Chương 2: Quán không tác giả

Đã đọc: 2470           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font

Ở  chương 1, chúng ta đã khảo sát sơ lược vài quan  niệm của Phật  giáo  về cách  hóa giải  thù  hận  ở  kiếp  này  và những  kiếp khác. Trong đó, chúng tôi đề cập đến  pháp  môn “Quán không tác giả,”  mà ở  chương này, chính là nội dung trọng tâm.

Pháp quán này giúp  ta có cái nhìn đích  thực về bản  thân và  tác nhân. Con người là hợp thể nhân tính, gồm năm thành phần,  không có thực thể bất biến. Các tổ hợp thuộc năm thành phần này  bắt đầu hình thành từ cấu trúc nhân thể vật lý, gồm bốn yếu tố là  đất, nước, lửa và gió hay nói khác hơn là chất rắn, chất dịch, nhiệt  độ, thể khí và tất cả qui luật liên hệ đến các yếu tố này.

Quán  không tác giả là quán phân tích về sự tách  rời các yếu tố ra, bằng cặp mắt tuệ quán,  sẽ thấy rằng không  có một chủ thể tác nhân  tạo ra nỗi khổ niềm  đau cho bản thân mình. Dòng cảm xúc của con  người như một dòng thác mạnh  bạo, nhìn từ xa thấy  nó như một thực  thể, nhưng khi nhìn gần thì dòng thác này cũng  chỉ được  hợp  thành  bởi các phân  tử nước  cho  nên nó vốn không  có một thực  chất nào.

Tương  tự ta áp dụng cho  tiến trình ý  niệm  hóa khi các giác quan:  mắt, tai, mũi,  lưỡi, thân,  ý tiếp  xúc  với  các đối  tượng trần cảnh như ánh sáng, màu sắc, âm thanh, hương, vị, sự xúc chạm và sự  hình dung của ý v.v... Tất  cả dòng ý  niệm  hóa này chỉ  là sự liên tưởng tổng hợp từ cách  tiếp  xúc với các giác  quan mà thôi.  Sự vận hành  của chúng tạo  ra tiến trình nhận thức mà ta thường gọi là cái  thấy của  con mắt,  cái nghe của  lỗ tai, ngửi  của lỗ mũi,  nếm  của lưỡi, sự xúc chạm của thân  hay các ý niệm  hóa lưu lại trong bộ não  của con  người. Các yếu tố nhận thức  đó không có cái  nào  là thực thể bất biến.

Để quán chiếu không có tác giả, trước nhất ta quán không  có kẻ thù. Đây là cách thực tập vô ngã trong ứng dụng tâm lý  trị liệu. Kế đến ta quán tiến trình tách rời dòng chảy của cảm xúc  tâm lý ra khỏi sự vận hành của thân. Sự sống của con người được thiết lập khi thân này với lục phủ ngũ tạng đang hoạt động. Khi  tim ngưng đập, não tạng đã bị chết, các cơ quan khác đến tình  trạng kết thúc thì lúc đó tạm gọi là “Cái chết lâm sàng”. Chết lâm  sàng chưa phải là chết thật sự, bởi vì có tình huống thần thức vẫn  còn lẩn quẩn. Đó là lý do tại sao ta thỉnh thoảng thấy người chết  sống lại sau một vài giờ, hay vài ngày nằm trong nhà xác.

Dù trong tình trạng chết lâm sàng hay  chết thật, thì chắc chắn  rằng sự tương tác giữa  các nhóm yếu  tố tâm vật  lý đã ngưng hoạt  động. Dòng cảm xúc thường  vận hành rất hữu cơ và đa  chiều  với thân  thể vật lý. Nếu tách rời hai cái này ra thì mạng  sống con người  không  còn nữa, ngoại  trừ trong những trường hợp đặc biệt như khi ngủ hoặc ý  thức không hoạt động khi bị mê man bất tỉnh,  không còn sự bấn loạn  của cảm xúc trên  bộ não của chúng ta. Trong  tình huống đó dòng cảm xúc gần như lắng đọng.

Tất  cả nỗi khổ niềm đau  hay  hạnh  phúc  của con người có được, đều đặt trên  nền tảng  của dòng  chảy cảm xúc. Nó được sánh ví như một  bản đồ nhiệt lượng, từ độ âm  cho  đến 1000C hoặc hơn thế nữa v.v... Hễ còn nằm  trong bảng  nhiệt, dầu có lạnh đến mức  nào hoặc nóng  đến mức  nào thì vẫn được  xem là nhiệt  độ.

Tất  cả những gì thuộc về cảm  xúc  thì bản chất  của nó vẫn là khổ đau.  Muốn  tách rời nỗi khổ đau của hận thù ra khỏi thân thể  vật lý của mình, chỉ cần quán  tưởng  dòng cảm xúc và thân thể  vật lý không phải là một. Quán tách  rời để khổ  đau không còn chỗ bám víu.

Nỗi khổ đau của việc bị người  ta cướp  bóc  thuộc về tinh thần, nỗi khổ đau  bị người ta đánh đập thuộc  về vật chất  v.v... hãy  quán rõ như vậy.

Giống như thân  cây chuối,  mới nhìn vào ta cứ tưởng như một khối không  thể tách rời, nhưng khi ta mở ra từng  bẹ thì không thấy  lõi bên trong. Mạng sống của con người với cấu hình vật  lý cũng hoạt  động một cách tương  tự như vậy.

Bằng cách quán đó, ta thấy thân thể vật lý này với các dòng cảm  xúc không hề có chỗ để dung chứa nỗi khổ niềm đau. Như vậy, ta  quán không có tác giả là không có kẻ tạo tội ác, không có kẻ khủng  bố, không có người đã gây những thương tích cho mình.

Dĩ nhiên,  quán không tác giả nhằm trị  liệu về phương  diện tâm  lý, để không bám víu  cảm xúc, không  trả thù đối với người tạo ra khổ đau.  Trên thực  tế, sự kiện  khổ đau  vẫn từng diễn ra và luật  pháp vẫn  truy nguyên được ai là  tác nhân,  ai là kẻ  chủ mưu, tội trạng thế nào. Quán  không tác giả không có nghĩa kẻ tạo tội không  bị tội lỗi trừng phạt về mặt pháp luật. Như vậy, ta quán để tách  rời cảm  xúc  khổ  đau ra khỏi thân thể  vật lý trong khi mình chính là nạn nhân.

Phương pháp  quán  nào cũng  nên  áp dụng  hướng  dẫn cho một số đối  tượng  nhất định,  phải tùy bệnh cho thuốc. Phương pháp quán không  tác giả chỉ được  áp  dụng cho chính những nạn nhân để không  kéo dài khổ đau, hoặc là  người  thân  của nạn nhân, để không tạo sợi dây lan truyền về cảm  xúc  khổ  đau khi thấy  người  thân  của mình bị hãm hại.

ĐỪNG VIN VÔ NGÃ  ĐỂ CHẠY  TỘI

Gần đây, tôi có đọc trên báo nước ngoài một câu chuyện nói  về luật pháp ở Thái Lan (Phật giáo ở Thái Lan được xem là quốc  giáo) như sau: Có một anh tù nhân rất giàu. Tài sản một phần do  anh chơi cổ phiếu, phần anh mánh mung trộm cắp. Khi bị bắt và  truy tố, anh nhờ một luật sư Phật tử lý luận trước tòa rằng:

- Thân  chủ tôi không  phải là  người  trộm  cướp, bởi vì nhà

Phật dạy không hề có tác giả.

Ông thẩm phán nói:

- Tôi đồng  ý  luật Phật dạy như vậy. Tôi cũng  là  Phật  tử, tôi hiểu học thuyết  đó.

Bây giờ ta hãy phân tích học thuyết  trên dưới góc độ tâm  lý mà đức Phật dạy:  “Không có tác  nhân, chỉ có chuỗi sự kiện”. Tương  tự, “Không có người đã ăn cắp mà chỉ có sự  kiện  ăn cắp”, không  nên hiểu về  mặt hiện thực  rằng người trộm cắp không có đủ  lý do để bị cầm tù.

Luật sư vừa nhận ra sự ứng  dụng của học  thuyết vô ngã trong tâm  lý trị liệu đối với nạn  nhân,  chứ không  nên áp dụng cho tác nhân, trên thực tế thì ông thẩm  phán  yêu cầu chọn lựa:

- Chủ nhân của ông phạm tội ăn cắp. Nếu nói không có người  ăn cắp mà chỉ có bàn tay ăn cắp và sự kiện ăn cắp, tôi xử tội và  giam tù bàn tay bằng cách chặt đứt bàn tay rồi bỏ tù ba năm, thay  vì giam thân chủ của ông ba năm, ông chọn cách nào?

Luật sư biện  hộ lặng  người, không nói lời nào. Lúc  đó chắc hẳn cả người biện hộ lẫn  kẻ phạm tội trộm  cắp  sẽ hoảng hốt và chấp nhận ngồi tù ba  năm,  còn hơn bị chặt đứt cánh tay thì cả đời không làm ăn gì được từ đôi tay nữa.

Sử dụng phương pháp trị liệu tâm lý đối với nạn nhân vào tình  huống luật pháp thực tế đối với tác nhân là sự sai lầm về phương  pháp luận, dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng từ sự biện hộ. Khi  quán vô ngã, ta phải hiểu bàn tay ăn cắp vẫn là bàn tay lấy của phi  pháp. Người có bàn tay ăn cắp vẫn phải chịu trách nhiệm trước  pháp luật và nhân quả từ hành vi lấy của phi pháp.

Những  người tạo ra khổ đau  cho  người khác thì không được quyền quán như thế, vì như vậy  sẽ trở thành  ngụy  biện, không thừa nhận  lỗi lầm của mình. Nếu những người đã gây ra tội lỗi mà nghĩ  rằng không  có tác  giả  nghĩa là  tôi không  phải là  tác nhân, rõ ràng  là thiếu trách nhiệm đạo đức trước pháp luật.

Phải biết phương pháp quán không tác giả chỉ áp dụng cho nạn  nhân và thân nhân để không gieo rắc hận thù trả đũa với người đã  tạo ra nỗi khổ cho mình, còn những người lợi dụng vào học thuyết  này biện hộ cho họ để khỏa  lấp  sự  thật,  sẽ gây  ra  tội  lỗi nhiều  hơn. Khi quán phải biết phương pháp nào dành cho mình, phương  pháp nào dành cho người. Đối với những người tạo ra tội lỗi, nhà  Phật cũng có những phương pháp quán khác.

BA PHÁP  QUÁN  ĐỂ TRỊ LIỆU

Thứ nhất là quán thân  nhân.  Quán tất cả mọi người nam  lớn tuổi đều là cha, ông  tất  cả mọi  người  nữ lớn tuổi đều là mẹ,  bà. Những người ta gặp trong đời từng  là ông bà tổ tiên, con  cháu, thân  bằng quyến  thuộc  của mình ở  những  kiếp trước. Như  thế mỗi lần muốn  làm tổn hại cho  người  nào thì cứ nghĩ là  người thân nên sợ không  dám làm. Người  có lòng tôn  kính và thương tưởng người thân, khi áp dụng phương pháp quán thân nhân sẽ giúp họ không dám cố  ý gây tội lỗi.

Thứ hai là quán  sám hối, tức nhận  diện  tội lỗi và nỗ lực vượt qua  bằng sự hồi đầu lương  thiện. Hình dung  những tội lỗi mà ta gây ra trong cuộc  đời như giết người,  trộm  cắp, lường gạt, ngoại tình, tham nhũng, hối lộ, móc  ngoặc  làm lũng  đoạn hệ thống  luật pháp v.v... nếu không  bộc bạch  để làm mới cuộc đời thì giống như tình trạng đóng băng  trên  mặt  biển, dần  dần  sẽ to lên  và trầm xuống. Khi tảng băng đóng trên và trong lòng biển,  tàu thuyền qua  đó có thể  bị  va  chạm vào, dẫn đến tình trạng bị đắm chìm, như tàu  Titanic. Sự  sống  của con người cũng giống như những con tàu lênh đênh  trên  biển sanh  tử. Cần phải làm tan những  tảng băng che  giấu  tội lỗi, để những con tàu đạo  đức  của bản  thân có thể  thong dong  vượt thoát sanh tử, khổ đau.

Thứ ba là  quán không  thọ  giả. Đây là  cách quán  không có chủ thể cảm nhận những  nỗi khổ niềm  đau  do người nào đó gây ra. Dĩ nhiên  cách quán này được  sử  dụng cho chính nạn nhân hay đương sự đang đối diện với nỗi khổ tâm lý và nỗi  đau vật  lý.  Ta quán  rằng  không có một  bản ngã đang  tồn tại để chịu đựng  sự hàm oan,  đau  đớn, bực  tức, thù hằn, bất công hay những cảnh đời trái ngang thì cảm xúc  sẽ lắng dịu.

Ý  thức về mình như một nạn nhân bị lừa đảo, bức hiếp,  xúc phạm, bị trù dập v.v... làm tăng sự khó chịu.  Ý  thức về sự bất công làm cho  con  người dễ có phản ứng nổi loạn,  xung đột, nó đều dẫn đến  sự đổ vỡ lớn hơn trong tương lai.

Không thực tập phương pháp này để tự trị liệu tâm lý, đôi lúc  người ta lầm lỗi với mình chỉ có một, mình có thể gây lỗi lại gấp  hai, gấp ba lần. Một đứa lỗi thêm đứa lỗi nữa thì hai đứa lỗi cũng  giống nhau, theo đó, bế tắc này có thể kéo theo bế tắc khác  lớn  hơn, nếu không biết cách tự chuyển hóa để cứu bản thân.

Quán không thọ giả để thấy được  dòng cảm xúc khổ đau,  bất hạnh mà mình chịu đựng chỉ  là một  sự kiện  của oan  trái hay của dòng chảy bất hạnh.  Quán như vậy thì dù khổ  đau  lớn như núi Tu  Di nó cũng  teo lại thành  quả núi lớn, quả đồi, đống  đất, viên  đá rồi chỉ còn lại một  hạt  cát. Quán  cách vừa nêu thì khổ đau lớn  sẽ trở thành  nhỏ như hạt cát  rồi  sẽ tan biến thành hư không, nghĩa là không  còn tác dụng gây đau  khổ nữa.

Ba  pháp quán niệm trên là  nghệ thuật tâm lý, có khả  năng giúp người khổ đau  có thể  sớm  hóa  giải  hận  thù.  Dĩ  nhiên phải đòi hỏi  đến  thái  độ buông bỏ của  đương sự.  Người có khuynh hướng  dứt khoát  công thưởng, tội trừng  thì khó tu tập  được những phương pháp quán này.

Nếu không  chịu  tu tập các pháp quán,  nỗi bất hạnh ngày càng lớn, trong tương lai sẽ  thuộc về họ  chứ không thuộc về người đã tạo ra tội lỗi.  Bởi  kẻ gây án đã bị luật pháp trừng  phạt và  ngay cả nếu như kẻ tạo  tội  may mắn qua  mặt được  luật pháp, không bị trừng phạt thì nhân  quả nghiệp báo vẫn không dung tha; trong một  đời kiếp  nào đó họ cũng phải gánh lấy.

Món nợ mà không  chịu  trả ngay trong lúc mình có khả  năng thì sau  này khi bị thất nghiệp lại càng khó trả hơn. Đó  là chưa nói  tới tình trạng tiền vay sẽ  gia tăng  lãi suất,  tùy theo năm tháng  thời gian vay mượn.  Tiến trình nhân  quả cũng diễn ra theo cách tương  tự, ai chịu trả nợ sớm thì không phải lo trả lãi.

XOA DỊU NỖI ĐAU

Hành giả đừng nên bận tâm rằng, ai là người đã tạo ra nỗi khổ  cho mình. Hãy để sự trừng phạt nằm về phía luật pháp, cứ xem nó  như là một sự kiện. Nếu là thân bằng quyến thuộc của nạn nhân  thì cũng đừng chăm sóc cảm xúc của nạn nhân bằng cách hỏi  “Cho tôi biết ai là tác nhân, tôi sẽ trả thù giùm cho”. Thương như  thế chỉ làm gia tăng thêm cảm xúc khổ đau của nạn nhân. Cả họ  và ta đều rơi vào tình huống bế tắc. Đừng đổ dầu vào lửa, sự sân  hận làm cho tâm lý con người luôn bị đốt cháy và theo đó ta đánh  mất dòng chảy của cảm xúc an lạc, thảnh thơi.

Khi dạy phương pháp  quán  không có tác nhân tạo  và  chủ thể cảm nhận  nỗi khổ đó, đức Phật  không đưa ta vào tình trạng thiếu trách nhiệm mà Ngài muốn dùng phương pháp tâm lý để xoa dịu đi nỗi khổ niềm  đau.  Nỗi khổ đau  giống  như ly nước  có cặn. Thương người thân, có người khuấy ly nước  bằng cách hỗ trợ để trả thù  v.v... Càng khuấy thì cặn  sẽ không lắng được và người thân không uống được ly nước trong.

Đừng khuấy nước khổ đau  lên.  Cứ để nó lắng  đọng  với thời gian. Thời gian là phương pháp chữa trị vết thương lòng. Đừng tác động  mà hãy hướng  tâm của nạn  nhân  về phía tích cực  và tươi sáng hơn,  họ sẽ tách rời khỏi  trạng  thái khổ đau theo cách thức  mà đức Phật  đã dạy.  Khổ đau  nằm trên thân  thể vật lý, ảnh hưởng  đến dòng cảm xúc thông  qua hệ thống  dây thần kinh trung khu và cảm  giác.  Khi tách  rời hai yếu tố này, nỗi khổ đau  dù có mặt  như là sự thật, nhưng lại không ảnh hưởng đến bản thân. Từ đó, đau  khổ không thể làm cho  con  người bị ức chế sống  trong dày vò, đau đớn.

Ta hãy làm thí nghiệm để thấy được tính ảo  giác của cảm xúc trong nỗi khổ niềm đau.  Nếu là người sợ máu, khi đưa  vào bệnh viện để chích thuốc giảm đau, nỗi  sợ hãi  về tiêm chích và máu làm đương sự hình dung động  tác đưa  kim vào cơ  thể họ là một sự đau  nhức. Trên thực  tế, đau nhức có thể chỉ bằng  cái chích của một  con  kiến, nhưng cảm xúc sợ hãi làm cho nỗi đau này gia tăng  đến  độ có thể ngất xỉu.

Nhiều người đã từng  bị rơi vào trạng  thái tâm lý đó.  Thực tế,  chích kim vào  cơ thể không  làm con người  phải khổ đau quá mức.  Chỉ vì sợ hãi mà khổ  đau  được gia  tăng. Do đó tách rời tâm  lý khỏi cảm  xúc  là một trong những phương pháp hữu hiệu  có khả năng  giúp  đương sự vượt  qua  khổ đau  dễ dàng và nhanh  chóng.

Phương pháp quán không thọ giả  là nghệ thuật hình dung mình không phải là nạn nhân. Đừng nên nghĩ  ta là nạn nhân, để dòng cảm xúc không  bị đè nặng  trên  tâm lý. Dĩ nhiên còn có nhiều phương pháp thực tập khác, cốt làm cho  tâm ta phấn chấn,  không  còn khổ đau  là được.

Năm 1999,  khi cộng  đồng  Tây Tạng tổ chức  40 năm lưu vong tại  Ấn Độ, đức Đạt  Lai Lạt Ma đã dùng tiêu  đề Tưởng niệm “40 năm đại chuyển  pháp luân”.  Ngài không  dùng từ 40 năm Pháp nạn như Phật giáo Việt Nam. Dùng khái niệm “Pháp nạn” là cách trực  tiếp thừa nhận rằng mình là nạn nhân, hoặc có thọ  giả, trong khi đức Phật dạy ta hãy quán bốn đối tượng vô ngã là ngã, nhân, chúng  sinh và thọ giả.

Quán chúng sinh vô ngã  tức  là không có  ý niệm về chúng sinh, bao  gồm tha nhân và bản  thân như một  chủ thể với ý niệm và dòng cảm xúc đang tiếp nhận khổ vui. Đó  là tinh thần của kinh Kim Cương Bát Nhã. Quán như vậy, nỗi khổ niềm  đau sẽ tan biến rất nhanh.

Khi dùng  từ “40 năm Pháp nạn,” xem như  ta đã chấp nhận  mình là nạn nhân và Phật pháp đang bị lâm nạn. Thực ra, Phật  pháp không lâm nạn. Chỉ có người hành đạo bị nạn, do chịu ảnh  hưởng xấu của nghịch duyên. Cách dùng từ của đức Đạt Lai Lạt  Ma rất phù hợp với tinh thần vô ngã. Nhờ biến cố Trung cộng, Phật  giáo Tây Tạng đã có mặt ở Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới.

Như vậy, trong biến  cố của Tây Tạng, ta thử hỏi nên buồn hay  vui?  Buồn về một quá khứ không  như ý,  nhưng vui trong hiện tại  và tương lai khi Phật  giáo Tây Tạng được phát triển toàn cầu. Không nhìn thấy  phương diện  tích cực  này, con người dễ sống  trong tình trạng uất  hận và chịu  khổ đau  lâu dài, nhất là  trong tình huống ta không  thể làm gì khác hơn, dù có nỗ lực  chân  chính.

Như thế, quán không  thọ  giả là cách thức tích cực, nhằm tách rời khổ đau  quá khứ khỏi đời sống hiện  tại.  Được  vậy, ta có thêm  bản lãnh sống ở  hiện  tại  để gầy dựng lại cuộc đời và có thể  hưởng được hạnh  phúc. Nếu  chỉ  ký ức về quá  khứ và cho rằng mình là nạn  nhân của lịch  sử, chiến tranh, ý  thức  hệ, bất đồng, xung đột v.v... thì cảm xúc khổ đau sẽ dâng cao.  Nếu thực tập như thế, chắc chắn sự tiến bộ về tâm lý sẽ cứu thoát  ta khỏi hoàn cảnh khổ đau  đã có, như con khỉ nhờ bám  vào nhành  cây mà lên khỏi vũng  lầy.

Người thực  tập nên loại  bỏ lòng tự  ái. Về bản  chất, tự  ái là cảm xúc  thương yêu bản ngã hơn bất  kỳ ai khác.  Nó được núp bóng dưới dạng  thương yêu người,  nhưng trên thực tế  là thương yêu chính mình. Chẳng hạn, đứng trước cảnh sanh  ly tử biệt của người  thân,  có người buồn bã, khóc  lóc,  bỏ ăn mất ngủ  và gào thét với  những câu cảm  xúc như: “Ba ơi! Ba đi rồi, bỏ con lại cho ai? Con khổ lắm!”  Hoặc người  vợ nói với chồng vừa qua  đời: “Anh ơi! Anh đi rồi, cuộc sống của em trở nên  vô nghĩa. Anh là điểm  tựa  cuộc đời em”. Tất  cả những lời than  vãn từ tình thương hoặc tình yêu có thể xuất  hiện  dưới  hình thức quan tâm người  quá cố, nhưng trong chiều  sâu tâm  lý  là lo sợ cho bản thân mình bị cô đơn.

Thực ra, người  khóc  đâu phải  thương tưởng  người ra đi. Phần lớn khóc trong tình huống  của tang tóc  là sợ rằng  mình không  còn ai chăm sóc, vỗ về, giúp đỡ khi cô đơn và túng thiếu. Trong tình yêu nam nữ, hoặc giữa hai người đồng giới tính, tự ái  là  trục xoay chính yếu. Người  ta yêu chính bản thân  mình nhiều hơn  yêu người khác.

Gốc tự ái trong tình yêu có thể bị biến dạng thành nỗi hận thù,  khi các yêu cầu, cảm xúc và khao khát bị từ chối hoặc không thỏa  mãn. Lúc đó, đương sự có khuynh hướng trả đũa để chứng minh  rằng “Tôi đâu phải không có giá!” Càng chứng minh mình có giá  trên nền tảng tự ái thì giá trị càng bị giảm.

Nhiều người ngạc nhiên khi nghe Thế Tôn, là Bậc phước  trí vẹn  toàn, sao  đời Ngài vẫn còn gặp nhiều  cảnh  trái ngang. Lý giải truyền  thống  cho  rằng đó  là sự thị hiện, Ngài hiện thân là con người  nên  cũng  phải  có những  cuộc sống và  hoàn cảnh éo  le, ngang  trái, nhưng Ngài  đã vượt qua được tất cả. Muốn khẳng định  rằng, là  con người ai cũng  có thể làm  được như Ngài. Nhằm  giáo dục  con người về tính kiên nhẫn vượt  khó. Tôi thích khuynh hướng nhìn đức Phật  dưới  góc độ con người lịch sử,  dầu là Bậc giác ngộ, Ngài vẫn chịu  khổ đau  về thân thể nhưng hoàn toàn không  có nỗi  khổ  tinh thần.

Quy luật nhân  quả rất xác thực và  công  bằng,  không hề bị lũng đoạn,  không  ai có thể sống  vượt ngoài  vòng  kiềm tỏa của  nó.  Dù  là đức Phật,  Bồ-tát, A-la-hán, những gì đã gieo thì phải gặt. Người  giác ngộ biết cách chuyển hóa khổ đau, vượt lên trên nghịch  cảnh, thay  vì phải gặt hái trọn vẹn  quả không như ý, nhờ sự chuyển  nghiệp,  các hạt  giống  xấu trong quá khứ không đủ sức trổ quả ở  hiện tại,  hoặc nếu trổ thì tác dụng xấu của nó không nhiều  như trong tình huống của người phàm.

TÌNH YÊU  VỊ KỶ

Chuyện kể rằng có một thiếu nữ  tên  là  Magadida, thuộc hàng danh môn  vọng tộc. Cô xinh đẹp  đến  độ các công tôn, vương tử thoạt nhìn đều si mê, như có sự cuốn hút lạ lùng. Sắc đẹp  đó đã làm  cho cô đau  khổ nhiều hơn là  hạnh phúc. Được quá nhiều  người  thương và săn  đón  từ:  thái tử,  phú hộ,  kẻ hào hiệp cho  đến người thường  dân, cô không biết phải lựa chọn  ý trung nhân nào.

Cha cô muốn con mình được hạnh  phúc, môn đăng hộ đối cùng giai  cấp, nên không  đồng ý  cho cô đính hôn với ai thuộc giai cấp thấp  hơn. Ông tìm khắp nơi nhưng vẫn chưa hài lòng về ứng  cử viên tương  xứng.

Một hôm nọ, ông đến thành Xá-vệ, thấy đức Phật đang đi khất  thực, ông không tin vào mắt mình khi nhìn thấy một người đẹp  trai lạ lùng đến thế! Với ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp,  mặc dù chiếc y của Ngài mặc đã quá cũ, nhưng Phật vẫn đẹp và  hấp dẫn. Ông nảy sinh ý định chọn Phật làm rể. Sau đó, ông lập kế  thỉnh Phật về nhà cúng trai Tăng và dặn dò con gái:

- Con ơi, ba sẽ cưới cho  con  một người rất xứng đáng. Nét đẹp và sự  phương phi của người  này là  điều không  người đàn ông  nào có thể  hơn được. Nhất định khi lấy anh ta, con sẽ rất hạnh  phúc. Đây là niềm mơ ước của ba.

Hôm ấy, đức Phật  và Tăng đoàn  đến  nhà  ông  bá hộ theo lời thỉnh  cầu. Ngài đi nhẹ  nhàng  với bước chân thảnh  thơi, ngồi

xuống trong tư thế an lạc. Gia đình  ông ai cũng phấn chấn bởi nghĩ  Phật sẽ trở thành  chú rể.

Suốt đêm, Magadida sửa soạn,  trầm  tư không ngủ được. Khi  Phật đến nhà, cô không chịu ra, ở trong phòng trang điểm tăng  thêm hương sắc và tập điệu bộ, dáng đi, cách thể hiện ánh mắt, nụ  cười để quyến rũ Phật chấp nhận làm chồng mình.

Trái với dự kiến, khi cô bước  ra khỏi phòng,  đức Phật dường như không quan  tâm đến. Theo  truyền thống, sau  khi nhận phẩm vật cúng  dường của ai, Phật  tạ  ơn bằng cách thuyết giảng pháp thoại, như thực  phẩm tâm linh. Trong sự giao  hoán này, một bên hiến  vật chất,  một bên tặng tâm linh.

Phật dụng  ý  giảng về sự  bất tịnh của thân.  Thân  thể con người  dù đẹp  cũng  chỉ là  nghĩa trang, chứa  đầy xác chết  bên trong. Khi ăn thịt các loài thú,  nói chung là loài có sự sống, ta đã biến bao  tử này thành nghĩa trang tập thể. Phật  phê phán thái  độ hãnh diện  tự  hào về sắc đẹp. Theo  Phật,  sắc đẹp  của thân  chỉ là chiếc túi da chứa đựng  những  thứ bất tịnh mà thôi. Lời thuyết pháp của Phật như cơn sấm sét, tấn công  vào não trạng của cô. Cô tức giận,  cho rằng Thế Tôn chọc  tức và khinh mình. Cô thầm nghĩ mình thuộc hàng sắc nước  hương trời mà ông thầy tu lại so sánh cô như nghĩa địa hay  cái túi da hư thúi, thì còn gì đau  đớn cho bằng.

Cô giữ  mối thù  đó và nói  với  cha:

- Ba ơi, con không thèm cưới ông này. Ông này đẹp trai nhưng  chảnh quá, lại nghèo rớt mồng tơi sao làm chồng con được.

Trong tâm  cô oán hận, thầm  nghĩ:  “Đến ngày nổi tiếng,  tôi sẽ cho ông biết tay, để ông không  khinh thường tôi nữa”. Niềm uất hận  đó đã được nuôi dưỡng trong lòng  cô ngày càng lớn.

Ba năm sau có đợt tuyển cung, vì là người đẹp nhất nên cô đã được nhà vua tuyển làm quý phi và được sủng ái hơn hoàng hậu. 

Nhà vua  là  Phật tử thuần  thành.  Một hôm,  vua  thỉnh  đức Phật đến hoàng  cung thuyết  pháp. Khi nghe tin đó quý  phi thuê người đứng dọc đường  đến kinh thành, chửi bới đức Phật. Điều  đó đã làm  A Nan xót xa, thưa đức Phật rằng:

- Bạch  Thế Tôn, con thấy chỗ này không  yên, nếu Thầy trò ta ở  đây thêm  nữa, vô tình tạo tội lỗi cho  kẻ xấu.  Chi bằng ta hãy đi nơi khác.

Đức Phật nói:

- Nếu đi chỗ khác cũng bị chửi bới tương  tự thì sao? A Nan thưa:

- Thì đi tiếp nữa. Đức Phật nói:

- Nếu  chỗ  tiếp  đó nữa  cũng  gặp tình trạng tương tự hoặc nặng hơn  thì tính sao?

- Thì đi chỗ khác tiếp.

Triết lý của câu chuyện là khi con người để tình yêu giới tính  mang tính chiếm hữu khống chế, thì các quan hệ sẽ dẫn đến tình  trạng nếu không độc hữu về tình yêu được thì sanh tâm thù hận.  Cô gái trong câu chuyện không quên được cái tự ái một chiều, khi  nghĩ rằng Phật đã khinh thường cô, mà trên thực tế muốn giúp  cô vượt qua cái tôi cao ngạo về ngoại hình. Tự ái sai lầm dẫn đến  thù hận, rồi trả đũa bằng cách thuê người sỉ nhục đức Phật quả là  một chuỗi sai lầm. Điều chính yếu của câu chuyện là trong nghịch  cảnh đó, đức Phật dạy A Nan phải giữ tâm vững chãi để vượt qua,  thay vì đầu hàng nó một cách vô điều kiện.

Câu chuyện trên còn cho thấy, kéo dài sự lẩn tránh không phải là  giải pháp. Nghịch cảnh xuất hiện chỗ nào thì đối diện tháo gỡ chỗ đó.

Nghệ  thuật tháo  gỡ khổ  đau theo nhà Phật là đối diện  với thực  tại khổ đau  đó và nhận diện mặt mũi khổ đau, truy nguyên nguồn gốc  và nguyên nhân, để chuyển hóa  và vượt  lên trên nó. Trốn tránh  không  phải là  giải pháp.  Đối diện  theo kiểu  liều mạng  lại càng không phải là  giải pháp. Trốn tránh  và bỏ  mặc là hai thái  độ cực đoan,  nếu không  nói là thiếu trách nhiệm.

Cứ quan sát, nhìn nhận  sự việc xảy ra như là  một sự kiện. Lúc đó, nhìn thấy sự vật chỉ đơn thuần là sự thấy, nghe các âm thanh chỉ đơn thuần là sự nghe dù có chửi bới hay khen chê thì cũng  chỉ là âm  thanh. Quán được  như vậy  là đang nhìn thấy được  chân  tướng  của sự vật. Lúc đó, ta không  còn chạy  theo phản ứng thuận và nghịch của  cảm xúc.  Tất  cả dụng ý xấu của người  khác không  hề tác động  đến thành  trì kiên cố của đời sống nội tâm. Bằng cách thực  tập như vừa nêu,  nỗi khổ đau  dù có mặt cũng không  làm ta bị khủng hoảng.

Trong câu chuyện đức Phật  đã  chuyển hóa được những thành phần đâm thuê, chém mướn bằng thái độ thản nhiên và không  hận thù. Những  hành động chửi bới, ném liệng của họ không hề làm cho  đức Phật cảm thấy bực dọc,  thù hằn. Ánh mắt của Ngài đối với họ chan chứa  tâm  từ ái. Ứng xử này,  giúp cho người  xấu nghĩ đây phải là  một  nhân  vật siêu phàm  với tính cách  đặc biệt.  Tâm hóa  giải  của Ngài  đã làm  cho mọi hận thù tan biến  rất nhanh. Cuối  cùng  Ngài  cũng  độ được bà  quý phi thoát khỏi mặc cảm, tự ái và thù hận.

Nếu tự ái tạo ra hận thù, thì tự ái sai lầm là tự sát. Trong tình yêu giới  tính, thái  độ đòi hỏi luôn  cao hơn nhu cầu ban tặng. Trong tình bạn, sự ban  tặng nhiều hơn là  sự tiếp nhận.  Trong kinh Tăng Chi, Phật  dạy  có bảy cách  làm  vợ  chồng:  vợ như là  người mẹ, chị, em gái, bạn  đời, người đầy tớ, kẻ sát nhân. Trong các loại  trên,  vợ chồng  như bạn là lý  tưởng nhất.

Quan hệ vợ chồng như bạn, sẽ  không có phân  biệt  đối xử trọng khinh, cao thấp cả hai luôn sống trong sự chia sẻ khổ đau  và hạnh phúc. Người chồng không đòi hỏi người vợ phải chiều  anh ta bằng cách này cách nọ. Trong cách ứng xử ngang hàng  như vậy, tình yêu chân thật sẽ trưởng thành, đơm hoa kết trái  bền vững cả đời. Thương ai không phải để người đó mang lại  cho mình gia tài, sự nghiệp, địa vị, danh vọng, hoặc để hãnh  diện với bà con về nhan sắc, văn bằng học vị, vai trò vị trí xã  hội mà họ có. Những thứ đó sẽ không bền vững.

Quan  niệm tình yêu như tình bạn, sẽ không có sự  hơn thua; thay vào  đó là sự  hy sinh cho nhau. Trong tình yêu vị kỷ, luôn có điều  kiện  để buộc  người yêu thuộc về mình. Do vậy,  khi không đạt được mục đích,  rất dễ sinh ra thù oán nhau.

Đừng  ứng  xử theo cách  tự  ái, vì tự  ái là biến dạng  của thù hận. Trong tình yêu  nếu  để chất liệu  tự  ái trưởng thành thì dễ bị đổ vỡ. Đức  Phật  dạy, hãy lấy chất  liệu  tình bạn  đặt vào tình yêu, nên dầu cưới nhau mấy mươi năm vẫn xem nhau như hai người bạn quý. Thường  xuyên hâm nóng lại tinh thần  đó.

Phương Tây thường tổ chức kỷ niệm 50 năm sau hôn nhân, hoặc ngắn hơn như 20 năm, 10 năm, để thắp  sáng  tinh thần bằng hữu hay  thiện hữu tri thức, nói theo  đạo Phật. Thiện tri thức là  bạn có đạo  đức,  tuệ giác,  nương tựa  lẫn nhau, dìu dắt nhau để cả hai  người cùng hướng về con  đường hạnh  phúc.

Sống như vậy thì sự  đổ vỡ sẽ không  xuất hiện.  Cần nhổ lên hạt giống tự ái trong các mỗi  quan hệ. Được vậy, thế giới này sẽ có được màu xanh của bình yên bất tận.

DÒNG SUỐI GIẢI OAN

Phương pháp  khác  có khả  năng xóa bỏ sự thù  hận  là buông bỏ hàm oan.  Những  người chết oan  ức, hay bất đắc kỳ tử thường bị ức chế tâm  lý, nên  khó siêu thoát. Trong cách chết trợ  tử, nếu bệnh  nhân  không  yêu cầu mà thân  nhân  tự động  làm thì khả năng  sân hận có thể  có, dù đang bị hôn mê họ vẫn không chấp  nhận  cái chết  đang  diễn ra như sự thật.

Người  chết  mà không  chấp nhận  cái chết  thường rơi vào cảnh  giới ngạ  quỷ, tức hồn  ma sống thuần  bằng tâm thức. Thần  thức  này tồn tại không  bị giới hạn  bởi không  gian vật lý, nên  có thể  nhìn thấy con  người,  sự vật, cây cảnh, màu  sắc và có trường hợp hiểu được tâm lý người  còn sống với những tình cảm nhớ thương.

Dĩ nhiên cảm quan của người sống và người chết khác nhau rất  xa. Nếu người sống nhìn thấy tất cả hình thù, màu sắc, thì sự cảm  nhận này trực tiếp từ mắt; trong khi người chết chưa được siêu  thoát chỉ cảm nhận bằng sự hình dung và tưởng tượng. 

Muốn xem kỳ quan và cảnh đẹp, người sống chỉ tốn tiền mua vé  máy bay hay đi xe đến nơi là có thể xem được, hoặc xem lại từ VCD  hay hình ảnh được chụp lại. Các hương linh sống bằng cảm xúc, không có các giác quan như người sống để tiếp xúc trực tiếp. Khi  nhu cầu của con mắt nhìn hay lỗ mũi ngửi, lỗ tai nghe âm thanh  có mặt thì sự thèm khát hưởng thụ dâng trào nhưng họ không thể  thực hiện được. Dòng cảm xúc thèm khát này làm cho hương linh  chưa siêu bị đói về mọi phương diện, nên họ được gọi là ngạ quỷ.  Chết oan uổng mà không được sự giúp đỡ bằng các khóa lễ cầu siêu  thì hương linh khó đầu thai được.

Một trong những cách xóa  bỏ hận thù có hiệu quả  là phải tháo gỡ những nỗi hàm oan. Mặc  dù vẫn  biết  mình bị  oan nhưng đừng cố chấp  vào nỗi  hàm  oan đó, thì mối gút hận thù được tháo gỡ phân nửa  về phía nhận  thức  của nạn  nhân.  Còn người đối tác có thừa nhận hay  không là chuyện khác, ta không nên quá bận tâm.  Nếu tác nhân  thừa  nhận  cái gút hàm  oan tạo cho  người khác nên mở thì tốt cho  cả  hai. Bằng không nhận thức được,  người  không  giữ nỗi hàm oan vẫn được  an  toàn bản thân. Về sau  hay  kiếp sau  có gặp  lại, nếu không  với tư cách là người bạn, thì cũng không vì thế mà hận  thù  nhau, nhờ  đó, không vấp phải những đổ vỡ và tổn  thất.

Bộ Từ bi thuỷ sám là tác phẩm Phật học, dạy nghệ thuật làm mới đời sống đạo  đức rất hay trong thời cận đại.  Tác phẩm dưới dạng  sám pháp, nói về cách  thức tháo  gỡ lỗi lầm, khi đã lỡ gây tạo cho  người khác. Sự tích của bộ sám  này từ câu chuyện có thật liên  quan đến Ngộ Đạt quốc sư,  bậc chân  tu đạo cao đức trọng, trong kiếp quá khứ từng  tạo  ra nỗi hàm oan  cho một người hiền lương.

Trong tiền kiếp, Quốc sư Ngộ Đạt từng làm quan thẩm phán  tối cao, tên là Viên Án. Có một thường dân tên là Triệu Thố, do vì  tình ngay lý gian, đã bị kết án tử hình. Triệu Thố van xin bằng  mọi cách nhưng Viên Án không tin. Với chứng cứ giả, không  biện hộ được, theo luật pháp lúc đó, Viên Án xử tử Triệu Thố. 

Cái chết  đó đã làm  cho Triệu  Thố uất ức và thù  hận. Trước khi bị hành  hình, Triệu  Thố thề: “Tôi sẽ báo  thù  Viên Án dù phải trải qua  nhiều  đời kiếp”. Cuối  đời Viên  Án đã trở thành một nhà sư. Trong lúc tĩnh tâm thiền  quán,  ông lật lại những trang dữ liệu  quá  khứ  và biết  rằng mình đã xử oan  Triệu Thố, dẫn  đến  cái chết của cả gia đình người hàm oan.  Dù Viên  Án ăn năn  hối hận,  làm  lễ sám hối  nhưng oan khiên đó vẫn  không buông tha ông.

Sau nhiều kiếp tái sanh làm nhà sư tu hành giới luật nghiêm  minh, đến kiếp thứ 10, Viên Án trở thành quốc sư tên là Ngộ Đạt.  Quốc sư Ngộ Đạt rất thông thái, đạo cao đức trọng và rất khiêm hạ.  Vị vua Trung Quốc lúc đó rất tôn kính Phật pháp Tăng, thỉnh Ngộ  Đạt về triều thuyết giảng đạo lý, sau đó phong làm quốc sư.

Trong ngày lễ phong chức, vua cho  làm tòa ngồi  bằng  trầm hương, quý hơn long tọa của vua. Khi Quốc sư Ngộ Đạt khởi lên ý niệm  hãnh  diện tự hào, thì lập tức nghiệp oan trái của 10 kiếp trước có cơ hội  xúc  tác để trả quả. Bỗng  dưng, đầu gối của Quốc sư  Ngộ Đạt mọc  mụt  ghẻ hình mặt người, lại có thể  phát ra âm thanh. Dù không  phải ngôn  ngữ của con  người nhưng với khả năng nghe  của Ngộ Đạt,  đây hẳn là âm  thanh của sự oan  trái than thở, trách móc, đòi đền  tội để rửa thù:

- Là người học sâu hiểu  rộng về lịch sử  và  văn chương, hẳn  ngài  đã đọc qua  quyển Tây Hán Thư, ra đời dưới triều đại Đường Ý  Tâm.  Tác phẩm  này có đề cập đến  chuyện oan khiên giữa Viên Án và Triệu Thố.

Quốc sư  Ngộ Đạt nói:

- Tôi biết chuyện  đó. Thật  tội nghiệp cho  Triệu Thố. Mụt  ghẻ phát ra những tín hiệu cho  biết rằng:

- Trong câu chuyện đó, ngài  là Viên Án  còn tôi  chính là Triệu  Thố.  Tôi làm oan hồn theo ngài đã 10 kiếp  rồi nhưng chưa có cơ hội  để trả thù,  bởi ngài  đã trở  thành một vị chân sư. Do kiếp  này ngài  có tâm cống cao,  ngã mạn  nên  tôi có cơ hội để trả thù  rửa hận.

Nói xong, mụt nhọt làm thân  thể quốc sư nhức nhối kinh khủng, không sao chịu nổi. Trong sự đau  nhức, Quốc sư  Ngộ Đạt nhớ lại cuộc tao  ngộ đặc biệt với một  vị cao Tăng trước đây. Vị cao  Tăng  này xuất hiện  dưới hình thái một người ăn mặc xốc xếch, đi đâu cũng  bị mọi  người  xa  lánh.  Chỉ có tu sĩ trẻ Ngộ Đạt tỏ ra kính trọng, gần gũi dâng cơm nước, tặng phẩm vật. Nhân đó, vị cao Tăng nói:

- Sau này, nếu gặp nạn, thầy nhớ lên trên núi Tà Lũng thuộc khu  Bành Thành mà tìm. Chỉ cần liên tưởng đến thì thầy sẽ gặp tôi.

Lúc giúp vị cao  Tăng, Ngộ Đạt  nghĩ  đơn thuần là nhà sư nói chơi  thôi, hơn nữa ngài cũng chẳng  cần ai giúp  đỡ trả ơn, vì không  còn sợ tai nạn và bất  hạnh. Khi bị oan  khiên hoành hành, Ngộ Đạt đã tìm đến núi Tà  Lũng. Làm theo  lời dặn, Ngộ

Đạt  gặp lại người  xưa.  Vị cao  Tăng nói:

- Nỗi oan  khiên  của quốc sư tôi đã biết.  Bây giờ quốc  sư hãy đi xuống con suối bên cạnh núi Tà Lũng,  dùng nước, quán tâm  từ bi của mình đang trải rộng  dài khắp  nơi và mọi  loài, từ chúng sanh  có sự sống, cho  đến  thảo  mộc  vô tình. Quốc sư hãy tâm niệm:  “Xin những giọt nước từ bi này xóa tan những  nỗi oan  khiên,  thù hận đã tạo  trong quá khứ,  dù vô tình hay cố ý”.

Quốc sư  Ngộ Đạt đã làm  theo lời hướng dẫn của cao Tăng, cuối cùng đã hóa giải thành  công mối thù truyền kiếp của Triệu Thố. Cảm phục  giá trị  của phương pháp sám hối này, Quốc sư Ngộ  Đạt đã sáng  tác ra bộ Từ bi thuỷ  sám  với lời văn tha thiết, nói  về quy luật nhân  quả, đạo đức chi phối hạnh  phúc hay  khổ đau của con  người trong cuộc đời.

Các Phật  tử thỉnh thoảng  nên đọc lại bộ sám pháp này, với tất cả lòng chí thành để sám hối, những  lỗi lầm do vô tình hay cố  ý gây ra cho  người khác. Có những  chuyện  làm sai nhưng ta không hề hay biết,  cứ tưởng mình làm đúng theo lương tâm  và luật pháp, nên đã tạo ra những  nỗi oan  khiên,  biến người vô tội thành  những  oan  hồn, chịu  nhiều  nỗi khổ đau  qua  nhiều  kiếp.

Thực  tập thói quen sám  hối  để tháo  gỡ những nghiệp oan trái cũ và mới.  Phải  buông bỏ nỗi oan  khiên  với người khác. Dù với tư cách nạn nhân hay  tác nhân,  ta nên  tháo  gỡ các oan khiên để không  trói buộc oán thù từ đời này sang đời khác.

TỪ BI & THA THỨ

Bên cạnh các phương pháp  vừa nêu, hạnh từ bi và tha thứ là hai đức tính giúp ta tháo  gỡ hận  thù.  Dòng suối  mà Quốc  sư Ngộ  Đạt sử dụng, sở dĩ được gọi là suối Từ  bi là vì từ bi là chất liệu thanh lương, thẩm thấu vào lòng  người có thể  mang  lại sự an lạc.

Không ai nói là núi  từ bi, đất từ bi mà thường  nói là nước  từ bi, bởi vì nước có khả năng  tẩy rửa, làm sạch.  Sử dụng  chất liệu từ bi có nghệ thuật, ta sẽ làm cho tâm sân hận được  rửa sạch. Lúc  đó, cảm xúc  thù  hận  sẽ được phóng thích ra khỏi cơ thể vật  lý và tâm sinh lý, con  người sẽ trở  về với  trạng  thái thanh tịnh, an vui, hạnh  phúc. Tha  thứ là  chất  liệu  để cho hạt giống từ bi được  nảy mầm.  Điều quan trọng là đừng  lẫn lộn tình cảm với lòng  từ bi.

Ví dụ, đứng trước cái chết  của người  thân,  ta rơi nhiều nước mắt và tưởng  đây là lòng  từ bi của mẹ  đối với con, ông đối với cháu... Thực ra, đó  chỉ  là tình cảm thông  thường  trong quan hệ huyết thống. Muốn biết mình có từ bi nhiều hay không thì hãy thử. Mỗi khi nghe đến một tai nạn giao thông hay những đại nạn  động đất, sóng thần,  hỏa hoạn,  nói chung trước chết chóc  xảy ra, nếu ta không hề có chút  tâm  thương xót, không dành một phút mặc niệm nào  để hồi hướng  cho những người bất hạnh  được  siêu sanh thì ta biết hạt  giống  từ bi của mình đang bị ngủ quên.

Khi để dòng cảm  xúc  của tình thân phủ trùm  lên cuộc sống, ta làm vì trách nhiệm, tình thương lại lầm tưởng là thể hiện  từ bi. Tình cảm thì có nặng  nhẹ,  bên này bên kia. Lòng  từ bi thì không  phân  biệt. Đứng  trước  cái chết của một  người  thân  thì khổ đau, trong khi trước  cái chết  của mấy  chục ngàn người thì dửng dưng, như vậy  là chưa khơi dậy được  lòng từ bi cần có.

Phật  dạy,  cứ mỗi  ngày  trước  khi đi ngủ  phải  quán  từ bi. Quán từ bi có lợi  ích nhiều trong đời sống thường ngày của chúng ta. Chẳng hạn khi giận chồng hay  giận vợ, nếu biết quán từ bi thì rất dễ dàng  tha thứ;  biết rằng tội lỗi và sai lầm như là thuộc tính của người  phàm.  Hễ là người phàm, ai cũng lầm lỗi. Có người lỗi nặng, người lỗi nhẹ. Thấy được thuộc tính người phàm giúp ta không chấp trước và dễ dàng khởi ý niệm tha thứ, bỏ qua.  Tha  thứ người khác vì biết rằng mình có thể  vi phạm sai lầm trong tình huống tương tự. Biết tha thứ cho  người khác thì khi mình lầm  lỗi họ  cũng dễ dàng  tha thứ cho  mình. Đó  là nhân  quả của đạo  đức tha thứ. Điều quan  trọng  hơn, tha thứ tháo  gỡ hận  thù,  là phương thuốc  trị liệu vết thương  lòng.

Khi có tu chuyển hóa, ta dễ tha thứ bất cứ lỗi lầm nào của con  người. Tha thứ  là những giọt nước tẩy rửa bợn nhơ đạo đức của  con người, đồng thời là chất liệu giúp họ làm mới cuộc đời. Quan  niệm được như vậy, ta sẽ không khó chịu khi thấy người bạn đời  hay thân bằng quyến thuộc đã làm cho mình khổ đau.

Đừng tuôn ra những câu thề thốt  độc địa,  khi giận  dữ. Lời thề cay,  rủa độc không phải là chánh ngữ. Đó  là ngôn ngữ thiếu từ ái, thể  hiện sự  sân si, mang theo khổ đau,  dẫn  đến  bế tắc trong quan hệ.

Nếu trong đời,  lần  nào  đó vì giận  quá nên ta đã buông ra những lời thề hăm  doạ  thì hãy rút lại  lời nói đó. Phải  biết “Một cái giá bằng  ba cái đánh”.  Đánh một lần đau  rồi hết  còn giá sẽ làm người  sợ, vì không  biết sẽ bị  đánh lúc  nào,  ở  đâu. Trạng thái hồi hộp, lo sợ cứ chầu chực,  làm cho  họ  quên  ăn bỏ ngủ. Nhân quả của hù dọa  có trường  hợp lớn hơn là  đánh  thiệt, về phương diện tác hại  tâm lý đối với đời sống.  Nhân  quả rất phức tạp. Không  phải khi nào có làm  cụ  thể  mới  thật sự có nhân,  có quả. Một hành  động  của tư duy  tiêu cực xuất hiện là đã  tạo ra nghiệp quả xấu rồi.

Xóa  bỏ lời thề  cay,  rủa độc giống  như ta delete các tập tin bị lỗi trong hệ điều hành  tâm  thức  của mình. Tháo hết ra để người kia  thấy rằng họ đã được  đón nhận  bằng tất cả lòng từ bi, giữa ta và họ không  còn những  khoảng  cách nữa. Như vậy chất liệu của tha thứ  đã làm  cho  người kia trưởng thành hơn trong đạo đức và  là một dưỡng chất làm cho  họ cảm thấy hân hoan, nhẹ nhàng, phấn chấn.

Thông thường  có  hai tình huống mẹo vặt giúp  người dễ dàng tha thứ. Tình huống một là  lúc người cố chấp  đang  khổ đau  nhất; sự quan tâm và chia sẻ của  ta dễ được chấp nhận như lời xin lỗi. Trong nỗi khổ đau  cùng cực, con  người dễ dàng tiếp nhận  sự xin lỗi  và tha thứ,  để có thể  thiết lập tình thân, vượt qua cô đơn và khổ  nạn.

Tình huống  thứ hai là  khi được hạnh  phúc cực điểm, con người cũng dễ dàng  tha thứ.  Lúc  đó sự tha thứ được thực  hiện như một biểu hiện  của chủ nghĩa anh hùng, theo  nghĩa tỏ ra ta là  người  nhân  từ, rộng lượng. Trong tâm trạng  sung  sướng người ta thường tỏ ra dễ dãi  và sẵn  sàng tha thứ cho  những  kẻ lỗi lầm. Những  ngày lễ lớn  như Quốc khánh  2/9 hay Giải phóng 30/4, lệnh ân xá cho những tội nhân thường được thực hiện.

Lợi dụng vào cảm  xúc hạnh phúc nhất của họ  để bày tỏ lỗi lầm thì ta dễ dàng thiết  lập được nhịp cầu thông cảm, tha thứ. Nhờ  đó lòng thù  hận  sẽ được xoá  bỏ và không  dây chuyền từ kiếp này sang  kiếp khác.

Dĩ nhiên, cả hai nghệ thuật tâm lý vừa nêu chỉ thành công khi cả hai cùng nỗ lực; nếu chỉ một bên thì kết quả sẽ không nhiều.

KHÔNG THA THỨ GÂY RA ĐẠI HỌA

Trong lịch sử Ấn Độ thời  đức  Phật, có một cuộc chiến đẫm máu mà nguyên nhân là do lòng chấp thủ. Dòng tộc Thích Ca, tổ phụ  của đức Phật Thích Ca, đã có lần  chơi trác dòng họ Lưu Ly. Trong nước  cộng  hòa Ấn Độ gồm  16 bang, Sakya là  nước nhỏ nhưng sự phồn thịnh về văn  hóa,  giáo  dục, kinh tế, đã làm cho  những  nước khác phải nể sợ. Ma Kiệt Đà  là nước lớn mạnh cũng phải e dè trước  dòng tộc Thích Ca.

Khi tổ phụ dòng  họ  Thích Ca quá mạnh,  vua  nước Lưu Ly muốn cầu hòa, xin cầu hôn  con gái dòng  họ  Thích Ca cho hoàng  thái tử. Dòng họ Thích Ca khinh thường  dòng họ Lưu Ly bằng  cách  gửi  tỳ nữ đẹp  về làm vợ hoàng  thái tử nước  Lưu Ly, sau này trở thành hoàng hậu.

Theo phong tục  Bà-la-môn  giáo, người  nào giai cấp  vua chúa  mà đính hôn  với người  giai cấp thấp  hơn thì sự thanh tịnh nhiều đời nhiều  kiếp bị phá vỡ.

Nỗi đau  sĩ diện này là tổn thất không  thể đo  lường được  đối với nước  Lưu Ly. Mấy đời trôi  qua,  cho  đến thời đức Phật, vua Lưu Ly con  phát hiện sự chơi  khâm  của nước  Sakya, nảy sinh ý định  trả thù.

Biết chuyện đó, đức Thế Tôn tìm mọi  cách để hóa  giải lòng hận thù của vua Lưu Ly, nhưng vẫn không thành công. Trước khi vua Lưu Ly cất quân  đánh  nước  Sakya, đức Phật khuyên rằng: “Tôi thừa nhận tổ phụ của Sakya đã từng tạo  ra khổ đau cho nước Lưu Ly. Khổ đau  đó đã trở  thành  quá khứ mấy thế kỷ rồi. Vậy tại  sao  phải  hâm  nóng  nỗi đau quá khứ. Tôi khuyên ngài hãy vì lòng  từ bi mà xóa bỏ nỗi  khổ  đau này  để cho hai dân tộc có thể  trở thành bạn trong hòa bình và phát triển.

Nếu đại vương cất quân  đánh  thì biết bao  người dân vô tội sẽ bị chết. Đại vương nên ý  thức  rằng  hành động trả thù  đó đã gieo nghiệp  sát, vốn không  có liên  hệ gì đối với tác nhân gây tạo trước  đây. Nỗi khổ đau  này  sẽ không cùng tận.

Đức Phật thuyết  phục  mấy, vua  Lưu Ly vẫn không  nghe. Tha thứ vẫn không  được  thiết  lập, binh phạt đã xảy  ra và biết bao  nhiêu  người  dân vô tội của dòng tộc Thích Ca đã phải  chết.

Đức Phật không phải kém  tài  thuyết phục. Khi quy  luật của  lòng tham, sân, si đã hoạt dụng ở trục cực điểm thì những gì thuộc  về chân lý, đạo đức, từ bi đều trở nên vô dụng. Phật đã từng nói  trong kinh rằng: “Ta có  thể cứu độ vô  lượng, vô số chúng sanh  nhưng không thể độ những người không có duyên với Ta”. Nghiệp  quá khứ của dòng họ Thích Ca đã gây ra thì phải chấp nhận trả. Phật có  thể độ rất nhiều người nhưng không  thể độ những  người có thành kiến quá nhiều mà không sẵn lòng tháo mở.  Thành kiến và cố chấp là ổ khóa, đóng lại cánh cửa tâm hồn, mặc  cho chân lý có thiết tha đến gõ cửa cũng không cách nào vào được.

Sự  cố trả thù  của vua Lưu Ly không thuộc về trách nhiệm của Phật  Thích Ca.  Lỗi ở nơi lòng  sân  hận  và sự  trả  thù,  đã mang lại tang  tóc, khổ đau  cho  biết bao  nhiêu người. Ít nhất  về phía dòng tộc Thích Ca  được  sự giáo hóa của đức Phật nên họ không còn lòng sân hận trước  cái chết  tàn khốc.

NỐI DÂY THÂN  ÁI

Là người con  Phật, chúng ta phải  mở rộng  lòng  để nối  dây thân ái với  mọi người. Dù ai có gây bất cứ lỗi lầm  nghiêm trọng như thế nào chúng ta cũng nên tạo cơ hội, giúp họ làm mới cuộc đời, không mặc cảm tội lỗi và  ý thức được những lỗi lầm đã gây  ra. Ta luôn  luôn  mở rộng  cửa tâm  hồn  để chấp nhận người  khác,  sau đó tùy theo thái  độ từng người  mà nối rộng vòng dây thân  ái như thế nào.

Có bản  lĩnh hơn nữa thì chúng ta cứ tin rằng người kia  đến với  tất  cả tấm lòng chân thật, đừng nhìn họ bằng lăng kính quá khứ. Ưa nhìn thấy  lỗi lầm của người  khác  sẽ  chất chồng  khổ đau, từ một  nắm  đất bất hạnh  trở thành đồi, núi, hay  vạn lý trường  thành  bất hạnh.  Quên đi quá khứ của người,  ta có thể tiếp nhận  người  khác bằng cái mới của họ trong hiện tại như sự thật đang diễn ra. Lúc đó, không còn  quá  khứ  nào có thể tác động, ảnh hưởng,  chi phối và cũng không  còn những khoảng cách phân  ly nữa. Hạt  giống  của sự tha thứ  rất quan trọng trong quan hệ tình người. Thiếu đi sự tha thứ, chính bản thân người  chấp giữ cũng bị bế tắc.

Có nhiều người trừng phạt mình bằng cách tự chặt bàn tay đã  từng ăn cắp. Nếu cái miệng này đã từng nói dối, lừa đảo thì bây giờ làm cho lưỡi bị câm, bị ngọng; nếu đã tạo cái chết cho người khác  thì tự sát để đền nợ. Tất cả sự trừng phạt đó là sai lầm, không giải  quyết được vấn đề. Chẳng hạn, Hitler dù tự sát thì nghiệp sát của  ông với dân Do Thái vô tội vẫn không trả được. Nếu những nạn  nhân không có hạnh tha thứ, ôm giữ mối hận thù thì Hitler khó  siêu sanh. Bản thân Hitler nếu không tháo mở sự uất hận để hồi  đầu làm mới cũng khó có cơ hội tái sinh với đời sống an vui.

Tha  thứ là một nhu cầu lớn. Ta  có thể  hình dung tha thứ như chiếc phao  cho  người  tội lỗi bám để được vào bờ. Vì giá trị của lòng  tha thứ  có thể làm  mới  cuộc  sống  hạnh  phúc, bằng mọi  cách, ta cố gắng  gieo  trồng càng nhiều càng tốt.

Hãy thực tập bằng cách nghĩ rằng tha thứ người khác như tha  thứ chính mình. Không tha thứ thì mỗi khi nhìn thấy tác nhân,  nỗi ám ảnh về lỗi lầm của họ xuất hiện, làm cho ta cứ luôn ray rứt  phiền não, mặt khác không nhìn thấy được những cái tốt của họ  đang có. Thay vì chấp nhận người xấu với hình ảnh làm mới, nhiều  người cố chấp nhìn thấy họ như với quá khứ lỗi lầm, nên bế tắc  và hận thù cứ tiếp tục theo ta không chấm dứt. Rốt cuộc bất hạnh  vẫn nằm về phía ta, cho nên tha thứ chính là giải thoát cho chính  mình khỏi khổ đau của cảm xúc.

Có một  trăm người bạn  tốt vẫn chưa đảm bảo được  an vui nhưng chỉ cần  có một kẻ thù  là ta đã bị khủng hoảng. Số lượng kẻ khủng bố rất  ít so với  dân  số con  người trên hành tinh, thế mà chỉ cần một hành động khủng bố cũng đủ làm  cho  biết bao nhiêu  người  phải bị khủng  hoảng  và khổ đau. Tinh thần tha thứ làm cho  ta mở rộng  lương tâm và thiết  lập nhịp cầu tình bạn.  Xóa bớt lòng hận thù tức là  bớt thù thêm bạn, dù người bạn đó không giúp ích được gì cho mình cũng không sao, miễn họ chấp nhận  làm bạn  với ta là quý rồi.

Sở dĩ,  ta không  chấp nhận người khác làm mới được  là vì có những thành kiến về cũ mới, đúng sai giữa quá  khứ và hiện tại, tạo thành rào cản lớn.  Thiết  lập thành  trì tâm  lý vướng  mắc đó chẳng  khác nào ta đang cô lập chính mình.

Cần có lòng  từ bi và tha  thứ, như cặp đức tính sinh đôi. Chỗ nào có lòng  từ bi thì chỗ  đó có sự  tha thứ.  Chỗ  nào có tha thứ thì hạt  giống  từ bi sẽ  sinh sôi.  Nên  áp dụng hai đức tính này trong các mối quan hệ tình người.

Nếu chỉ giải quyết  sự thù hận bằng cách dùng  bạo lực  lớn để oanh  tạc bạo lực nhỏ, bạo lực đó  sẽ tạm thời  dừng lại  rồi nó sẽ nổi loạn trong tương lai. Dùng cưỡng lực mạnh  để áp chế  một lực khủng bố nhỏ  hơn không phải là giải pháp. Đừng  khủng  bố lẫn nhau mà cần  làm  thế  nào để cho  người kia  phải chịu trách nhiệm nhân quả đạo đức trước  luật pháp,  sau  đó lấy tình người để tháo gỡ và chuyển hóa  họ. Nếu  chỉ sử dụng bạo lực thì tình trạng sẽ  bị biến dạng.  Khi hận thù biến dạng  thì nỗi khổ đau khủng bố  sẽ được  thiết  lập, giống  như những quả mìn nằm ở mọi nơi, chỉ cần phút  bất cẩn là chúng có thể  nổ tung.

Chỉ  có tình thương và lòng tha thứ mới góp phần thiết  lập môi trường trong lành, thoải  mái, người  với người  biết thương nhau hơn. Điều này ai cũng có thể  thực hiện được, chỉ cần mỗi người cố gắng  một  ít. Hãy quán chiếu theo lời Phật dạy rằng “Tất cả người xa lạ  đều là thân bằng quyến thuộc”  thì ta đâu nỡ giết hại lẫn nhau để gieo  thêm cảnh chia  ly, tang  tóc.

Nói tóm  lại,  xóa bỏ hận thù được  thể hiện bằng nhiều  cách khác nhau như gieo trồng hạt giống từ bi, thể hiện sự tha thứ, nhổ  sạch gốc rễ tự  ái, mạnh dạn từ bỏ nỗi hàm  oan, hay quán tưởng rằng ta không phải là chủ  thể  để tiếp nhận  nỗi khổ niềm đau,  cũng như quán  không có một  tác nhân nào gây ra khổ đau.  Kết hợp những  cách quán sát như thế thì nỗi khổ niềm đau sẽ giảm đi đến  độ không còn  có mặt  trên cuộc  đời này nữa.

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)

Các bài mới :
Các bài viết khác :

Đánh giá bài viết này

0

Tags

Không có tags cho bài viết này

Đăng nhập