Đạo Phật Ngày Nay

Hướng Tới Một Nền Khoa Học Giác Ngộ Khai Sáng

Năm 2021, chuyên mục này đã đề cập đến một số chủ đề lớn, từ những phương pháp hay nhất về công nghệ dành cho tăng đoàn, đến việc khám phá mối quan hệ giữa chân lý, khoa học thần kinh và Phật Pháp. Sau đó, chúng tôi đã đề cập đến tính hai mặt dưới góc nhìn của khoa học thần kinh và bắt đầu chỉ ra những lợi ích của việc xây dựng một lý thuyết khoa học về giác ngộ. Khi hướng nghiên cứu này đề cập đến những chủ đề mới trong năm mới, có lẽ tôi nên nhấn mạnh một điều.

Trong thế giới khoa học và công nghệ ngày càng phát triển nhanh chóng, việc mất tập trung và sự rõ ràng về động lực, phương hướng, ý nghĩa và mục đích có thể dẫn đến những hậu quả thảm khốc. Những hậu quả này có thể bao gồm từ việc cố tình lạm dụng khoa học và công nghệ cho những mục đích có hại đến việc đặt lợi nhuận và sự nghiệp lên trên sự tiến bộ của nhân loại.

Nhưng sự tiến bộ của nhân loại thật sự là gì? Theo nghĩa Phật pháp, tiến bộ có nghĩa là tiến tới giác ngộ, giải thoát, hay moksha. Điều này có nghĩa là chấm dứt đau khổ, không chỉ cho cá nhân mà cho tất cả chúng sinh. Điều này có vẻ như là một mục tiêu xa vời.

Giác ngộ, hay Phật quả, nằm ngoài khả năng nắm bắt và giải thích của hầu hết chúng ta.

Nhưng nói một cách đơn giản, chúng ta có thể nói rằng bằng cách giảm bớt và cuối cùng loại bỏ những ô nhiễm, cảm xúc tiêu cực, che chướng tâm trí và tà kiến, chúng ta có thể đạt đến đỉnh cao của ý thức. Chúng ta có thể làm điều này bằng cách tuân theo các giới luật và phương pháp do các bậc giác ngộ và chư Phật chỉ dạy. Đỉnh cao của ý thức, vốn là bản chất của mỗi con người, có thể xuất hiện và con người có thể nhận ra tiềm năng đầy đủ của mình, mang lại lòng từ bi vô biên và chấm dứt đau khổ thông thường.

Bằng cách áp dụng các giới luật và phương pháp, bằng cách đưa ra những lựa chọn giác ngộ sáng suốt và thông tuệ, chúng ta có thể phát triển phần cứng - bộ não - và phần mềm - ý thức. Cuối cùng, khoa học giác ngộ thừa nhận rằng sự tiến hóa là hệ quả tự nhiên của hành vi có ý thức, đạo đức - thân, khẩu, ý - dựa trên sự hiểu biết về tình yêu thương từ bi, và nó phù hợp và củng cố sự hiểu biết này.

Trạng thái này vốn có trong mỗi con người và có thể xuất hiện khi con người nhận ra toàn bộ tiềm năng của mình. Bên cạnh lòng từ bi vô biên và sự chấm dứt đau khổ thông thường, vô số điều kỳ diệu có thể xuất hiện, như đã được giải thích trong nhiều cuốn sách hiện có thể truy cập thông qua bản dịch cũng như trên internet.

Sự phổ biến ngày càng tăng của kiến thức khoa học và công nghệ đồng nghĩa với việc chúng ta giờ đây có thể nghiên cứu các hiện tượng siêu nhiên, chẳng hạn như dịch chuyển tức thời, một cách có hệ thống hơn. Chúng ta thật sự có thể kiểm chứng và xác minh những niềm tin và ý tưởng này với mục đích tích hợp các phát hiện vào các mô hình khoa học mới nổi, và chúng ta có thể sửa chữa nhiều quan niệm sai lầm liên quan đến yoga và Phật Pháp.

Mục tiêu chính của việc thực hành Phật Pháp là đạt đến giác ngộ và giải thoát khỏi bản ngã, khỏi vòng luân hồi bất tận, và do đó khỏi đau khổ. Tương tự, mục tiêu cuối cùng của việc thực hành khoa học và phát triển công nghệ là mang lại lợi ích cho nhân loại. Nếu không có những mục tiêu này, khoa học và công nghệ vẫn chỉ là vị kỷ. Chủ nghĩa kỹ trị và chủ nghĩa khoa học có thể được coi là tương đương với sự cố chấp trong tôn giáo:

Chủ nghĩa kỹ trị sử dụng khoa học chinh phục thiên nhiên để khuất phục con người một cách khoa học. “Quản lý xã hội càng lý trí, hiệu quả, được trang bị công nghệ và toàn diện thì càng khó hình dung ra phương tiện và cách thức mà các cá nhân có thể phá bỏ chế độ nô lệ và đạt được sự giải phóng” và “hiệu quả của hệ thống làm giảm khả năng nhận thức của cá nhân về những sự thật chứa đầy sức mạnh đàn áp của toàn thể”. Đó chính là cuộc khủng hoảng của nền văn minh hiện đại khi xu hướng phát triển lý tính công nghệ hướng đến sự thống trị ngày càng gia tăng đối với thiên nhiên, lan rộng khắp mọi lĩnh vực của đời sống con người, tích hợp tất cả các mặt đối lập thật sự và hấp thụ tất cả các lựa chọn thay thế, khiến nó trở nên phi lý.1*

Chủ nghĩa khoa học, được định nghĩa là niềm tin quá mức vào sức mạnh của kiến thức và kỹ thuật khoa học, cũng có thể nguy hiểm không kém. (Hughes) Kể từ khi thành lập, chuyên mục này đã tìm cách kết nối các truyền thống trí tuệ Phật Pháp và các chủ đề đương đại về khoa học và công nghệ. Chuyên mục này cũng đã xâu chuỗi những điểm tương đồng và điểm chung không thể phủ nhận giữa các chủ đề này như một phương tiện để khám phá, củng cố và duy trì chân lý cũng như sống một cuộc sống có ý nghĩa.

Một độc giả gần đây đã bình luận về bài viết trước của tôi trong chuyên mục này rằng sự khác biệt chính giữa Phật Pháp và khoa học là khoa học thường bị thúc đẩy bởi bản ngã. Tôi đã trả lời bằng cách lưu ý rằng điều quan trọng là phải áp dụng các nguyên tắc của Phật Pháp để đạt được một thái độ cân bằng hơn, ít bị thúc đẩy bởi bản ngã hơn đối với khoa học.

Ngoài ra, chúng ta nên lưu ý rằng việc thực hành Phật Pháp cũng có thể bị thúc đẩy bởi bản ngã. Mong muốn giải thoát khỏi đau khổ của một người thường là một hành trình cá nhân. Thật không may, không hiếm khi nghe nói về các thành viên tăng đoàn phát nguyện với mục đích sống như những kẻ ăn bám và lợi dụng các đặc quyền dành riêng cho các thành viên xuất gia. Những người tu hành đầy tự ngã, kiêu ngạo và phù phiếm, tìm kiếm danh vọng và tiền tài thông qua Phật Pháp, được củng cố bởi hệ thống tu viện phân cấp, hiện diện khắp nơi.

Trong tư tưởng phương Tây, khái niệm bản ngã thường gắn liền với Freud, nhưng từ lâu nó đã là chủ đề được chú ý trong các truyền thống trí tuệ, nơi nó được gọi là vô ngã-anatta:

Khái niệm vô ngã-anatta, hay anatman, là một sự khác biệt so với niềm tin của Ấn Độ giáo vào atman (“cái tôi”). Sự vắng mặt của một cái tôi, anicca (sự vô thường của vạn vật), và dukkha (khổ đau) là ba đặc tính của mọi sự tồn tại (ti-lakkhana). Việc nhận thức được ba giáo lý này—anatta, anicca và dukkha—là “sự hiểu biết đúng đắn”.
(Britannica)

Sự không tồn tại của bản ngã như vậy có thể vang vọng trong suy nghĩ của các nhà khoa học nổi tiếng, bao gồm cả Max Planck, người đã từng nói:

Không có vật chất như vậy. Mọi vật chất đều bắt nguồn và tồn tại chỉ nhờ một lực đưa các hạt của một nguyên tử vào trạng thái rung động và giữ cho hệ mặt trời nhỏ bé nhất của nguyên tử này lại với nhau. Chúng ta phải thừa nhận đằng sau lực này là sự tồn tại của một tâm trí có ý thức và thông minh. Tâm trí này là nền tảng của mọi vật chất.
(Planck)

Mặc dù bản ngã được coi là một trở ngại cho sự giác ngộ thuần túy, nhưng một mức độ bản ngã nhất định là cần thiết để duy trì sự sống – và sự vô ngã cực độ, như được thấy trong cuộc đời của nhiều vị Phật và thánh nhân đầy khát vọng, có thể bị coi là điên rồ. Việc liên hệ thực hành tâm linh với sự điên rồ không phải là hiếm. Điều này một phần bắt nguồn từ thực tế. Độc giả có thể đã nghe nói đến các truyền thống “trí tuệ điên rồ”.2**

Trước khi bước vào năm mới với những phân tích về những tiến bộ khoa học dưới góc nhìn của các truyền thống trí tuệ, chúng ta hãy nhớ lại một lần nữa rằng mục đích của chuyên mục này là tìm hiểu cách khoa học và công nghệ có thể giúp thúc đẩy việc phân tích hợp lý ít nhất một số hiện tượng liên quan đến Phật Pháp, và cách các nguyên lý của Phật Pháp có thể giúp cung cấp định hướng và bối cảnh cho nghiên cứu khoa học, để nghiên cứu khoa học không trở nên vị kỷ, hoặc tệ hơn, trở thành phương tiện tạo ra vô minh và cuối cùng dẫn đến nhiều đau khổ hơn.

Vậy thì, làm thế nào chúng ta có thể dung hòa kỷ luật nghiêm ngặt của việc tuân thủ các ba la mật, hành vi đạo đức và các thực hành rèn luyện tâm trí với sự tự do tâm linh của trí tuệ điên rồ, mà không bị loạn trí và làm mất uy tín của các thực hành tâm linh?3***

Các thực hành và kỷ luật tâm linh nghiêm ngặt là các phương pháp, giống như khoa học và công nghệ dựa trên các phương pháp—việc áp dụng chúng được hưởng lợi từ một mức độ kỹ năng nhất định. Phật Pháp không phải là một truyền thống tâm linh duy nhất, mạch lạc, và khoa học cũng không theo một phương pháp duy nhất.


https://www.buddhistdoor.net/features/toward-an-enlightened-science/#:~:text=approach.,feynmanlectures.caltech.edu


Courtesy of feynmanlectures.caltech.edu

Có nhiều cách để trải nghiệm thế giới và các hiện tượng của nó. Điều này đúng cả trong Phật pháp lẫn khoa học. Một mặt, có khuynh hướng và khả năng tích hợp và nhìn nhận toàn cảnh. Trong khi sự khác biệt chỉ là hình thức, thì sự phân biệt giữa các tôn giáo, thế giới quan và mô hình lại là vấn đề về nhận thức, bối cảnh, quan điểm. Mặt khác, dựa trên những sự tiếp cận phân biệt, phân chia và chinh phục, dựa trên các khía cạnh kép tương phản của những gì được quan sát. Cả hai đều có thể được coi là kết quả của việc áp dụng các phương pháp và phương tiện.

Trong Phật pháp, chúng ta nói rằng chúng ta cần học cách chấp nhận và khi nào nên từ chối một điều gì đó. Sự tự do lựa chọn này là một đặc quyền của tâm trí, dù được giải thoát hay bị mắc kẹt trong cái lồng của lý trí. 4****

Đối với nhiều Phật tử, khoa học và tôn giáo không thể xung đột và có mối quan hệ tương thích. 5***** Nhận thức thực tại như một thể liên tục, sự tích hợp các quan điểm và vượt qua các ranh giới khái niệm là những phương pháp được xem xét trong cả con đường Phật giáo và trong các ngành khoa học tiên tiến, chẳng hạn như lý thuyết lượng tử. Trong xã hội phương Tây, những người tu tập theo Phật giáo không phải là những người mê tín, thiếu học thức hay dễ bị ảnh hưởng. Ngày càng có nhiều học viên và hành giả Phật pháp thông minh, có học thức và nhìn chung là những người có tư duy phản biện cao. Việc thực hành các giới luật Phật giáo có thể dẫn đến một nền khoa học giác ngộ hơn khi người ta trở nên từ bi và nhận thức được mục đích cuối cùng của sự tồn tại của con người. Người ta cũng ít bị giới hạn bởi một quan điểm hẹp hòi, áp đặt, vị kỷ và cuối cùng là thiếu hiểu biết. Chúng ta nên mô tả chính xác nền khoa học giác ngộ như thế nào, chúng ta có thể để lại cho các bài viết trong tương lai và đón nhận những gợi ý từ độc giả.

Chúc mọi người mọi điều tốt đẹp nhất cho năm 2022, chúng ta hãy luôn biết ơn và hãy theo dõi trang này./.
***

1* Sysoeva, L. S. and P. V. Anosov. 2005. “Technocratism and Culture Crisis.”
https://ieeexplore.ieee.org/document/4493267
2** Larsson, Stefan. N.D. “Crazy Yogins During the Early Renaissance Period.” University of Virginia https://collab.its.virginia.edu/wiki/renaissanceold/Crazy%20Yogins%20During%20The%20Early%20Renaissance%20Period.html
3*** Showler, Suzanna. 2020. “Crazy Wisdom: A Love Story.” Hazlitt. https://hazlitt.net/longreads/crazy-wisdom-love-story
4**** Nguyen, Quy Hoang. 2019. “The Doctrine of Not-self (anattā) in Early Buddhism.” Sciendo. http://archive.sciendo.com › IRSR › irsr-2019-0003
5***** Johnson, Courtney, et. al. 2021. “On the Intersection of Science and Religion.” PEW.
https://www.pewtrusts.org/en/trend/archive/winter-2021/on-the-intersection-of-science-and-religion
References
Hughes, Austin L. 2012. “The Folly of Scientism.” The New Atlantis.
https://www.thenewatlantis.com/publications/the-folly-of-scientism
Britannica, T. Editors of Encyclopaedia. 2007. “Anatta.” Encyclopedia Britannica. https://www.britannica.com/topic/anatta
Planck, Max. 2009. “Das Wesen der Materie [The nature of matter].” Speech in Florence, Italy (retrieved from Archiv zur Geschichte der Max-Planck-gesellschaft, Abt. Va, Rep. 11 Planck, Nr. 1797) (1944). in Braden, Gregg. The spontaneous healing of belief: Shattering the paradigm of false limits.

https://www.buddhistdoor.net/features/toward-an-enlightened-science/

Bình luận