Chương 5: Lỗi lầm và hối quá

- T04. Tìm hiểu kinh Bốn Mươi Hai Chương
- Phần 1: Tổng luận Kinh Bốn Mươi Hai Chương
- Phần 2: Lược giải kinh Bốn Mươi Hai Chương - Chương 1: Định nghĩa Sa môn và Sa môn quả
- Chương 2: Đối tượng tu tập (Bảo sở Sa Môn, Định nghĩa Đạo)
- Chương 3: Sa môn hạnh
- Chương 4: Thập thiện - Thập ác
- Chương 5: Lỗi lầm và hối quá
- Chương 6: Phỉ báng thiện và ác quả dị thục
- Chương 7: Thái độ của Đức Phật trước lời khiển trách
- Chương 8: Ác giả ác báo
- Chương 9: Giá trị tri và hành (Điều kiện ngộ đạo)
- Chương 10: Phước đức tuỳ hỷ hạnh bố thí
- Chương 11: Đối tượng và phước đức của bố thí
- Chương 12: 20 điều khó của kiếp người
- Chương 13: Điều kiện chứng túc mạng minh (Thể nhập chí đạo)
- Chương 14: Định nghĩa thiện và vĩ đại
- Chương 15: Nhẫn nhục
- Chương 16: Điều kiện con đường đạt đạo
- Chương 17: Ánh sáng người đạt đạo
- Chương 18: Cốt tuỷ của đạo Phật
- Chương 19: Nguyên lý vô thường của vạn pháp
- Chương 20: Hữu thể con người: Vô thường, khổ, vô ngã
- Chương 21: Danh vọng: Thú vui ít giá trị
- Chương 22: Tài sắc: Ngọt ít, đắng nhiều
- Chương 23: Ân ái là tù ngục
- Chương 24: Ái dục khổ đệ nhất (Cũng may chỉ có một)
- Chương 25: Lửa ái cháy tay
- Chương 26: Thiên ma dâng ngọc nữ
- Chương 27: Lại nói về điều kiện đạt đạo
- Chương 28: Không nên chủ quan (Khi chưa phải là A La Hán)
- Chương 29: Đoạn trừ tâm ái dục – duy trì phạm hạnh
- Chương 30: Tránh dục như tránh lửa
- Chương 31: Đoạn âm không bằng đoạn tâm
- Chương 32: Diệt ái dục, ly sinh tử
- Chương 33: Tỳ kheo-chiến sĩ diệt lậu hoặc
- Chương 34: Độc lộ giải thoát (Tinh tấn trung đạo)
- Chương 35: Bỏ cấu nhiễm tâm, đạt đạo giải thoát
- Chương 36: Lại nói về cái khó của con người
- Chương 37: Chứng đạo phải do sự tu tập (Như Lai chỉ là người chỉ đường)
- Chương 38: Mạng sống con người chỉ trong một hơi thở
- Chương 39: Chư pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ
- Chương 40: Thân hành đạo - Tâm hành đạo
- Chương 41: Tinh tấn - Bỏ tình dục (Giải thoát)
- Chương 42: Phương tiện tri kiến, Như thị tri kiến
- Phụ lục
- Chuyện lạ về y đức của một bậc chân tu
I. DỊCH NGHĨA
Đức Phật dạy rằng: Khi người ta phạm phải nhiều lỗi lầm mà không biết ăn năn hối quá, để ngăn trừ lòng quấy thì hiển nhiên, tội lỗi sẽ chụp vồ lên thân ngày càng nhiều hơn, như trăm sông tuôn về biển. Khi phạm lỗi lầm mà biết nhìn nhận tội lỗi của mình, để bỏ ác làm lành thời tội lỗi nhờ đó mà tiêu diệt. Cũng như bệnh nhân mà xuất hạn thời biết bệnh tình chóng thuyên giảm vậy.
II. LƯỢC GIẢI
Tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi chánh pháp của Đức Phật, người ta phải thừa nhận rằng: “Pháp, những lời dạy của Đức Phật, là thiết thực hiện tại (sanditthiko), là không có thời gian (akaliko), là đến để mà thấy (ehipaasiko) và được bậc tri giác hiểu. Chính vì thế, người ta đã tôn xưng Ngài với một danh hiệu vừa cao vĩ vừa gần gũi là “nhà đạo đức học nhân bản” hay “nhà tâm lý học đạo đức”. Sự tôn xưng này không phải là không lý do như một sự ngẫu nhiên nào đó, mà thật sự nó bắt nguồn từ những đóng góp to lớn về giáo dục đạo đức, giáo dục tâm lý của chính cuộc đời truyền đạo của Ngài do người ta cảm nhận được rồi tôn vinh. Những đức tính đạo đức, giáo dục tâm lý ở Ngài thường được biểu hiện qua các pháp thoại, dụ ngôn… tuy ngắn gọn nhưng súc tích, sâu sắc. Đoạn kinh văn của chương này sẽ cho chúng ta thấy được phần nào những đức tính ấy.
Để nắm bắt trọn vẹn nội dung kinh văn, chúng ta hãy lưu ý đến những gợi ý sau:
1.- Bắt đầu vào kinh văn, Đức Phật cho thấy những khuyết tật về tính nết, về hành vi, về cách sống của con người như là một quy luật tất yếu, hiếm có ai tránh khỏi lỗi lầm. Lỗi lầm được đề cập như là một thuộc tính cố hữu xấu xa của con người, mà làm người thì chúng ta cần phải cải thiện nó. Lỗi lầm tự bản thân nó không có gì là xấu xa, đáng trách, chính thái độ vô trách nhiệm về những hành vi xấu ác (biết là xấu ác mà không chịu ăn năn hối cải) mới là đáng trách. Mà đã gọi là hành vi xấu ác thì chúng ta dư biết rằng nó chỉ phát triển theo chiều hướng tăng dần, nghĩa là càng xấu ác thêm. Do đó, chúng ta cần phải thường xuyên theo dõi hành vi tạo tác của mình để kịp thời cải thiện. Cải thiện thì đời sống đạo đức của ta ngày càng tốt đẹp hơn, hoàn hảo hơn. Đó chính là mục đích tối hậu của cuộc sống và cũng chính là mục đích giáo dục của Đức Phật đối với chúng ta qua nội dung bài này.
2.- “Khi người ta phạm phải nhiều lỗi lầm mà không biết ăn năn hối quá để ngăn trừ lòng quấy thì hiển nhiên tội lỗi sẽ chụp lên thân người ấy ngày càng nhiều hơn, như trăm sông tuôn về biển”. Lời dạy này làm chúng ta liên tưởng đến câu Phật ngôn nói về sự phát triển tăng dần của các nghiệp (dù chỉ là nghiệp ác nhỏ) nhưng lâu ngày trở nên nhiều tác hại không thể lường được. Vì thế, chúng ta không nên ỷ lại như một người bất chấp, tự phụ:
“Chớ khinh chê điều ác
Cho rằng chưa đến mình
Như nước nhỏ từng giọt
Rồi bình cũng đầy tràn
Người ngu chứa nhiều ác
Do chất chứa dần dần.”[1]
Bài kệ trên còn cho chúng ta thấy, cái gọi là nghiệp ác hay lỗi lầm của con người là do tích tụ mà không biết ngăn đón, phản tỉnh. Trong khi đó, luồng chuyển biến của tâm tưởng ta thường có xu hướng tác ý ác và tác tạo ác: “Khởi tâm động niệm vô phi thị tội – Kinh Địa Tạng”. Một khi các ác nghiệp đã đến thời trổ quả, tất nhiên khi ấy, kẻ làm ác mới giật mình, nhưng muộn rồi: “Khi ác nghiệp chín muồi. Người ác mới thấy ác,”[2] hay “Tội ác đến kẻ ngu. Như ngược gió tung bụi.”[3]
3.- Yếu tố quan trọng trong việc tái tạo lại những giá trị đạo đức đã một thời mất mát ở con người tội lỗi không gì quan trọng hơn là thái độ ăn năn, sửa đổi. Chính thái độ ăn năn, sửa đổi đã phục hồi những gì đã mất và kiến tạo một cuộc đời mới. Trong các kinh, Đức Phật luôn tán thán, khích lệ những con người sau khi phạm lỗi dám tự nhận lỗi để sửa đổi và ngăn đón mãi mãi về sau là những người có trí: “Phạm tội, thấy là phạm tội. Sau khi thấy mình phạm tội, như pháp sám hối, đó là người hiền trí.”[4] Chính Đức Phật đã tự thuật rằng, trước ngày giác ngộ, Ngài cũng chạy theo dòng sinh tử tạo nghiệp luân hồi, nhưng sau đó, Ngài biết chặn đứng để cứu thoát Ngài ra khỏi mạng lưới triền miên này, là cũng do biết cải hối đường mê:
“Trước tâm ta buông lung
Chạy theo ái dục lạc
Nay ta chánh chế ngự
Như cầm móc điều voi.”[5]
Kinh còn cho biết, đứng trước hiện tượng một người phạm tội, thành khẩn sám hối để tự hoàn thiện, Đức Phật luôn cởi mở, hoan hỷ để đối tượng phạm tội có cơ hội ăn năn, làm lại cuộc đời: “Này Bhaddali, nếu nhà ngươi sau khi thấy một lỗi lầm là một lỗi lầm và như pháp phát lộ, ta sẽ sẵn sàng chấp nhận cho ngươi, vì rằng, này Bhaddali, như vậy là sự lớn mạnh trong giới luật của bậc Thánh. Nghĩa là, bất cứ ai, sau khi thấy lỗi lầm là một lỗi lầm, phát lộ rồi phòng hộ trong tương lai.”[6] Ở một đoạn kinh khác, Đức Phật còn dạy rằng, mọi tội lỗi sẽ bị tiêu diệt hoặc giảm thiểu, nếu người phạm tội biết ăn năn, hối cải đúng mức: “Này các Tỳ kheo, có người làm điều tội lỗi và biết hối hận, chính ở đây, các pháp bất thiện khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn.”[7]
4.- Theo Duy Thức Học, hối tâm sở là trung tính. Người ta không thể quy nó vào thiện hay ác, khi mà chưa xác định được trước đó nó đã tác tạo những gì và bây giờ nó ăn năn, hối cải những gì. Duy Thức Tam Thập Tụng liệt nó vào một trong bốn pháp bất định. Còn Bộ Pháp Tụ thì diễn tả nó như là một năng lực “phản lực” các hành vi trước đó. “Việc không đáng, nghĩ là đáng. Việc đáng nghĩ là không đáng. Việc không tội nghĩ là tội. Việc tội nghĩ là không tội. Sự nào như vậy là hối hận, sự ăn năn của tâm.”[8] Do đó, sự hối cải, ăn năn chỉ thật sự có lợi ích hay được thuần thiện, khi nó ăn năn về những lỗi lầm trong quá khứ. Và còn đối với những hành vi thiện ích đã làm thì cần phải giữ vững lập trường, như Đức Phật đã dạy, có thế, mới được lợi ích:
“Ác hạnh không nên làm
Làm xong chịu khổ lụy
Thiện hạnh ắt nên làm
Làm xong, không ăn năn.” [9]
Không ăn năn về hành vi thiện chính là lập trường đạo đức, chân chính. Ăn năn về những hành vi bất thiện chính là cách mạng hành vi. Theo nguyên lý này, chúng ta có thể chứng minh được rằng sự ăn năn là một năng lực tương phản sẽ triệt thoái những nguồn năng lực trước đó như một lực bù trừ hay triệt tiêu. Khi lực triệt tiêu hay bù trừ do ăn năn, hối quá này đã thành tựu thì nhất định, các ác nghiệp trước đây sẽ được hóa giải hoàn toàn. Như vậy, “Tội tùng tâm tạo, tội tùng tâm sám. Tâm sám tịnh thời, tội diệt vong” quả thật là xác đáng.
5.- “Khi phạm phải lỗi lầm mà biết nhìn nhận lỗi lầm của mình để bỏ ác làm lành thời tội lỗi nhờ đó mà tiêu diệt. Cũng như bệnh nhân mà xuất hạn thời biết bệnh tình chóng thuyên giảm vậy”. Đoạn văn này nhằm thuyết minh rõ trọng lực của một lực ăn năn về những lỗi lầm sẽ hóa giải hoàn toàn mọi ác nghiệp.
6.- Trong một sát na, tâm hoặc nắm bắt cảnh thiện, hoặc là nắm bắt cảnh ác. Và do đó:
“Ai chậm làm việc lành
Ý ưa thích việc ác
Hãy gấp làm điều lành
Để xóa mờ tâm ác.”[10]
Như vậy, chứng tỏ rằng người ta có thể làm lại cuộc đời và làm lại một cách hoàn thiện, nếu người ta luôn duy trì các thiện nghiệp để chặn đứng, triệt tiêu các tiền ác nghiệp:
“Ai dùng các hạnh lành
Làm xóa mờ nghiệp ác
Chói sáng cuộc đời này
Như trăng thoát mây che.”[11]
Điều này hoàn toàn phù hợp với nguyên lý: “Không có cái gọi là định nghiệp, nhưng chỉ là sự chuyển biến từ xấu ra tốt, hoặc xấu hơn và ngược lại”. Đồng thời còn phù hợp với lời dạy:
“Tự mình điều ác làm
Tự mình làm nhiễm ô
Tự mình bỏ điều ác
Tự mình làm thanh tịnh
Thanh tịnh hay nhiễm ô
Đều do tự chính mình
Không ai thanh tịnh ai.”[12]
Đó chính là nội dung, là mục đích giáo dục của bài kinh này, vừa mang bản sắc đạo đức nhân bản, vừa đượm nhuần tâm lý giáo dục của Đức Phật nhằm kiến tạo một thế giới lý tưởng mà trong đó, không ai là không hướng đến cái chân, cái thiện, xóa mờ những cái tệ, cái ác trong quá khứ, để mọi người tự thăng hoa, tự làm đẹp cuộc sống của mình và người khác.
7.- Thông qua nội dung chính của kinh văn cộng với các vấn đề gợi ý trên, chúng ta có thể đúc kết cho chính mình những bài học “tư tưởng” để cùng chiêm nghiệm và thực hiện:
1) Người ăn năn là người biết tàm quý.
2) Bắt đầu ăn năn là bắt đầu cuộc sống mới.
3) Những bậc vĩ nhân về đạo đức luôn là người biết ăn năn về những khinh suất của mình.
4) Lỗi lầm mà không ăn năn là kẻ tà kiến ngoan cố đến mức trầm trọng.
5) Người không bao giờ tạo ác, người luôn ăn năn những lỗi lầm, chỉ hai hạng này mới có triển vọng thành bậc Thánh.
6) Ăn năn chỉ là hồi đầu, cải tạo mới là hoàn thiện.
7) Ăn năn chỉ là hóa thành của nếp sống đẹp mà bảo sở của nó phải là cải tổ, cải thiện.
8) Bạn hãy cho tôi biết bạn ăn năn những gì, tôi sẽ cho bạn biết bạn là người thế nào.
9) Cuộc đời sẽ không đen bạc với những hành động lỗi lầm, nếu ta chịu hồi đầu cải thiện.
10) Làm thiện mà không nuối tiếc về việc thiện của mình thì việc làm đó mới đích thực là toàn thiện.
11) Ăn năn chưa hẳn là tốt, nếu ăn năn về việc làm thiện.
12) Nếu mọi người đều biết ăn năn và ăn năn những gì cần ăn năn thì xã hội lo gì mà không tươi thắm!
13) Nuối tiếc về việc làm tốt chỉ là biến loạn tâm thần của những kẻ dại dột.
14) Không nên đắm mình trong nuối tiếc vì quá khứ không thể giúp gì được cho hiện tại và tương lai.
15) Hãy cẩn thận trong mọi hành vi của thân, ngữ, ý nếu bạn không muốn hối tiếc về hành vi của mình.
16) Đừng chôn vùi trong nuối tiếc, hãy phấn đấu với từng phút giây hiện tại rồi bạn sẽ thấy tương lai là gì.
17) Phạm lỗi chưa phải là tội lỗi, không ăn năn về lỗi lầm mới thật là tội lỗi.
18) Hãy để tội nhân có thời gian ăn năn hối cải, đừng kết tội dồn dập mà đẩy họ vào bế tắc: quyên sinh trong vũng lầy tội lỗi chưa được khai hóa.
19) Đừng quá quấy rầy kẻ phạm tội, vì họ vẫn còn khả năng để làm lại cuộc đời.
20) Cuộc đời là bãi rác tội lỗi, ăn năn hướng thiện là cơn gió lốc, cuốn phăng đi tất cả.
21) Tội lỗi là vết hằn ở tâm, ăn năn là thuốc tẩy, tẩy sạch những hằn vết ấy.
22) Chúa chỉ chấp nhận rửa tội một lần. Phật chỉ hứa khả sám hối một nỗi.
23) Ăn năn là biểu hiện thái độ cầu thiện.
24) Ai dám tự hào mình là con người thập toàn, do đó, hãy hoan hỷ với những người biết ăn năn, hối cải.
25) Không có gì phải xấu hổ khi bày tỏ lỗi lầm của mình.
26) Lọ nhơ chỗ nào phải tẩy rửa chỗ đó.
27) Hối hận về lỗi lầm là đồng nghĩa với không lỗi lầm.
28) Thẩm quán lại chính mình là phương cách tu tập của người hiền triết.
29) Ăn năn là chất liệu cải thiện cuộc đời.
30) Mãnh lực của ăn năn là biến đổi lỗi lầm trong quá khứ thành hành động thiện ích trong hiện tại và tương lai.
31) Xấu hổ hay ý thức phạm tội sẽ trở nên vô nghĩa khi mà ăn năn nói lên được tiếng nói chân thành.
32) Con đường “cuộc sống” luôn có nhiều mảng đá “lỗi lầm”, nhưng ăn năn là xe ủi lô, sẽ san bằng những chỗ lồi lõm.
33) Không phải sự ăn năn nào cũng đáng tán thán, ngoại trừ ăn năn về một việc làm chưa hoàn thiện.
34) Con người là một hợp thể các yếu tố: lỗi lầm, ăn năn và cải đổi.
35) Chính những hậu quả đau khổ khốc liệt sẽ dạy người ta ăn năn có hiệu quả nhất.
36) Trong một sát na của ăn năn, người tội lỗi sẽ hiện hữu với một con người hoàn thiện.
37) Như vầng nhật chiếu tan sương tuyết, cải thiện lỗi lầm: tội sạch tiêu.
38) Không có lỗi lầm không phải con người, nhưng không biết ăn năn thì không thể trở thành con người hoàn thiện.
39) Tạo ác là một thực tại tội lỗi, làm thiện là một thực thể toàn lương. Ăn năn là chất liệu tạo nên thực thể toàn lương.
40) Một năng lượng ăn năn tương đương với một lực bù trừ để triệt tiêu một năng lượng tội lỗi đã tạo ra trước đó.
[1] Dhp. 121.
[2] Dhp. 119.
[3] Dhp.125.
[4] Tăng Chi I, tr. 115.
[5] Dhp.326.
[6] Trung Bộ II, tr. 159.
[7] Tăng Chi II, tr. 174.
[8] Bộ Pháp Tụ, tr. 304, số 752.
[9] Dhp. 314.
[10] Dhp.116.
[11] Dhp.173.
[12] Dhp.109.
- Giải Thích Giới Luật Và Oai Nghi Của Sa Di Thích Nhật Từ dịch và chú thích
- Nghiên cứu giới Tỳ-kheo của Thượng tọa bộ: Đối chiếu với năm phái luật Phật giáo Lý Phụng My - Việt dịch: Thích Nhật Từ
- Giới Sa-di-ni, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn Thích Nhật Từ
- Giới Sa-di, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn Thích Nhật Từ
- Giới bổn Tỳ-kheo-ni của Luật Tứ phần Thích Nhật Từ
- T04. Tìm hiểu kinh Bốn Mươi Hai Chương Thích Nhật Từ
- 27. Hành trình đến chánh niệm Bhante Henepola Gunaratana - Jeanne Malmgren - Diệu Liên Lý Thu Linh dịch
- 66. Gieo trồng phước đức Thích Đạt Ma Phổ Giác
- 54. Đối thoại giữa Triết học và Phật giáo Jean Francois Revel & Matthieu Ricard - BS: Hồ Hữu Hưng dịch
- 34. Đậu Nành - Nguồn Dinh Dưỡng Tuyệt Hảo Tâm Diệu
- 48. Đối thoại giữa khoa học và Phật giáo Matthieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận - BS: Hồ Hữu Hưng dịch
- T11. Đối diện cái chết Thích Nhật Từ
- 37. Đạo học - Con đường an vui hạnh phúc Vân Như Bùi Văn Nhự
- 39. Đạo Phật hiện đại hóa Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
- 23. Đạo gì ? Thích Trí Siêu
Đánh giá bài viết này
Cùng tác giả
- Từ điển Phật giáo Việt Nam: Các mục từ đã làm xong
- Quy cách phiên dịch và biên tập Tam tạng thánh điển Phật giáo Việt Nam
- Thư mời tham gia biên soạn "Từ điển Phật giáo Việt Nam"
- Từ điển Phật học vần A-Z (2010 mục từ, ngày 02/1/2023)
- Từ điển Phật giáo (50 từ gợi ý trong tổng số 3500 mục từ đã hoàn tất) - Một số mục từ Văn học Phật giáo Việt Nam gợi ý
- Quy cách biên soạn "Từ điển Phật giáo Việt Nam"
- Dự thảo các nhóm biên soạn bộ "Từ điển Phật giáo Việt Nam"
- Bản sắc hóa và quốc tế hóa vị thế của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
- Khái quát Nội dung Kinh Trung Bộ
- Khái quát Nội dung Kinh Trường Bộ
Gửi bình luận của bạn
BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)