Lưỡng nguyệt san Đạo Phật Ngày Nay

Thắc mắc về Gíao hội và Phật tử

Đã đọc: 2084           Cỡ chữ: Decrease font Enlarge font
image

VỀ GIÁO HỘI

16. Cho biết chữ Tăng già (sangha) là gì?

- Tăng già gọi tắt là Tăng, đoàn thể của tất cả những người chấp nhận đạo Phật làm lý tưởng. Nhưng chữ Tăng già trong nghĩa hẹp thì chỉ cho đoàn thể Tỳ kheo, (bhikhu, bhikshu) và Tỳ kheo ni (bhikkhuni, bhikshuni), những người rời bỏ gia đình riêng tư, sống đời đạo hạnh lợi tha, chuyên lo tu học và hướng dẫn mọi người sống đạo.

17.Những ai có thể trở thành Tỳ kheo, Tỳ kheo ni?

- Tất cả, không phân biệt nòi giống, màu da, địa vị xã hội, với điều kiện là phải đủ nhân tướng, không có tật bệnh thân thể cũng như tinh thần, có ý chí hướng thượng và khả năng tu hành. Tu sĩ nam gọi là Tỳ kheo sống theo Tăng bộ. Tu sĩ nữ gọi là Tỳ kheo ni sống theo Ni bộ.

18. Tại sao có vị mặc áo nâu, có vị quấn cà sa vàng?

- Nâu hay vàng đều là màu "giải thoát". Tuy nhiên, tổng quát mà nói thì các vị quấn cà sa vàng thuộc Nam tông. Các vị mặc áo nâu thuộc về Bắc tông. Các vị thuộc hệ phái Khất sĩ cũng quấn y vàng song phần đông tu học theo giáo lý Bắc tông. Phật giáo ngày nay đang có một khuynh hướng tổng hợp Bắc và Nam tông, nên có những vị xuất gia ở Bắc tông cũng quấn cà sa vàng và những vị thuộc Nam tông cũng mặc áo tràng nâu, nhất là khi phải sống ở các xứ lạnh hay ở Âu Mỹ.

19. Nam tông và Bắc tông khác nhau như thế nào?

- Sự thật thì chỉ có một đạo Phật. Tất cả Phật tử đều thờ kính Phật Gotama tức là Thích Ca (sàkyamuni), chấp nhận và tu học các đạo lý Duyên khởi, Vô ngã, Vô thường, Bốn Thánh đế vv... Sở dĩ có Nam tông, Bắc tông là vì có vài quan điểm khác nhau về giáo lý và phong tục địa phương. Đạo Phật ở các nước Tích Lan, Miến Điện, Campuchia, Lào... chịu ảnh hưởng của Thượng tọa bộ (Theravàda) từ Ấn Độ truyền về phương Nam (Tích Lan) nên được gọi là Nam tông. Trong khi đó, đạo Phật ở các nước Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bản... phần nhiều chịu ảnh hưởng của Đại thừa (Mahàyàna) trong đó có ảnh hưởng của Đại chúng bộ (Mahàsanghika), Nhất thế hữu bộ (Sarvàtivàda), Độc tử bộ (Vàtsiputriya)... từ Ấn Độ truyền về phương Bắc (Trung Á, Trung Hoa) nên được gọi là Bắc tông. Theo ý kiến chung thì Nam tông, nhờ bảo thủ mà còn giữ được nhiều tính chất nguyên thủy của đạo Phật. Còn Bắc tông do phóng khoáng và canh tân nên đã hòa hợp với nếp sống địa phương hay quốc gia. Hiện nay đạo Phật, với các tổ chức quốc tế, đang cố gắng đi đến một nền Phật giáo tổng hợp, không phân biệt tông phái, địa phương. Hiện có nhiều tổ chức Phật giáo đề cao tinh thần "về nguồn" và ứng dụng đạo Phật một cách sáng tạo trong thời đại ngày nay.

20. Đạo Phật Việt Nam thuộc Nam tông hay Bắc tông?

 - Đạo Phật Việt Nam vào những thế kỷ đầu tiên (I-V) do các Phật tử Ấn Độ và gần Ấn Độ truyền vào. Song suốt dòng lịch sử đạo Phật Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của Bắc tông Trung Hoa đến. Gần đây, trong thời kỳ Pháp thuộc, ở miền Nam có thêm ảnh hưởng của Nam tông từ Campuchia sang. Tuy chịu nhiều ảnh hưởng của Bắc tông Trung Hoa song nhờ phong trào chấn hưng và canh tân (từ 1930), đạo Phật Việt Nam có một bộ mặt sáng sủa, linh hoạt và gần đạo lý Nguyên thủy.

Từ năm 1945, đạo Phật Việt Nam, tùy theo địa phương và hoàn cảnh, phát triển khác nhau do có nhiều sắc thái khác nhau. Nói chung, ở "miền Bắc", đạo Phật vẫn giữ nguyên truyền thống Bắc tông, trong khi đó ở "miền Nam" có cả Bắc tông, Nam tông. Đạo Phật Việt Nam có chịu ảnh hưởng của các phong trào chấn hưng đạo Phật ở các nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Tích Lan, Ấn Độ.

21. Cho biết sơ tổ chức đạo Phật Việt Nam ngày nay?

- Đạo Phật vốn không có giáo quyền tập trung như Thiên Chúa giáo. Vì hoàn cảnh đất nước trong quá khứ, đạo Phật Việt Nam, mãi đến năm 1981 mới có cơ quan chỉ đạo Trung ương cho cả nước: Giáo hội Phật giáo Việt Nam gồm Hội đồng Chứng minh và Hội đồng Trị sự. Dầu sao, Phật giáo liên tục có mặt ở Việt Nam trong suốt 2.000 năm nay trong khi đó Phật giáo ở Ấn Độ và vùng Đông Nam Á bị tiêu diệt mà nguyên nhân chủ yếu là nạn Hồi giáo.

22. Cho biết qua tình hình Phật giáo thế giới gần đây và hiện nay?

- Đạo Phật phát sinh từ Ấn Độ và được truyền rộng ra các nước lân cận ngay sau khi Phật viên tịch độ ba trăm năm dưới triều đại Asoka. Đạo Phật tiếp tục phát triển ở Ấn Độ cho đến thế kỷ thứ XIII thì bị tiêu diệt hoàn toàn do sự tàn phá của Hồi giáo. Tuy nhiên, đạo Phật ở các nước ngoài Ấn Độ vẫn phát triển. Về sau, chính phong trào tìm thuộc địa của Tây phương đã làm cho đạo Phật ở Viễn Đông, Đông Nam Á bị đàn áp, lu mờ và bị bỏ quên.

Nhưng, trong những người đến với các nước Phật giáo có một số học giả làm quen rồi yêu chuộng nền văn hóa Đông phương nói chung và đạo Phật nói riêng như bác sĩ Peebles, đại tá Olcott, ông bà giáo sư Ryhs Davids, bà Blavatsky... Chính những học giả Âu Mỹ này đã làm cho nhiều người Đông phương, chú ý đến sự sáng đẹp của đạo Phật. Về sau nhờ những Phật tử có lòng như Đại đức Dharmpàla, Đại sư Thái Hư... quyết tâm phục hưng đạo Phật. Chỉ trong thời gian độ 50 năm lại đây đạo Phật trở nên một đạo có uy tín; bên ngoài thì được các học giả Âu Á lưu tâm nghiên cứu và bên trong thì các Phật tử cố gắng tu học và phổ biến. Hiện nay số Phật tử khắp thế giới càng ngày càng tăng và các tổ chức Phật học càng ngày càng nhiều.

Hiện có nhiều cơ quan quốc tế của Phật giáo. Song những cơ quan này chỉ là những cơ quan chỉ đạo tối cao. - Âu Mỹ cũng có các hội Phật giáo. Tại các trường đại học ở Londres, Paris, Louvain, Munchen v.v... đều có người nghiên cứu và giảng dạy Phật học. Kinh sách đạo Phật cũng được dịch, viết ra bằng các sinh ngữ Pháp, Anh, Đức...

Nhiều học giả Âu Mỹ nghĩ rằng đạo Phật là một lẽ sống thích hợp với con người tiến bộ và hy vọng rằng đạo Phật sẽ giúp loài người giải thoát sự thác loạn do văn minh máy móc gây nên.

VỀ PHẬT TỬ

23. Cho biết sơ qua bổn phận của một Phật tử?

- Phật tử chân chánh là người biết thể hiện chánh pháp trong những bổn phận sau đây: tu dưỡng bản thân, Phật hóa gia đình, cải tạo xã hội.

24. Thế nào là tu dưỡng bản thân?

- Mục đích đầu tiên mà người Phật tử nhắm đến là "người giác ngộ ". Do đó tu dưỡng bản thân là việc rất cần thiết. Tu dưỡng nghĩa là cải tạo: về tình cảm, chuyển đổi tham lam tàn bạo thành yêu thương giúp đỡ (từ bi), về lý trí, chuyển đổi si mê lầm lạc thành giác ngộ sáng suốt (trí tuệ), về ý chí, chuyển đổi hèn nhát thụ động, sợ sệt thành quả cảm tinh tấn. Đủ Bi, Trí, Dũng là người giác ngộ.

25. Giải thích thêm về Bi, Trí, Dũng

- Bi hay từ bi có nghĩa là thương yêu giúp đỡ. Từ bi không phải là lòng thương hại những kẻ xấu số mà là lòng thương yêu bình đẳng, sự giúp đỡ chân thành như tình thương và sự lo lắng của bà mẹ hiền đối với đứa con một. Chúng ta hiện thiếu hoặc có rất ít tình cảm tốt đẹp rộng rãi ấy. Do đó, chúng ta nên tu dưỡng lòng từ bi bằng cách chân thành thương yêu và giúp đỡ những người thân yêu như cha mẹ, anh em, bà con rồi đến đồng bào, đồng loại và tất cả chúng sinh. Từ bi làm cho con người hoàn toàn về tình cảm.

Trí hay trí tuệ có nghĩa là sự hiểu biết sự vật đúng như sự thật (yathàbhuta). Chúng ta có kiến thức song chưa có trí tuệ vì chúng ta chưa ra khỏi ảnh hưởng của vô minh (avijjà) và còn bị tình cảm vẩn đục chi phối. Do đó, muốn thấu rõ sự vật đúng như thật, chúng ta cần phải trau giồi trí tuệ bằng cách không chủ quan, tự mãn mà thành khẩn học hỏi, suy nghĩ khách quan (cintà) và thực nghiệm thấu đáo (bhàvanà). Sự phát triển trí tuệ đầy đủ làm cho con người hoàn toàn về lý trí.

Dũng hay dũng cảm có nghĩa là mạnh dạn, dám hành động trong chiều hướng cao đẹp. Phần đông chúng ta chưa có đủ dũng cảm vì chúng ta còn sợ khó, nếu không nói là hèn nhát. Nhiều khi thấy chính nghĩa song không dám dấn thân vì sợ nguy hại cho quyền lợi, danh dự và tính mạng. Có người dám nói, dám làm song lại thiếu từ bi, trí tuệ nên thường manh động hơn hành động. Do đó, chúng ta phải phát triển dũng cảm bằng cách tự thắng những tính xấu ác trong chúng ta rồi vận động sức mạnh của mình, liên tục ngăn trừ điều xấu ác đã sinh, phát khởi điều lành ích chưa có và làm cho điều lành ích đã có tăng trưởng. Dũng cảm làm cho con người hoàn toàn về ý chí.

26. Phật hóa gia đình là thế nào?

- Chấp nhận đạo Phật là lẽ sống cao đẹp, người Phật tử ở nhà ngoài việc tu dưỡng bản thân, còn có bổn phận với gia đình. Trong nhiều kinh như kinh Chơn hạnh phúc (Mahàmangala), kinh Thiện sanh (Sigalovàda)... Đức Phật khuyến khích người cư sĩ làm tròn bổn phận của chồng đối với vợ, vợ đối với chồng, cha mẹ đối với con cái, con cái đối với cha mẹ... Người gia trưởng, không những phải lo chu đáo đời sống vật chất của gia đình mà còn phải hướng dẫn quyến thuộc sống theo chánh đạo để gia đình có hạnh phúc chân thật, nghĩa là Phật hóa gia đình. Nếu gia đình được Phật hóa thì chính những người trong gia đình là thiện hữu tri thức (kalyànà-mitta) của nhau, khuyến khích giúp đỡ lẫn nhau hướng thiện và hướng thượng.

27. Làm sao để cải tạo xã hội?

- Theo đạo lý Duyên khởi thì sự hình thành của sự vật do nhiều nhân duyên; những nhân duyên này liên hệ mật thiết với nhau "Cái này có thì cái kia có, cái này tốt thì cái kia tốt"; do đó, muốn cho cuộc sống riêng và chung được an lành thì không những phải tu dưỡng bản thân, Phật hóa gia đình mà còn phải cải tạo xã hội. Phật tử có bổn phận đóng góp vào công cuộc cải tạo xã hội, muốn đóng góp của mình có kết quả tốt đẹp thì trước tiên phải tự cách mạng bản thân: loại bỏ tâm mưu cầu danh lợi, đào luyện chí nguyện lợi tha, rồi quyết tâm phục vụ cho quyền lợi đồng bào và xã hội. Tài năng tuy cần thiết song đạo đức vẫn là yếu tố không thể thiếu trong công việc ích người lợi xã hội. Cư sĩ, nếu có đủ khả năng nên tham dự tất cả công tác xã hội như chính trị, kinh tế, y tế... Đạo lý Duyên khởi dạy cho người Phật tử biết linh động trong việc khảo sát sự vật và thực hiện công tác tu dưỡng bản thân cũng như cải tạo xã hội. Có thể đặt vấn đề tu dưỡng cá nhân trước và cải tạo xã hội sau, cũng có thể cải tạo xã hội trước và tu dưỡng cá nhân sau, tùy theo sự quan trọng của vấn đề trong hoàn cảnh nào đó, hoặc cả hai vấn đề có thể được thực hiện một lần.

28. Cho biết thái độ Phật tử đối với việc xây dựng hòa bình

- Xét về đạo lý và lịch sử thì đạo Phật quả là đạo hòa bình. Mục đích cao nhất của đạo Phật là Nirvàna mà một trong nhiều định nghĩa là hòa bình (Santi, Sun, 204). Đức Phật cũng được gọi là Ông Hoàng hòa bình (Santiràja). Phương thức tu dưỡng do Phật chỉ dạy là lối sống hòa hợp (samacariya) với con người.

Theo đạo lý Duyên khởi thì sự vật do nhiều nhân duyên mà phát sinh và hiện hữu. Nếu đã nhờ nhau nương nhau mà sống còn thì loài người phải làm cho những tương quan, tương duyên tốt đẹp để cùng nhau vui hưởng an lành.

Để phá về sự ngăn cách chống đối giữa những cá nhân, giữa những tập thể thì không gì tốt đẹp hơn là tu học theo đạo lý vô ngã (anàtta). Đạo lý này chủ trương con người cũng như sự vật không hề có cái ta biệt lập - nguyên nhân của ích kỷ, tự tôn, tự kiêu... Xã hội và tập thể không phải là những cấu trúc cứng nhắc, không biến đổi mà chỉ là những giả hợp của nhiều yếu tố như nhân sự, kinh tế, chính trị... Do đó, muốn sống cao đẹp thì phải sống theo tinh thần vô ngã, lợi tha, muốn tổ chức xã hội một cách hợp lý, công bình thì nên tổ chức theo tinh thần cộng đồng, hòa hợp.

Về phần đào luyện đạo đức thì hầu hết phương pháp tu dưỡng trong đạo Phật đều nhằm mục đích diệt trừ tham lam, thù hận và xây dựng an lành cho mình, cho người trong tinh thần từ bi:

"Như mẹ hiền thương yêu con một

Dám hy sinh bảo vệ cho con

Với muôn loài ân cần không khác

Lòng ái từ như bể như non

Tung rải từ tâm khắp vũ trụ

Mở rộng lòng thương không giới hạn" .

                         (Kinh Từ bi, Sun, 1.8)

Ngoài ra, Phật còn dạy nhiều phương pháp xây dựng hòa bình một cách xác thực mà 6 nguyên tắc sau đây là căn bản:

1. Thân hòa cùng chung sống,

2. Miệng hòa không cãi cọ,

3. Ý hòa cùng vui vẻ,

4. Kiến (tư tưởng) hòa cùng thông cảm,

5. Giới (kỷ luật) hòa cùng tôn trọng,

6. Lợi hòa cùng hưởng thụ.

Như vậy Phật tử khi xây dựng hòa bình cho mình cho người không phải chỉ làm theo lời khuyên đạo đức mà hành động đúng theo cơ sở đạo lý của Phật.

29. Vì sao phải phổ biến chánh pháp?

- Phật tử phải phổ biến chánh pháp bởi vì chánh pháp là ánh sáng chân lý, là nguồn vui bất diệt cho loài người. Phật tử phải vận dụng mọi phương tiện tốt để đem chánh pháp đến cho đời: nghĩa là làm cho mọi người hiểu và sống đạo. Phật tử làm công việc này với mục đích "đem an vui đến cho muôn người" chứ không phải để gây thanh thế cho đạo của mình. Người cư sĩ không những chỉ ủng hộ chư Tăng trong công việc truyền bá chánh pháp, mà còn phải tự mình truyền bá chánh pháp. Chính người cư sĩ, với hình thức tại gia, rất thích hợp và dễ dàng phổ biến chánh pháp bằng cách sống đạo để làm gương và khuyến khích những người gần gũi mình hướng thiện. Sự tồn tại của đạo Phật không chỉ ở nơi sự nguy nga tráng lệ của chùa chiền, sự giàu có và uy quyền của giáo hội mà ở nơi sự sống đạo của Phật tử và mọi người. Vì thế phổ biến chánh pháp tức là bảo vệ chánh pháp.

30. Muốn phổ biến chánh pháp nên theo những quy tắc nào?

Ai muốn phổ biến chánh pháp, trước hết nên phát tâm từ bi đối với tất cả mọi người. Rồi tùy theo hoàn cảnh, tìm những người gần mình hoặc có duyên với mình để dìu dắt họ hướng về lý tưởng giác ngộ. Trong khi dìu dắt cố gắng áp dụng bốn phương pháp nhiếp người sau đây:

1. San sẻ (bố thí): chia sớt vật chất, công sức và văn hóa.

2. Đẹp lời (ái ngữ): nói năng hòa nhã, dịu dàng, dễ nghe.

3. Ích người (lợi hành): phục vụ một cách không vụ lợi mà chỉ nhằm lợi ích cho người.

4. Gần gũi (đồng sự): hiểu biết trình độ, thông cảm nếp sống, tâm tình của người, sống gần và nói, làm như người mình muốn dìu dắt (cũng có nghĩa là phục vụ một cách bình đẳng không phân biệt).

Bốn phương pháp nhiếp người trên đây là nghệ thuật dìu dắt người trong mục đích phổ biến chánh pháp.

Đăng ký lấy RSS cho bình luận Bình luận (0 đã gửi)

tổng số: | đang hiển thị:

Gửi bình luận của bạn

  • Bold
  • Italic
  • Underline
  • Quote

Xin hãy nhập các ký tự bạn nhìn thấy ở ảnh sau:

BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)