Khoảng tám giờ tối, đoàn chúng tôi đến Câu Thi Na (Kusinagar) thuộc bang Bihar, nơi mà hơn 2500 năm về trước đức Thế Tôn từ giã cõi đời an trụ Vô Dư Niết Bàn, tìm chỗ nghỉ ngơi để chuẩn bị cho công việc ngày hôm sau. Đêm nay, chúng tôi ngủ tạm tại chùa Linh Sơn, ni sư Trí Thuận trụ trì, ngôi chùa Việt Nam gần tháp Phật Niết Bàn. Chùa có mở lớp dạy cho học sinh nghèo Ấn Độ khoảng 400 em. Trong khuôn viên chùa có xây dựng tứ động tâm thu nhỏ trông rất xinh, nhằm tưởng nhớ đến bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đời đức Phật.
Sau khi dùng cơm sáng, chúng tôi bắt đầu vào nơi tháp Niết Bàn để làm lễ và ghi hình lưu niệm. Vừa bước vào bên trong khuôn viên của tháp Niết Bàn, lòng chúng tôi bỗng chùn lại và cảm nhận một nỗi buồn man mác, khi hình dung lại chính nơi đây đức Phật đã xả báo thân cuối cùng và an tường thị tịch.
Giai đoạn cuối cuộc đời ai cũng phải trải qua, nhưng sao nghĩ đến lòng cũng cảm thấy ngậm ngùi chua xót khi phải tiễn biệt người thân và lo lắng khi điều đó sắp xảy ra với chính bản thân mình. Đức Phật đã dạy, cái gì có sanh ắt có diệt, có hợp rồi tan, con người ai cũng một lần được sanh ra và một lần phải chào vĩnh biệt cõi đời. Đó là một qui luật, là một lẽ thật cho dù phủ phàng nhưng không ai có thể thay đổi được. Chỉ khác chăng mỗi người trong chúng ta có một cái chết bình an, có được tự tại như đức Phật hay các vị Thánh để an trụ Vô Dư Niết Bàn hay không, đó mới là điều quan trọng!
“Cuộc thế trăm năm nghĩ cũng dài,
Nhưng rồi không quá một tầm tay,
Trăm năm là những gì khoảnh khắc,
Chợt mất chợt còn như gió bay”.
Chúng tôi dự định tiến vào bên trong làm lễ, nhưng vì nhiều đoàn đến viếng thăm, đang tụng kinh cầu nguyện và kinh hành nên chúng tôi tạm đứng bên ngoài chờ đợi khoảng nửa giờ. Sau đó đoàn chúng tôi (mặc dù chỉ có năm người) cũng được vào bên trong làm lễ theo truyền thống Phật giáo Việt Nam và đi nhiễu ba vòng quanh kim thân Phật Niết Bàn.
Như chúng ta được biết, gần 200 km từ Tỳ Xá Ly (Vesāli) đến Câu Thi Na là đoạn đường cuối cùng trong đời mà đức Phật trải qua. Vào thời Phật, Câu Thi Na là kinh đô của cộng hoà Malla, một thị tứ nhỏ và nghèo nàn so với các nước hưng thịnh thời bấy giờ nhưng đức Phật lại chọn nơi này làm nơi đại diệt độ với lý do liên quan đến tiền thân Người. Khi đức Phật quyết định về Câu Thi Na nhập Niết Bàn, tôn giả A Nan cảm thấy không được tương xứng với oai danh của đức Thế Tôn nên Ngài liền bạch với đức Phật rằng, tại sao đức Thế Tôn không chọn các đô thị lớn mà đức Thế Tôn đã từng du hoá và có nhiều đệ tử phú gia cúng dường lễ hoả thiêu và thân xá lợi của Ngài như Chiêm Bà (Campā), Vương xá (Rājagaha), Xá Vệ (Sāvatthī), Ba La Nại (Varanasi) .... Đức Phật từ chối và trả lời rằng, thuở quá khứ Câu Thi Na là kinh đô của Chuyển Luân Thánh Vương tên là Thiện Kiến, một trong những tiền thân của Ngài trong quá khứ, là một kinh đô hưng thịnh phú cường. Và cũng chính nơi đây Ngài đã xả báo thân đến bảy lần. Vì vậy, sự chọn lựa của Phật hoàn toàn phù hợp với sự quán sát bằng tuệ giác của Ngài.
Những lời huấn thị cuối cùng của đức Thế Tôn và bối cảnh diễn ra lúc đó được ghi lại đầy đủ trong kinh Đại Bát Niết Bàn thuộc Trường Bộ Kinh, kinh Du Hành thuộc Trường A Hàm và những lời dạy trên được tóm tắt trong kinh Di Giáo. Những lời dạy của đức Phật thật từ bi, thương yêu, lo lắng, quan tâm đến tăng đoàn sau này như người cha đầy trí tuệ lo lắng cho các con thơ dại của mình.
Vẫn là một xác thân tứ đại, nên đức Phật cũng chịu luật vô thường biến hoại như mọi pháp hữu vi có mặt trên cuộc đời. Chúng ta hãy nghe lời tâm tình giữa Phật và thị giả thân tín nhất của Ngài: “Này A Nan! Nay ta đã già cả, đã suy yếu, đã đến hạn kỳ cuối của cuộc đời, ta vừa tròn tám mươi tuổi. Này A Nan, giống như cỗ xe cũ kỹ được làm cho chạy nhờ đám dây da chằng chịt nâng đỡ; cũng vậy, thân Như Lai được duy trì và hoạt động nhờ nâng đỡ bằng dây đai”. Đức Phật dạy: “Này A Nan hãy tự làm hòn đảo cho chính mình, hãy tự làm nơi an trú cho chính mình, không tìm nơi an trú khác. Lấy chánh pháp làm hòn đảo, lấy chánh pháp làm nơi an trú, không tìm nơi an trú nào khác”. Trường Bộ Kinh - Đại Bát Niết Bàn. Còn biết bao lời nhắn nhủ cuối cùng thắm thiết tình sư đồ như những gì đã từng diễn ra trong cuộc sống thường nhật. Bởi một sự xúc động trào dâng nên chúng tôi muốn nhắc lại một vài lời dạy đầy thương cảm của đức Thế Tôn. Giờ đây chúng ta cùng tìm hiểu những di tích kỷ niệm liên quan đến nơi Niết Bàn của Phật.
Trong kinh Di Giáo nói rằng: “Trong rừng Sa la, giữa hai cây song thọ, Ngài sắp Niết Bàn. Bấy giờ là lúc giữa đêm, hoàn toàn yên lặng, không một tiếng động, Ngài đã vì các đệ tử mà nói tóm tắt những điều cốt yếu của chánh pháp” - “Ư Sa la song thọ gian, tương nhập Niết bàn, thị thời trung dạ tịch nhiên vô thanh, vị chư đệ tử lược thuyết pháp yếu”. Như vậy, đức Phật nhập diệt tại rừng Sa La song thọ. Sa La hay còn gọi là Ta La, đây là loại cây khá phổ biến tại các tu viện ở Việt Nam. Chúng có tàng rất đẹp từng đôi đối xứng. Hiện tại, trong khuôn viên tháp Niết Bàn của Phật ở Câu Thi Na, chúng ta không còn thấy được rừng Sa La như thời xưa nữa mà chỉ có hai cây Sa La trồng bên cạnh lối vào tháp, để kỷ niệm sự kiện lịch sử trọng đại này. Chỗ chính yếu của khu thánh địa này là tháp Niết Bàn và tháp thờ xá lợi của Phật. Tháp Niết Bàn có kiến trúc mái vòm hình lăng trụ, được chính phủ Ấn Độ xây dựng lại vào năm 1956 để kỷ niệm lần thứ 2500 đức Phật Niết Bàn, bởi đức Phật nhập Niết Bàn vào ngày rằm tháng 2 năm 544 trước kỷ nguyên Tây lịch. Bên trong ngôi tháp này diện tích mặt bằng hình chữ nhật, có tượng đức Phật nhập Niết Bàn bằng đá đen nhưng đã được thiếp vàng, dài khoảng 7m được tôn trí trên bệ thấp khoảng 5 tấc ngay giữa tháp. Mặt tượng hướng về phía Tây, đầu gối lên tay phải, tay trái để xuôi theo thân về hướng Nam trong tư thế nằm nghiêng. Đặc biệt nhất là dường như ít ai kiềm chế được cảm xúc khi ngắm nhìn bức tượng này. Lần đầu tiên vào năm 2005 theo đoàn du lịch chiêm bái các thánh tích Phật giáo, tôi bỗng rung động toàn thân và trào nước mắt khi vừa nhìn thấy kim thân Phật Niết Bàn, đó là những tình cảm chân thành và lòng kính trọng tuyệt đối mà chúng ta đã dành cho đức Phật, một con người bằng xương bằng thịt, một con người lịch sử trên trần gian này. Mặt trước bệ thờ có một vài bức phù điêu nho nhỏ như: hình ảnh vị sư đang bưng mặt khóc, đó là tôn giả A Nan rơi lệ dài trên má trước sự ra đi vĩnh viễn của đức Phật, bởi Ngài chưa đắc quả vị A La Hán, là quả thánh dứt trừ tất cả lậu hoặc, tâm không còn dao động trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đối xứng với hình ảnh này có một phụ nữ đang quỳ mọp khóc than là hình ảnh tượng trưng cho các thiện nam tín nữ khóc nức nở cho lần cuối cùng được ngắm nhìn kim thân Phật. Và hình ảnh vị sư đang thiền định, biểu trưng cho các hàng thánh giả và các Tỳ kheo đạt được sự thanh tịnh tuyệt đối trong tâm hồn.
Nhìn từ phía mặt tiền của tháp Niết Bàn, chúng ta cứ ngỡ rằng tháp Niết Bàn và tháp Xá Lợi là một cái tháp lớn, có cấu trúc hình lăng trụ phía trước và hình tròn, đỉnh nhọn cao ở phía sau. Thật ra, hai tháp này tách biệt nhau trên một nền cách nhau khoảng 3m, tháp Niết Bàn thờ tượng Phật nhập Niết Bàn ở trước, và tháp xá lợi thờ Xá Lợi Phật nằm phía sau. Tháp thờ xá lợi là do dòng họ Malla kiến tạo và tôn thờ phần Xá Lợi Phật. Theo sách sử ghi lại, ban đầu bộ tộc Malla ở Câu Thi Na không nghĩ rằng xá lợi của Phật phải được phân chia tám nước, vì họ cho rằng đức Phật niết bàn tại địa phương họ thì họ trọn quyền thừa hưởng báu vật vô giá này. Cuối cùng, để tránh đi sự tranh chấp có thể xảy ra bất hoà giữa các nước, bộ tộc Malla nghe theo lời đề nghị của vị Bà La Môn Dona, người đảm trách lễ hoả tán, phân chia xá lợi đều cho tám nước:
1- Đại vương A Xà Thế (Ajātasatu) thuộc nước Ma Kiệt Đà (Magadha) thành Vương Xá (Rājagaha).
2- Bộ tộc Licchavi ở Tỳ Xá Ly (Vesāli).
3- Bộ tộc Thích Ca (Sakyā) ở Tân Ca tỳ la vệ (Kapilavatthu).
4- Bộ tộc Buli ở Allakappa.
5- Bộ tộc Koliya ở Ramagama.
6- Một bà la môn ở Vethadipa.
7- Bộ tộc Malla ở Pava.
8- Bộ tộc Malla ở Câu Thi Na (Kusinagar).
Như vậy, cộng hoà Malla giữ được hai phần ở hai trú xứ khác nhau, đó là Pava và Câu Thi Na.
Tuy vậy, khi xá lợi đã được chia xong thì một sứ giả của bộ tộc Moriya ở Pipphalivana đến đòi chia phần. Cuối cùng vị ấy đành phải chịu nhận một ít tro ở giàn hoả. Còn Bà La Môn Dona giữ những gì còn sót lại trong bình đất đựng xá lợi sau khi hỏa thiêu và được dùng để chia phần. Như vậy, tổng cộng được tám bình xá lợi và hai bình tro được tôn trí trong mười ngôi tháp để thờ mười chỗ khác nhau.
Theo nguồn sử liệu cho biết, đến nay hai bình trong số đó đã được khai quật. Chiếc bình nhỏ hình cầu với lời ghi chú trên nắp mà xưa kia bộ tộc Thích Ca làm lễ nhập tháp tại Ca Tỳ La Vệ mới (Piprahwa) được giữ lại trong bảo tàng quốc gia Ấn Độ ở Calcuta. Còn chiếc bình thứ hai của cộng hoà Licchavi được đào lên tại Tỳ Xá Ly (Vesāli) vào năm 1958. Bình này chứa phần di cốt tro và nhiều vật khác. Những bảo vật này đang thuộc quyền giám hộ của ban khảo cổ và bảo tàng chính phủ quốc gia Bihar ở Patna. Theo quyển Đức Phật Lịch Sử - Tiến sĩ H.W.Schumann.
con thành kính tri ân thầy.
td
Gửi bình luận của bạn
BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)