thể tôn trọng, cảm phục và biết ơn những truyền thống khác.

Một dịp sớm mở mắt cho tôi là cuộc gặp gỡ Thomas Merton tại Ấn Độ, một thầy dòng Công giáo khổ tu, gọi là Dòng Trappist, trước khi ông bất ngờ qua đời vào năm 1968. Merton nói với tôi rằng tuy ông hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa giáo, nhưng vẫn có thể học hỏi sâu xa từ các tôn giáo khác như Phật giáo. Điều này cũng đúng với tôi như là một Phật tử nồng nhiệt học hỏi từ các tôn giáo lớn khác trên thế giới.

Điểm chính trong cuộc thảo luận của tôi với Merton là trung tâm lòng thương của cả Thiên Chúa giáo và Phật giáo là thông điệp như thế nào. Đọc Tân Ước, tôi tự cảm thấy hứng khởi bởi những việc làm thương người của Giê Su. Phép lạ của ngài về bánh và cá, chữa bệnh và dạy bảo của ngài tất cả đều thúc đẩy bởi ý muốn làm dịu đi sự khổ đau.

Tôi là người tin tưởng vững chắc vào khả năng của sự giao tiếp giữa con người để bắc cầu cho những khác biệt, cho nên từ lâu tôi đã kêu gọi đối thoại với những người khác tôn giáo. Điểm chính về lòng thương mà Merton và tôi theo đuổi trong hai tôn giáo của chúng tôi đã gây ấn tượng trong tôi như là một sợi giây mạnh mẽ hợp nhất tất cả các tín ngưỡng lớn. Và trong những ngày này, chúng ta cần nhấn mạnh cái gì hợp nhất chúng ta.

Hãy nói về đạo Do Thái (Judaism). Lần đầu tiên tôi viếng một đền thờ ở Cochin, Ấn Độ, năm 1965, và tôi đã gặp nhiều giáo sĩ (rabbi) trong nhiều năm. Tôi còn nhớ cảnh sống động vị giáo sĩ ở Hòa Lan đã nói với tôi về Holocaust, mãnh liệt đến nỗi khiến cả hai chúng tôi cùng chảy nước mắt. Và tôi học được ở kinh Talmud và Cựu Ước đã nhắc lại về lòng thương như thế nào, như là phần trong sách Lê Vi đã nhắc nhở, “Yêu láng giềng như chính mình”.

Trong rất nhiều lần gặp gỡ các học giả Ấn giáo, tôi cũng đã được thấy cái tâm điểm của lòng thương vị tha trong Ấn giáo (Hinduism) – như đã được diễn tả trong thánh thi Bhagavad Gita, ca ngợi những ai “vui sướng vì phúc lợi của mọi sinh vật”. Tôi cảm động về cách mà giá trị này đã được diễn tả qua cuộc đời của nhân vật vĩ đại như Mahatma Gandhi, hoặc được biết tới ít hơn là Baba Amte, người đã lập một trại cùi không xa nơi định cư của người Tây Tạng thuộc tiểu bang Maharashtra ở Ấn Độ. Tại đây, ông đã nuôi dưỡng những người cùi mà nếu không có ông, họ bị lánh xa. Khi được nhận giải Nobel Hòa bình, tôi đã tặng cho trại của ông.

Lòng thương cũng quan trọng tương tự trong Hồi giáo – và việc nhận ra thông điệp này trở nên rất quan trọng kể từ sau sự kiện 11 tháng 9, nhất là để trả lời cho những ai mô tả Hồi giáo như là một tín ngưỡng hiếu chiến. Vào kỷ niệm một năm ngày 11 tháng 9, tôi đã nói tại Nhà thờ Quốc gia (National Cathedral) ở Washington, nài xin chúng ta đừng mù quáng theo dõi một vài tin dẫn trên truyền thông và để cho những hành vi bạo động của một vài cá nhân tượng trưng cho cả một tôn giáo.

Xin để tôi nói về Hồi giáo như tôi biết. Tây Tạng đã có một cộng đồng Hồi giáo vào khoảng 400 năm, mặc dầu những giao tiếp phong phú nhất của tôi với Hồi giáo đã diễn ra tại Ấn Độ, nơi tín hữu Hồi giáo đông thứ nhì trên thế giới. Một Immam tại Ladakh có lần nói với tôi rằng một tín hữu Hồi giáo thực sự phải yêu thương và kính trọng tất cả mọi loài Allah đã tạo ra. Và theo sự hiểu biết của tôi, Hồi giáo cung kính tình thương như một nguyên tắc cốt lõi về tinh thần, phản ảnh ngay từ danh Chúa, câu “Thương người và Khoan dung” xuất hiện ở phần mở đầu tại hầu hết mỗi chương của kinh Koran.

Tìm một địa bàn chung cho các tín ngưỡng có thể giúp chúng ta nối kết những chia rẽ không cần thiết vào thời gian khi hành vi hợp nhất quan yếu hơn bao giờ hết. Là một chúng sinh, ta phải đón nhận tính đồng nhất của loài người khi chúng ta phải đương đầu với những vấn đề toàn cầu như bệnh dịch, khủng hoảng kinh tế hay tai nạn sinh thái. Ở tầm mức ấy, đáp ứng của chúng ta phải đồng nhất.

Sự hòa hợp trong số các tín ngưỡng lớn đã trở thành phần chính cho sự chung sống hòa bình trong thế giới chúng ta. Từ phối cảnh ấy, sự hiểu biết lẫn nhau trong những truyền thống này không phải chỉ là chuyện của tín hữu các tôn giáo – nó quan hệ cho phúc lợi của toàn thể nhân loại.

Tenzin Gyatso, là húy danh của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, vị lãnh đạo tối cao của dân tộc Tây Tạng. Ngài cũng là một tác giả, gần đây nhất là cuốn Toward a True Kinship of Faiths: How the World’s Religions Can Come Together.

Theo: Talawas
Reply Tán thành Không tán thành
-2
Cảnh báo nội dung không phù hợp
avatar
Gia Thịnh 21/07/2010 10:44:37
Mến chào anh Quang Đạt.
Tôi không ngây ngô đến mức như anh tưởng, mời anh xem link sau:
http://phattuvietnam.net/3/9801.html
Và còn nhiều chuyện khác nữa mà Kinh Thánh có nêu, lịch sử có viết. Nhưng trên diễn đàn này, tôi không tiện trình bày vì nhiều lý do tế nhị. Tôi hy vọng rằng anh là một người biết đọc, biết viết, biết suy nghĩ, biết sử dụng đầu óc của một con người... thì anh sẽ tự làm được cái việc mà phật giáo nói là TỰ ĐỐT ĐUỐC LÊN MÀ ĐI. Hy vọng tôi không nhận định nhầm về anh.
Còn nếu như anh và các con chiên khác mê sảng mà ăn nói hàm hồ thì tôi và mọi người sẽ tiếp tục trao đổi, làm sáng tỏ vấn đề. Lúc đó thì những lý sự cùn như: diễn đàn không nên đăng tải, phật tử gian, chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo... để chụp mũ mọi người thì rất hàm hồ, nực cười vì chính có người hỏi thì mới có người trả lời, có người viết bậy thì mới có người góp ý... và diễn đàn cứ thế tiếp tục.
Nhân đây, tôi cũng có vài lời khuyên chân thành đến tất cả các bạn đạo Chúa:
KHI MỘT AI ĐÓ NÓI RẰNG TRÊN MẶT CỦA BẠN CÓ NHỌ NỒI LEM LUỐC THÌ VIỆC LÀM KHÔN NGOAN NHẤT LÀ ÂM THẦM ĐI TÌM MỘT CÁI GƯƠNG, VŨNG NƯỚC...ĐỂ SOI MẶT, KIỂM TRA XEM CÓ ĐÚNG HAY KHÔNG. NẾU ĐÚNG THÌ HÃY KHÉO LÉO LAU CHÙI VÀ CẢM ƠN NGƯỜI TA ĐẢ CHỈ BẢO CHO MÌNH, CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ CHỬI BỚI NGƯỜI CÓ THIỆN TÂM GÓP Ý VỚI MÌNH. CHÍNH ĐỀU NÀY LÀM CHO MỌI NGƯỜI NỰC CƯỜI VÀ COI THƯỜNG BẠN VÌ TÍNH TỰ CAO CỐ CHẤP.
Thân mến chào anh và mọi người.
avatar
27/10/2010 22:29:28
Mến chào anh Quang Đạt.
Tôi không ngây ngô đến mức như anh tưởng, mời anh xem link sau:
http://phattuvietnam.net/3/9801.html
Và còn nhiều chuyện khác nữa mà Kinh Thánh có nêu, lịch sử có viết. Nhưng trên diễn đàn này, tôi không tiện trình bày vì nhiều lý do tế nhị. Tôi hy vọng rằng anh là một người biết đọc, biết viết, biết suy nghĩ, biết sử dụng đầu óc của một con người... thì anh sẽ tự làm được cái việc mà phật giáo nói là TỰ ĐỐT ĐUỐC LÊN MÀ ĐI. Hy vọng tôi không nhận định nhầm về anh.
Còn nếu như anh và các con chiên khác mê sảng mà ăn nói hàm hồ thì tôi và mọi người sẽ tiếp tục trao đổi, làm sáng tỏ vấn đề. Lúc đó thì những lý sự cùn như: diễn đàn không nên đăng tải, phật tử gian, chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo... để chụp mũ mọi người thì rất hàm hồ, nực cười vì chính có người hỏi thì mới có người trả lời, có người viết bậy thì mới có người góp ý... và diễn đàn cứ thế tiếp tục.
Nhân đây, tôi cũng có vài lời khuyên chân thành đến tất cả các bạn đạo Chúa:
KHI MỘT AI ĐÓ NÓI RẰNG TRÊN MẶT CỦA BẠN CÓ NHỌ NỒI LEM LUỐC THÌ VIỆC LÀM KHÔN NGOAN NHẤT LÀ ÂM THẦM ĐI TÌM MỘT CÁI GƯƠNG, VŨNG NƯỚC...ĐỂ SOI MẶT, KIỂM TRA XEM CÓ ĐÚNG HAY KHÔNG. NẾU ĐÚNG THÌ HÃY KHÉO LÉO LAU CHÙI VÀ CẢM ƠN NGƯỜI TA ĐẢ CHỈ BẢO CHO MÌNH, CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ CHỬI BỚI NGƯỜI CÓ THIỆN TÂM GÓP Ý VỚI MÌNH. CHÍNH ĐỀU NÀY LÀM CHO MỌI NGƯỜI NỰC CƯỜI VÀ COI THƯỜNG BẠN VÌ TÍNH TỰ CAO CỐ CHẤP.
Thân mến chào anh và mọi người.
TỰ NHÌN LẠI BẢN THÂN MÌNH ĐI CÁC BẠN; TÂM SAO CẢNH VẬY; NGƯỜI HIẾU CHIẾN THÌ GẶP NGƯỜI HIẾU CHIẾN; VẬY THÔI; ĐÚNG SAI CHỔ NÀO?????; THUẬN Ý TA THÌ ĐÚNG; NGHỊCH Ý TA LÀ SAI; GIÓ ĐỘNG HAY PHƯỚN ĐỘNG?????
avatar
GIA THỊNH 28/10/2010 03:29:40
Tôi đang nhìn lại bản thân của mình, đang nhìn lại đạo TCG của mình trong quá khứ đấy thôi.
Tôi không phải là người hiếu chiến, hiếu viết, nhưng vì các bạn hỏi, và chụp mũ tôi thì tôi phải có lời hồi âm lại. Nếu không thì bạn sẽ cho tôi thất lễ, xem thường bạn.
Từ trước đến giờ, tôi chưa bao giờ cho là "THUẬN Ý TA THÌ ĐÚNG; NGHỊCH Ý TA LÀ SAI? "
Mến chào mọi người.
1 2 next tổng số: 80 | đang hiển thị: 1 - 50

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

4.17

Tags

Không có tags cho bài viết này

Được quan tâm nhất

Previous
Next

Đăng nhập