Người đàn ông ẩn danh và kiệt tác tượng Phật

Đứng ở giữa đời và đạo, nhà điêu khắc tạc nên tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp đã làm nên một tác phẩm vừa uyển chuyển, tinh tế về nghệ thuật, vừa thoáng cái hồn của tưởng tượng dân gian cùng triết lý uyên thâm.
Bức tượng Phật Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) có 11 đầu, mặt chính nhìn ra phía trước, ở hai mang tai có hai mặt. Các đầu tượng đều có khuôn mặt tương đối giống nhau, đó là những khuôn mặt của người phụ nữ đôn hậu, mang phong cách tượng chân dung. Mặt tượng bầu bĩnh, ở các đầu nhỏ của tượng, tóc được chải ngược lên đỉnh rồi được búi thành cuộn, tóc mai đè qua thân tai. Tượng có hai hàng mi cong chạy vào sống mũi, mắt hé mở nhìn xuống, mũi tượng mang nhiều nét hiện thực, miệng thoáng một nụ cười. Tai tượng lớn và dày, chảy dài xuống, đeo hoa tai là bông sen nở.
Cổ tượng cao, chạm thành ba ngấn. Có tất cả 42 tay lớn. Các cánh tay đều để trần. Bàn tay có các ngón để trong tư thế ấn quyết hoặc thiền định. Ở tất cả các bàn tay đều chưa cầm nghi vật như các tượng Quan Âm sau này. Các cánh tay đều tròn lẳn, ngón búp măng, cổ tay đeo vòng kép nổi hạt ở giữa. Vòng dây chuyền được kết lại từ những hạt tròn nhỏ và buông từ cổ xuống ngực. Hình thức này ta đã gặp ở những tượng Quan Âm có niên đại sớm hơn và cùng thời như ở chùa Thầy.
|
Áo tượng bó sát người, có nhiều nếp phủ trên vai, cuộn qua cánh tay rồi buông chảy xuống lòng đùi, tạo thành những vạt nhọn chảy trên đầu gối và bệ tượng. Bụng tượng thắt hầu bao, tạo ra thế phân cách giữa ngực và bụng. So với tượng sớm hơn ở thời Mạc thì bụng tượng đã nở ra nhiều.
Phần tay và mắt còn lại của pho tượng được làm thành một vòng tròn lớn đặt rời ra phía sau tượng. Các cánh tay nhỏ được xếp thành nhiều lớp (từ 6 lớp ở dưới đến 14 lớp ở trên). Có tất cả 789 tay dài ngắn khác nhau, nhưng cùng có chung một hình thức tạo tác. Các ngón khép lại, thuôn dài. Trong lòng mỗi bàn tay có một con mắt được chạm chìm.
Pho tượng Phật Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp đã đoạt giải đặc biệt khi tham gia triển lãm nghệ thuật Phật giáo quốc tế tại Ấn Độ năm 1958, nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ cho biết. |
Trương tiên sinh
Chính giữa bệ tượng có một hàng chữ Hán ghi niên đại tạo tượng: “Tuế thứ Bính Thân, thu nguyệt cốc nhật doanh tạo”. Mặt bên trái tượng có dòng chữ “Nam Đồng Giao Thọ Nam Trương tiên sinh phụng khắc”. Bên dưới lớp này là một lớp cánh sen có phần chân thụt vào trong để kết thúc cấp một. Hình thức cánh sen cũng được thể hiện giống như trên đài sen đặt tượng. Hai dòng chữ ghi trên cho ta biết pho tượng Quan Âm này được Trương tiên sinh hoàn thành vào một ngày tốt của mùa thu năm Bính Thân (1656).
“Đây là trường hợp đặc biệt hiếm hoi bởi tượng thờ ở Việt Nam không có trường hợp nào ghi lại thời gian hoặc tên nghệ nhân tạc, nặn”, một đại diện của Ban Quản lý di tích Bắc Ninh cho biết. Điều này cho thấy tác phẩm đương thời đã được đánh giá cực kỳ quý giá và tác giả của nó - một người họ Trương - do vậy đã được lưu danh. Chỉ có điều, các nghiên cứu Hán Nôm cho đến tận giờ vẫn chưa thấy có thêm dòng chữ nào viết về ông.
Mặc dù vậy, một câu chuyện lưu truyền trong dân gian cho rằng ông Trương chính là bạn tâm giao của Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc. Cả hai cùng rất tín đạo Phật, do đó có những lúc bà đến xưởng mộc mà ông làm chủ để đàm đạo. Sau một lần đàm đạo, người đàn ông này biến mất để rồi chín tháng sau trở lại gặp hoàng hậu. Khi ấy, ông gầy đét, râu tóc rối bời. Chính thời gian đó, ông đã bỏ xưởng mộc đang làm ăn phát đạt vào hang đá sâu trên dãy Nguyệt Hằng Sơn suy nghĩ và hoàn thành phác thảo tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay.
Dưới sự chỉ đạo của Trương tiên sinh, sau chín năm lao động say mê đầy sáng tạo, một ngày mùa thu năm Bính Thân, tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay đã được hoàn thành trước sự chứng kiến của vua Lê Thần Tông, Hoằng Tổ Dương Vương Trịnh Tạc và rất nhiều quan chức, sư sãi, phật tử, thiền sư Minh Hành đã làm lễ hô thần nhập tượng. Tương truyền hôm ấy trời trong xanh, ban ngày mà xuất hiện hàng nghìn vì sao nhấp nháy.
Nguồn: Thanh Niên online
- Nghiên cứu tình trạng Phật Giáo Việt Nam trong giai đoạn chống xâm lăng Lê Mạnh Thát
- Lược sử Trúc Lâm Tam tổ Thích Nguyên Như
- Tính ưu việt của công cuộc thống nhất Phật giáo Việt Nam Nguyễn Đại Đồng
- Hoa Kỳ Giải Mật Hồ Sơ Việt Nam 1963 Dịch và Ghi Nhận: Tâm Diệu, Trí Tánh và Nguyên Giác
- Tiếng chuông chùa giữa đại dương Phan Hoàng/ĐTTC
- Bộ Ngoại giao thu thập bằng chứng lịch sử Hoàng Sa tại chùa Tiên Linh Nguyễn Phương
- Chuẩn mực Lý trên tượng A Di Đà Ngô An
- Tháp thời Lý cao 30 mét Cầm Trang
- Phát lộ dấu tích khảo cổ hoành tráng tại Chùa Dạm Cầm Trang
- Tiếp xúc với niềm vui và nỗi buồn của lịch sử Thích Thái Hòa
- Đồng Dương ký sự HUỲNH VĂN MỸ
- Phát hiện nhiều cổ vật quanh tháp cổ nhất miền Tây Thiên Phước
- Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài - Chương 2: Hòa thượng Chuyết Công với phái thiền Lâm Tế ở Đàng Ngoài - 3. Chùa Phật Tích Nguyễn Hiền Đức
- Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài - Chương 2: Hòa thượng Chuyết Công với phái thiền Lâm Tế ở Đàng Ngoài - 2. Thiền sư Minh Hành - Tại Tại (1596 - 1659) Nguyễn Hiền Đức
- Lịch sử Phật giáo Đàng Ngoài - Chương 2: Hòa thượng Chuyết Công với phái thiền Lâm Tế ở Đàng Ngoài - 1. Thiền sư Viên Văn - Chuyết Chuyết (1590 1644) Nguyễn Hiền Đức
Đánh giá bài viết này
Cùng tác giả
- Thiền Hà Trạch là gì?
- "Lăng Già Sư" và thiền tông Trung Quốc
- Lục Tổ Huệ Năng "Người khai sáng" thiền tông Trung Quốc
- Bảo vật quốc gia: Nhân duyên sen của bộ sưu tập đồ vàng
- Chuẩn mực Lý trên tượng A Di Đà
- Phát hiện khảo cổ quan trọng thời Lý: Kiến trúc quốc tự chưa từng có
- Tâm tình của đức sinh thành
Được quan tâm nhất


Gửi bình luận của bạn
BÌNH LUẬN BẰNG TÀI KHOẢN FACEBOOK ( đã gửi)